Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh đồng nai trong hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (512.02 KB, 118 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn :
Sau hơn 20 năm đổi mới, trên cơ sở đa dạng hóa chế độ sở hữu, thành
phần kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai đã phát triển nhanh chóng,
có nhiều đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế. Song bản thân kinh tế
tư nhân trên địa bàn tỉnh vẫn còn nhiều hạn chế ; môi trường kinh doanh còn
nhiều bất lợi; việc xác định vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa rõ ràng, chưa nhất quán gây
nhiều trở ngại cho sự phát triển kinh tế tư nhân.
Trong quá trình hội nhập kinh tế, sau 12 năm đàm phán, Việt Nam trở
thành thành viên của tổ chức WTO. Điều đó, tác động đến nền kinh tế nước
ta nói chung và kinh tế tỉnh Đồng Nai nói riêng. Kinh tế tư nhân trên địa bàn
tỉnh Đồng Nai cũng phải đương đầu với những cơ hội và thách thức mới
trong tiến trình hội nhập tham gia xây dựng tỉnh Đồng Nai trở thành tỉnh
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2010 theo Nghị quyết Đại hội
VIII của Đảng bộ tỉnh.
Sau 20 năm, kinh tế tỉnh Đồng Nai tăng trưởng với tốc độ cao song
vẫn còn dưới mức tiềm năng so với điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và
nguồn nội lực của tỉnh. Cơ cấu thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh chưa hợp
lý, nguồn vốn trong nước trên địa bàn chưa được khai thác và phát huy tốt.
Từ đó vấn đề nghiên cứu, phân tích thực trạng và định hướng “Phỏt triển
kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong hội nhập kinh tế quốc tế”
trở nên cấp bách.
2. Tình hình nghiên cứu :
Lịch sử ra đời và phát triển kinh tế tư nhân gắn liền với sự phát triển
của nền sản xuất hàng hóa và nền kinh tế thị trường. Trên thế giới, tùy theo
1
đặc điểm, hoàn cảnh của từng nước, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên
cứu về kinh tế tư nhân rất phong phú, đa dạng. Từ thập niên 1990 đến nay, ở
các nước có nền kinh tế chuyển đổi từ cơ chế kinh tế tập trung sang cơ chế
kinh tế thị trường như : Trung quốc, Nga, các nước Trung và Đông Âu, đã


có nhiều công trình nghiên cứu sâu về kinh tế tư nhân.
Ở nước ta, từ Đại hội VI của Đảng để ra đường lối đổi mới, đã có
nhiều tác giả nghiên cứu về kinh tế tư nhân dưới nhiều góc độ khác nhau
như : quan điểm nhận thức, chính sách, quản lý nhà nước, môi trường kinh
doanh, đội ngũ doanh nhân, vai trò vị trí kinh tế tư nhân trong nền kinh tế
nhiều thành phần mà nổi bật là những công trình nghiên cứu :
1. Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Trí : Khu vực kinh tế phi chính
quy NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997.
2. Hà Huy Thành : Thành phần kinh tế cá thể, tiểu thủ và tư bản tư
nhân. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
3. GSTSNguyễn Thanh Tuyền : Sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. NXB Chính trị
Quốc Gia, Hà Nội, 2006.
4. PGS.TS Vũ Văn Phúc : Kinh tế tư nhân - quan niệm, thực trạng và
giải pháp phát triển. Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, số ra ngày
23/12/2005.
5. Vũ Quốc Tuấn : Doanh nghiệp, doanh nhân trong kinh tế thị
trường. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001.
Ở tỉnh Đồng Nai, đã có nhiều đề tài nghiên cứu kinh tế xã hội của địa
phương. Hầu hết các công trình nghiên cứu về các ngành, lĩnh vực kinh tế cụ
thể như : Công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ ; kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài ; sự hình thành các khu công nghiệp ; công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Gần đây có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối với kinh tế
2
tư nhân, song vẫn còn ít công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế tư nhân
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nhằm gia tăng tỷ lệ vốn đầu tư trong
nước so với đầu tư nước ngoài trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Trên cơ sở kế thừa các công trình nghiên cứu nêu trên, đề tài nghiên
cứu thành phần kinh tế tư nhân ở cấp độ địa phương (nằm trong vùng kinh tế
trọng điểm phía nam) trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế góp phần vào

lý luận và thực tiễn của đất nước và địa phương.
3. Mục đích nghiên cứu :
- Phân tích những vấn đề lý luận chung về kinh tế tư nhân, từ đó làm
rừ tớnh tất yếu và những nhân tố ảnh hưởng đến kinh tế tư nhân ở Đồng Nai
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Phân tích thực trạng sự phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai, từ đó rút ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những
hạn chế đó.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm thúc đẩy nhanh
quá trình phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn (2006-2010) theo Nghị
quyết Đại hội VIII của tỉnh Đảng bộ Đồng Nai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu : Phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu : Trên địa bàn Tỉnh Đồng Nai - một tỉnh nằm
trong vùng kinh tế trọng điễm phía nam - có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã
hội và vị trí địa lý thuận lợi, tiềm năng đa dạng và dồi dào.
Thời gian nghiên cứu : Chủ yếu là sau 20 năm đổi mới (1986-2005).
5. Phương pháp nghiên cứu :
Luận văn lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử,
phương pháp logic - lịch sử, các phương pháp khác nhau : phân tích tổng
3
hợp, hệ thống hóa, sưu tầm khảo sát và phương pháp tổng kết thực tiễn, trừu
tượng hóa để làm sáng tỏ, phong phú thêm lý luận nhằm giải quyết các
nhiệm vụ đã đề ra.
6. Đóng góp của luận văn :
Góp phần làm rõ hơn lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế tư nhân
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
Phân tích thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng
Nai.

Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế
tư nhân trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn :
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu thành 3 chương :
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2 : Thực trạng phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh
Đồng Nai.
Chương 3 : Phương hướng, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
4
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN
TRấN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KINH TẾ TƯ NHÂN.
1.1.1. Bản chất kinh tế của kinh tế tư nhân.
Kinh tế tư nhân gắn liền với vấn đề sở hữu. Sở hữu là quan hệ giữa
con người và con người, trong quá trình sản xuất, phản ánh quá trình chiếm
hữu của cải vật chất mà sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Nó
là mặt cơ bản của quan hệ sản xuất, vận động và biến đổi cùng với hệ thống
kinh tế - xã hội.
Khi nhà nước xuất hiện, các quan hệ sở hữu được thể chế hóa bằng
pháp luật hình thành chế độ sở hữu. Nó qui định các quyền: sử dụng, định
đoạt, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp … và thực hiện các lợi ích
của chủ thể. Quan hệ sở hữu còn chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội gắn
liền với quan hệ tổ chức - quản lý; với quan hệ phân phối thông qua các lợi
ích kinh tế. Hình thức sở hữu là cơ sở khách quan của sở hữu tương ứng với

những trình độ phân công lao động xã hội và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Xã hội loài người đó trãi qua nhiều hình thức sở hữu khác
nhau, từ sở hữu bộ lạc đến các hình thức sở hữu tư nhân và sở hữu xã hội
chủ nghĩa. Trên thực tế, cho đến nay, chỉ tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản:
sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân , sở hữu hỗn hợp. Trong một hình thái kinh
tế - xã hội, duy trì cựng lỳc nhiều hình thức sở hữu là một tất yếu khách
quan. Sự tác động lẫn nhau giữa sở hữu và các hình thức kinh tế được nối
liền qua khâu trung gian là lợi ích kinh tế. Sự tương tác lẫn nhau giữa các lợi
ích điều chỉnh các hình thức sở hữu cho phù hợp với tính chất và trình độ
5
của lực lượng sản xuất, khơi dậy động lực, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Sở hữu không phải là động lực trực tiếp nhưng chính quan hệ sở hữu lại
quyết định bản chất, cơ cấu hệ thống lợi ích kinh tế và trở thành nguồn gốc
sâu xa của động lực kinh tế . Ở Việt Nam, từ Đại hội VI đến Đại hội X Đảng
ta đã khắc phục nhận thức giản đơn về cỏc khõu, cỏc hình thức biểu hiện ,
các mối quan hệ của sở hữu bằng thay đổi quan niệm về sở hữu, chuyển từ
việc xem sở hữu là mục đích sang xem sở hữu vừa là mục đích, vừa là
phương tiện. Bản chất của sở hữu trong chủ nghĩa xã hội là góp phần giải
phóng mọi năng lực sản xuất, là phát triển lực lượng sản xuất và không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân.
Sở hữu tư nhân, xét về nguồn gốc lịch sử là hình thức sở hữu tồn tại
lâu dài qua nhiều phương thức sản xuất. Nó là hệ quả trực tiếp của quyền tự
do cá nhân, phát huy mọi tiềm năng vốn có của mỗi cá nhân. Sở hữu tư nhân
là quan hệ sở hữu xác nhận quyền hợp pháp của tư nhân trong chiếm hữu,
quyết định cách thức tổ chức sản xuất, chi phối và hưởng lợi từ kết quả của
quá trình sản xuất. Cho đến nay, những động lực do sở hữu tư nhân tạo ra
khó có hình thức nào thay thế được nó. Sở hữu tư nhân về quá trình sản xuất
là cơ sở ra đời khu vực kinh tế tư nhân.
Có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế tư nhân. Có quan niệm cho
rằng, kinh tế tư nhân đồng nghĩa với kinh tế tư bản tư nhân. Có quan niệm

đồng nhất kinh tế tư nhân với kinh tế ngoài quốc doanh. Có quan niệm cho
rằng kinh tế có 100% vốn nước ngoài (thuộc sở hữu tư nhân nằm trong kinh
tế tư nhân). Ở Việt Nam , Đại hội X của Đảng, xác định khu vực kinh tế tư
nhân gồm: kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân hoạt động với
hình thức hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
Trong đó, kinh tế cá thể , tiểu chủ dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
qui mô nhỏ, dựa vào sức lao động của chính họ giá trị thặng dư không đáng
6
kể. Kinh tế tư bản tư nhân là loại hình kinh tế dựa trên sở hữu tư nhân lớn về
tư liệu sản xuất của một hay nhiều chủ, có sử dụng lao động làm thuê, hoạt
động độc lập, chủ thể tư bản đồng thời là chủ doanh nghiệp. Sở hữu tư nhân
lớn ra đời trên cơ sở tích tụ tư bản và sử dụng lao động làm thuê. Phần lớn
giá trị thặng dư (m) được nó tích lũy để tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích
không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh và tạo ra ngày càng nhiều hơn
giá trị thặng dư (m). Theo luật Doanh nghiệp năm 1999, sau đó được hoàn
thiện thành Luật doanh nghiệp năm 2005, có hiệu lực vào 01/7/2006 thì việc
tổ chức quản lý sản xuất của kinh tế tư bản tư nhân được biểu hiện ở mô
hình doanh nghiệp gồm có : Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty hợp doanh, doanh nghiệp tư nhân.
Về quan hệ phân phối, trong kinh tế tư nhân, các hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh khác nhau có quan hệ phân phối khác nhau. Đối với
kinh tế cá thể, do dựa vào sức lao động của bản thân nên sản phẩm và kết
quả lao động chủ yếu thuộc về hộ gia đình hay cá nhân. Đối với kinh tế tư
bản tư nhân, chủ sở hữu tư liệu sản xuất chiếm phần sản phẩm thặng dư (m)
và người lao động được hưởng phần sản phẩm tất yếu (v). Khi nền kinh tế
phát triển theo chiều rộng, các yếu tố khoa học - công nghệ và quản lý chưa
có vai trò quan trọng mà dựa vào khai thác tài nguyên và sức lao động thì
quan hệ phân phối chủ yếu dựa trên sự đóng góp về vốn, tư liệu sản xuất,
sức lao động làm cho toàn bộ sản phẩm thặng dư thuộc về nhà tư bản. Trong
nền kinh tế thị trường hiện đại, các yếu tố khoa học công nghệ, tổ chức quản

