Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa của việt nam trên thị trường hoa kỳ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.07 KB, 44 trang )

Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài : “ Vụ kiện chống bán phá giá cá tra, cá basa
của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ: Diễn biến và bài học kinh nghiệm” là
công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu, kết quả trình bày trong đề án
là trung thực và không sao chép trong bất kỳ đề án nào trước đây.
SV: Lê Thị Thùy Linh 1 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I VỤ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA VÀ CÁ BASA GIỮA 3
VIỆT NAM VÀ HOA KỲ 3
I. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa
Việt Nam và Hoa Kỳ 3
1. Nguyên nhân 3
2. Danh sách các bên trong vụ kiện 5
2.1. Bên Nguyên đơn 5
2.2. Bên bị đơn 5
II. Diễn biến vụ kiện 6
1.Diễn biến 6
I. Những bài học rút ra từ vụ kiện chống bán phá giá cá tra và cá basa
vào thị trường Hoa Kỳ 34
1. Bài học đối với Chính phủ Việt Nam 34
1.Giáo trình kinh tế thương mại, GS.TS Đặng Đình Đào và GS.TS Hoàng
Đức Thân 42
SV: Lê Thị Thùy Linh 2 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
Hoa Kỳ là một thị trường rộng lớn, có tiềm năng khoa học kỹ thuật và
công nghệ vào loại bậc nhất trên thế giới, hơn nữa, đồng thời cũng là đối tác
quan trọng có khả năng giúp Việt Nam đạt được mục tiêu hội nhập kinh tế thế


giới của mình. Đặc biệt là sau khi Hiệp định thương mại song phương được
ký kết đã mở ra một viễn cảnh tươi sáng cho nền thương mại của hai nước.
Trong nhiều năm gần đây, cá basa và cá tra Việt Nam được nhập khẩu
vào thị trường Hoa Kỳ dưới dạng philê đông lạnh đã góp phần đáp ứng nhu
cầu tiêu thụ cá của người dân Hoa Kỳ đồng thời thúc đẩy được nghề nuôi loại
cá này ở Việt Nam, tạo công ăn việc làm cho hàng vạn ngư dân và nhà máy
chế biến thuỷ sản. Phát triển buôn bán cá basa, cá tra giữa Việt Nam và Hoa
Kỳ là nhằm mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia.
Nhưng thật đáng tiếc, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ đã
sớm lo lắng cho sự xâm nhập của cá basa và cá tra vào thị trường của họ đến
mức đâm đơn kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá các sản phẩm này
vào thị trường Hoa Kỳ.
Như chúng ta đã biết, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đang
dần xoá bỏ những rào cản thuế quan giữa các thị trường nhưng lại tạo điều
kiện thuận lợi cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch phát triển đặc biệt là ở các nước
giầu mạnh. Thương trường Hoa Kỳ mở ra những cơ hội đầy triển vọng nhưng
nó lại được điều chỉnh bằng một hệ thống luật pháp và các rào cản thương
mại cực kỳ chặt chẽ. Luật thuế Chống bán phá giá hiện nay đang là một công
cụ hữu hiệu được sử dụng phổ biến trên thị trường này nhằm bảo hộ nền công
nghiệp trong nước trước cơn lũ hàng nhập khẩu từ các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam.
SV: Lê Thị Thùy Linh 1 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ đã
cho thấy những rào cản đầu tiên mà các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp phải
khi tiếp cận thị trường Hoa Kỳ. Nhưng không vì thế mà các doanh nghiệp
Việt Nam tỏ ra bi quan và e ngại. Chúng ta đã tích cực hầu kiện và đã rút ra
được những bài học kinh nghiệm quý báu.
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề, em xin chọn đề tài “Vụ kiện
chống bán phá giá cá Tra và cá Basa của Việt Nam trên thị trường Hoa

Kỳ: Diễn biến và bài học kinh nghiệm” với mong muốn tìm hiểu một cách
sâu sắc hơn diễn biến vụ kiện cũng như đề xuất những giải pháp nhằm góp
phần hạn chế ảnh hưởng của Luật thuế Chống bán phá giá của Hoa Kỳ đối với
hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường này trong thời gian
tới. Đề tài này được viết dựa trên các phương pháp thu thập, tổng hợp, phân
tích tài liệu có liên quan và được chia làm 2 chương :
Chương I : Vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ;
Chương II: Những bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ kiện chống bán
phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Hoa Kỳ.
Em xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Thanh Phong đã trực tiếp giúp
em hoàn thành đề tài này
SV: Lê Thị Thùy Linh 2 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
CHƯƠNG I
VỤ KIỆN BÁN PHÁ GIÁ CÁ TRA VÀ CÁ BASA GIỮA
VIỆT NAM VÀ HOA KỲ
I. Nguyên nhân dẫn đến vụ kiện bán phá giá cá Tra và cá Basa giữa Việt
Nam và Hoa Kỳ
1. Nguyên nhân
Việt Nam bắt đầu xuất khẩu cá tra và cá basa sang Mỹ từ năm 1996.
Năm 1998, sản phẩm cá da trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam xuất khẩu
sang đây mới chỉ đạt 260 tấn, thì đến năm 2000, lượng hàng này tăng vọt lên
hơn 3.000 tấn và đến năm 2001 thì đã đạt con số kỷ lục: xấp xỉ 8.000 tấn. Sản
phẩm cá tra, cá basa philê do Việt Nam sản xuất được người tiêu dùng Hoa
Kỳ đặc biệt ưa chuộng do chất lượng ngon, giá thành hạ. Trước tình hình sản
phẩm hải sản của Việt Nam bước đầu đặt chân được vào thị trường Hoa Kỳ,
Hiệp hội chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA) đã thể hiện phản ứng bằng việc
đưa ra chủ trương chống các sản phẩm cá tra, cá basa của Việt Nam. Cũng
chính vào thời điểm này, một "trận tuyến" mới đầy gay go, phức tạp đã bắt

