Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

Phát triển thương nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.01 KB, 115 trang )

LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn,
TS. Đỗ Thị Kim Hoa. Cảm ơn tập thể các thầy giáo, cô giáo khoa Lý luận
chính trị, Bộ môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, Viện
Đào tạo sau Đại học, trường Đại học kinh tế quốc dân.
Tôi xin chân thành cảm ơn Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Đà Nẵng,
Sở thương mại thành phố Đà Nẵng. Cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình
đã giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Trong quá trình thực hiện luận văn, do khả năng và thời gian có hạn sẽ
không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong được các thầy giáo, cô giáo,
các cơ quan hữu quan và các bạn đọc tham gia góp ý để lần nghiên cứu sau có
những đóng góp thiết thực hơn cho đề tài.
Tác giả
Trần Thị Thùy Trang
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa là:
1. ASEAN Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
2. BQ Bình quân
3.CNXH Chủ nghĩa xã hội
4. DNTN Doanh nghiệp tư nhân
5. GDP Tổng sản phẩm quốc nội
6. TKQĐ Thời kỳ quá độ
7. TNHH Trách nhiệm hữu hạn
8. TNTN Thương nghiệp tư nhân
9. WTO Tổ chức thương mại thế giới
2
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu:
Một trong những đặc trưng cơ bản của TKQĐ lên CNXH là sự tồn tại


nhiều thành phần kinh tế như một tất yếu khách quan bắt nguồn từ quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất. Đại hội VI của Đảng cũng đã đánh dấu bước phát triển mới
về chất trong việc nhận thức các thành phần kinh tế trong đó đã xác định:
Chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài
trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam và cho đến nay, trong các thành phần
kinh tế, sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân vẫn cần thiết và nằm
trong cơ cấu của nền kinh tế nhiều đi lên CNXH ở Việt Nam.
Từ năm 1997 thành phố Đà Nẵng được tách ra từ tỉnh Quảng Nam - Đà
Nẵng để trở thành đơn vị trực thuộc Trung Ương, kinh tế tư nhân đã có bước
phát triển tích cực, vươn lên trưởng thành và góp phần đáng kể cho phát triển
kinh tế-xã hội của thành phố như đóng góp tỷ trọng lớn trong GDP, có khả
năng khai thác và thu hút nguồn vốn trong dân, đặc biệt trong ngành thương
nghiệp, sự phát triển của ngành thương nghiệp trong thời gian qua đã đóng
góp một phần không nhỏ vào sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thành
phố Đà Nẵng. Trong thời gian tới, để thương nghiệp tư nhân tiếp tục phát
triển tương xứng với tiềm năng và thế mạnh, khả năng cạnh tranh và hội nhập
nền kinh tế của thành phố và tránh những khiếm khuyết trong hoạt động kinh
doanh của ngành thương nghiệp như kinh doanh một cách tự phát, buôn bán
hàng giả tác động tiêu cực tới môi trường văn hoá - xã hội của thành phố.
Vì vậy, việc nghiên cứu thực tế hoạt động của thương nghiệp tư nhân
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó cụ thể hoá chính sách và đưa ra
giải pháp phù hợp để thương nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
phát triển hơn trong thời gian tới. Đó cũng là lý do tôi đã chọn đề tài “Phát
1
triển thương nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ” làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Từ khi có chính sách đổi mới của Đảng cho đến nay, vấn đề làm thế
nào để phát triển thành phần kinh tế tư nhân đã được nhiều cơ quan và các cá

nhân nghiên cứu, đã trình bày tính tất yếu của sự tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần, thực trạng và vai trò của kinh tế tư nhân và một số biện pháp của
Đảng và Nhà nước đối với thành phần kinh tế này. Cụ thể như:
- GS. TS Tô Xuân Dân, T.S. Nghiêm Xuân Đạt, TS. Vũ Trọng Lâm
(2002), Phát triển và quản lý các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, Nxb Khoa
học và kỹ thuật, Hà Nội; các tác giả đã phân tích vai trò của doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, doanh nghiệp ngoài quốc doanh đầu tư hiệu quả hơn so với
doanh nghiệp quốc doanh, vì vậy theo các tác giả cần phải tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát triển hơn nữa thông qua cơ chế,
chính sách quản lý hợp lý của Nhà nước.
- PGS.TS Trịnh Thị Hoa Mai (2005), Kinh tế tư nhân Việt Nam trong
tiến trình hội nhập, Nxb Thế giới, Hà Nội; tác giả đã cho ta thấy rõ hơn vị trí
và tầm quan trọng của kinh tế tư nhân Việt Nam trong thời kỳ phát triển đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là niềm tin và kỳ vọng của tác giả
đối với tương lai của thành phần kinh tế tư nhân.
- CN. Nguyễn Thị Thanh Thuỷ (2004), Hoàn thiện môi trường đầu tư nhằm
phát triển kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Đề tài cấp thành phố; Đà
Nẵng; tác giả nghiên cứu môi trường đầu tư và vấn đề xây dựng tổ chức đảng
ở các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
Riêng ở thành phố Đà Nẵng chưa có công trình nào nghiên cứu về hoạt
động kinh doanh của thương nghiệp tư nhân. Chính vì vậy, luận văn của tôi sẽ
đi sâu nghiên cứu thực trạng và các giải pháp phù hợp để phát triển thương
nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
2
3. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thương
nghiệp tư nhân ở nước ta nói chung và trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói
riêng.
- Làm rõ thực trạng phát triển thương nghiệp tư nhân trên địa bàn thành

