Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Thiết kế và chế tạo phương tiện dạy học môn thiết kế áo dài hệ trung học chuyên nghiệp trường cao đẳng kinh tế kỹ thuật công nghiệp II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.02 MB, 60 trang )

Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 4
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
1.1. Khái niệm về phương tiện dạy học
Cho đến nay, khái niệm về phương tiện dạy học vẫn chưa được sự thống
nhất. Tùy theo mỗi tác giả mà được hiểu theo khía cạnh khác nhau.
Theo nghóa rộng, phương tiện dạy học là tất cả những thứ mà người dạy
và người học sử dụng trong quá trình dạy học kể cả kiến thức, kinh nghiệm
của giáo viên và học sinh, bao gồm 5 nhóm [12, tr 29]:
+ Vật liệu dạy học
+ Công cụ, thiết bò dạy học
+ Phương tiện kỹ thuật dạy học
+ Hiện trường dạy học
+ Thiết bò chung.
Theo nghóa hẹp, phương tiện dạy học là đồ dùng dạy học cụ thể như sách
giáo khoa, tranh ảnh, phim trong…
Như vậy, phương tiện dạy học có thể hiểu là một phương tiện truyền
thông, làm môi trường trung gian để truyền thông tin từ đối tượng phát đến
đối tượng thu là người học. Chứa đựng một thông tin dạy học nhằm tác động
đến người học.
Theo quan điểm của Giáo sư Ihbe [18, tr 13]: Phương tiện dạy học là tập
hợp các dấu hiệu trình bày và lưu trữ đầy chủ đích từ một hay nhiều hệ thống
dấu hiệu (chữ viết, âm thanh, ký hiệu, ảnh, đồ thò, …) để truyền đạt một nội
dung từ người phát (người thầy) đến người nhận (học sinh) và nội dung kết
dính ở dấu hiệu và tập hợp dấu hiệu làm cầu nối giữa người nhận với chủ
đích suy nghó , với một mục đích theo đuổi, và với những phương pháp lựa
chọn của người phát.
Trong quá trình giáo dục, để đạt được mục đích giáo dục thì phương tiện
dạy học, phương pháp dạy học, giáo viên và học sinh phải có quan hệ chặt
chẽ gắn bó lẫn nhau, phải phù hợp với nhau trong môi trường giáo dục.


Với mục đích giáo dục cần đạt được, với phương pháp dạy học giáo viên
sử dụng, với trình độ nhất đònh của học sinh, giáo viên cần phải chọn phương
tiện dạy học thích ứng thì hiệu quả giáo dục mới cao. Việc lựa chọn phương
pháp, phương tiện dạy học phải dựa trên cơ sở lý luận có khoa học, không thể
tùy tiện.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, phương tiện dạy học được hiểu là
những đồ dùng dạy học và những nguồn thông tin học tập khác nhau mà giáo
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 5
viên dùng để dạy và học sinh dùng để học, các phương tiện này có thể là lời
nói của giáo viên, sách giáo khoa, tài liệu học tập, tài liệu tham khảo, thiết bò
học tập, các đồ dạy trực quan, phim điện ảnh phục vụ học tập, máy thu thanh,
máy ghi âm, vô tuyến truyền hình và những phương tiện kỹ thuật dạy học
khác.

1.2. Vò trí của phương tiện dạy học trong hệ thống giáo dục
Trong lòch sử tiến hóa của nhân loại, con người đã phải trải qua một quá
trình lao động lâu dài với sự đóng góp hết sức quan trọng của công cụ lao
động do chính họ làm ra. Chính nhờ có công cụ kết hợp với nhiều yếu tố
khác con người mới có thể đạt được những điều mình mong muốn.
Trong lónh vực giáo dục, quá trình giáo dục là một quá trình phức tạp, bao
gồm một hệ thống những yếu tố liên hệ chặt chẽ với nhau: nội dung dạy học,
phương pháp dạy học, phương tiện dạy học, thầy giáo và học sinh. Trong đó
thầy giáo và học sinh là những nhân tố quyết đònh của hệ thống giáo dục và
phương tiện dạy học đóng vai trò quan trọng dưới sự điều khiển và sử dụng
của giáo viên. Để chế tạo và sử dụng phương tiện sao cho phù hợp với nội
dung dạy học nhằm đạt hiệu quả giáo dục cao nhất, cần phải tìm hiểu mối
quan hệ giữa phương tiện với nội dung và giữa phương tiện với phương pháp
dạy học.
 Quan hệ giữa phương tiện dạy học và nội dung dạy học

Mỗi phương tiện chứa đựng một nội dung dạy học nhất đònh, nội dung
ngày càng phong phú thì phương tiện dạy học cũng phải phù hợp với mức độ
hiện đại của nội dung. Nội dung chứa trong mỗi phương tiện phải hướng tới
những lý thuyết và sự kiện cơ bản, thực sự quan trọng đối với việc học tập và
hoạt động tương lai của học sinh, giúp học sinh trong việc nắm vững các kiến
thức khoa học hiện đại góp phần vận dụng tốt trong công tác nghiên cứu
những hiện tượng thực tiễn.
Các phương tiện này phải được chế tạo sao cho sự trình bày kiến thức sẽ
hình thành cho học sinh những khái niệm, đònh luật khoa học theo phương pháp
quy nạp (điển hình), đồng thời nó cũng góp phần rèn luyện phương pháp suy
diễn, làm cho học sinh nắm vững và vận dụng tốt vào trong thực tiễn.
Phương tiện cũng phải góp phần trang bò cho học sinh những kiến thức về
kỹ thuật tổng hợp và phát triển hứng thú cho học sinh.
Khi phương tiện dạy học được phát triển cao hơn (hiện đại, chính xác và
đạt tiêu chuẩn sư phạm cao) thì cũng thúc đẩy sự phát triển nội dung, chương
trình, sách giáo khoa, … Phương tiện cũng giúp rút ngắn thời gian dạy học,
cho phép tăng khối lượng kiến thức và như vậy mục tiêu đào tạo sẽ được đáp
ứng.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 6
 Quan hệ giữa phương tiện dạy học và phương pháp dạy học
Trong hoạt động dạy - học của giáo viên và học sinh, phương tiện dạy học
được sử dụng và tùy theo phương pháp dạy học. Dạy học bằng phương pháp
nào thì phương tiện dạy học tương ứng với phương pháp đó.
Phương pháp dạy học phát triển thì hiệu quả giáo dục càng cao, tất nhiên
phương tiện dạy học cũng phát triển theo. Ngược lại, phương tiện dạy học
cũng là yếu tố giáo viên dựa vào đó lựa chọn phương pháp giảng dạy, sự
phát triển của phương tiện dạy học là điều kiện để phương pháp dạy học phát
triển.
Mặt khác, với phương tiện ngày càng phong phú, hiện đại, giáo viên có

thể trong một thời gian ngắn sử dụng phối hợp được nhiều phương pháp với
nhau và linh hoạt hơn trong giảng dạy.
Tóm lại, phương tiện dạy học và phương pháp dạy học có ảnh hưởng tác
động qua lại lẫn nhau cùng phát triển trong quá trình dạy học.
1.3. Vai trò của phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học không chỉ là công cụ hỗ trợ hoạt động lao động sư
phạm của giáo viên mà còn có vai trò thay thế cho các sự vật, hiện tượng và
các quá trình xảy ra trong đời sống lao động mà giáo viên và học sinh không
có khả năng tiếp cận trực tiếp. Các phương tiện dạy học tạo điều kiện để
phát huy hết các chức năng tư duy của bộ não, các giác quan và hệ vận động
của học sinh trong quá trình học tập. Phương tiện dạy học có vai trò chủ yếu
như:
- Là nguồn thông tin cung cấp kiến thức để người học hiểu một cách
chắc chắn, rõ ràng, chính xác và sâu sắc.
- Gây hứng thú, tạo sự chú ý cho người học trong quá trình học tập,
không mất nhiều thời gian ghi chép những cái đã có trong sách giáo
khoa hay tài liệu học tập.
- Tiết kiệm được thời gian, sức lực giảng dạy do giảm bớt thời gian viết
bảng, vẽ minh họa, … trên lớp của giáo viên.
- Tăng tính trực quan làm cho quá trình nhận thức của người học được
dễ dàng, hiệu quả hơn do tạo ra được các hình ảnh, biểu tượng trong quá
trình nhận thức, tư duy.
- Trong giờ học có thể tăng thêm lượng kiến thức, đưa thêm những vấn
đề mới, những vấn đề mở rộng và đi sâu vào thảo luận những vấn đề cụ
thể.
- Các thiết bò dụng cụ thực hành tạo điều kiện cho học sinh luyện tập
hình thành các kỹ năng, kỹ xảo.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 7
Nếm