lý của chủ doanh nghiệp, trình độ và tay nghề của người lao động cùng với
thị trường đóng vai trò ngày càng quan trọng. Chủ doanh nghiệp không
còn là người sở hữu duy nhất, bên cạnh đó, vai trò điều tiết phân phối của
nhà nước tăng lên thì quan hệ phân phối trong các doanh nghiệp trở nên
phức tạp hơn, bằng nhiều hình thức khác nhau.
7
Dù kinh tế tư nhân có nhiều trình độ phát triển khác nhau nhưng có
bản chất chung là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, về các nguồn lực sản
xuất. Những doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có đặc trưng mang
tính bản chất là họ sử dụng đồng vốn của chính họ và họ có quyền được
huởng thành quả lao động do họ làm ra. Tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong
kinh doanh và tự bù lỗ là nguyên tắc hoạt động của các loại hình kinh tế tư
nhân. Đó là điểm khác biệt quan trọng giữa khu vực kinh tế tư nhân và khu
vực kinh tế nhà nước, chỉ rõ đặc trưng cốt lõi của kinh tế tư nhân .
1.1.2. Đặc điểm của kinh tế tư nhân :
Xét về nguồn gốc, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ra đời là kết quả
tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản
xuất là nguồn gốc cơ bản và trực tiếp ra đời của chế độ tư hữu.
Từ đó, nhìn chung, kinh tế tư nhân có những đặc điểm cơ bản :
- Kinh tế tư nhân gắn liền với lợi ích cá nhân mà lợi ích cá nhân trong
lịch sử phát triển của xã hội loài người là động lực trước hết và chủ yếu thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, kinh tế tư nhân có sức sống mãnh
liệt, nó xuất hiện một cách tự nhiên để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của con
người nờn luụn chứa đựng bên trong những nhân tố ổn định tự có và ngay
trong môi trường đào thải khắc nghiệt kinh tế tư nhân vẫn tồn tại. Trong các
nền kinh tế không có sự cấm đoán đối với kinh tế tư nhân thỡ cỏc doanh
nghiệp thuộc loại hình kinh tế tư nhân được hình thành rất linh hoạt, dễ
dàng, thích ứng theo nguyên tắc “ở đâu có cầu, ở đó có cung”.
- Kinh tế tư nhân với mô hình tiêu biểu là doanh nghiệp của tư nhân là
tổ chức kinh doanh của nền sản xuất hàng hóa ở giai đoạn cao.

Sự ra đời và phát triển của kinh tế tư nhân, gắn với kinh tế hàng hóa.
Cùng với sự phát triển của sở hữu tư nhân và phân công lao động xã hội,
kinh tế hàng hóa ra đời. Kinh tế hàng hóa có 2 giai đoạn phát triển: kinh tế
8
hàng hóa giản đơn và kinh tế thị trường. Trong nền sản xuất hàng hóa giản
đơn, khu vực kinh tế tư nhân có qui mô nhỏ chiếm tỉ trọng lớn gắn liền với
sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp mà gia đình là đơn vị cơ bản dựa trên cơ sở
huyết thống hoặc công trường thủ công. Khi kinh tế hàng hóa giản đơn phát
triển thành kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa (thực chất là kinh tế thị
trường) có nền tảng là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất,
hoạt động trên cơ sở thuê mướn lao động, thì kinh tế tư nhân phát triển mạnh
mẽ với qui mô lớn và khả năng ứng dụng khoa học và công nghệ cao, trở
thành động lực phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa gắn liền với sản
xuất lớn, hiện đại dựa trên cơ sở của mô hình tổ chức doanh nghiệp có mục
tiêu cao nhất và cuối cùng là tạo ra giá trị thặng dư và không ngừng chuyển
giá trị thặng dư thành tích luỹ tăng thêm của sự phát triển kinh tế . Trong
điều kiện chủ nghĩa tư bản, sự thống trị của kinh tế tư nhân không làm cho
sở hữu tư nhân cá thể và các hoạt động của kinh tế tiểu chủ bị thủ tiêu mà
nguợc lại vẫn tồn tại và phát triển. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và
của kinh tế thị trường đã làm phong phú, phức tạp thờm cỏc hình thức biểu
hiện của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân. Sự đan xen của sở hữu nhà nước
với sở hữu tư nhân ngày càng phổ biến, nền kinh tế cú thờm cỏc loại hình sở
hữu hỗn hợp.
- Lịch sử ra đời và phát triển của kinh tế tư nhân cho thấy, hình thức
điều tiết tự nhiên của các hoạt động kinh tế tư nhân là cơ chế thị trường. Cơ
chế thị trường hiện đại là dạng thức sinh tồn của kinh tế tư nhân mà điển
hình là mô hình tổ chức doanh nghiệp - sản phẩm tự nhiên của cơ chế thị
trường - tự nó lớn lên trong cơ chế thị trường nờn nó cú một sức sống mạnh
mẽ. Ngược lại, bất kỳ một nền kinh tế nào hoạt động theo cơ chế thị trường
đều phải thừa nhận và khuyến khích mô hình tổ chức doanh nghiệp của kinh

tế tư nhân như là một tự nhiên. Trong cơ chế thị trường - một kiểu tổ chức
9
kinh tế mà người tiêu dùng và nhà sản xuất tác động lẫn nhau thông qua thị
truờng - các hoạt động của chủ thể đều phải tuân theo và phù hợp với những
qui luật kinh tế nên năng động và hiệu quả, chỉ những doanh nghiệp thích
ứng được mới tồn tại và phát triển, ngược lại thì phá sản, qua đó nguồn lực
xã hội được sử dụng có hiệu quả. Trong khi đó, kinh tế quốc doanh được
sinh ra bởi các mệnh lệnh của Nhà nước quản lý theo cơ chế kế hoạch tập
trung, mệnh lệnh dù được hướng dẫn, động viên, chỉ thị phải ứng xử theo cơ
chế thị trường nhưng vẫn khó thích ứng. Vì vậy, phát triển kinh tế thị trường
chính là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế tư nhân nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Ngược lại, sự phát triển của kinh tế tư nhân là nền
tảng của kinh tế thị trường.
Kinh tế tư nhân ở nước ta có đặc điểm khác so với kinh tế tư nhân ở
các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, thể hiện ở các mặt như sau :
- Kinh tế tư nhân ở nước ta là sản phẩm của đổi mới, là kết quả của
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, là bộ phận hữu cơ của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa . Các chủ hộ kinh doanh
cá thể và doanh nghiệp phần lớn xuất thân từ những đảng viên, đoàn viên,
cán bộ quân đội, tầng lớp trí thức sinh ra và trưởng thành trong chế độ mới.
Người lao động cũng được hình thành trong xã hội mới. Lực lượng xã hội
tham gia kinh tế tư nhân là đông đảo các tầng lớp nhân dân. Trong các
doanh nghiệp, đã và đang hình thành các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng
Cộng Sản Việt Nam tổ chức và lãnh đạo.
- Kinh tế tư nhân ở nước ta phát triển theo định hướng do Đảng
CSVN đề ra được thể chế hóa thành hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện ý chí của nhân dân và vì
lợi ích của đông đảo nhân dân.
10
- Kinh tế tư nhân ở nước ta ngay từ khi ra đời đã mang những yếu tố