phố Đà Nẵng nhằm chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của nó.
- Luận giải các phương hướng phát triển, đề xuất những giải pháp phát
triển thương nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong những
năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thương nghiệp tư nhân trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu sự phát triển của thương nghiệp tư
nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 2005 – 2009.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống của kinh tế
chính trị như phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương
pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh được sử
dụng chủ yếu trong quá trình nghiên cứu.
+ Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp phân
tích và tổng hợp, phương pháp so sánh: khi phân tích thực trạng thương
nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tác giả đã xem xét số liệu của
hiện tại với số liệu của những năm trước, qua đó tác giả đã phân tích và so
sánh sự tăng hay giảm về tình hình hoạt động của thương nghiệp tư nhân của
năm sau so với năm trước.
+ Phương pháp lịch sử và lôgíc: khi nghiên cứu thực tiễn thương nghiệp
tư nhân hoạt động, tác giả đã đề xuất những phương hướng và các giải pháp
phù hợp để thực hiện những phương hướng trên.
3
6. Đóng góp mới của luận văn.
Luận văn đã phân tích được thực trạng của thương nghiệp tư nhân ở Đà
Nẵng bằng tư duy hệ thống, vì vậy những khía cạnh về thương nghiệp tư nhân
được xem xét một cách toàn diện, ở nhiều góc độ. Qua phân tích, luận văn
cũng đề xuất một số phương hướng và giải pháp thiết thực để phát triển
thương nghiệp tư nhân Đà Nẵng phát triển trong bối cảnh hội nhập kinh tế

quốc tế. Do vậy, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên các
trường đại học, các công trình nghiên cứu có liên quan đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn.
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển thương nghiệp tư
nhân
Chương 2: Thực trạng phát triển thương nghiệp tư nhân trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển thương nghiệp tư
nhân trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
THƯƠNG NGHIỆP TƯ NHÂN
1.1 THƯƠNG NGHIỆP TƯ NHÂN VÀ CÁC LOẠI HÌNH THƯƠNG NGHIỆP TƯ
NHÂN Ở NƯỚC TA
1.1.1. Khái niệm thương nghiệp tư nhân.
Có thể nói, sự hình thành và phát triển các thành phần kinh tế là đòi hỏi
tất yếu khách quan của nền kinh tế hàng hoá, nhất là kinh tế thị trường - giai
đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hoá.
Trong một nền kinh tế, trao đổi là một yếu tố, một giai đoạn quá độ của
sản xuất; nó chỉ đơn thuần là sự thực hiện sản phẩm đã được sản xuất ra với
tư cách là hàng hóa và sự thay thế các yếu tố sản xuất để tiếp tục sản xuất với
tư cách là hàng hóa. Nhưng trong quá trình đó trao đổi lại trực tiếp làm xuất
hiện một hình thái mới, đó là hoạt động thương nghiệp. Xét bề ngoài tưởng
như lưu thông tách biệt với sản xuất, nhưng thực chất lưu thông nói chung,
hoạt động thương nghiệp nói riêng là một trong các khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội, trong đó hoạt động thương nghiệp có tác dụng thúc đẩy hoặc cản
trở sản xuất. Như Ph.Ăngghen đã khẳng định hai chức năng sản xuất và trao

đổi là đường hoành và đường tung của đường cong kinh tế. Vì giữa sản xuất
và trao đổi có quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tái sản xuất xã hội. Sự
tác động qua lại giữa sản xuất và trao đổi không dừng lại ở quy mô, mà còn
tác động đến trình độ phát triển của nhau cả về mặt quan hệ sản xuất và lực
lượng sản xuất.
Ở mỗi trình độ khác nhau, hoạt động thương nghiệp tư nhân trong các
nền kinh tế cũng khác nhau. Khi nền sản xuất ở trình độ thấp, nhỏ lẻ, phân tán
thì hoạt động trao đổi còn hạn chế ở phạm vi hẹp, hoạt động thương nghiệp
cũng còn ở tình trạng manh mún với quy mô nhỏ. Khi trình độ xã hội hóa sản
5
xuất cao thì đòi hỏi hoạt động thương nghiệp cũng phải được xã hội hóa với
trình độ tương ứng. Sản xuất hàng hóa càng phát triển cao thì quá trình trao
đổi càng mở rộng và ngược lại sự mở rộng và phát triển quá trình trao đổi sẽ
là động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất.
Cũng như các nền kinh tế khác, thời kỳ đầu của nền kinh tế hàng hoá ở
nước ta sản phẩm thặng dư chưa nhiều nên hoạt động thương nghiệp chủ yếu
là do tư nhân thu gom những sản phẩm thừa của những người sản xuất nhỏ
như nông dân và thợ thủ công. Do vậy hiệu quả của hoạt động thương nghiệp
còn rất thấp. Nhưng sự tồn tại của hoạt động thương nghiệp đã làm cho sản
xuất tách biệt tương đối với trao đổi, làm cho sản xuất ngày càng có tính chất
trao đổi, nên nó có tác dụng thúc đẩy quá trình tan rã những quan hệ sản xuất
tự cung tự cấp. Khi sản xuất hàng hoá phát triển thì hình thức thương nghiệp
do tư nhân thực hiện vẫn còn tồn tại nhưng nó khác về cơ cấu, quy mô, mô
hình tổ chức và phương thức kinh doanh… và cũng có sự khác nhau giữa các
nền kinh tế nhưng vẫn có đặc điểm chung về thương nghiệp tư nhân đó là loại
hình kinh doanh trong lĩnh vực lưu thông, dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân về tư
liệu sản xuất. Điều kiện tồn tại của thương nghiệp tư nhân, theo Mác, là sự
tồn tại của lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ.
Tuy nhiên, ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế thì kinh doanh
trong lĩnh vực thương nghiệp ngày càng trở nên khó khăn, phức tạp dưới tác