Sờ
Ngửi
Nghe
Nhìn
- Phát huy tính tích cực hoạt động của người học.
- Giáo viên đỡ vất vả trong giờ lên lớp, hạn chế được việc dùng phấn
có ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ.
Qua nghiên cứu, người ta đã tổng kết được mức độ ảnh hưởng của các
giác quan trong quá trình truyền thông như sau [9, tr 21]:
- Khi học sự tiếp thu tri thức đạt được qua:
Nếm 1%
Sờ 1,5%
Ngửi 3,5%
Nghe 11%
Nhìn 83%
Hình 2.1. Tỷ lệ kiến thức thu được qua các giác quan
- Tỷ lệ kiến thức nhớ được sau khi học qua:
Nghe 20%
Nhìn 30%
Nghe và nhìn 50%
Nói 80%
Nói và làm 90%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%

80%
90%
Nghe Nhìn Nghe và nhìn Nói Nói và làm
Hình 2.2. Tỷ lệ kiến thức nhớ được qua các giác quan
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 8
Như vậy giáo viên khi dạy phải biết sử dụng linh hoạt những kênh thông
tin kết hợp với nhau để đạt hiệu quả cao. Từ đó ta thấy rằng phương tiện dạy
học có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp thu và trình diễn lại những vấn đề
được học. Phương tiện dạy học là một trong những yếu tố quan trọng quyết
đònh đến chất lượng đào tạo thông qua vai trò của nó.
1.4. Khả năng của các phương tiện dạy học
Phương tiện dạy học đóng vai trò quan trọng trong quá trình giáo dục,
mức độ phát triển và giá trò của chúng ngày càng cao. Dưới đây sẽ làm sáng
tỏ về những khả năng của phương tiện dạy học đối với việc lónh hội kiến
thức, củng cố và rèn luyện các kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo.

 Khả năng của phương tiện dạy học đối với quá trình nhận thức
Trong thực tế, học sinh không thể hiểu được khi sử dụng ngôn ngữ để mô
tả một khái niệm, một hiện tượng nếu không có những biểu tượng ban đầu.
Học sinh có những biểu tượng ban đầu không đồng bộ nhau, do đó khi muốn
cho học sinh hiểu bài được chính xác và chắc chắn thì phải xây dựng các khái
niệm từ sự quan sát trực tiếp các hiện tượng tự nhiên hoặc nhân tạo (phương
tiện trực quan) để giảng dạy.
Dựa vào các tài liệu trực quan học sinh có thể tự kiểm tra lại tính chính
xác
của các kiến thức thu nhận được so với thực tiễn. Ngoài ra các tài liệu
trực quan tăng tổng hợp các hiện tượng để rút ra những kết luận đúng đắn.
Trong quá trình nhận thức thế giới vó mô, vi mô hay siêu vi mô, phương
tiện lại càng cần thiết. nghen đã nói: “công cụ làm dài thêm cơ quan cảm

giác của con người, cho phép con người đi sâu vào trong thế giới vật chất
nằm sau giới hạn tri giác của các giác quan thông thường”. Nói chung, trong
quá trình nhận thức về hiện thực khách quan, phương tiện dạy học đưa con
người đến tầm sâu, rộng và chính cường hứng thú học tập ở học sinh hơn, dễ
dàng hơn trong quá trình phân tích, xác hơn về bản chất của thế giới.
 Khả năng của phương tiện dạy học đối với việc rèn luyện kỹ năng
thực hành
Nhận thức được thế giới là điều cần thiết, nhưng như thế chưa đủ, mà con
người cần phải cải tạo được thế giới. Trên quan điểm đó, nhà trường cần thiết
đào tạo ra những con người có khả năng thực hành, cụ thể học sinh cần rèn
luyện kỹ năng thực hành.
Để học sinh thực hành phải sử dụng nhiều phương tiện khác nhau. Đặc
biệt trong rèn luyện kỹ năng thực hành không thể thiếu phương tiện được vì
không có nó việc học tập sẽ nghèo nàn, chỉ có thể nhận thức về mặt lý
thuyết thôi nhưng cũng không đầy đủ. Các phương tiện sẽ giúp cho học sinh
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 9
có điều kiện kiểm tra lại và vận dụng các kiến thức lý thuyết vào thực tiễn
một cách sinh động hơn, hứng thú hơn và đưa đến kết quả cao hơn.
1.5. Phân loại phương tiện dạy học
Trong vấn đề phân loại phương tiện dạy học, nhiều nhà giáo dục phân
chia theo nhiều cách khác nhau. Có thể phân loại dựa trên cơ sở nhận thức
của quá trình học tập của học sinh. Quá trình học tập của học sinh đi từ:
 Tác động thực tế tới các vật và hiện tượng hoặc từ sự quan sát chúng.
 Từ tri giác những hình khối và mặt phẳng, những biểu hiện âm thanh
của những sự vật và hiện tượng đó, thực hành với các vật và hiện tượng
đó.
 Từ tri giác những điều mô tả các vật và hiện tượng bằng những ký
hiệu và những từ của ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ nghệ thuật, quá trình
thực hành với các vật và hiện tượng đó.

 Đến sự hình thành những biểu tượng, đến sự diều chỉnh trong óc những
nội dung các vật và hiện tượng đó bằng cách phân tích và tổng hợp, trừu
tượng hóa và khái quát hóa, so sánh, đối chiếu và hình thành khái niệm,
đến chỗ ghi vào trí nhớ các vật và hiện tượng đó bằng ngôn ngữ tự nhiên
và ngôn ngữ nghệ thuật, vận dụng để giải quyết những nhiệm vụ quan
trọng và nhận thức cái mới.
Trên cơ sở đó, theo X.G.Sapôvalencô, Viện thiết bò trường học và các
phương tiện kỹ thuật dạy học, thuộc Viện hàn lâm khoa học giáo dục Liên
xô, phương tiện dạy học có thể phân loại như sau:
Nhóm 1:
Những đối tượng tự nhiên (những mẫu thật)
Các vật và hiện tượng của thế giới khách quan (các khoáng chất, các
mẫu cây cỏ, động vật, …) để nghiên cứu trực tiếp.
Các vật và những phương tiện để làm nhớ lại các hiện tượng bằng cách
diễn thò và thực nghiệm để nghiên cứu về chất và lượng các hiện tượng đó.
Nhóm 2:
Những hình ảnh và các ảnh xạ của đối tượng (các mẫu vật thật)
Những hình tự nhiên và những hình trưng bày để xem: hình khối (hình
mẫu, khuôn, mô hình, quả đòa cầu, …), hình phẳng (tranh ảnh, biểu đồ, sơ đồ,
bản vẽ, )
Những phương tiện nghe (đóa hát, băng ghi âm, …)
Những phương tiện nghe nhìn (phim đèn chiếu, phim vòng có lồng tiếng,
phim trích đoạn, …)
Những hình ảnh và ảnh xạ tự nhiên, hình ảnh và ảnh xạ tổ hợp, những mô
hình khối và mô hình phẳng.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 10
Nhóm 3: Những bản mô tả các vật và hiện tượng
Những tác phẩm khoa học, văn học và những sách tra cứu.
Tuyển tập các bài tập và luyện tập, sách hướng dẫn luyện tập, thực hành…