đầu. Trước tiên, Hoa Kỳ đã phê chuẩn một đạo luật cấm Việt Nam sử dụng
tên “catfish” cho các sản phẩm cá xuất khẩu của mình.
Để hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta cùng tìm hiểu tên gọi Catfish.
Catfish là tên tiếng Anh chỉ tất cả các loài cá da trơn (không có vảy), gồm cá
trê, cá nheo, cá tra, basa, cá bông lau, cá lăng…theo hệ thống phân loại ngư
loại học. Tất cả các loài cá nói trên đều thuộc bộ cá nheo (Siluriformes), gồm
khoảng 2.500-3.000 loài cá khác nhau, phân bổ trong các thuỷ vực nước ngọt,
mặn, lợ trên khắp thế giới. Các loài cá này được xếp vào các họ cá khác nhau,
trong đó có họ cá nheo Hoa Kỳ (Ictaluridae) và họ cá da trơn châu á
SV: Lê Thị Thùy Linh 3 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
(Pangasiidae). Cá tra, cá basa của Việt Nam là các loài cá đặc hữu của vùng
châu thổ sông Mêkông thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Slurifornes.
Về mặt khoa học và tập quán thương mại, không thể lấy tên một nhóm sản
phẩm lớn của thuỷ sản thế giới để dành riêng cho một loài nào trong số đó.
Trên tất cả các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam đều ghi
rõ dòng chữ tiếng Anh "sản phẩm của Việt Nam" hoặc "sản xuất tại Việt
Nam", và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại theo
đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của mỹ là Cục
quản lý thực phẩm và dược phẩm (FDA) đối với sản phẩm xuất khẩu vào thị
trường Hoa Kỳ. Vậy CFA đã dùng những lý do gì để chống lại việc nhập
khẩu cá tra, cá basa của Việt Nam vào Hoa Kỳ?
Luận điểm chính của CFA để chống việc nhập khẩu cá tra và basa Việt
Nam vào Hoa Kỳ đó là:
♦ Sự xuất hiện của sản phẩm cá da trơn giá rẻ từ Việt Nam đã khiến
tổng trị giá catfish bán ra của các nhà nông nghiệp Hoa Kỳ giảm mạnh từ 446
triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Sản phẩm của Việt
Nam thường có giá rẻ hơn từ 0,008 đến 1 USD/pound (1 pound tương đương
khoảng 0,454kg).
♦ CFA cho rằng cá da trơn Việt Nam đã nhập khẩu ồ ạt vào Hoa Kỳ,

làm cho giá cá của Hoa Kỳ cũng giảm theo.
♦ Thêm nữa, họ nói rằng cá Việt Nam nuôi trong môi trường nước bị ô
nhiễm, không đảm bảo chất lượng và an toàn thực phẩm cho người tiêu dùng.
Phía CFA yêu cầu sản phẩm cá da trơn không được gọi là catfish, vì như vậy
là vô hình chung ăn theo uy tín của cá nheo Hoa Kỳ, cái uy tín mà họ mất
nhiều năm trời và đổ bao tiền của mới tạo dựng được.
SV: Lê Thị Thùy Linh 4 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
2. Danh sách các bên trong vụ kiện
2.1. Bên Nguyên đơn
Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ (CFA)
Đại diện cho bên nguyên đơn: Liên doanh Luật Akin Gump Strauss
Hauer & Field LLP, với nhóm luật sư: Valerie A. Slater; J. David Park và
Thea D. Rozman- Louis Thompson, Chủ tịch Hiệp hội các chủ trại nuôi cá
nheo Hoa Kỳ – CFA; Hugh Warren, Phó Chủ tịch CFA.
* 8 nhà sản xuất cá catfish:
- Ông Randy Rhodes, Công ty Southern Pride Catfish;
- Kim Cox và Bill Dauler, Công ty Consolidated Catfish;
- Randy Evans, Trại cá nheo Evans Fish;
- Seymour Johnson, Công ty Marie Planting;
- Charles Pilkinton, Trại cá nheo Pilkinton Brothers Catfish.
* 4 công ty chế biến catfish:
- David Pearce, đại diện Hãng Pearce Catfish Farm;
- Danny Walker, đại diện Công ty Heartland Catfish;
- Thomas L. Rogers, đại diện Hãng Capital Trade;
- Daniel W. Klett, đại diện Hãng Capital Trade.
2.2. Bên bị đơn
DN thành viên Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP)
Đại diện là: PGS. TS Nguyễn Hữu Dũng, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế
biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam – VASEP;