động của thị trường và yêu cầu không ngừng mở rộng của thị trường. Vì vậy,
hoạt động trong lĩnh vực thương nghiệp không chỉ đơn thuần bao gồm các
hoạt động mua và bán thuần tuý mà còn được mở rộng thêm với các công
đoạn có liên quan đến quá trình thúc đẩy nhanh việc mua bán hàng hóa. Đến
nay, để thực hiện quá trình lưu thông thuận lợi, các chủ thể kinh doanh
thương nghiệp buộc phải thực hiện nhiều hoạt động trước và sau hoạt động
mua, bán như: xúc tiến thương mại (quảng cáo, đại diện thương mại, môi giới
6
thương mại, uỷ thác mua bán hàng hóa…), gia công, chế biến, đóng gói hàng
hóa, dịch vụ sau bán hàng (bảo hành, bảo dưỡng…).
1.1.2. Các loại hình thương nghiệp tư nhân ở nước ta hiện nay.
Thương nghiệp tư nhân tồn tại và hoạt động dưới nhiều hình thức. Luận
văn sẽ dựa vào những tiêu thức sau đây để phân chia thương nghiệp tư nhân
thành các loại hình khác nhau: tiêu chí hình thức tổ chức và tiêu chí theo
phạm vi và hình thức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương nghiệp.
1.1.2.1. Theo hình thức tổ chức:
Dựa theo hình thức tổ chức, thương nghiệp tư nhân được chia làm hai
loại là loại hình thương nghiệp dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ và loại hình
thương nghiệp dựa trên sở hữu tư bản tư nhân.
* Loại hình thương nghiệp dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ (các hộ cá
thể, tiểu chủ kinh doanh thương nghiệp):
Loại hình này thường được tổ chức kinh doanh theo kiểu hộ gia đình,
hay một cá nhân, hoạt động dựa trên sở hữu tư nhân nhỏ về vốn và các điều
kiện kinh doanh khác với việc sử dụng sử dụng sức lao động của chính hộ
hay cá nhân đó, còn thuê mướn lao động làm thuê chỉ có vai trò bổ sung,
mang tính thời vụ.
* Loại hình thương nghiệp dựa trên sở hữu tư bản tư nhân:
Đây là mô hình tổ chức của các hãng buôn lớn, tồn tại dưới hình thức
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dựa trên hình thức sở hữu tư bản tư nhân
về vốn, tài sản và các nguồn lực khác được thu hút vào kinh doanh, có tính

năng động và nhạy bén cao. Các doanh nghiệp này hoạt động theo Luật doanh
nghiệp của Việt Nam. Theo hình thức tổ chức doanh nghiệp hiện hành thì
hiện nay thương nghiệp tư nhân tư bản bao gồm:
- Doanh nghiệp tư nhân: Là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tự
bỏ vốn thành lập và tự tổ chức kinh doanh. Các doanh nghiệp này phải hoàn
7
toàn tự chủ về vốn, bảo toàn vốn, tổ chức kinh doanh và tự tìm kiếm thị
trường, tự chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh (cả về mặt kinh tế,
cả về mặt pháp luật). Các doanh nghiệp tư nhân lớn trong lĩnh vực thương
nghiệp ở nước ta chưa nhiều, nhưng đã có tác động tích cực đáng kể tới sự
phát triển kinh tế - xã hội. Trong thời gian qua, tốc độ phát triển của doanh
nghiệp tư nhân trong lĩnh vực thương nghiệp cao hơn trong lĩnh vực sản xuất.
Hầu hết các ngành hàng hiện nay đều có các doanh nghiệp tư nhân kinh
doanh, song ít có doanh nghiệp nào chiếm ưu thế, có thị phần lớn trên thị
trường.
- Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia nhỏ
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng
cổ phần cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3, Điều 81 và
khoản 5, Điều 84 của Luật doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát
hành cổ phiếu các loại để huy động vốn.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là doanh nghiêp trong đó thành viên
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Đây là hình
thức biểu hiện sự kết hợp về vốn giữa các thành phần kinh tế. Doanh nghiệp
loại này có đặc điểm là chế độ sở hữu vốn, tài sản không thuần nhất. Trong
xu thế chung thì doanh nghiệp loại này đang có cơ hội phát triển mạnh trên
thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, bởi vì chúng thường có quy mô,
khả năng thu hút vốn, trình độ tổ chức, quản lý, khả năng tiếp cận và mở rộng

thị trường lớn hơn so với doanh nghiệp TNTN.
- Công ty hợp danh: Là doanh nghiệp trong đó có ít nhất hai thành viên
hợp danh. Ngoài hai thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn.
Thành viên hợp danh là cá nhân phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản
8
của mình về các nghĩa vụ của công ty. Thành viên góp vốn chỉ chịu trách
nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
1.1.2.2. Theo phạm vi và hình thức hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực
thương nghiệp:
Dựa theo phạm vi và hình thức hoạt động trong lĩnh vực thương
nghiệp, có thể phân biệt hoạt động của thương nghiệp tư nhân theo hai loại là
thương nghiệp tư nhân kinh doanh nội địa và thương nghiệp tư nhân hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu.
Một là: Thương nghiệp tư nhân kinh doanh nội địa (bao gồm các hoạt
động thu mua, bán buôn, bán lẻ).
Hoạt động thu mua, đây là một đòi hỏi khách quan đối với nền sản xuất
hàng hoá nhỏ. Việc tồn tại và phát triển lực lượng tiểu thương làm đại lý, thu
gom hàng hoá là cần thiết. Đó là công việc tập trung các nguồn hàng từ các
kênh sản xuất khác nhau để thực hiện các hoạt động kinh doanh tiếp theo. Tuy
nhiên, khi đòi hỏi phải thu gom một số lượng hàng hoá lớn thì bản thân hoạt
động thu mua lại đòi hỏi tiềm lực kinh tế, năng lực kinh doanh của các chủ thể
mua phải ở mức đủ lớn mà thương nghiệp cá thể, tiểu chủ khó có thể đáp ứng.
Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu trên các hộ tư thương buộc phải liên kết, hợp tác với
nhau hoặc liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân có tiềm
lực tài chính mạnh hơn. Hoạt động thu mua phát triển sẽ có tác dụng khơi thông
nguồn hàng, thúc đẩy sản xuất phát triển và phục vụ tốt hơn cho nhu cầu tiêu
dùng.
Hoạt động bán buôn, là khâu phát luồng hàng hoá tới các kênh bán lẻ
và một phần bán trực tiếp cho các chủ thể sản xuất (các yếu tố đầu vào). Mục
tiêu hoạt động của các nhà bán buôn là tiêu thụ được khối lượng hàng hoá lớn