Nhóm
4: Những phương tiện kỹ thuật để hiển hiện và truyền đạt những
thông tin
Những phương tiện thông tin (máy chiếu, máy thu vô tuyến, máy quay
đóa, máy ghi âm, …)
Những phương tiện kiểm tra (tấm mẫu, bản đục lỗ, …)
Các máy luyện tập.
Những phương tiện tổng hợp (máy dạy học, …)
Nhóm
5: Những phương tiện vật chất và kỹ thuật để thu thập và sản xuất ra
những mẫu thật, những hình ảnh
Vật liệu để sản xuất ra những mẫu vật, những hình ảnh, những bản mô tả
(giấy bìa, thuốc màu, gỗ, kim loại, chất dẻo, …)
Dụng cụ và những vật dụng (viết, bút vẽ, bảng vẽ, …)
Thiết bò kỹ thuật (máy công cụ, phụ tùng kỹ thuật, …)
Thiết bò tham quan.
Những phương tiện kỹ thuật để điều khiển công tác giảng dạy và giáo dục
(vô tuyến điện, điện thoại, …)
1.6. Phương tiện dạy học
1.6.1. Sự cần thiết phải sử dụng phương tiện dạy học
 Do sự đòi hỏi của phương pháp dạy học
Kiến thức của loài người về mọi lónh vực tích lũy ngày càng nhiều. Yêu
cầu chính yếu đối với các trường là đào tạo thế hệ trẻ thành những con người
mới ngày càng toàn diện hơn. Đó chính là mâu thuẫn mà nhà trường phải
giải quyết, trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn này, những phương pháp
dạy học mới ra đời, kéo theo nhu cầu thiết yếu của phương tiện dạy học cũng
phải đổi mới để theo kòp sự tiến bộ của phương pháp dạy học.
 Do hoạt động nhận thức của học sinh
Hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình học tập là một quá trình
vận động không ngừng, từ chỗ chưa biết đến biết, từ chỗ biết chưa đầy đủ,

chưa đúng đắn đến chỗ biết đúng đắn hơn, đầy đủ hơn. Sự hoạt động đó phải
trải qua nhiều con đường, trong đó con đường quan trọng đó là quan sát, thực
hành, lao động sản xuất, …
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 11
Trải qua các con đường đó, hoạt động nhận thức của học sinh được thực
hiện nhờ có sự tác động của vật chất (sự biến đổi trong thực hành, trong lao
động sản xuất…), nhờ có sự tác động của tri giác (thụ cảm, biểu tượng, quan
sát), nhờ có sự tác động của tư duy (phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dòch,
so sánh, đối chiếu, chứng minh…), nhờ tác động của ngôn ngữ tự nhiên và
ngôn ngữ nghệ thuật (ký hiệu, công thức, phương trình…)
Sự tác động trực tiếp của vật chất đến các cơ quan thụ cảm, đó là nguồn
gốc, là điểm xuất phát của nhận thức. Lênin đã nói: “hình tượng tư duy được
phát sinh không bằng con đường nào khác là cảm tính”. Nếu không có sự tồn
tại của các biểu tượng về các hiện tượng và sự kiện cụ thể, nếu không có trực
quan sinh động về các sự vật và các quá trình nghiên cứu thì học sinh không
thể nắm vững kiến thức chính xác và hiểu được những quy luật của tự nhiên
và xã hội.
Các phương tiện dạy học được xem là đối tượng vật chất của nhận thức,
chiếm vò trí trong việc tổ chức hoạt động nhận thức của học sinh, nhờ có các
phương tiện dạy học mà các hoạt động nhận thức của học sinh được thúc đẩy
và hướng tập trung vào những điểm cơ bản của nhận thức.
 Do lợi ích khi sử dụng các phương tiện dạy học
Sử dụng các phương tiện dạy học trong quá trình giảng dạy có những lợi
ích sau:
 Trong một thời gian ngắn truyền thụ cho học sinh một lượng thông tin
chính xác và đầy đủ về đối tượng nghiên cứu.
 Học sinh tiếp thu những thông tin chính xác, đầy đủ hơn về các đối
tượng, hiện tượng và quá trình nghiên cứu so với sự trình bày bằng lời.
 Nâng cao tính trực quan của việc dạy học, giúp học sinh hiểu sâu về

bản chất, nắm vững tài liệu học tập, …
 Tạo tình huống có vấn đề trong giảng dạy, kích thích lôi cuốn, động
viên học sinh tích cực tham gia vào quá trình học tập và nghiên cứu khoa
học.
 Thỏa mãn những nhu cầu và hứng thú học tập của học sinh.
 Tiết kiệm được thời gian cho giáo viên.
 Bằng các phương tiện dạy học, học sinh có thể biết nhiều sự vật, hiện
tượng phong phú trong thế giới, giúp cho học sinh gần với thực tế hơn và
quá trình học tập hứng thú hơn.
1.6.2. Phân tích đặc điểm, cách thức chế tạo và sử dụng phương tiện dạy học

Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 12
Dưới đây là một số phương tiện thường dùng và hiện đại đang được thiết
kế và chế tạo cũng như sử dụng trong day học hiện nay:
 Tranh ảnh
:
Tranh ảnh là những tranh ảnh tạo hình, thuộc loại tài liệu ấn họa. Đây là
tài liệu rất phong phú: các ảnh chụp, các tranh vẽ, tài liệu trong sách báo, tạp
chí, … đều là những tài liệu tranh ảnh dùng để dạy học.
 Đặc điểm:
Tranh ảnh ghi lại những hình ảnh của sự vật, hiện tượng trên mặt phẳng tờ
giấy, trong trạng thái tónh, với đặc điểm này đòi hỏi sự kích động sáng tạo, sự
hướng dẫn quan sát “đọc” và học bằng tranh ảnh của giáo viên khi giảng dạy
cho học sinh giúp cho học sinh hứng thú tìm hiểu tài liệu.
 Chức năng:
Tranh ảnh mang nguồn thông tin xác đònh thường dùng để trình bày những
điểm nổi bật của sự vật.
Trực quan hóa các sự vật và hiện tượng.
Làm phong phú và sinh động các sự vật và hiện tượng trong thực tế, làm

giàu biểu tượng cho học sinh.
Tạo sự ngạc nhiên, sự kích thích giúp cho học sinh say mê và hứng thú
học tập.
 Sử dụng tranh ảnh trong giờ học:
Chuẩn bò cho việc sử dụng tranh ảnh trong giờ học:
Chọn tranh phù hợp với nội dung bài học, khi chọn tranh cần chú ý: có
những bức tranh không phù hợp với trình độ cảm thụ của học sinh cấp dưới,
phải là học sinh cấp cao hơn mới hiểu được ý nghóa, hiểu được cái đẹp trong
đó. Nhưng như thế không có nghóa là với những bức tranh mà học sinh cấp
dưới đã thích thì đến lứa tuổi cấp trên không cần xem lại nữa, mà vẫn cần
cho xem lại để học sinh nhận ra những điểm trước kia chưa thấy.
Tranh phải rõ, đẹp, khuôn khổ tranh nên chọn lớn, bố trí việc xem tranh
trong giờ học vào giáo án cụ thể.
Chuẩn bò nội dung của lời hướng dẫn khi xem tranh, chọn vò trí phù hợp
để treo tranh.
Chuẩn bò câu hỏi để kiểm tra học sinh về sự lónh hội tri thức.
Trình bày tranh ảnh trong giờ học:
Cho học sinh xem tranh ảnh đúng lúc, không nên treo sẵn trước khi giảng
bài, làm phân tán sự theo dõi bài học của học sinh.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 13
Hướng dẫn học sinh xem tranh đúng trọng tâm, bằng cách nêu lên những
điểm chính hay câu hỏi gợi ý.
Tranh ảnh phải được treo ở nơi số đông học sinh quan sat rõ, nếu tranh
ảnh không treo được giáo viên cần đưa cao trước học sinh. Với những hình
ảnh khuôn khổ nhỏ, có thể cho từng nhóm học sinh xem hoặc cho học sinh
chuyền nhau xem, nhưng như thế phải hướng dẫn kỹ những điểm chính cần
xem cho ít tốn thời gian. Nếu ảnh nhỏ, chưa cần thiết phải đưa ra ngay trong
giờ học, có thể cho học sinh xem sau bài giảng bằng cách gắn nhiều ảnh
trong bảng trình bày (chú ý ghi lời thuyết minh kèm theo).