- Ông Ngô Phước Hậu, Tổng giám đốc Công ty XNK Thuỷ sản An
Giang (Agifish);
SV: Lê Thị Thùy Linh 5 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
- Ông Nguyễn Hữu Chí, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế Bộ Thương mại
Việt Nam;
- Christine Ngo, Giám đốc Công ty Thực phẩm quốc tế H&N;
- Matthew Fass, Chủ tịch Tập đoàn Maritime Products International;
- Robin Rackowe, Chủ tịch tập đoàn International Marine Fisheries;
- TS. Carl Ferraris, Học viện Khoa học California;
- Roger Kratz, Công ty Captain's Table;
- Diệp Hoài Nam, Luật sư của White & Case Vietnam;
- Đại diện Đại sứ quán Việt Nam tại Mỹ là ông Nguyễn Hữu Chí, cùng
nhóm luật sư William J. Clinton, K. Minh Dang, Lyle Vander Schaaf và Keir
A. Whitson.
2.3. Danh sách nhân viên chịu trách nhiệm thi hành nhiệm vụ
1/ Điều tra viên: Larry Reavis
2/ Chuyên gia phân tích về hàng hóa: Roger Corey
3/ Chuyên gia kinh tế: John Giamalva
4/ Kế toán/kiểm toán viên: Jim Stewart
5/ Luật sư: Mary Jane Alves
6/ Cán bộ giám sát: George Deyman
II. Diễn biến vụ kiện
1. Diễn biến
Ban đầu, vào cuối năm 2000, CFA tung lên báo chí Hoa Kỳ những
thông tin thất thiệt, bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa Việt Nam.Trong khi
tháng 11-2000, một đoàn gần 20 người, bao gồm cả các giáo sư của Trương
đại học lớn, các công ty nuôi và chế biến cá nheo Hoa Kỳ, do ông GuloCotis,
SV: Lê Thị Thùy Linh 6 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế

Chủ tịch Hiệp hội nuôi cá nheo của bang Alabama dẫn đầu, đã sang Việt Nam
tìm hiểu tình hình nuôi cá tra, cá ba sa của Việt Nam. Đoàn đã khảo sát kỹ
tình hình thực tế nuôi và chế biến cá tra và ba sa tại các bè cá, ao nuôi, nhà
máy chế biến tại An Giang và Cần Thơ. Đoàn đã đánh giá rất tốt về công
nghệ nuôi, chế biến, điều kiện bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm của cá Việt
Nam.
Đầu tháng 2-2001, vào thời vụ ở Hoa Kỳ khan hiếm cá nheo, cá Việt
Nam nhập khẩu tăng, bắt đầu một chiến dịch quảng cáo kéo dài 9 tháng, tiêu
tốn 5,2 triệu USD do Viện Cá nheo Hoa Kỳ (TCI) phát động và được CFA tài
trợ để chống lại việc nhập khẩu cá tra và ba sa của Việt Nam. Những áp-phích
in trên các tạp chí thương mại và quảng cáo thực phẩm với những dòng tít
như: "Đừng bao giờ tin vào sản phẩm catfish ngoại quốc". Trong nước, họ
phát động chiến dịch "Người Mỹ ăn cá nheo Mỹ" và sáng tác ra nhãn hiệu
"Cá catfish nuôi của Mỹ", tạo ra không khí bài xích đối với các sản phẩm thủy
sản Việt Nam.
Ngày 28-6, Chủ tịch Hiệp hội CFA gửi thư cho Tổng thống Mỹ G.Bush
đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ đàm phán với Việt Nam một hiệp định riêng về cá
catfish. Trong những tháng tiếp theo đó, Hiệp hội CFA đã thuê công ty luật
Nathan Assôciates tiến hành thu nhập thông tin và mở chiến dịch tuyên truyền
hạ thấp uy tín của cá Việt Nam, nhấn mạnh do cá Việt Nam nhập khẩu mà giá
cá nheo ở Hoa Kỳ bị giảm tới 10%.
Một trong những nội dung nguy hiểm được CFA hoạch định trong
chiến dịch của họ là tiến hành vận động, gây áp lực, lôi kéo nghị sĩ của các
bang có nghề nuôi cá nheo, huy động mọi lực lượng ở các cơ quan lập pháp
và hành pháp, tìm kiếm mọi sự hỗ trợ có thể bám víu để tiến công trả đũa các
sản phẩm cá da trơn Việt Nam nhập khẩu.
SV: Lê Thị Thùy Linh 7 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Dưới sức ép của CFA, ngày 9-2, 8 thượng nghị sĩ và 4 hạ nghị sĩ, đại
biểu cho các bang nuôi nhiều cá nheo, đã cùng ký tên dưới lá thư gửicho ông