có tính chất xã hội chủ nghĩa là góp phần quan trọng vào giải phóng lực
lượng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tham gia giải quyết nhiều
vấn đề xã hội bức xúc.
- Các doanh nghiệp của kinh tế tư nhân thông qua hoạt động của mình
góp phần tăng trưởng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn kết các giai tầng xã
hội vì mục tiêu chung : dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh. Quan hệ trực tiếp giữa chủ doanh nghiệp với công nhân, người lao
động trong từng doanh nghiệp không còn là quan hệ đối kháng mà mang
tính chất hợp tác.
1.1.3.Vai trò của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế, xã hội và
hội nhập kinh tế quốc tế
1.1.3.1.Vai trò của kinh tế tư nhân đối với phát triển kinh tế, xã hội
Ở nước ta, tư duy về vị trí , vai trò của kinh tế tư nhân gắn liền với quá
trình đổi mới cũng là quá trình Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện quan hệ sản xuất thống trị trong xã hội không phải là quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa và do nhà nước xã hội chủ nghĩa quản lý dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Từ chỗ là một khu vực kinh tế phải “cải tạo” đến được
công nhận (nghị quyết Trung ương 6 khóa VI ngày 29/3/1989, chính thức sử
dụng khái niệm kinh tế tư nhân) được khuyến khích phát triển, được xem là
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân và khẳng định
phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa; được xác định rõ vị
trí góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trọng tâm là phát
triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội lực của đất nước
trong hội nhập kinh tế quốc tế (Nghị quyết trung ương 5 khóa 9 tháng
11
3/2002). Đại hội X của Đảng (4/2006) đã khẳng định: “Kinh tế tư nhân có
vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”. Nhấn
mạnh: “cỏc thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận

hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định huớng xã hội chủ
nghĩa, bình đẳng trước pháp luật , cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh
tranh lành mạnh”. Về chỉ đạo, Đại hội X quyết định: “Phỏt triển mạnh các
hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp tư nhõn”. Đồng thời
xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi
của các loại hình doanh nghiệp của tư nhân) phát triển không hạn chế qui
mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực , kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh
quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm”; Về đối tượng tham
gia vào khu vực kinh tế tư nhân, đã mở rộng hơn: “Mọi công dân có quyền
tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và
quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ; có quyền bình đẳng trong
đầu tư, kinh doanh, tiếp cận các cơ sở, nguồn lực kinh doanh, thông tin và
nhận thông tin”. Về chính sách phát huy các nguồn lực, Đại hội X chủ
trương : “khuyến khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân , các
tập đoàn kinh tế tư nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức cổ phần”
Trên thực tế, khu vực kinh tế tư nhân, trong những năm gần đây, đã
phát triển mạnh mẽ với sức sống mãnh liệt, thể hiện nhiều ưu thế, vị thế gia
tăng, ngày càng trở thành động lực phát triển của đất nước và hội nhập kinh
tế quốc tế. Kinh tế tư nhân trên phạm vi cả nước, năm 2005 đã tạo ra 45,7%
tổng sản phẩm trong nước, đó thỳ hỳt gần 91% lực lượng lao động xã hội,
tạo 90% việc làm mới chiếm 32% tổng đầu tư toàn xã hội.
Vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân chỉ được phát huy đầy đủ trong môi
trường kinh doanh thích hợp. Thực chất là tạo sự bình đẳng cho các chủ thể
tham gia thị trường, nhất là ở hai lĩnh vực:
12
(i) Cạnh tranh là qui luật để doanh nghiệp tồn tại trong nền kinh tế thị
trường. Hợp tác là để hệ thống doanh nghiệp lớn mạnh. Doanh nghiệp nào
hoạt động kém hiệu quả phải bị loại bỏ dù thuộc lọai hình sở hữu nào, với
qui mô gì. Những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả phải được tôn vinh.
(ii) Quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp phải được giải quyết tốt

trên cơ sở tôn trọng quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp ; đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp trên mọi phương
diện; hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển vì mục tiêu chung là sự tăng trưởng ổn
định của nền kinh tế.
Về thành phần xã hội, sự phát triển của kinh tế tư nhân đã góp phần
tạo ra tầng lớp doanh nhân. Doanh nhân là người đứng đầu doanh nghiệp,
gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động tốt phần
lớn phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo của doanh nhân. Doanh nghiệp vững
mạnh thì doanh nhân thành đạt. Môi trường cạnh tranh lành mạnh là nơi để
doanh nhân thể hiện tài năng tổ chức kinh doanh một cách chủ động, độc
lập, sáng tạo, là nơi đào tạo một đội ngũ những doanh nhân chuyên nghiệp
kinh doanh trong nước và vươn ra thế giới, trở thành nhân tài quản lý kinh
tế, quản lý kinh doanh. Đại hội X của Đảng đã xác định vị trí của tầng lớp
doanh nhân và chủ trương “Đối với doanh nhân, tạo điều kiện phát huy tiềm
năng và vai trò tích cực trong phát triển sản xuất kinh doanh; mở rộng đầu
tư trong nước và ở nước ngoài, giải quyết việc làm cho người lao động;
nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hàng hóa
Việt Nam”.
Trong thời đại ngày nay , đạo đức kinh doanh đang trở thành chìa
khóa thành công của các doanh nghiệp. Đạo đức kinh doanh của doanh
nghiệp gắn liền với phẩm chất doanh nhân cần có là : có động lực làm giàu
mạnh mẽ; bản lĩnh kinh doanh vững vàng; có tác phong làm việc công
13
nghiệp; gắn lợi ích của doanh nghiệp với người tiêu dùng. Mặt khác, doanh
nhân phải có văn hóa kinh doanh ; có tri thức để tạo ra tri thức mới , nâng
cao năng lực – tài trí để giữ vốn và phát triển vốn ; biết ứng dụng công nghệ
mới vào kinh doanh, ứng xử tốt các quan hệ nội bộ ; biết tôn trọng và bảo vệ
môi trường, quan tâm đến xã hội, biết tôn trọng pháp luật, thực hiện tốt
nghĩa vụ nhà nước, biết đấu tranh xây dựng nền hành chánh dân chủ.
1.1.3.2 Vai trò của kinh tế tư nhân đối với hội nhập kinh tế quốc tế.