trong thời gian ngắn nhất. Mô hình này đòi hỏi phải có những nhà buôn lớn
đáp ứng được đầy đủ các điều kiện kinh doanh trong cơ chế thị trường như:
9
quy mô vốn đầu tư lớn, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, tiên lợi cho việc chế
biến bảo quản và vận chuyển hàng hoá, kênh phân phối rộng, kinh nghiệm
kinh doanh phong phú. Do đó, ở khâu này chủ yếu là các doanh nghiệp
thương nghiệp tư bản tư nhân tham gia hoạt động.
Hoạt động bán lẻ, là khâu cuối cùng của quá trình hoạt động kinh
doanh thương nghiệp. Hàng hoá sau khi bán đã ra khỏi lĩnh vực lưu thông và
đi vào lĩnh vực tiêu dùng, giá trị và giá trị sử dụng được thực hiện. Đây là
hoạt động kinh doanh thương mại đáp ứng nhu cầu phong phú, đa dạng, tỉ mỉ
của nhiều đối tượng khách hàng khác nhau và nó là hình thức phổ biến, len
lỏi vào mọi ngõ ngách của cuộc sống. Hoạt động ở khâu bán lẻ cần có một
mạng lưới rộng khắp với nhiều quy mô khác nhau. Trong điều kiện nền kinh
tế còn chưa phát triển cao, hoạt động này chủ yếu được thực hiện bởi thương
nghiệp cá thể, tiểu chủ. Đó là loại hình phù hợp với các đòi hỏi của nhu cầu
thị trường khi thu nhập của người tiêu dùng chưa cao, vì vậy không thể nóng
vội xoá bỏ loại hình này mà ngược lại phải khuyển khích, tạo điều kiện cho
nó kinh doanh theo đúng pháp luật. Việc thu hẹp hay khuyến khích mở rộng
hoạt động kinh doanh của thương nghiệp tư nhân phụ thuộc vào trình độ phát
triển của nền kinh tế (cụ thể là do nhu cầu thị trường quyết định), không thể
phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người. Tuy nhiên, khi nền kinh tế phát
triển, hệ thống bán lẻ không chỉ dừng ở các cơ sở buôn bán của thương
nghiệp cá thể, tiểu chủ mà được tổ chức tập trung hơn hình thành nên các
trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị.
Hai là: Thương nghiệp tư nhân hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu.
Thực tế đây là các hành vi mua, bán hàng hóa trên thị trường, nhưng
hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có tính đặc thù là các hành vi mua, bán
được thực hiện chủ yếu ở thị trường nước ngoài. Với chủ trương đa phương

10
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại thì các đối tác trong quan hệ
kinh tế cũng hết sức đa dạng với tiềm lực kinh tế mạnh, có khả năng cạnh
tranh cao, có bề dày kinh nghiệm. Trong cơ chế cũ, hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu do các doanh nghiệp thương mại Nhà nước thực hiện. Khi
chuyển sang cơ chế mới là cơ chế thị trường và trong xu hướng hội nhập kinh
tế quốc tế thì các thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh tế đối ngoại là
một xu hướng tất yếu. Để thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển thì việc huy
động các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trong sự quản
lý của Nhà nước là chủ trương hết sức đúng đắn. Tuy nhiên, thương nghiệp tư
nhân nước ta khi tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu gặp phải rất
nhiều khó khăn do tiềm lực kinh tế yếu, chưa có kinh nghiệm, khả năng nắm
bắt và xử lý thông tin thị trường nước ngoài chưa kịp thời, công tác xúc tiến
thương mại không được tổ chức thường xuyên. Đặc biệt là trình độ ngoại
ngữ, hiểu biết hệ thống pháp luật và thông lệ thương mại quốc tế của đội ngũ
doanh nhân chưa đáp ứng được yêu cầu khi tham gia kinh doanh xuất nhập
khẩu.
1.1.3 Đặc điểm hoạt động của thương nghiệp tư nhân
Một là, thương nghiệp tư nhân là hoạt động thương nghiệp đầu vào
và thương nghiệp đầu ra cho quá trình sản xuất
Hoạt động thương nghiệp tư nhân đó là hoạt động lưu thông hàng hóa
với nguồn vốn do sở hữu tư nhân. Đối với các doanh nghiệp sản xuất, khi nói
đến hoạt động thương nghiệp tư nhân chính là nó đến hoạt động liên quan đến
việc mua sắm vật tư, kỹ thuật cho sản xuất (thương nghiệp đầu vào) và quá
trình tiêu thụ sản phẩm (thương nghiệp đầu ra).
Trong nền kinh tế thị trường, thương nghiệp tư nhân được coi là một bộ
phận hữu cơ, quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh ở doanh
nghiệp. Đối với mỗi doanh nghiệp, sản phẩm được sản xuất ra là để bán cho
người tiêu dùng, do đó người tiêu dùng chiếm vị trí trung tâm và là đối tượng
11