Rô-bớt Dô-ê-lích, đại diện thương mại Hoa Kỳ, kêu ca về việc cá tra, cá ba sa
nhập khẩu từ Việt Nam gây thiệt hại cho nghề nuôi cá nheo Hoa Kỳ và yêu
cầu Chính phủ Hoa Kỳ phải có biện pháp xử lý.
Ngày 11-7, các thượng nghị sĩ bang Mississippi và Arkansaa đã tập hợp
lực lượng, kêu gọi Quốc hội thông qua dự luật H.R.2439, dưới tên gọi "ghi
nhãn về nguồn gốc xuất xứ" đối với cá nuôi nhập khẩu trong khâu bán lẻ, với
những lập luận công khai bôi nhọ sản phẩm của Việt Nam. Tuy nhiên, dự luật
này không được đưa ra thông qua, do Thượng viện Hoa Kỳ đã bác bỏ một dự
luật có nội dung tương tự đối với sản phẩm nông nghiệp nuôi trồng.
Ngày 15-8, nghị sĩ Hoa Kỳ M.Rot gửi thư đề nghị cho biét các biện
pháp Việt Nam đã thực hiện về việc kiểm soát ghi nhãn cá xuất khẩu vào Hoa
Kỳ. Ngày 17-8, đại diện Bộ Thủy sản Việt Nam đã có thư trả lời, thông báo rõ
những biện pháp Việt Nam đã và đang thực hiện. Ngày 27-9, Cục FDA (Cơ
quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Hoa Kỳ) gửi thư đề nghị gửi mẫu cá
da trơn nguyên con của các loài cá Việt Nam cho Hoa Kỳ và chúng ta đã thực
hiện ngay. Nhưng phía Hoa Kỳ vẫn không dừng lại.Trong một bài viết cho tờ
Bưu điện Oa-sinh-tơn, Thượng nghị sĩ M.Ba-ri thậm chí còn vô lý nói rằng,
cá da trơn nuôi ở sông Mê Công có thể chứa cả dư lượng chất độc da cam mà
quân đội Hoa Kỳ đã rải xuống đây trong thời gian chiến tranh.
Ngày 5-10, Hạ viện Hoa Kỳ thông qua dự luật H.R.2964, chỉ cho phép
sử dụng tên cá "catfish" cho riêng các loài thuộc họ Ictaluridae, thực chất là
cho riêng loài cá nheo Hoa Kỳ Ictalurus punctatus. Việc tự giành quyền sử
dụng một tên gọi rất thông dụng của hơn 2.500 loài cá khác nhau trên thế giới
lấy làm tên riêng cho một loài cá của mình là một hành động "vô tiền khoáng
hậu", mà thế giới không thể chấp nhận.
SV: Lê Thị Thùy Linh 8 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Tiếp đó, nửa đêm 24 rạng ngày 25-10, Thượng viện đã bỏ phiếu miệng
thông qua 35 điều luật bổ sung cho dự luật số H.R.2330 về phân bổ ngân sách
nông nghiệp năm tài chính 2002, trong đó có điều luật số SA 2000, quy định

FDA không được sử dụng ngân sách được cấp để làm thủ tục cho phép nhập
khẩu các loài cá da trơn mang tên "catfish", trừ phi chúng thuộc họ
Ictaluridae! Tiếp đó không lâu, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật An ninh
trang trại và Đầu tư nông thôn HR. 2646 cấm hoàn toàn việc dùng tên
"catfish" cho cá tra, cá basa Việt Nam, áp dụng trong tất cả các khâu từ nhập
khẩu, bán buôn, bán lẻ, nhà hàng, quảng cáo, thông tin trong vòng 5 năm và
có khả năng sẽ kéo dài vĩnh viễn. CFA không chỉ dừng ở đó mà lại vin tiếp
vào điều khoản 10806 của Đạo luật An ninh nông trại và đầu tư nông thôn
mới nhất xác lập "chủ quyền tuyệt đối" trên thương hiệu catfish. Trước tình
hình này, các doanh nghiệp của ta đã phải từ bỏ cái tên catfish để trở về với
cái tên thuần Việt nam là "cá basa", "cá tra". Hiện nay, các doanh nghiệp xuất
khẩu cá da trơn Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ vẫn sử dụng 6 tên thương
mại có từ "basa", tức là những tên gọi không có từ "catfish" đi kèm: Basa,
Bocourti, Basa bocourti; cá tra là: Hypo Basa, Sutchi Basa và Trasa.
Và cuối cùng, ngày 28/6/2002, CFA nộp đơn lên USITC chính thức
khởi kiện Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa vào thị trường Hoa Kỳ tại
Washington DC. CFA cáo buộc 53 doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra,
basa Việt Nam nhập khẩu vào Hoa Kỳ. Đơn kiện gồm 200 trang, kèm theo 37
phụ lục, trong đó phân tích chi tiết về tình hình thị trường cá nheo Hoa Kỳ, thị
phần cá da trơn filê đông lạnh của Việt Nam tại Hoa Kỳ.
Ngày 29/6 Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam
(VASEP) ra tuyên bố kiên quyết bác bỏ cáo buộc của Hiệp hội các Chủ trại cá
nheo Hoa Kỳ (CFA) về việc các doanh nghiệp thành viên của VASEP bán
phá giá cá tra, cá ba sa sang thị trường Hoa Kỳ. Hiệp hội VASEP khẳng định
SV: Lê Thị Thùy Linh 9 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
các thành viên của Hiệp hội tuân thủ nghiêm túc các quy tắc thương mại của
Hoa Kỳ và luật pháp quốc tế. Hiệp hội VASEP chính thức công bố chỉ định
Hãng luật quốc tế White & Case để tư vấn cho Hiệp hội trong vụ kiện chống
bán phá giá cá tra, cá ba sa tại Hoa Kỳ mà CFA đã chính thức khởi kiện