Phải có đủ thời gian để nhiều học sinh được xem.
Giáo viên cần có lời thuyết minh về tranh lúc học sinh đang xem.
Có thể thảo luận ngay lúc xem tranh.
Sau khi xem:
Cất ngay những tranh đã trình bày để tránh sự mất trật tự và phân tán sự
chú ý của học sinh trong phần kế tiếp.
 Ưu và nhược điểm:
- Ưu điểm:
 Tài liệu dồi dào, phong phú.
 Kích động được sự quan sát của học sinh.
 Làm nổi bật được các điểm chính muốn trình bày (bằng cách dùng
màu, xếp đặt vò trí trong hình, …).
- Nhược điểm:
 Khuôn tranh nhiều khi nhỏ, không cho phép số đông học sinh quan
sát cùng lúc được.
 Hạn chế tầm quan sát của học sinh.
 Vật thật:
Khi giáo viên muốn giới thiệu cho học sinh biết về các loại dụng cụ dùng
để may, giáo viên mang các loại dụng cụ ấy ra cho học sinh xem.
Khi giáo viên muốn giới thiệu cho học sinh biết nhận diện về các giống
đậu, giáo viên đưa học sinh đến các vườn đậu để xem.
Đó là hai thí dụ giảng dạy mà giáo viên đã dùng đến các phương tiện trực
quan (các loại dụng cụ, các giống đậu) là những vật thật.
Một cách khái quát có thể hiểu vật thật là tất cả những đồ vật, động vật,
thực vật v.v… trực tiếp mang nội dung kiến thức giáo viên muốn giảng dạy.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 14
Vật thật là một đối tượng của nội dung giảng dạy, là đối tượng nhận thức
của học sinh trực tiếp có mặt trong quá trình dạy học.
 Đặc điểm

Vật thật cho ta biết được hình dáng, màu sắc, kích thước thực tế của nó
giúp cho học sinh hiểu được tính chất vật lý của đối tượng nghiên cứu.
 Chức năng
Vật thật mang nguồn thông tin xác đònh, thường dùng để cung cấp cho học
sinh những tri thức bề ngoài của các sự vật.
Trực quan hóa các sự vật.
Thực tế hóa kiến thức của học sinh.
 Phương pháp sử dụng vật thật
Giới thiệu cho học sinh cách quan sát, những vấn đề cần quan sát, mục
đích quan sát, nội dung lời hướng dẫn cần ngắn gọn, súc tích, đầy đủ. Có thể
đặt câu hỏi để hướng sự chú ý của học sinh vào đối tượng.
Khi cho học sinh quan sát vật thật có nhiều chi tiết, có những mối liên hệ
nhau, cần phải giới thiệu từng chi tiết, chức năng của nó, sự hoạt động của nó
v.v… rồi mới cho học sinh quan sát cái tổng thể.
Để nâng cao hiệu quả sử dụng vật thật, ta cần nghiên cứu kỹ các vấn đề
sau:
 Dùng các thí nghiệm nào cần phải phối hợp, biểu diễn các thí
nghiệm vào giai đoạn nào trong quá trình sử dụng vật thật.
 Trước và trong khi sử dụng cần phải liên hệ các kiến thức đã học
nào.
 Sử dụng các phương pháp biểu diễn, lời nói như thế nào trong quá
trình dùng vật thật.
 Sự bố trí các phương tiện cho học sinh để quan sát.
 Ưu và nhược điểm
- Ưu điểm:
 Gây hấp dẫn, hứng thú và kích thích sự tò mò của học sinh trong quá trình
học tập.
 Cho học sinh tiếp nhận với các kiến thức thực tiễn, giúp cho học sinh
nắm chắc kiến thức, để vận dụng những điều đã học vào trong thực tiễn.
- Nhược điểm:

Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 15
 Khi vật thật có các kích thước quá lớn hay quá nhỏ, hoặc bò hạn chế
về không gian, thời gian không thể trình bày cho học sinh trong quá trình
giảng dạy.
 Vật thật có nhiều chi tiết bên trong khó trình bày cho học sinh như
động cơ, các bộ phận bên trong của người hay động vật…
 Mô hình:

Mô hình là phương tiện dạy học được sử dụng rộng rãi trong nhà trường,
mô hình mô tả lại hình dáng và cấu tạo của vật thật, bằng kết cấu đơn giản
hơn, và làm nổi bật những điểm chính yếu của sự vật. Mô hình được phân
chia thành nhiều loại:
Mô hình tỉ lệ: là vật mô phỏng lại hình dáng, màu sắc của vật thật (thu
nhỏ hoặc phóng đại kích thước của vật theo một tỉ lệ).
Mô hình giản hóa: là vật mô phỏng lại hình dáng màu, sắc, của vật thật,
với kích thước không theo một tỉ lệ (hệ thái dương hệ).
Mô hình tháo ráp: là vật trình bày lại vật thật với những chi tiết có thể
tháo ra và ráp lại được dễ dàng.
Mô hình cắt: là vật mô phỏng lại vật thật diễn tả lại vật thật bằng cách
cắt để dễ nhìn thấy được các chi tiết bên trong.
Mô hình phỏng tạo: là mô hình phối hợp với các mô hình giản hóa, mô
hình tỉ lệ và vật thật.
 Chức năng:
Các loại mô hình mô tả được cấu tạo tổng quát của vật thật, giúp cho học
sinh hiểu được hình dáng, vò trí không gian của vật.
Những mô hình vật chất gần với đối tượng, với mẫu thật, chủ yếu là bổ
sung sự quan sát theo cảm tính, giúp hình thành những hình tượng, biểu
tượng. Những mô hình xa với mẫu thật, mà trước hết là những mô hình lý
tưởng vạch ra bản chất của đối tượng, là chỗ dựa cho tư duy trừu tượng.

Những mô hình này chủ yếu là bổ sung cho sự tư duy đó, giúp cho sự hình
thành những khái niệm và luận chứng.
 Sử dụng mô hình:
Trong quá trình dạy học phải xuất phát từ những mô hình gần với đối
tượng, sau đó mới sử dụng những mô hình ngày càng trừu tượng hơn (chẳng
hạn những mô hình dấu hiệu), để hình thành ở học sinh thoạt tiên những biểu
tượng, rồi sau đến những khái niệm. Nhưng khi đưa vào khái niệm cũng phải
vận động từ những mô hình lý tưởng trừu tượng, qua những mô hình vật chất
gần với đối tượng để xây dựng những hình tượng trực quan của chúng. Ví dụ
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 16
như trong quá trình dạy hóa học và vật lí, thường xuất phát từ những mô hình
thí nghiệm (thí dụ như điều chế axít sulfuric) rồi chuyển sang những mô hình
cấu trúc vật chất, về sự cấu tạo của các chất nhờ những phản ứng hóa học,
sau đó dùng mô hình lý tưởng dấu hiệu (phương trình bằng ngôn ngữ hóa
học) để hình thành khái niệm (trong trường hợp này là điều chế axít sulfuric).
Nhưng chúng ta có thể tiến hành theo trình tự ngược lại: Trước tiên sử dụng
những mô hình dấu hiệu (thí dụ những phương trình phản ứng các chất),
chuyển sang hình vẽ sau đó sang mô hình vật chất về thiết bò của nhà máy,
để hình thành biểu tượng về sự sản xuất các chất trong nhà máy. Tính trực
quan mô hình giúp quan sát cảm tính và tư duy trừu tượng, hình thành biểu
tượng và khái niệm theo trình tự và sự kết hợp khác nhau, theo những mối
liên hệ tương hỗ và tính tuần tự khác nhau.
Việc sử dụng tổng hợp những mô hình cụ thể và trừu tượng khác nhau làm
cho học sinh có kiểu hoạt động thần kinh khác nhau (kiểu hình tượng, kiểu lý
trí và kiểu chuyển tiếp) dễ dàng lónh hội kiến thức.
Mô hình giúp thực hiện những nguyên tắc trực quan trong dạy học, mà cả
nguyên tắc tích cực, tự giác, lý thuyết gắn với thực hành và những nguyên tắc
dạy học khác. Ý nghóa nhận thức to lớn của mô hình là ở đó. Chính vì vậy mà
mô hình cần phải được sử dụng rộng rãi trong quá trình dạy học.