của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. Nói cách khác, sản phẩm được sản
xuất ra phải được tiêu thụ, đó là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát
triển của doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân, sự tham gia hoạt động của
thương nghiệp tư nhân làm cầu nối quan trọng giữa nhà sản xuất với người
tiêu dùng, đưa sản phẩm đến bất cứ nơi nào mà thị trường cần. Ở các doanh
nghiệp sản xuất, hoạt động của thương nghiệp tư nhân không chỉ dừng lại ở
tiêu thụ sản phẩm mà còn là hoạt động bảo đảm các yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất. Đó chính là quá trình mua sắm vật tư cho quá trình sản xuất
của các doanh nghiệp. Vì để thực hiện quá trình sản xuất đòi hỏi phải đảm
bảo thường xuyên liên tục nguyên nhiên vật liệu và máy móc thiết bị. Chỉ có
đảm bảo đủ số lượng, đúng mặt hàng và chất lượng cần thiết với thời gian
quy định thì sản xuất mới có thể tiến hành được bình thường và sản xuất kinh
doanh mới có hiệu quả. Mua sắm vật tư cho sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đó
là hoạt động chủ yếu của thương nghiệp tư nhân.
Hai là, thương nghiệp tư nhân dễ thích ứng với những điều kiện kinh
doanh khác nhau trong nền kinh tế thị trường
Vì hoạt động thương nghiệp tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất nên quy mô hoạt động và phương thức quản lý hoạt động
kinh doanh có khác so với các thành phần kinh tế khác. Dựa vào hình thức sở
hữu tư nhân thì gồm có thương nghiệp hoạt động dưới dạng hộ kinh doanh cá
thể, tiểu chủ và các doanh nghiệp thương nghiệp tư bản tư nhân.
Đối với hộ kinh doanh cá thể, tiểu chủ hoạt động trong ngành thương
nghiệp, do cơ sở vật chất để kinh doanh thường dựa vào vốn tự có của người
chủ với việc sử dụng lao động của bản thân và gia đình là chủ yếu. Để đảm
bảo quá trình kinh doanh, hoạt động thương nghiệp cá thể, tiểu chủ trong một
số thời điểm có thể thuê mướn thêm lao động, nhưng thường với số lượng
nhỏ, không ổn định, mang tính thời vụ. Nên nó có đặc điểm là quy mô hoạt
12
động nhỏ, phạm vi kinh doanh hẹp khó mở rộng thị trường nên chỉ thích ứng
với hoạt động bán lẻ, làm đại lý cho các tổ chức thương mại khác.

Mục tiêu kinh doanh chủ yếu của thương nghiệp cá thể, tiểu chủ xuất
phát từ nhu cầu giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho các thành viên trong gia
đình, họ hàng. Thực tế cho thấy, nhiều hộ kinh doanh thương nghiệp vẫn hoạt
động kể cả trong những trường hợp sau khi hạch toán kinh doanh không có
lãi hoặc lãi ít để đảm bảo việc làm cho các thành viên trong gia đình. Trong
một số trường hợp, kinh doanh thương nghiệp gắn với sản xuất hàng hoá nhỏ,
tức là các hộ vừa sản xuất, vừa tiêu thụ sản phẩm của mình.
Với quy mô nhỏ, bộ máy tổ chức quản lý gọn nhẹ, thương nghiệp cá
thể, tiểu chủ thường có tính năng động vì dễ thích ứng với những điều kiện
môi trường và địa bàn kinh doanh khác nhau. Đặc điểm này rất phù hợp với
hoàn cảnh nước ta đang trong quá trình chuyển sang phát triển kinh tế thị
trường, nhưng đó cũng chính là các nhân tố gây ra tình trạng kinh doanh tự
phát, vô chính phủ trên thị trường của loại hình thương nghiệp cá thể, tiểu
chủ, nhất là trong điều kiện quản lý nhà nước còn yếu kém. Đồng thời những
hạn chế về quy mô, vốn, chất lượng nguồn nhân lực, phương thức tổ chức
kinh doanh, trình độ công nghệ, khả năng tiếp cận thị trường sẽ gây cản trở
cho sự phát triển của thương nghiệp cá thể, tiểu chủ, đặc biệt trong tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, sự phát triển của loại hình kinh tế này rất cần
tới sự giúp đỡ và tạo điều kiện của Nhà nước. Trong quá trình phát triển của
mình, thương nghiệp cá thể, tiểu chủ có thể tự khắc phục dần những hạn chế
trên bằng cách tự nguyện hợp tác, liên kết với nhau và với các loại hình kinh
tế khác dưới những hình thức thích hợp. Vì vậy, hợp tác, liên kết là một trong
những xu hướng vận động của thương nghiệp cá thể, tiểu chủ. Cũng trong quá
trình đó, một số cơ sở kinh doanh của thương mại cá thể, tiểu chủ dưới tác
động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh có thể trở thành tổ chức kinh
doanh với quy mô lớn hoạt động theo phương thức các doanh nghiệp tư bản
13
tư nhân. Đó là quá trình chuyển hoá thương nghiệp cá thể, tiểu chủ thành
thương nghiệp tư bản tư nhân.
Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp tư bản tư nhân sức sống tự