Ngày 3/7/2002, ủy ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đã gửi đến
VASEP một bảng câu hỏi liên quan đến vấn đề cá tra, cá basa, theo đó Uỷ ban
này có kế hoạch tiến hành điều tra xem liệu cá philê đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam vào Hoa Kỳ có được bán phá giá thấp hơn giá trị thực, gây thiệt hại
cho ngành nông nghiệp của Hoa Kỳ hay không?
Phiên điều trần thứ nhất của vụ kiện phá giá đầu tiên trong thương mại
giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã diễn ra tại Washington D.C vào ngày 19/7/2002
và kết thúc vào ngày 20/7/2002 tại Washington DC. Tại buổi điều trần, các
doanh nghiệp Việt Nam đã đưa ra những tài liệu để bảo vệ cho lẽ phải của
mình: Việt Nam không hề bán phá giá cá tra, cá basa và các sản phẩm cá da
trơn phi lê đông lạnh của Việt Nam chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ không thể
gây ảnh hưởng tới tình hình nuôi trồng và chế biến cá nheo của Hoa Kỳ.
Phiên điều trần này chỉ mang tính thu thập thông tin để từ đó ITC có
thể đưa ra kết luận về khả năng bán phá giá của Việt Nam vào Hoa Kỳ. Tại
đây, Việt Nam đã có những lý lẽ xác đáng để chứng minh không bán phá giá
cá da trơn vào Hoa Kỳ. Ngoài ra, chúng ta còn được sự ủng hộ của nhiều nhà
nhập khẩu, các nhà khoa học nên tiếng nói của các doanh nghiệp Việt Nam
càng có trọng lượng còn phía CFA thì khá lúng túng trong việc chứng minh
các luận điểm của mình và chuyển sang kêu ca những thiệt hại mà họ cho
rằng do chúng ta gây ra.
Tuy nhiên, đến ngày 8/8/2002, ITC đã bỏ phiếu và thống nhất kết luận:
"Dựa trên kết quả điều tra sơ bộ, ITC thấy ngành nuôi cá da trơn của Hoa Kỳ
có thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt hàng cá da trơn đông lạnh nhập khẩu từ
SV: Lê Thị Thùy Linh 10 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Việt Nam bán với giá thấp". Đây là kết luận bất lợi, đẩy vụ kiện sang giai
đoạn 2 của quá trình tranh tụng – giai đoạn căng thẳng và quan trọng nhất của
vụ kiện. Giai đoạn này sẽ kết thúc vào 5/12/2002, khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ
(DOC) đưa ra kết luận sơ bộ về vụ kiện trên.
Ngày 12/8/2002, DOC tiếp nhận vụ kiện, tiến hành các bước điều tra