 Ưu và nhược điểm:
- Ưu điểm:
Từ mô hình đến vật thật còn một khoảng cách, mô hình không đầy đủ chi
tiết của vật thật, không hoàn toàn giống vật thật. Vật cụ thể là mô hình, qua
tư duy trừu tượng, đến vật thật, đó là tính thống nhất của cái cụ thể và cái
trừu tượng với mô hình – là cầu nối.
Nhìn mô hình, học sinh có thể tưởng tượng đến vật thật, hình dung về vật
thật, giúp phát triển tư duy của học sinh.
Khắc phục được các khuyết điểm của vật thật.
- Nhược điểm:
Mô hình không đầy đủ hình dáng chi tiết của vật thật, hạn chế tri thức của
học sinh về vật thật.
 Phim đèn chiếu:

Phim đèn chiếu là loại phương tiện dạy học đơn giản được dùng rộng rãi
trong các nhà trường hiện nay.
Loại phim này giáo dục học sinh về nhiều lónh vực như chính trò, xã hội,
khoa học thường thức, phim giáo khoa vệ sinh phòng bệnh, thể dục thể thao…
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 17
Thầy giáo có thể tự tạo phim để dạy, thông dụng nhất là phim giáo khoa
chiếu hình ảnh tónh có chú thích bằng chữ. Hiện nay có một số phim được
chia ra làm nhiều đoạn ngắn và có ghi câu hỏi cho học sinh. Cũng có phim
ghi kèm lời thuyết minh vào đó gây hứng thú cho học sinh khi xem, nâng cao
tính tích cực học tập cho học sinh.
 Đặc điểm:
Phim đèn chiếu được sử dụng trong quá trình học tập như một tài liệu trực
quan, có các đặc điểm sau đây:
 Hình ảnh của các vật trên màn ảnh của phim đèn chiếu là phẳng, có
thể biểu diễn trong một không gian hai chiều, các vật trong tự nhiên có

dạng thể tích biều diễn trong không gian ba chiều.
 Kích thước của các vật trên màn ảnh thường không đúng các kích
thước thật.
 Chỉ có một cơ quan cảm giác là thò giác hoạt động để tri giác hình ảnh
trên màn ảnh.
 Các vật trên phim đèn chiếu được mô tả trên cùng một mặt phẳng,
không có chiều sâu như nó có trong thực tế.
 Chức năng:
Theo quan điểm của nhà giáo dục nổi tiếng người Ba lan Phờ-lê-min, các
loại phim đèn chiếu có thể sử dụng để minh họa một câu chuyện và lời giải
thích của giáo viên, cũng như tích lũy thêm các đối tượng và hiện tượng quan
sát. Các đối tượng và hiện tượng này được xem là một nguồn cơ bản của tri
thức mới.
Phim đèn chiếu cũng là một phương tiện củng cố các khái niệm, là tài
liệu để củng cố và ôn tập hằng ngày nhằm mục đích chuẩn bò cho học sinh
quan sát thí nghiệm nhờ nhiều phương tiện dạy học khác, phân tích và khái
quát hóa những điều đã thu lượm được nhờ các kết quả quan sát trực tiếp và
thí nghiệm ở thế giới khách quan.
 Phương pháp sử dụng phim đèn chiếu.
Có nhiều phương pháp sử dụng phim đèn chiếu, việc sử dụng phụ thuộc
vào năng lực sáng tạo của thầy giáo và từng bài học cụ thể. Dưới đây minh
hoạ về phương pháp sử dụng phim đèn chiếu dùng trong giảng day. Có thể
chia quá trình sử dụng phim này thành ba giai đoạn: chuẩn bò bài học, giảng
bài tại lớp và sau khi xem phim.
Chuẩn bò bài học:
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 18
Để đạt hiệu quả cao nhất khi giảng bài bằng phim đèn chiếu, trong quá
trình chuẩn bò người giáo viên cần chú ý:
 Chất lượng của bài thuyết minh: phải có mối liên hệ chặt chẽ với các

hình tượng trong phim, nó cũng là một trong những điều kiện quan trọng để
lựa phim.
 Không nên đưa ra nhiều khái niệm mới trong phim, nếu có khái niệm
mới cần giới thiệu một cách chi tiết bằng cách nghiên cứu các sự vật, hiện
tượng từ nhiều mặt khác nhau để học sinh dễ dàng nắm được mối tương hỗ
giữa các sự vật và hiện tượng đó.
 Nên chọn phim và giới thiệu sao cho học sinh nắm vững từ kiến thức đã
biết đến kiến thức chưa biết, như thế kiến thức cũ được ôn lại, kiến thức
mới được giới thiệu, súc tích, lý thú tạo ấn tượng mạnh mẽ, lâu dài trong trí
nhớ của học sinh.
 Chọn phim cần chú ý tính liên tục của hình tượng. Không nên để thiếu
hoặc thừa số hình tượng trong phim làm cho phim không chặt chẽ.
 Hình ảnh phản ánh sát theo thực tiễn. Không nên quá đơn giản mà cũng
tránh các chi tiết rườm rà, gây mất tập trung vào vấn đề chính.
 Nội dung phù hợp với chương trình của nhà trường và đặc điểm lứa tuổi
của học sinh.
 Thời gian chiếu phim dài hay ngắn tùy theo nội dung của phim, trình độ
tiếp thu của học sinh để xác đònh, nếu nội dung đơn giản, học sinh tiếp thu
dễ, có thể kéo dài, nếu nội dung phức tạp hơn, mức độ tiếp thu căng thẳng,
đòi hỏi sự suy nghó nhiều thì nên rút ngắn thời gian.
 Cần suy nghó cách hướng dẫn cho học sinh xem phim như thế nào được
tập trung nhất, trước khi xem phim nên giới thiệu tóm tắt nội dung và lưu ý
những chỗ khó cho học sinh.
 Giáo viên cần chuẩn bò những dẫn dắt cho học sinh và đồng thời đề ra
một số câu hỏi gợi ý trước khi học sinh xem phim, hoặc là những câu hỏi để
kiểm tra sự lónh hội của học sinh.
Giảng bài trên lớp:
 Khi cần dùng phim để minh họa, để trình bày thay giáo án cần giới thiệu
nội dung chính của phim, trọng tâm cần theo dõi đễ tránh tình trạng tản
mạn của học sinh trong khi xem phim.