nhiên của các loại hình doanh nghiệp này là thể hiện khả năng thích ứng cao
trong mọi điều kiện, linh hoạt, dễ hình thành, đáp ứng nhu cầu của thực tế đặt
ra. Khi bắt đầu hoạt động kinh doanh, các chủ thể có khả năng lựa chọn quy
mô kinh doanh phù hợp với năng lực của mình và tổ chức kinh doanh tối ưu.
Giúp doanh nghiệp có khả năng đi đến một cơ chế trả công hợp lý, căn cứ vào
mức đóng góp của mỗi người. Ngược lại, chủ doanh nghiệp có toàn quyền sa
thải những lao động không cần thiết trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp.
Các hình thức tồn tại của các doanh nghiệp tư bản tư nhân là doanh
nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp
danh, với quy mô vốn và số lượng lao động nhỏ, thích hợp với khả năng tài
chính, năng lực quản lý của các doanh nghiệp tư nhân. Đặc điểm này luôn tạo
ra những ưu thế lớn cho doanh nghiệp của tư nhân có thể len lỏi vào những
nơi xã hội cần, đáp ứng một cách linh hoạt những nhu cầu đa dạng, phong
phú, muôn mầu muôn vẻ của người tiêu dùng.
Các doanh nghiệp thương nghiệp tư bản tư nhân chủ yếu bỏ vốn đầu tư
vào các ngành dễ sinh lợi, như ngành thương mại, dịch vụ, công nghiệp chế
biến, đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản, xây dựng, vận tải, bưu chính viễn thông,
khách sạn nhà hàng, kinh doanh bất động sản, và dịch vụ tư vấn, tài chính tín
dụng…Ngoài ra, các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân thường tập trung
kinh doanh trên địa bàn các trung tâm kinh tế lớn, nơi tập trung các khu công
nghiệp, đầu mối giao thông và khu đông dân để hoạt động kinh doanh đạt
hiệu quả nhất nên có tác động tích cực chủ yếu tới sự phát triển của các vùng
kinh tế trọng điểm. Đồng thời sự phát triển lớn mạnh của thương nghiệp tư
14
nhân cũng có thể thành lập những tập đoàn kinh tế lớn hoạt động xuyên quốc
gia.
Tuy nhiên vì mục tiêu hoạt động của các doanh nghiệp thương nghiệp
tư bản tư nhân bao giờ cũng vì lợi ích của chính họ, dẫn đến những việc làm
phi pháp như trốn lậu thuế, buôn bán hàng giả, hàng cấm; không thích công

khai thông tin các hoạt động của mình, sự phá sản của một số doanh nghiệp
của tư nhân, sẽ kéo theo sự không ổn định trong thu nhập cũng như việc làm
cho một bộ phận người lao động…
Như vậy, khác với thương nghiệp Nhà nước, thương nghiệp tư nhân, vì
sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên tự quyết định và tự chịu trách nhiệm
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình nên thương nghiệp tư nhân
hoạt động linh hoạt với sự biến động của nền kinh tế thị trường hơn so với
thương nghiệp nhà nước. Mặc khác, trong cơ chế thị trường, rất nhiều thị
trường ngách nên thương nghiệp nhà nước khó đảm bảo hiệu quả. Trong hoạt
động kinh doanh, mặc dù thương nghiệp tư nhân vẫn tồn tại những mặc tiêu
cực khó tránh khỏi nhưng thương nghiệp tư nhân hoạt động linh hoạt và hiệu
quả so với hoạt động thương nghiệp của các thành phần kinh tế khác nhất là
khi có sự biến động của nền kinh tế trong nước và toàn cầu.
Thứ ba, xu hướng về lĩnh vực tham gia của thương nghiệp tư
nhân
Trước đổi mới, mạng lưới hoạt động của thương nghiệp quốc doanh bao
gồm hoạt động thu mua, hoạt động bán buôn, hoạt động bán lẻ và được mở rộng
khắp nơi, ở thành phố và ở nông thông, ở miền xuôi, miền biển và miền núi,
ngoài ra thương nghiệp quốc doanh nắm trọn quyền kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hóa đã giúp cho thương nghiệp quốc doanh nắm được nguyên liệu và
nguồn hàng công nghiệp, nó chi phối toàn bộ nền kinh tế của đất nước, trong khi
đó hoạt động của thương nghiệp tư nhân có xu hướng là xóa bỏ và bị phủ nhận.
15
Tuy nhiên, sau đổi mới, Nhà nước đã ban hành một số quyết định theo
hướng khuyến khích mở rộng lưu thông hàng hóa, mở rộng quyền tổ chức và
công dân Việt Nam được đăng ký kinh doanh trong ngành thương nghiệp. Trong
hoạt động xuất nhập khẩu, nhà nước đã mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập
khẩu cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế tham gia để thúc đẩy
kinh tế trong nước phát triển. Với sự hoạt động linh hoạt, và dễ thích ứng với sự
thay đổi của môi trường cạnh tranh, vì vậy ngày nay trong tất cả các hoạt động

bán lẻ, bán buôn và cả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thương nghiệp tư
nhân đều tham gia và có xu hướng chiếm tỷ trọng cao hơn so với các doanh
nghiệp thương nghiệp nhà nước trong tất cả các hoạt động trên.
Nhìn chung, sau đổi mới Nhà nước đã xóa bỏ được cơ chế kế hoạch hóa
tập trung bao cấp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, xây dựng một
hành lang pháp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu vận hành
theo cơ chế thị trường. Nhờ vậy, với sự tham gia hoạt động xuất nhập khẩu của
tất cả các thành phần kinh tế đã mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách nhà
nước, đặc biệt có sự đóng góp to lớn của thương nghiệp tư nhân, vì vậy từ chỗ
ngân sách nhà nước hàng năm phải chi một khoản tiền lớn để bù lỗ cho hoạt
động xuất, nhập khẩu vào những 80, đến những năm gần đây nhờ hoạt động của
thương nghiệp tư nhân ngân sách nhà nước đã có nguồn thu đáng kể từ hoạt
động xuất, nhập khẩu. Bên cạnh đó, quy mô kim ngạch xuất nhập khẩu cũng gia
tăng nhanh chóng, thương nghiệp tư nhân đã giúp kim ngạch xuất khẩu của
nước ta đạt ở mức ngày càng cao, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu
vực và trên thế giới. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng được chuyển dịch theo hướng
tích cực.
1.2. TIÊU CHÍ, VAI TRÒ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN THƯƠNG NGHIỆP TƯ NHÂN TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
1.2.1 Tiêu chí đánh giá sự phát triển của thương nghiệp tư nhân
16
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là cái đích cuối cùng mà các
doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân đều mong muốn nhận được trong hoạt
động kinh doanh của mình. Tuy nhiên lợi nhuận nhiều hay ít cũng chưa phải
là tiêu chí để phản ánh được sự phát triển của các doanh nghiệp thương
nghiệp tư nhân, mà người ta dựa vào sự tiết kiệm lao động xã hội trong lĩnh
vực trao đổi và lưu thông hàng hóa, hay nói cách khác là tăng năng suất lao
động xã hội trong quá trình trao đổi và lưu thông hàng hóa. Tăng năng suất
lao động xã hội không chỉ là tiết kiệm chi phí xã hội cần thiết về lao động