tiếp theo và yêu cầu 53 doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị báo cáo về tình hình
chế biến và doanh số xuất cá basa, cá tra sang Hoa Kỳ. Cũng vào ngày này,
Chính phủ Việt Nam đã giao cho Bộ Thương mại, phối hợp với Bộ Kế hoạch
Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Lao động Thương binh và Xã
hội, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cùng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương soạn thảo văn bản giải trình đề nghị Hoa Kỳ trao cho Việt Nam
quy chế nền kinh tế thị trường. Nội dung của văn bản là làm rõ khả năng
chuyển đổi tự do của đồng nội tệ (VNĐ); sự thỏa thuận tự do giữa chủ doanh
nghiệp và lao động về lương bổng; mức độ mà các công ty liên doanh cũng
như các loại hình kinh tế khác được hoạt động tại Việt Nam; mức độ sở hữu
và quyền kiểm soát của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất; quyền
hạn kiểm soát của Chính phủ đối với việc phân phối tài nguyên cũng như giá
cả và đầu ra cho các doanh nghiệp; và một vài yếu tố cần thiết khác Đây
cũng là những tiêu chí mà DOC yêu cầu Việt Nam phải giải trình. Theo thông
lệ, ngoài văn bản giải trình, Việt Nam cần có ý kiến ủng hộ của các tổ chức
quốc tế, các doanh nghiệp nước ngoài đang làm ăn tại Việt Nam Về phía
mình, Việt Nam đã và đang làm hết sức mình để Việt Nam có thể được công
nhận là nước có nền kinh tế thị trường. Việc này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với vụ kiện cá basa, đồng thời tạo thuận lợi cho Việt Nam trong các mối quan
hệ thương mại quốc tế sau này.
Ngày 22/8/2002, ITC đã công bố quan điểm về vụ kiện. Theo đó,
ITC không coi catfish là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với cá basa và cá tra
SV: Lê Thị Thùy Linh 11 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
của Việt Nam và loại 500 chủ nông trại cá nheo Hoa Kỳ ra khỏi danh sách
nguyên đơn
Ngày 26/8/2002, DOC đã công bố hoãn thời gian đưa ra kết luận về
cuộc điều tra sơ bộ đến 24/1/2003, chậm 50 ngày so với lộ trình ban đầu.
Ngày 2/10/2002, Đoàn chuyên gia của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC)
do Phó trợ lý Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ - ông Joseph. A. Spetrini dẫn

đầu đã tới Hà Nội và có buổi làm việc với Bộ Thương mại Việt Nam về vụ
kiện này. Việc đoàn DOC của Hoa Kỳ sang Việt Nam được xem như bước
khởi đầu giai đoạn 3 (giai đoạn xác định sơ bộ của DOC) trong tiến trình vụ
kiện bán phá giá cá tra, cá basa tại Hoa Kỳ mặc dù đại diện đoàn công tác này
cho rằng chuyến đi này chỉ nhằm mục đích là tìm hiểu tình hình nuôi cá tra,
cá basa của một vài tỉnh phía Nam; gặp gỡ các doanh nghiệp Việt Nam tham
gia xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trường Hoa Kỳ; hướng dẫn trả lời các câu
hỏi điều tra của DOC liên quan đến vụ kiện này. Nhân đây, DOC sẽ trực tiếp
điều tra tại 4 công ty xuất khẩu lớn nhất (chiếm 60% sản phẩm xuất khẩu) của
Việt Nam gồm: Công ty XNK thủy sản An Giang (Agifish); Công ty Nông
súc sản Cần Thơ (Cataco); Công ty TNHH Nam Việt Fish và Công ty TNHH
Vĩnh Hoàn.
Về phía Việt Nam, Bộ Thương mại cho rằng, việc đoàn chuyên gia
DOC vào làm việc với các cơ quan quản lý Nhà nước và doanh nghiệp Việt
Nam là hữu ích cho cuộc điều tra, cũng như tạo điều kiện cho các chuyên gia
Hoa Kỳ thấy được nền kinh tế Việt Nam đang vận hành theo nền kinh tế thị
trường, bởi không có nơi nào có nền kinh tế thị trường thuần khiết bởi ngay
như Hoa Kỳ cũng đã thông qua ngân sách trợ cấp cho ngành nông nghiệp là
190 tỷ USD trong 10 năm. Nền kinh tế Việt Nam nói chung, đặc biệt là các
ngành sản xuất, trong đó có sản xuất cá tra, cá basa luôn hoạt động theo cơ
SV: Lê Thị Thùy Linh 12 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
chế thị trường và khẳng định: Chính phủ Việt Nam không hề có trợ cấp cho
các doanh nghiệp xuất khẩu. Bộ Thương mại Việt Nam cũng nêu ý kiến phản
đối việc khiếu kiện vô lý của CFA đã ảnh hưởng không tốt tới quan hệ thương
mại đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước. Đồng thời đề nghị DOC cần xem
xét lại việc điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các tra, cá basa có
xuất xứ từ Việt Nam để vừa bảo đảm phù hợp với các quy định của luật pháp
Hoa Kỳ cũng như các quy định trong Luật Thương mại công bằng trong
WTO, không đi ngược với nguyên tắc tự do hóa thương mại đã nêu trong