Về khái niệm, toàn cầu hóa là quá trình tăng lên mạnh mẽ những mối
liên hệ ảnh hưởng tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu
vực, các quốc gia, các dân tộc trên thế giới , làm nổi bật hàng lọat biến đổi
có quan hệ lẫn nhau mà từ đó phát sinh hàng loạt điều kiện mới. Toàn cầu
hóa là kết quả của cách mạng lực lượng sản xuất nhất là sự bùng nổ của cách
mạng khoa học và công nghệ dẫn đến cách mạng hóa quan hệ sản xuất . Đây
là vấn đề mang tính qui luật, tất yếu khách quan.
Toàn cầu hóa về kinh tế là sự liên kết của nhiều nước trong chiều
huớng phát triển chung, tham gia hoạt động trong một thị trường chung,
mang ý nghĩa của một sự hội nhập vào hệ thống kinh tế thế giới, thúc đẩy
nhanh chóng quan hệ kinh tế thương mại trên phạm vi quốc tế . Toàn cầu
hóa về kinh tế là xu thế khách quan chịu ảnh hưởng của các nhân tố: sự phát
triển cao độ của lực lượng sản xuất dẫn đến quốc tế hóa sản xuất và phân
công lao động quốc tế ; sự phát triển vượt bậc của khoa học và công nghệ ra
đời kinh tế tri thức; nền sản xuất vật chất phát triển cao đòi hỏi sự phân công
và hợp tác lao động ngày càng sõu trờn phạm vi toàn thế giới. Nó tạo ra các
tổ chức thương mại, tài chính quốc tế và khu vực: WTO, IMF, WB, ADB,
EU, NAFTA, APEC… dẫn đến sự hình thành các tổ chức chính trị, kinh tế ,
văn hóa, xã hội rất lớn: UNDP, UNFPA, UNESCO, UNICEF, UNTAD,
FAO …. đã và đang tác động mạnh đến tất cả các nước trên phạm vi toàn
14
cầu . Toàn cầu hóa về kinh tế là quá trình phát triển ẩn chứa những cơ hội và
thách thức rất to lớn, đòi hỏi mỗi dân tộc, mỗi quốc gia phải chủ động, tỉnh
táo trong đón nhận toàn cầu hóa kinh tế, nhất là đối với các nước đang phát
triển và kém phát triển.
Từ giữa những năm 50 của thế kỷ 20, đã xuất hiện thuật ngữ hội nhập
kinh tế quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở rộng giao lưu kinh
tế và khoa học công nghệ giữa các nước trên qui mô toàn cầu; là quá trình
tham gia giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu như : dân số,
tài nguyên thiên nhiên, môi trường, dịch bệnh nguy hiểm… là quá trình loại

bỏ dần các hàng rào trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và việc di
chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước.
Toàn cầu hóa về kinh tế có 2 mặt : mặt tích cực là tạo khả năng phát
triển có hiệu quả các nguồn lực trong nước và sử dụng nguồn lực quốc tế
theo nguyên lý lợi thế so sánh, thị trường mở rộng, trao đổi hàng hóa phát
triển; dòng vốn vượt biên giới quốc gia theo lợi thế so sánh có lợi cho nước
đầu tư và nước nhận đầu tư, thành tựu khoa học và công nghệ chuyển giao
nhanh, ứng dụng rộng rãi, mạng thông tin và giao thông vận tải phủ toàn
cầu, giảm chi phí, tăng năng suất và hiệu quả; tăng tính lệ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia, có lợi cho đấu tranh vì hòa bình, hợp tác, phát triển.
Mặt tiêu cực là các nước phát triển thao túng, phân cực giàu nghèo
thêm sâu sắc; nền kinh tế toàn cầu hóa dễ bị chấn thương, trục trặc ở 1 khâu
sẽ lan nhanh toàn cầu; tự do hóa thương mại mang lại lợi ích nhiều hơn cho
các nước phát triển; kéo theo tội phạm xuyên quốc gia, bản sắc văn hóa dân
tộc bị xâm hại.
Dưới tác động của toàn cầu hóa, đối với quan hệ quốc tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, các nước trên thế giới có xu hướng chuyển sang: chính sách
kinh tế mở cửa, tham gia các quan hệ song phương, đa phương , đồng thời
15
cùng nhau xác lập nhiều cơ cấu hợp tác trên mọi tầng nấc (tiêu dùng, khu
vực, đại khu vực, toàn cầu) ở các cấp độ (ưu đãi thương mại, thị trường tự
do, liên minh thuế quan, thị trường chung …) tạo nên mạng quan hệ quốc tế
đan xen nhau, gia tăng tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, dẫn đến
vừa hợp tác, vừa cạnh tranh gay gắt hơn.
Tiến trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta bắt đầu từ
Đại hội VI của Đảng, từ phá thế bao vây cấm vận về kinh tế đến mở rộng
quan hệ quốc tế, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu. Đại hội VIII của
Đảng xác định nhiệm vụ: “Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia
các tổ chức quốc tế và khu vực, cũng cố và nâng cao vị thế nước ta trên
trường quốc tế” Đại hội IX và X, tiếp tục khẳng định chủ trương: “chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển có hiệu quả và bền vững” Hội nhập
kinh tế quốc tế của nước ta là xu thế tất yếu, trãi qua quá trình: năm 1993
khai thông quan hệ với IMF, ADB, WB, năm 1995 gia nhập ASEAN, khu
vực mậu dịch tự do AFTA, thực hiện cam kết CEPT ưu đãi thuế quan, đàm
phán hiệp định thương mại dịch vụ, tham gia chương trình hợp tác công
nghiệp (AICO), khu vực đầu tư ASEM (AIA) ; năm 1996 tham gia diễn đàn
hợp tác Á- Âu (ASEM); năm 1998 nhập APEC ; năm 2001, hiệp định hợp
tác thương mại song phương Việt Nam – Hoa Kỳ có hiệu lực (thương mại,
dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ) ; tháng 01/2007 chính thức gia nhập WTO,
tham gia sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế, từng bước đưa nền kinh
tế nước ta vào môi trường cạnh tranh toàn cầu , tạo tư duy làm ăn mới, thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế , nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh…
nhằm đáp ứng những nguyên tắc hoạt động của WTO: (i) không phân biệt
đối xử thể hiện qua 2 hiệp định tối huệ quốc ; (MFN) và đối xử quốc gia
(WT); (ii) thúc đẩy thuyơng mại quốc tế đối với hàng hóa và dịch vụ thông
qua đàm phán; (iii) minh bạch hóa về chính sách, về tiếp cận thị trường.
16
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta phải trãi qua 3 bước
của nội dung toàn cầu hóa. Đó là (i) toàn cầu hóa thị trường hàng hóa và
dịch vụ, hủy bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan (ii) toàn cầu hóa thị
trường đầu tư không giới hạn qui mô và phạm vi lãnh thổ ; (iii) toàn cầu hóa
thị trường tài chính - tiền tệ, tạo diều kiện cho các công ty tài chính tự do
thâm nhập mọi nơi có nhu cầu vốn. Hội nhập về thương mại tạo tiền đề cho
hội nhập đầu tư và hội nhập tài chính, cần sử dụng sức mạnh tổng hợp quốc
gia với sự tham gia của nhiều cấp độ kinh tế, trong đó có khu vực kinh tế tư
nhân.
Như vậy, phát triển kinh tế tư nhân sẽ góp phần thúc đẩy hội nhập
kinh tế quốc tế, được thể hiện cụ thể qua các nhân tố như sau:
- Kinh tế tư nhân đóng vai trò quan trọng, có mối quan hệ rộng khắp
với nước ngoài, đặc biệt các nước phát triển, có thuận lợi trong thu hút ngoại