 Lời thuyết minh của thầy giáo phải rõ ràng, dễ hiểu và gây hứng thú đối
với học sinh. Cần phải giải thích phù hợp những hình ảnh trên phim. Đôi lúc
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 19
có thể dùng kết hợp tranh ảnh, sơ đồ, mô hình hay vẽ hình trên bảng để giải
thích nội dung trên phim.
 Sự trình bày các hình ảnh phải có thời gian cân đối, không nên dừng lại
quá lâu ở một hình nào, tuy nhiên có thể kéo dài hơn hình ảnh trọng tâm
nhất của phim.
 Trong khi chiếu phim thầy giáo nên đưa ra một số câu hỏi để kích thích
sự hứng thú và tăng cường sự chú ý cho học sinh. Câu hỏi cần phải rõ ràng
và gắn liền với hình ảnh hiện ra trên màn ảnh và câu hỏi đưa đến câu trả
lời ngắn gọn để không làm ảnh hưởng đến thời gian chiếu.
 Bố trí thời gian chiếu vào đầu, giữa hay cuối giờ tùy vào nội dung và
yêu cầu của bài học, nên chiếu vào:
 Đầu giờ học: để giới thiệu một đề tài mới.
 Giữa giờ học: giới thiệu tài liệu mới.
 Cuối giờ học: để củng cố kiến thức.
 Có thể trình chiếu hai lần cho một nội dung, lần đầu thầy giáo thuyết
minh phim, lần sau học sinh giải thích các hình ảnh để gây hứng thú và tích
cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh.
Sau khi xem phim:
 Giáo viên cần tổ chức đàm thoại để củng cố kiến thức mà học sinh tiếp
thu được trên bài học. Giáo viên có thể cho học sinh làm bài ở nhà bằng
cách kể lại, vẽ lại… nội dung, hình ảnh đã tiếp thu ở trên phim.
 Giáo viên hướng dẫn sao cho quá trình xem phim của học sinh không
thụ động, chỉ có nhìn và nhớ, mà phải là một hoạt động trí tuệ căng thẳng
trên con đường nhận thức cái mới.
 Ưu và nhược điểm:
Các ưu điểm về mặt sư phạm so với các vật tự nhiên như sau: Phim đèn

chiếu có khả năng tách ra những điểm chính, làm mờ những điểm phụ, loại
bỏ những điểm không cần thiết trong quá trình nhận thức của học sinh. Phim
có khả năng mô tả các vật và các hiện tượng ít được quan sát trong thực tế.
Đây là ưu điểm nâng cao mức độ sử dụng trong học tập. Phim có thể sử dụng
bất cứ lúc nào trong quá trình học tập, các vật tự nhiên chỉ áp dụng trong
những điều kiện nhất đònh nào đó.
Ưu điểm so với các tài liệu trực quan khác như mô hình, tranh ảnh, bản
vẽ: do tính đồng bộ của các hình ảnh cho phép đưa vào phim một khối lượng
kiến thức rất lớn theo từng chương hoặc từng phần như các bộ tranh, các bộ
bản vẽ. Tính đồng bộ của phim đèn chiếu cho phép giới thiệu khá tỉ mỉ, liên
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 20
tục của nội dung về một số đề tài nào đó. Kích thước lớn củøa các hình ảnh
trên màn ảnh giúp học sinh quan sát dễ hơn tranh ảnh. Hình ảnh giữ lại trên
màn chiếu theo ý muốn của thầy giáo. Vẻ đẹp của phim đèn chiếu màu có
khả năng kích thích xúc cảm của học sinh hay hơn mô hình hay bản vẽ (nhất
là đối với học sinh cấp nhỏ). Gọn nhẹ và sử dụng dễ dàng, giá thành thấp
hơn mô hình và tranh ảnh.
Nhờ các ưu điểm của phim đèn chiếu trở thành một tài liệu trực quan khá
phổ biến. Tuy nhiên phản chiếu là một vấn đề đối với giáo viên, làm hạn chế
mức độ sử dụng. Điều này kỹ thuật đã khắc phục bằng cách tăng công suất
đèn chiếu, trang bò phòng, lớp học bằng các loại rèm sáo, điều khiển độ sáng
tối của phòng khi chiếu phim.
 n phẩm dùng làm các phương tiện dạy học
:
n phẩm dùng làm phương tiện dạy học là những tài liệu phục vụ riêng
trong quá trình giảng dạy và học tập được soạn ra trên cơ sở phương pháp sư
phạm, được xuất bản hoặc in làm nhiều bản. Những tài liệu này có thể soạn
ra theo hình thức chương trình hóa, không chương trình hóa. Các ấn phẩm
dùng làm phương tiện dạy học có thể sắp lại như sau:

Tài liệu in cơ bản như:
 Sách giáo khoa, giáo trình.
 Sách bài tập.
 Sách tóm tắt kiến thức.
 Bản chỉ dẫn học tập.
Tài liệu in đặc biệt như:
 Bài đọc in sẵn.
 Bản tóm tắt bài giảng.
 Bản ghi bài tập, bản sưu tầm bài tập.
 Phiếu luyện tập.
 Phiếu hướng dẫn thí nghiệm.
Tài liệu in đặc biệt gồm tất cả những ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy
học phù hợp với một bước lên lớp nhất đònh và với việc tự học cần thiết để
bổ sung cho các tài liệu in cơ bản về mặt chuyên môn, về mặt phương pháp
và về mặt tổ chức học tập.
 Chức năng chung của các ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học
Các ấn phẩm làm phương tiện dạy học là những phương tiện quan trọng
để thực hiện mục đích của các trường Đại học, Cao đẳng và Trung học
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 21
chuyên nghiệp. Chức năng của các ấn phẩm dùng làm các phương tiện dạy
học được rút ra từ:
 Mục đích đào tạo và bồi dưỡng của nhà trường, đặc biệt là từ kế hoạch
học tập và chương trình giảng dạy.
 Những đặc điểm riêng của quá trình học tập trong nhà trường.
Các ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học phục vụ cho việc tự học tiếp
thu kiến thức, kỹ năng, cũng như để hình thành niềm tin. Việc sử dụng và
tổng hợp các ấn phẩm khác nhau cùng với các phương tiện dạy học nghe nhìn
là một việc làm cần thiết để thực hiện các chức năng của các ấn phẩm này.
Các ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học còn phục vụ việc chuẩn bò

bài giảng trước khi lên lớp và chỉnh lý, đánh giá sau khi lên lớp, là cơ sở để
bổ sung cho các bài giảng. Các ấn phẩm này chủ yếu dùng trong việc tự học.
Các ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học cần phải thực hiện được các
chức năng sau đây:
 Sự thống nhất giữa giáo dục nhân cách với đào tạo chuyên môn ở trình
độ cao.
 Sự thống nhất giữa giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
 Bố trí quá trình đào tạo và giáo dục phù hợp với quá trình nhận thức
(đặc biệt là giải quyết tính vừa sức tiếp thu và tính trực quan).
 Liên hệ lý luận với thực tiễn, trực quan hóa những phần nhất đònh
thuộc phạm vi thực tế, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nhận thức lý luận và
vận dụng thực tế.
 Phát triển tính chủ động lónh hội các kiến thức một cách hợp lý, tiếp
tục phát triển các phương pháp làm việc khoa học.
 Chức năng đặc biệt của sách giáo khoa, sách tóm tắt kiến thức và sách
bài tập.
Sách giáo khoa là một ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học, chứa đựng
những kiến thức quan trọng của một ngành khoa học hay một môn học, được
biên soạn theo phương pháp sư phạm trên cơ sở các tư liệu về đào tạo (kế
hoạch học tập, chương trình giảng dạy).
Là một phương tiện sư phạm, sách giáo khoa tạo khả năng và hỗ trợ cho
quá trình đào tạo.
Trước hết phương tiện này góp phần vào:
- Việc truyền thụ kiến thức cơ bản của một ngành chuyên môn hoặc một
ngành khoa học dưới một hình thức mang tính hệ thống, tính liên hệ thực
tế, và tính vừa sức tiếp thu.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 22
- Việc truyền thụ phương pháp làm việc khoa học cũng như khuyến
khích việc đọc các tài liệu tham khảo.