Hiệp định Thương mại Việt - Hoa Kỳ; không dùng chống bán phá giá để bảo
hộ một cách không hợp lý nền sản xuất cá da trơn của Hoa Kỳ.
Ngày 8/11/2002, Phòng Chính sách của Bộ Thương mại Hoa Kỳ kiến
nghị coi nền kinh tế Việt Nam là phi thị trường. Nếu xem nền kinh tế của Việt
nam là nền kinh tế phi thị trường thì phía Hoa Kỳ sẽ không dựa trên cơ sở các
yếu tố về sản xuất mà Việt Nam cung cấp để tính giá mà sẽ dùng giá ở một
quốc gia thay thế có nền kinh tế phát triển tương tự như Việt Nam (ví dụ như
ấn Độ, Pakistan…) để áp vào các yếu tố sản xuất của Việt Nam và tính ra giá
thành giả định của sản phẩm cá. Trên cơ sở giá thành giả định đó và so sánh
với giá bán tại thị trường Hoa Kỳ để tính biên độ bán phá giá của sản phẩm cá
của Việt Nam.
Ngày 14/11/2002, DOC đã phê chuẩn kiến nghị coi Việt Nam là nước
có nền kinh tế phi thị trường và chọn ấn Độ là nước thứ ba. Kết luận này được
công bố trên mạng Internet mà không thông báo trực tiếp cho Bộ Thương mại
Việt Nam là đối tác của DOC trong quan hệ song phương. Với tư cách là bị
đơn, VASEP đã ra thông cáo hoàn toàn không đồng ý với kết luận của DOC.
Theo VASEP, trong lập luận của mình, DOC đã không thể chứng minh rằng
nền kinh tế Việt Nam kém tính chất thị trường hơn nhiều nước khác đã được
DOC công nhận là kinh tế thị trường.
SV: Lê Thị Thùy Linh 13 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Ngày 29/11/2002, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Hoa Kỳ nộp đơn
lên Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) cho rằng đã xuất hiện “tình trạng khẩn
cấp ” trong vụ kiện cá basa. CFA đã đưa ra 5 luận điểm cơ bản cho kết luận
trên gồm: (1) Các nhà xuất khẩu Việt Nam biết cá basa filê đã bị bán phá giá;
(2) Các nhà xuất khẩu có thông tin về việc áp thuế chống bán phá giá với
công ty mình ở mức 25% hoặc cao hơn nữa trong giai đoạn điều tra ban đầu
của DOC (kết thúc vào ngày 24/1/2003); (3) Các nhà xuất khẩu Việt Nam đã
tăng số lượng hàng sang Hoa Kỳ sau khi CFA nộp đơn yêu cầu điều tra chống
bán phá giá (ngày 28/6/2002); (4) Tính từ ngày 28/6/2002, số lượng hàng xuất

khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng ở mức 15% hoặc cao hơn nữa so với
thời gian trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá; (5) Cần áp
dụng thuế chống bán phá giá để đảm bảo hiệu quả của thuế chống bán phá giá
sẽ được ban hành vào ngày 24/1/2003.
Điều này có nghĩa là thuế chống bán phá giá có thể được áp dụng đối
với các chuyến hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ kể từ ngày 26/10/2002 nếu như
DOC và ITC quyết định là “trường hợp khẩn cấp” có tồn tại.
Tuy nhiên quy định về “tình trạng khẩn cấp” theo Luật Chống bán phá
giá của Hoa Kỳ là nhằm đề phòng các nhà xuất khẩu tăng lượng hàng xuất
trước khi DOC áp dụng thuế chống bán phá giá và DOC chỉ quyết định có
xuất hiện tình trạng này khi có hai điều kiện: (1) Một công ty đã từng bán phá
giá mặt hàng bị điều tra tại Hoa Kỳ hoặc tại một nước khác; nhà nhập khẩu đã
biết hoặc đáng lẽ phải biết rằng mặt hàng bị điều tra đã bán phá giá; (2) Mặt
hàng bị điều tra đã được nhập khẩu ồ ạt trong thời gian tương đối ngắn.
Trong vụ kiện cá basa này, tất cả các nhà xuất khẩu đều xuất hàng cho
các công ty không liên kết, do vậy nếu DOC khẳng định là “trường hợp khẩn
cấp” có tồn tại thì thuế suất sẽ là 25%. Để xác định lượng hàng xuất khẩu
SV: Lê Thị Thùy Linh 14 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
sang có phải là ồ ạt trong “một khoảng thời gian tương đối ngắn” hay không,
DOC sẽ so sánh lượng hàng được xuất sang Hoa Kỳ sau khi khởi sự điều tra
(thường là 3 tháng trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá)
với lượng hàng xuất trong khoảng thời gian ngay trước khi tiến hành điều tra
(3 tháng trước ngày nộp đơn yêu cầu điều tra chống bán phá giá) xem mức
chênh lệch có tới 15% hay không. Cũng theo Luật chống bán phá giá của Hoa
Kỳ, để xác định “trường hợp khẩn cấp” cần phải có quyết định của cả DOC
và ITC. Ngoài ra, bên nguyên đơn còn phải chứng minh “có thiệt hại đáng kể”
nhưng tại thời điểm này thì ITC mới quyết định sơ bộ là “chỉ có nguy cơ gây
thiệt hại nghiêm trọng” chứ không phải là “có thiệt hại đáng kể vào thời điểm
hiện tại” nên sự tồn tại của cái gọi là “trường hợp khẩn cấp” của CFA bị bác