lực bằng nhiều hình thức: đầu tư trực tiếp vào nước ta, liên doanh, liên kết
kinh tế, trợ giúp kinh tế tư nhân về vốn, kinh nghiệm, công nghệ để mở rộng
sản xuất kinh doanh, hoặc làm trung gian trong giao lưu kinh tế. Mặt khác,
kinh tế tư nhân sẽ làm gia tăng mức độ cạnh tranh của nền kinh tế với tư
cách là một chủ thể kinh tế có vai trò đáng kể trong cơ cấu nền kinh tế nhiều
thành phần. Từ đó, tiềm năng nội sinh của nền kinh tế được khai thác tối ưu
để đẩy nhanh, mở rộng giao lưu và cạnh tranh thương mại với các nước, góp
phần phân công lại lao động và hợp tác quốc tế.
- Kinh tế tư nhân góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ, hợp tác
đào tạo nguồn nhân lực và kinh nghiệm quản lý. Trong chuyển giao công
nghệ và tham gia phát triển công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực, kinh nghiệm
quản lý thì kinh tế tư nhân có nhiều khả năng và lợi thế do tính chủ động và
tự do lựa chọn để giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm,
mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh. Mặt khác kinh tế tư nhân
17
có mối liên hệ với người Việt Nam ở nước ngoài, (cú trờn 300.00 trí thức
trờn cỏc lĩnh vực, cùng với lượng kiều hối chuyển về nước ngày càng gia
tăng, năm 2005 là 3,8 tỉ USD tăng 25%) đang có xu hướng đầu tư vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước, góp phần đổi mới công nghệ và
tạo việc làm.
- Trong thời gian qua, khu vực kinh tế tư nhân đó cú những đóng góp
quan trọng trên lĩnh vực thương mại quốc tế, chiếm gần 50% tổng kim ngạch
xuất khẩu cả nước. Hiện nay, nước ta đã trở thành thành viên thứ 150 của
WTO, mở ra khả năng lớn cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trường thế
giới, nhưng khả năng cạnh tranh của hầu hết sản phẩm , hàng hóa Việt Nam
còn hạn chế. Thực tế đó, đòi hỏi, khu vực kinh tế tư nhân, vốn có lợi thế cao
và toàn diện, cần đầu tư phát triển mạnh mẽ hơn nữa vào lĩnh vực này.
Như vậy, chính sự ra đời và phát triển của kinh tế tư nhân trong thời
kỳ đổi mới đã tạo ra điều kiện hình thành và phát triển các loại thị trường ,
nền kinh tế thị trường từng bước được hình thành và trở thành môi truờng tốt

để kinh tế tư nhân phát triển. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế tư nhân, làm
cho các thành phần kinh tế khác buộc phải nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình, thúc đẩy cạnh tranh trong nước phát triển.
Trong mở rộng hợp tác với các nước trên thế giới theo nguyên tắc đa
phương hóa, đa dạng hóa, chính sự phát triển của kinh tế tư nhân, đã thúc
đẩy cạnh tranh hội nhập tạo ra môi trường để các thành phần kinh tế khác
nhau khai thác tiềm năng của đất nước, mở rộng cạnh tranh đối với các nước
trong khu vực và thế giới, thúc đẩy nền kinh tế nước ta hội nhập kinh tế
quốc tế.
Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy
sự phát triển kinh tế tư nhân.
18
- Hội nhập kinh tế quốc tế là chấp nhận tự do hóa nền kinh tế gồm: tự
do hóa thương mại, đầu tư , tài chính quốc tế. Đây là môi trường thuận lợi
thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển về số lượng, và chất lượng, tạo ra môi
trường cạnh tranh năng động để kinh tế tư nhân phát huy hết tiềm năng, mở
ra cho kinh tế tư nhân những địa bàn và cách thức hoạt động mới, những thị
trường mới. Đồng thời, gây sức ép cạnh tranh gay gắt với mỗi doanh nghiệp,
càng gay gắt hơn khi bản thân doanh nghiệp tư nhân còn nhiều yếu kém,
- Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình tham gia các cơ cấu hợp tác
khu vực và quốc tế bằng những nguyên tắc và hiệp định nên sẽ thúc đẩy việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường và thực hiện
công khai minh bạch các thiết chế quản lý của nước ta. Môi trường kinh
doanh được cải thiện tạo tiền đề quan trọng để các thành phần kinh tế trong
nước – trong đó có kinh tế tư nhân – phát triển nhanh chóng.
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta có trình độ thấp, trong giai đoạn
chuyển đổi, quá trình hội nhập và cạnh tranh, doanh nghiệp là chủ thế.
Nhưng so với dân số và nhu cầu phát triển kinh tế, số lượng doanh nghiệp
cũn ớt, tuyệt đại bộ phận có qui mô vừa và nhỏ, năng lực cạnh tranh yếu. Vì
vậy, cần khuyến khích người dân đầu tư vào sản xuất kinh doanh , phát triển