Sách tóm tắt kiến thức là một loại ấn phẩm dùng làm phương tiện dạy học
trong đó bao gồm các kiến thức cơ bản quan trọng của một ngành khoa học
hoặc của một môn học, trình bày dưới hình thức rất súc tích, bao quát và hệ
thống, loại này biên soạn theo phương pháp sư phạm dựa trên những tư liệu
về đào tạo.
 Chức năng riêng và việc bố trí sử dụng các ấn phẩm đặc biệt dùng làm
phương tiện dạy học.
Bản chỉ dẫn học tập là một loại ấn phẩm đặc biệt dùng làm phương tiện
dạy học để chỉ dẫn và động viên học sinh sắp xếp học tập có kết quả, đồng
thời cũng góp phần vào việc chuẩn bò thực hiện gia công và đánh giá các bài
giảng một cách chủ động và có hiệu quả.
Bài được in sẵn là những bài nguyên văn, những bản dòch, những bản
trích dẫn từ sách chuyên môn, tủ sách tra cứu và từ những tài liệu, đã được ấn
hành, được soạn ra không phải để nhằm chủ yếu cho quá trình giáo dục, song
cũng được đưa cho học sinh sử dụng tuy việc sử dụng có khó khăn. Vì vậy
trong từng lúc, những bài học in sẵn đó có chức năng của các ấn phẩm đặc
biệt dùng làm phương tiện dạy học.
Tài liệu này, chủ yếu phục vụ cho việc củng cố và mở rộng nội dung bài
giảng và cũng như việc tiếp thu kiến thức chuyên môn.
Bản tóm tắt bài giảng là một loại ấn phẩm dùng làm tài liệu học tập cho
học sinh và chủ yếu sử dụng giờ giảng dạy lý thuyết trên lớp. Các bản tóm
tắt bài giảng cũng tương tự như những bản tóm tắt kiến thức là một dạng cô
đọng, bao quát và hệ thống những kiến thức cụ thể có liên quan với nhau,
những điều đáng lưu ý quan trọng, những đònh nghóa, chứng minh, bảng số, sơ
đồ, hình vẽ, chỉ dẫn tài liệu, dàn bài…
đây có sự khác nhau giữa bản tóm tắt bài giảng và bản tóm tắt kiến
thức. Bài tóm tắt bài giảng dùng trực tiếp cho những buổi lên lớp đặc biệt và
có mối liên hệ hữu cơ với bài giảng.
Bản ghi bài tập và bản sưu tầm bài tập là một tập hợp dưới hình thức diễn
tả bằng chữ hoặc bằng hình ảnh những bài tập và những vấn đề được sắp xếp

theo từng lónh vực, từng phạm vi, theo tính chất tổng hợp cũng như mức độ
khó khăn phức tạp.
Phiếu luyện tập là một loại ấn phẩm đặc biệt, dùng làm phương tiện dạy
học, là một tài liệu chương trình hóa đơn giản có các chỗ trống để học sinh
điền vào. Trong quá trình thu nhận kiến thức, hình thức này buộc học sinh
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 23
làm việc với nội dung giáo dưỡng và giáo dục một cách chủ động và sáng
tạo. Phiếu luyện tập dùng cho việc thu nhận, xử lý và lưu trữ những thông tin
có thể được phát triển và sử dụng để thực hiện nhiều chức năng theo lý luận
dạy học.
Bản hướng dẫn thí nghiệm là những ấn phẩm đặc biệt dùng làm phương
tiện dạy học nhằm hỗ trợ cho học sinh trong việc chuẩn bò, tiến hành và đánh
giá thực tập trong phạm vi những hình thức tổ chức học tập nhất đònh. Bài
hướng dẫn thí nghiệm phải liên quan chặt chẽ với những bản chỉ dẫn học tập
chuyên môn.
 Multimedia (đa phương tiện)

Multimedia (đa phương tiện): được hiểu là sử dụng nhiều hơn một loại
phương tiện vào cùng một thời điểm. Kể từ lâu con người đã khám phá ra
rằng các thông điệp sẽ trở nên có nhiều tác động hơn (có nghóa là người nghe
sẽ nhớ và hiểu chúng dễ hơn) khi chúng được biểu đạt với sự kết hợp của các
phương tiện khác nhau.
Ngày nay con người thường sử dụng lời nói, âm thanh, văn bản, hình ảnh
đồ họa, hoạt cảnh và video để chuyển tải thông tin.
Vậy Multimedia là sự hợp nhất của nhiều phương tiện truyền thông (âm
thanh, đồ họa, hoạt cảnh, video…) nhằm tăng cường tác động ảnh hưởng đến
các thông điệp.
Multimedia cung cấp cho người thầy khả năng tích hợp các kênh thông tin
phong phú vào tài liệu giảng dạy của mình. Tuy nhiên chính sự tích hợp của

nhiều kênh thông tin (màu sắc, âm thanh, ảnh động, …) có thể sẽ làm rối loạn
nhận thức của người học, vì họ không biết điều gì là chủ yếu mình cần phải
ghi nhớ. Vì vậy, người thầy cần phải biết với kênh thông tin nào cần cho
người học lưu trữ thì ta nhấn mạnh kênh đó, những kênh không cần thiết hay
bò lạm dụng quá đáng sẽ gây rối loạn cho người học.
Ngày nay với sự hỗ trợ của công nghệ thông tin khả năng tích hợp các
kênh thông tin phong phú cho tài liệu học tập được nâng cao (có nhiều phần
mềm hỗ trợ cho việc mô phỏng, diễn họa, tạo ảnh động, như là: Power Point,
Macromedia Flash, Director MX, Macromedia Dreamweaver, Adobe
Acrobat), nhưng khả năng đó cũng có mặt trái của nó, nếu người thầy quá
lạm dụng và đưa vào quá nhiều kênh thông tin không cần thiết và không biết
cách tổ chức chúng sao cho người học dễ dàng tiếp cận và tìm kiếm thì sẽ
gây rối loạn, quá tải cho người họ. Tương tự với các hình thức hỗ trợ khác
như mô phỏng, hay luyện tập trên máy tính nếu việc thiết kế không được tính
toán một cách chu đáo thì sẽ không có tác dụng thậm chí là phản tác dụng.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 24
Để có được một sản phẩm (phương tiện dạy học) đa phương tiện với sự hỗ
trợ của máy tính tốt cần lưu ý một số đặc điểm sau khi thiết kế:
- Giữ cho đơn giản
Giữ sườn bài đơn giản, rõ ràng và trong thiết kế tài liệu phải có sự phù
hợp, nhất quán giữa nội dung, hình ảnh… Hạn chế một cách có cơ sở sự quá
tải kiến thức (dựa trên mục tiêu).
Giữ cho tài liệu không bừa bộn bằng cách chắt lọc những thành phần cần
thiết.
Sàng lọc những thông tin dư thừa.
Cấu trúc tài liệu thành những modul cục bộ.
Thiết kế các màn hình đơn giản và sử dụng chữ, ảnh động, âm thanh màu
sắc hợp lý.
- Sử dụng các tín hiệu lôi cuốn sự chú ý phù hợp

Sử dụng màu sắc, mũi tên, bóng mờ, âm thanh vừa phải để hướng sự chú
ý của người học vào các phần quan trọng.
Tránh phân chia sự chú ý của người học, sử dụng các thành phần như chữ,
hình ảnh, âm thanh để củng cố thông điệp chứ không lạm dụng gây nhầm
lẫn.
- Mã hóa kép các thông tin
Một thông tin nên trình bày bằng nhiều cách khác nhau: bài text, hình
ảnh, mô phỏng chuyển động, âm thanh…
- Hỗ trợ cho bộ nhớ và hỗ trợ người học xử lý thông tin
Hỗ trợ và khuyến khích người học: lập lại, sắp xếp tổ chức lại các thông
tin đã học thông qua các bài tập, thiết lập các bảng tóm tắt, phân loại, phân
lớp các tài liệu.
Hỗ trợ thêm các thông tin mà người học có thể quên, tránh mất thời giờ
tìm kiếm của người học.
- Thiết kế các mô phỏng ở cấp độ cao cho các bài luyện tập
Đối với các kỹ năng được hình thành theo một trình tự người học cần được
luyện tập với các bài tập mô phỏng ở cấp độ cao, các mô phỏng thiết kế càng
gần với thực tế càng tốt.
- Hướng dẫn và khuyến khích người học sử dụng các chiến lược nhận
thức
Học qua các tình huống, khám phá dưới sự hướng dẫn, học từ các sai
hỏng…
1.7. Cơ sở lựa chọn phương tiện dạy học
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 25
Khi lựa chọn thiết kế phương tiện dạy học, giáo viên chú ý đến những vấn
đề cơ bản về phương tiện dạy học như: chức năng của phương tiện dạy học,
vai trò của phương tiện dạy học trong giáo dục, vai trò của các giác quan
trong quá trình truyền thông dạy học, các tính chất của phương tiện dạy học,
ba nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học và dựa vào:

- Mục đích yêu cầu sư phạm, dựa vào các khâu của quá trình dạy học.
- Mục tiêu học tập: kiến thức, kỹ năng, tư tưởng thái độ.
- Đặc điểm môn học và tính chất của tài liệu cụ thể.
- Đặc điểm lứa tuổi, trình độ học sinh: mỗi lứa tuổi đều có đặc điểm
sinh lý khác nhau, mức độ nhận thức khác nhau.
- Điều kiện thiết bò của nhà trường, thời gian giảng dạy, hiện trường dạy
học
- Trình độ thiết kế, chế tạo và sử dụng phương tiện dạy học của giáo
viên kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy thực tế.
- Nguyên tắc dạy học trực quan.
1.8. Các mô hình lựa chọn và chế tạo phương tiện dạy học
Có rất nhiều mô hình lựa chọn và chế tạo phương tiện dạy học của
LEVIE, của GOODMAN, mô hình ASSURE. Có thể đúc kết các mô hình lựa
chọn và chế tạo phương tiện dạy học như sau:
Phân tích:
Phân tích thực trạng giảng dạy môn học
Phân tích mục tiêu
Người học
Thiết kế:
Từ kết quả phân tích đưa ra các lựa chọn phương tiện và cách để đạt được
mục tiêu.
Triển khai:
Lập kế hoạch chi tiết cho từng bài học
Sử dụng các kỹ thuật, công nghệ phù hợp để thể hiện thiết kế phương
tiện.
Thực nghiệm :
Đưa thiết kế vào thực hiện trên một lớp học thực nghiệm.
Đánh giá:
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 26

Đánh giá hình thành: thực hiện trong quá trình nhằm cải tiến thiết kế
bằng việc quan sát, rút kinh nghiệm qua từng phần.
Đánh giá tổng kết: Đánh giá hiệu quả bằng cách đo lường kết quả học
đối chiếu với các mục tiêu học tập và lớp học đối chứng.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 27
Chương 2
THIẾT KẾ VÀ CHẾ TẠO PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC
MÔN “THIẾT KẾ ÁO DÀI “
2.1. Phân tích cơ sở thực tiễn cho việc thiết kế, chế tạo phương tiện dạy
học môn: “Thiết kế áo dài “ hệ trung học chuyên nghiệp Trường Cao
đẳng Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp II
2.1.1. Giới thiệu môn Thiết kế áo dài
Tầm quan trọng:
Môn Thiết kế áo dài là môn chuyên ngành, vừa chứa đựng cả nội dung lý
thuyết và thực hành, thuộc ngành Công nghệ may. Trong chương trình đào
tạo ngành Công nghệ may, môn học này được bố trí giảng dạy vào học kỳ 2
cho học sinh học năm thứ 2 của hệ Trung học Chuyên nghiệp.
Nội dung cơ bản của môn học này nhằm trang bò cho người học những
kiến thức cơ bản về phương pháp đo, phương pháp tính nguyên phụ liệu,
phương pháp thiết kế áo dài và phương pháp may hoàn chỉnh một bộ áo dài
cơ bản.
Có thể nói, chiếc áo dài Việt Nam không chỉ xuất hiện trong những dòp
trọng đại như Tết cổ truyền dân tộc, các lễ hội, hội nghò, trình diễn thời trang,
đám cưới, … mà cả trong những ngày thường, ở các cơ quan ngoại giao, giáo
dục, tiếp viên hàng không, bưu điện, … ở trong nước mà còn ở cả ngoài nước.
Đây là loại trang phục truyền thống của người Việt Nam, được thực hiện cẩn
thận, tỉ mỉ và đa số các công đoạn phải thực hiện bằng thủ công, độ phức tạp
nhiều hơn những trang phục khác. Vì thế, đòi hỏi người thực hiện phải thông
hiểu về may đo, phải có tính cần cù và khéo léo thì mới cho ra đời sản phẩm

đẹp. Do đó môn Thiết kế áo dài là môn không thể thiếu trong chương trình
đào tạo ngành Công nghệ may. Chính môn học này sẽ cung cấp cho học sinh
những phương pháp thiết kế và may trang phục cơ bản mà khi tiếp cận với
thực tế sản xuất học sinh sẽ phát triển cho những sản phẩm phức tạp hơn.
Mục tiêu môn Thiết kế áo dài:
Sau khi học xong môn học học sinh có thể:
- Hiểu và giải thích chính xác những đặc điểm kiểu mẫu, các số đo cần
thiết cho việc thiết kế, các công thức và phương pháp thiết kế áo dài.
- Thiết kế, dựng hình được các chi tiết trong một sản phẩm cụ thể (áo dài
Việt Nam), trên cơ sở của hệ thống cỡ số, lượng cử động phù hợp với từng cơ
thể người mặc.
- May hoàn chỉnh một bộ áo dài theo đúng quy trình may.
Luận văn thạc só
Võ Thò Quế Anh Trang 28
- Phân tích và lựa chọn phương pháp thiết kế mẫu mới hợp lý và hiện đại.
Nội dung chương trình môn Thiết kế áo dài:
Nội dung chương trình được trình bày qua đề cương chi tiết môn Thiết kế
áo dài như sau:
1. Tên môn học: THIẾT KẾ ÁO DÀI.
2. Số đơn vò học trình: 4 (60 tiết).
3. Trình độ: học sinh năm thứ 2.
4. Phân bố thời gian:
- Lý thuyết: 30 tiết
- Thực hành: 30 tiết
5. Điều kiện tiên quyết:
Học sinh phải học qua các môn đại cương, các môn lý thuyết cơ sở (vẽ
kỹ thuật, vật liệu may, thiết bò may), các môn lý thuyết chuyên môn (công
nghệ may, kỹ thuật may cơ bản, thiết kế quần áo cơ bản, … ).
6. Mô tả vắn tắt nội dung học phần:
Môn học trang bò cho học sinh những kiến thức về phương pháp lấy số

đo trên cơ thể người, về hệ thống công thức thiết kế, về phương pháp
dựng hình, quy trình cắt may lắp ráp quần ống xéo, áo dài tay raglan, áo
dài tay ráp phồng.
7. Nhiệm vụ của học sinh:
- Dự lớp ít nhất 80% số tiết học quy đònh đối với môn học.
- Chuẩn bò đầy đủ dụng cụ phục vụ học lý thuyết và thực hành may
gồm: viết chì, thước, kéo, phấn may, kim, chỉ, vải, …
- Thực hiện đầy đủ bài tập được giao.
- Đo, cắt, may hoàn chỉnh sản phẩm một cách thuần thục.
- Nghiên cứu, tham khảo thêm tài liệu về thiết kế trang phục.
8. Tài liệu học tập:
- Triệu Thò Chơi, Cắt may toàn tập, NXB Phụ nữ- 1998.
- Huỳnh Kim Phiến, Bài giảng môn Y phục truyền thống, ĐHSPKT-
TP.HCM- 2002
- Giáo trình “Thiết kế quần áo cao cấp” Trường Cao Đẳng Kinh Tế Kỹ
Thuật Công Nghiệp II.
9. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả học tập của học sinh:
- Thi viết và thực hành cắt, may sản phẩm hoàn chỉnh.
10. Thang điểm: 10 điểm.

×