sống và lao động vật hóa trong việc tạo ra một sản phẩm như trong lĩnh vực
sản xuất mà còn bao hàm cả việc phát triển sản xuất, phát triển lưu thông.
Hay nói cách khác, để đánh giá quá trình hoạt động của thương nghiệp tư
nhân có phát triển hay không, người ta thường dựa trên các tiêu chí về số
lượng các doanh nghiệp, quy mô hoạt động của doanh nghiệp cả về vốn và số
lao động, thị phần tiêu thụ, loại hình kinh doanh…
● Số lượng các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân:
Số lượng các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân là một trong những
tiêu chí để đánh giá hoạt động thương nghiệp tư nhân ở trong nước có phát
triển hay không. Theo tác động của quy luật giá trị, trong hoạt động kinh
doanh, nếu một ngành nào đó đầu tư kinh doanh mà mang lại lãi cao, thì các
doanh nghiệp sẽ đổ xô đầu tư vào ngành đó. Do đó, nếu tình hình kinh doanh
của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân ngày càng hiệu quả thì số lượng
các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng nhiều, còn không thì ngược lại. Dựa
vào số liệu các doanh nghiệp đăng ký kinh doanh hàng năm trên phạm vi cả
nước mà ta có thể xác định được sự phát triển của thương nghiệp tư nhân.
● Quy mô hoạt động của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân:
Quy mô hoạt động của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân cũng
là tiêu chí để xác định sự phát triển của thương nghiệp tư nhân, trong đó quy
mô hoạt động của doanh nghiệp đó là nguồn vốn đầu tư và nguồn lao động
17
+ Nguồn vốn:
Ở nước ta các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân hoạt động trước
đây chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, số lượng các doanh nghiệp có
quy mô lớn chiếm tỷ trọng thấp nên số lượng vốn ban đầu của các doanh
nghiệp là thấp, do ban đầu các doanh nghiệp trên chỉ kinh doanh một cách tự
phát, hoặc sao chép lại phương thức kinh doanh của các doanh nghiệp khác
mà không có dự án kinh doanh dài hạn và thích hợp. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động kinh doanh, nhiều doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân hoạt
động kinh doanh hiệu quả, làm cho nguồn vốn lớn hơn gấp nhiều lần so với

nguồn vốn của ban đầu, chủ doanh nghiệp không những chỉ bán hàng hóa
trong phạm vi nhỏ lẻ, chỉ gói gọn trên địa bàn của mình thì nay còn mở rộng
thêm các cửa hàng ở các tỉnh, thành khác. Dựa vào vốn đầu tư và phạm vi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp người ta làm cơ sở để xác định hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp thương nghiệp có phát triển hay
không.
+ Về lao động
Đối với các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân, do đặc thù của ngành
nên quy cách sử dụng lao động cũng có những đặc điểm riêng khác với các
ngành khác và với các thành phần kinh tế khác. Khi tuyển dụng, các doanh
nghiệp thương nghiệp tư nhân thường không đòi hỏi trình độ của người lao
động cao. Do đó, thực tiễn cho thấy thương nghiệp tư nhân là nơi có nhiều
thuận lợi nhất để tiếp nhận số lao động tăng thêm mỗi năm nếu các doanh
nghiệp đó làm ăn hiệu quả, còn không thì nhu cầu tuyển dụng lao động của
các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân có xu hướng giảm xuống. Vì vậy,
dựa vào số lao động làm việc trong các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân
mỗi năm sẽ cho thấy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp thương nghiệp tư nhân.
● Thị phần của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân:
18
Theo báo cáo của Bộ Thương mại, trong năm 2009 tổng mức bán lẻ
hàng hóa trên phạm vi cả nước của thương nghiệp tư nhân chiếm 85% so với
tổng mức hàng hóa bán ra trên thị trường, tăng 20% so với năm 2005. Về thị
phần bán buôn của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân hiện nay chiếm
44% so với tổng mức hàng hóa bán buôn trên thị trường nước ta, và tỷ trọng
này có xu hướng ngày càng chiếm tỷ trọng cao hơn so với các doanh nghiệp
thương nghiệp nhà nước, thương nghiệp tư nhân là thành phần kinh tế có tốc
độ tăng trưởng lớn nhất trong tổng mức bán hàng hóa trong nền kinh tế nước
ta cả trong bán buôn lẫn bán lẻ, một phần nhờ vào quy mô hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp có xu hướng ngày càng lớn, một phần dựa vào khả

năng kinh doanh của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân. Trên thực tế,
dựa vào thị phần chiếm lĩnh trên thị trường của các doanh nghiệp thương
nghiệp tư nhân làm cơ sở để phản ánh được xu hướng phát triển của chúng, vì
qua thị phần tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân
cũng cho thấy được mức độ ảnh hưởng trong hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân đối với nền kinh tế của đất nước.
● Loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp thương nghiệp tư
nhân:
Dựa vào loại hình kinh doanh của các doanh nghiệp thương nghiệp tư
nhân cũng là tiêu chí để xác định sự phát triển của thương nghiệp tư nhân.
Nếu như trước đây thương nghiệp tư nhân chỉ tham gia hoạt động bán lẻ,
phạm vi kinh doanh nhỏ, tình trạng mua bán lấn chiếm vỉa hè là chủ yếu gây
mất trật tự, mỹ quan đô thị. Tuy nhiên, sự phong phú về hàng hóa, mức sống
được nâng cao, sự gia tăng của khách nước ngoài vào làm việc và du lịch,
cạnh tranh ngày càng gay gắt trong lĩnh vực thương nghiệp giữa các thành
phần kinh tế đã góp phần to lớn vào hình thức bán của các doanh nghiệp
thương nghiệp tư nhân, từ hình thức bán lẻ là chủ yếu sang hình thức bán
buôn và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng hình thức bán buôn trên
19
phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, trên thị trường nước ta đã xuất hiện nhiều
doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân kinh doanh mang dáng dáp của các tập
đoàn kinh tế lớn như SATRA, Công ty Phú Thái, Công ty cổ phần và thương
mại G7…với phương thức kinh doanh mới theo hướng hiện đại, văn minh
làm cho hoạt động kinh doanh thương nghiệp trên địa bàn cả nước có xu
hướng này càng phát triển.
Bên cạnh đó, đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, trước đây
hoạt động này chỉ do thương nghiệp nhà nước đảm nhận và chi phối toàn bộ
toàn nền kinh tế, nhưng ngày nay thương nghiệp tư nhân còn kinh doanh
không chỉ ở thị trường nội địa mà còn tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu
và ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