các loại hình doanh nghiệp và xây dựng đội ngũ doanh nhân có bản lĩnh,
năng lực thật sự và trở thành một nghề chuyên nghiệp
Tóm lại, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động mạnh đến các
doanh nghiệp trong đó có doanh nghiệp tư nhân, tạo ra nhiều cơ hội và thách
thức, để thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển mạnh về chiều sõu trờn tất cả các
lĩnh vực hoạt động kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu cạnh tranh quốc tế.
1.2. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG TỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRấN ĐỊA BÀN
19
TỈNH ĐỒNG NAI TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ.
1.2.1. Tính tất yếu khách quan phát triển kinh tế tư nhân trên địa
bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Trong lịch sử phát triển xã hội, dưới phương thức tư bản chủ nghĩa,
kinh tế tư nhân phát triển là tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường,
thúc đẩy lực lượng sản xuất và khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ hình
thành thị trường thế giới và toàn cầu hóa về kinh tế. Còn trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế như ở nước
ta, tính tất yếu khách quan của sự phát triển kinh tế tư nhân thể hiện các nội
dung chủ yếu như sau :
- Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất theo đúng
qui luật vận động của kinh tế thị trường.
Kinh tế tư nhân phát sinh, tồn tại phát triển có tính qui luật trong xã
hội loài người, nó tồn tại tất yếu khách quan và chỉ kết thúc bởi tính thích
ứng của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Tính xã hội hóa của quan hệ sản xuất tỉ lệ thuận với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất, mà yếu tố quyết định là tiến bộ của khoa học công nghệ.
Khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp thì ứng với nó là quan hệ sở hữu
nhỏ, đa dạng, phân tán. Khi lực lượng sản xuất ở trình độ cao vượt qua ranh

giới quốc gia, quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra, thì
xuất hiện các hình thức sở hữu hỗn hợp liên kết kinh tế (công ty cổ phần,
tập đoàn kinh tế, công ty quốc gia ) nhưng trụ cột vẫn là sở hữu tư nhân và
kinh tế tư nhân.
Ở tỉnh Đồng Nai, trước đổi mới, nền kinh tế hình thành chế độ sở hữu
đơn nhất là sở hữu nhà nước, áp dụng cơ chế kế hoạch hóa tập trung, dẫn
20
đến suy thoái. Sau đổi mới, chuyển đổi sang nền kinh tế đa sở hữu, đa thành
phần kinh tế thì kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo
hướng tích cực (công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp) và đang phát triển bền
vững trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Trong đó, kinh tế tư nhân trên
địa bàn tỉnh không ngừng phát triển ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng
(năm 1991 chỉ có 4 doanh nghiệp tư nhân, năm 1995 có 662 doanh nghiệp tư
nhân và 43.161 hộ kinh doanh phi nông nghiệp, góp 22,52% GDP).
Nếu Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới chính sách toàn diện đối với
khu vực kinh tế tư nhân theo đúng qui luật vận động của kinh tế thị trường
thì chắc chắn kinh tế tư nhân sẽ phát triển mạnh theo chiều rộng và chiều
sâu. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, điều nói trên đang và sẽ trở
thành hiện thực.
Thứ hai, phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế phát huy nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Trình độ nền kinh tế nước ta còn thấp kém, lạc hậu. Điểm xuất phát
của lực lượng sản xuất, của phân công lao động xã hội, của năng suất lao
động thấp, không đồng đều ở cỏc vựng, ngành. Tiềm năng của nền kinh tế :
vốn, sức lao động, tài nguyên thiên nhiên chưa đươc khai thác và sử dụng
có hiệu quả ; năng lực sản xuất bị kìm hãm từ trước đang cần được giải
phóng. So với các thành phần kinh tế khác, kinh tế tư nhân, với lợi thế vốn
có, có thể thâm nhập vào mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, bằng mọi qui mô,
mọi trình độ công nghệ để khai thác tốt các tiềm năng trên, bảo đảm phần

lớn các sản phẩm có nhu cầu rộng rãi và thiết yếu cho đời sống kinh tế - xã
hội.
Sự tồn tại và phát triển của khu vực kinh tế tư nhân trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho vốn đầu tư toàn xã hội gia tăng, nhất là
21
nguồn vốn trong dân cư và doanh nghiệp ngoài nhà nước tăng nhanh ; giảm
tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị, tăng thời gian lao động ở thụng thụn, kích thích
tạo ra thị trường lao động lớn - cơ sở để nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, tiến bộ công nghệ được đưa vào sản xuất ngày càng tăng. Do đó, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, ổn định xã hội, phân công lao
động xã hội phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội, sức cạnh tranh
của nhà kinh tế thúc đẩy trình độ của lực lượng sản xuất phát triển trên cơ sở
áp dụng công nghệ mới.
Hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy di chuyển các nguồn lực quốc tế
giữa các nước bao gồm : lao động, tín dụng (tư nhân và nhà nước), đầu tư
trực tiếp nước ngoài và các công ty đa quốc gia. Điều này tác động mạnh
đến sự nghiệp công nghiệp hóa ở nước ta. Với quan điểm, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân mà nội dung chủ yếu : (1) Đẩy mạnh
cách mạng khoa học - kỹ thuật để trang bị kỹ thuật hiện đại cho nhà kinh tế;
(2) Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động. Sự phát triển
của kinh tế tư nhân tất yếu thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, do tính hiệu quả trong sử dụng các nguồn lực trong nước và nước
ngoài, theo nguyên tắc phát huy tối đa lợi thế so sánh, với động lực phát
triển mạnh hơn các thành phần kinh tế khỏc. Trờn địa bàn tỉnh Đồng Nai,
trong thời kỳ đổi mới cùng với sự phát triển kinh tế tư nhân trong nước và
ngoài nước (FDI), sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đó cú những
phát triển ngoạn mục. Trên lĩnh vực công nghiệp, thời kỳ trước đổi mới
1981-1985 tăng trưởng bình quân 8,53%/năm, trong thời kỳ đổi mới từ năm
1991-2004, tăng trưởng bình quân 25,22%/năm trong đó, kinh tế tư nhân
trong nước tăng 27,84% và ngoài nước tăng 25,08% chiếm tỉ trọng lần lượt