của cả nước, và tạo ra nguồn hàng ổn định đáp ứng yêu cầu tiêu dùng trong
và ngoài nước. Có thể nói phạm vi hoạt động của các doanh nghiệp thương
nghiệp tư nhân ngày càng lớn thì các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân
hoạt động có xu hướng ngày càng phát triển.
● Tỷ trọng đóng góp của thương nghiệp tư nhân trong nền kinh tế:
Dựa vào tỷ trọng đóng góp của thương nghiệp tư nhân trong tổng GDP
cũng là tiêu chí để xác định thương nghiệp tư nhân hoạt động có hiệu quả hay
không, nếu tỷ trọng đóng góp trên của thương nghiệp tư nhân vào thu nhập
quốc dân trong nền kinh tế ngày càng lớn, thì các doanh nghiệp thương
nghiệp tư nhân hoạt động có xu hướng ngày càng phát triển, ngược lại, nếu tỷ
trọng đóng góp trên có xu hướng ngày càng giảm thì các doanh nghiệp
thương nghiệp tư nhân có xu hướng thu hẹp quy mô hoạt động kinh doanh
của mình.
Nhìn chung, nếu xét trên phạm vi toàn nền kinh tế, để xem hoạt động
kinh doanh của thương nghiệp tư nhân có xu hướng ngày càng phát triển hay
không người ta dựa vào những tiêu chí trên. Tuy nhiên, người ta còn có thể sử
dụng tiêu chí thể hiện mối quan hệ tương quan giữa thu nhập quốc dân được
20
sử dụng khi có sự tác động của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nghiệp với
thu nhập quốc dân được sản xuất ra để xem xét hiệu quả hoạt động tổng hợp
của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân và được biểu hiện dưới công
thức:
R
sd
E =
R
sx
Trong đó:
E: Hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân
R

sd:
: Thu nhập quốc dân được sử dụng
R
sx
: Thu nhập quốc dân được sản xuất
Tiêu chí này cho biết thu nhập quốc dân của một nước tăng giảm như
thế nào khi có sự tác động của hoạt động của thương nghiệp tư nhân. Nếu
tương quan trên lớn hơn 1 thì thương nghiệp tư nhân đã làm tăng thu nhập
quốc dân, và cho thấy nó có xu hướng ngày càng phát triển, còn tương quan
nhỏ hơn 1 thì đã làm giảm thu nhập quốc dân, và hoạt động kinh doanh của
các thương nghiệp tư nhân không hiệu quả, không phát triển.
Ngoài ra, để xem xét xu hướng phát triển trong hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân, người ta dựa vào tiêu chí tính
mức doanh lợi trên doanh số bán ra của doanh nghiệp, tiêu chí này được xác
định dựa trên công thức:
P
P’ = x 100%
DS
Trong đó:
P’: Mức doanh lợi của doanh số bán trong kỳ của doanh nghiệp thương
nghiệp tư nhân (%)
21
P: Lợi nhuận thực hiện trong kỳ của doanh nghiệp thương nghiệp tư
nhân.
DS: Doanh số bán thực hiện trong kỳ của doanh nghiệp thương nghiệp
tư nhân
Tiêu chí này cho biết một đồng doanh số bán thực hiện trong kỳ của
các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận
cho doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân trong kỳ. Do đó nó có ý nghĩa quan
trong trong việc chỉ ra cho các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân thấy kinh

doanh những mặt hàng nào, thị trường nào mang lại lợi nhuận cao cho doanh
nghiệp. Nếu trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp thương nghiệp tư
nhân có P’ càng lớn thì cho thấy sự phát triển trong hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân ngày càng hiệu quả, nếu P’
càng nhỏ thì các doanh nghiệp thương nghiệp tư nhân cần có hướng kinh
doanh khác phù hợp hơn.
1.2.2 Vai trò của thương nghiệp tư nhân
Trước đây, hoạt động thương nghiệp ở nước ta chủ yếu do thương
nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán nắm giữ tỷ trọng lớn trên thị
trường. Bộ phận thương nghiệp tư nhân chủ yếu hoạt động ở thị trường
“ngầm”.
Thời kỳ trước đổi mới, ở nước ta có gần 5.000 doanh nghiệp thương
nghiệp quốc doanh, được phân bố khắp các địa bàn và kinh doanh mọi ngành
hàng; lực lượng lao động rất lớn, khoảng 442,2 nghìn người. Cơ sở vật chất
kỹ thuật cũng như vốn của những doanh nghiệp này hoàn toàn được Nhà
nước bao cấp. Tuy nhiên, cơ chế tập trung bao cấp đó đã làm cho các doanh
nghiệp thương nghiệp quốc doanh rơi vào tình trạng ỉ lại, làm ăn thua lỗ, kém
hiệu quả. Trước thời kỳ đổi mới doanh nghiệp thương nghiệp quốc doanh
chiếm ưu thế và giữ vai trò chi phối (nắm trọn bán buôn, chi phối 80% tổng
22

×