là 14,46% và 61,52% so với tổng giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn
vào năm 2004. Nhờ sự phát triển mạnh của hai khu vực kinh tế tư nhân trong
22
nước và ngoài nước, trình độ công nghệ sản xuất trên lĩnh vực công nghiệp
đạt tiên tiến 19,38%, trung bình 71,2%, lạc hậu 9,46% (năm 2002). Về cơ
cấu kinh tế đã chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hóa (năm 1985
có cơ cấu : nông nghiệp 57,5%, công nghiệp 18,2%, dịch vụ 24,3% thì năm
2005 có cơ cấu : công nghiệp 57%, dịch vụ : 28%, nông nghiệp 15%) nếu
năm 1985, kinh tế nhà nước chiếm 34,2% GDP, kinh tế ngoài quốc doanh
65,8% thì năm 2005, kinh tế nhà nước chỉ còn chiếm 24% GDP và kinh tế
ngoài nước chiếm 66% GDP (kinh tế tư nhân trong nước chiếm 39%, kinh tế
tư nhân ngoài nước chiếm 37%). Về phân công lại lao động xã hội, đó cú
chuyển biến mạnh theo hướng tăng lao động công nghiệp và dịch vụ gỉam
lao động nông nghiệp, năm 1990 lao động nông nghiệp chiếm 65,38% lao
động công nghiệp chiếm 17,03%, lao động dịch vụ chiếm 17,60% thì năm
2005 là 45%, 31%, 24%.
Như vậy, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, sự phát triển kinh
tế tư nhân đã, đang, sẽ là tất yếu khách quan nhằm khai thác tối đa nguồn nội
lực và tranh thủ ngoại lực để thúc đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, trang bị kỹ
thuật hiện đại cho nền kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh, thúc đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, đẩy mạnh quan hệ kinh tế
quốc tế.
Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế thúc đẩy sự phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng
(các quan hệ sản xuất) ; giữa ý thức xã hội với tồn tại xã hội (điều kiện sinh
hoạt vật chất) hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lờnin
chỉ rõ rằng, ở một giai đoạn lịch sử nhất định, xã hội có 1 loại hình quan hệ
sản xuất đặc trưng, thích ứng với một trình độ lực lượng sản xuất và một

23
kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất ấy. Đó là quá
trình lịch sử - tự nhiên. Điều này chỉ rõ, ở nước ta, sự phát triển kinh tế tư
nhân có liên quan với vai trò quản lý nhà nước về kinh tế và tâm lý xã hội,
mà trong quá khứ, có thời gian dài kinh tế tư nhân không được thừa nhận.
Bước vào thời kỳ đổi mới, thực tiễn đã chứng minh bằng sức sống
mãnh liệt của mình, kinh tế tư nhân đã góp phần hoàn thiện sự đổi mới tư
duy kinh tế của Đảng ta ; hình thành hệ thống pháp luật mới bảo đảm địa vị
pháp lý của sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân ; xã hội bước đầu tôn vinh
những danh nhân giỏi, quan niệm về “búc lột” có những thay đổi quan trọng
làm cho lý luận về con đường đi lên CNXH ở nước ta phù hợp với thực tiễn
hơn. Xã hội bước đầu công bằng và dân chủ hơn, sinh hoạt vật chất và tinh
thần cởi mở hơn.
Hội nhập kinh tế quốc tế phải tuân thủ luật pháp và thông lệ tập quán
kinh tế quốc tế. Ở các nước phát triển (nhất là các nước trong khối OECD)
về quan hệ sở hữu, sở hữu tư nhân và kinh tế tư nhân có vai trò thống trị, thì
trên nguyên tắc đa phương và đa dạng hóa, nước ta tiếp tục nhìn nhận lại về
sự bình đẳng, không phân biệt đối xử với người nước ngoài, do đó phải điều
chỉnh và hoàn thiện các chính sách và pháp luật kinh tế cho phù hợp với
thông lệ quốc tế. Ngược lại, chính sự hoàn thiện này, tạo ra sự phù hợp để
thúc đẩy kinh tế tư nhân tiếp tục phát triển với lượng và chất ngày càng cao.
Theo báo cáo 30 năm xây dựng và phát triển kinh tế của UBND tỉnh, vào
năm 2005, trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, sự phát triển và kết quả to lớn do
kinh tế tư nhân trong và ngoài nước cho sự tăng trưởng kinh tế - xã hội nhờ
vào sớm tạo ra sự thích ứng quan điểm, chủ trương, giải pháp của Đảng bộ
và chính quyền cũng như sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân - trước hết là
những nhà đầu tư. Thể hiện cụ thể : (i) năm 1988, chủ trương phục hồi hoạt
động công ty SONADEZI - đã có trước giải phóng - để chuẩn bị gọi vốn đầu
24
tư trực tiếp nước ngoài dưới hình thức lập khu chế xuất (nay là khu công

nghiệp) hiện có 17/23 KCN hoạt động, 686 giấy phép FDI/ vốn đăng ký 7,65
tỷ USD, đã thực hiện 493 dự án/ 4,65 tỉ USD ; (ii) Năm 1990 đề ra 3 chương
trình kinh tế (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu) vừa
khuyến khích phát triển kinh tế hộ công nghiệp, vừa phát huy lợi thế nông
nghiệp của tỉnh Đồng Nai. (iii) Năm 1992 sau khi có Luật công ty và Nghị
định 66/HĐBT, Tỉnh ủy đó cú nghị quyết về phát triển các loại hình doanh
nghiệp và phát huy tiềm năng các thành phần kinh tế khác. (iv) Năm 1996,
hoàn thành xây dựng qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đến 2010,
đưa tỉnh trở thành trung tâm công nghiệp và kinh tế của vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam. (v) Năm 2002, ban hành chương trình phát triển kinh tế tư
nhân và chương trình hội nhập kinh tế quốc tế. (vi) Từ năm 1995 đến 2005
thực hiện phương châm “chớnh quyền đồng hành cùng doanh nghiệp”, hàng
năm tôn vinh những doanh nhân giỏi.
Sự kiện Việt Nam gia nhập WTO đặt ra nhiều yêu cầu cấp bách về sự
phù hợp giữa kiến trúc thượng tầng (vai trò nhà nước) và ý thức xã hội (lý
luận, đạo đức, tâm lý xã hội) đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân trong
nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta và trong quan hệ kinh tế quốc tế.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế tư nhân
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế .
Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong điều kiện hội nhập kinh tế
quốc tế phụ thuộc vào nhiều nhân tố. Trong đó cần chú ý một số nhân tố chủ
yếu tác động trực tiếp là :
Thứ nhất, nhân tố có tính quyết định, là đường lối tiếp tục và kiên trì
đổi mới của Đảng. Khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta trong điều kiện nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển thuận lợi hay khó
khăn ; nhanh hay chậm ; yên tâm hay thiếu yên tâm ; trình độ cao hay thấp
25

×