bỏ. Do vậy không cần áp dụng biện pháp hồi tố 90 ngày (từ ngày 31/2/2003
trở về trước) đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 27/1/2003, DOC ra phán quyết các doanh nghiệp Việt Nam xuất
khẩu hàng sang Hoa Kỳ bán phá giá và đề nghị mức thuế đối với cá basa Việt
Nam nhập vào Mỹ là 37,94% - 63.88%. Mức thuế do DOC đưa ra sẽ được áp
dụng ngay sau khi thông báo. Tuy nhiên đó chỉ là quy định tạm thời vì trong
trường hợp quyết định của DOC thiếu khách quan, phía Việt Nam có thể tiếp
tục theo đuổi vụ kiện thông qua việc điều trần tại Uỷ ban Thương mại Hoa Kỳ
(ITC). Khi ấy phán quyết cuối cùng sẽ được ITC đưa ra vào tháng 6/2003.
Trước phán quyết ngày 27/1/2003, Hiệp hội thuỷ sản Việt Nam
(VASEP) tuyên bố rằng Việt Nam sẽ tiếp tục theo vụ kiện bán phá giá cá basa
nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của những người sản xuất cá
basa Việt Nam.
Ngày 1/3/2003, DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá basa Việt Nam
(trong khoảng 31,45% - 63,88% thay vì 37,94% - 63,88%).
SV: Lê Thị Thùy Linh 15 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Bảng Điều chỉnh mức thuế chống bán phá giá của DOC.
Tên công ty Mức trước đây Mức sau khi sửa
Agifish 61,88% 31,45%
Cataco 41,06% 41,06%
Vĩnh Hoàn 37,94% 37,94%
Navifishco 53,96% 38,09%
Các công ty khác có tham gia vụ kiện 49,16% 36,76%
Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88 % 63,88%
Nguồn: Vnexpress ngày 1/3/2003 Bài DOC sửa mức thuế phá giá đối với cá
basa của Việt Nam.
Đây được coi là hành động sửa sai của DOC sau khi Việt Nam chỉ ra rõ
những thiếu sót trong cách tính toán của họ. Song phương pháp tính toán của
DOC vẫn không xem xét đến bản chất quy trình sản xuất khép kín của công

nghiệp sản xuất cá tra và cá basa Việt Nam cũng như số liệu về các yếu tố sản
xuất thực tế mà phía Việt Nam cung cấp, do vậy mà VASEP vẫn tiếp tục đề
nghị DOC phải thay đổi hoàn toàn quyết định sơ bộ của mình.
Ngày 17/3/2003, DOC trực tiếp điều tra thực trạng nuôi cá basa tại Việt
Nam và đề nghị Việt Nam thảo luận về thoả thuận đình chỉ vụ kiện và thay
bằng việc áp dụng hạn ngạch và giá xuất khẩu đối với việc xuất khẩu mặt
hàng này. Dù đã nhiều lần khẳng định không bán phá giá các sản phẩm này,
phía Việt Nam vẫn chấp nhận đề nghị đàm phán và cử chuyên gia các Bộ
Thương mại, Bộ Thuỷ sản, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và Văn phòng chính
phủ sang Washington để thương thảo.
Ngày 20/5/2003, Thoả thuận về đình chỉ vụ kiện bị đổ vỡ.
Ngày 14/6/2003, VASEP sang Washington dự phiên điều trần cuối
cùng (ngày 17/6/2003) trước Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC), cơ
quan trọng tài của vụ kiện. Tại phiên điều trần này, ý kiến của DOC cùng
SV: Lê Thị Thùy Linh 16 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
phần trình bày của hai bên (VASEP và Hiệp hội các chủ trại cá nheo Mỹ -
CFA) sẽ là căn cứ quan trọng để ITC xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng.
Ngày 17/6/2003, DOC vẫn tuyên bố Việt Nam bán phá giá cá tra và cá
basa và dự định áp dụng một mức thuế rất cao với cá tra, basa của Việt Nam
trong khoảng 36,84% - 63,88% thay vì 31,45% - 63,88% như trước đây.
Đây thực sự là một cú sốc đối với tất cả các thành viên trong đoàn Việt Nam
tham dự phiên điều trần hôm đó và đặc biệt là các doanh nghiệp thủy sản
đang làm ăn với Hoa Kỳ.
Tên công ty
Mức trước sửa đổi
trong quyết định sơ
bộ
Mức
Thuế

sửa đổi
Agifish 31,45,% 44,76%
Cataco 41,06% 45.55%
Vĩnh Hoàn 37,94% 36,84%
Navifishco 38,09% 52,90%
Các công ty khác có tham gia vụ kiện 36,76% 44,66%
Các công ty không tham gia vụ kiện 63,88 % 63,88%
Nguồn: Chongbanphagia.vn
* Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định cuối cùng (lần 1)
đối với các doanh nghiệp Việt Nam tại Hoa Kỳ (ngày 17/06/2003)
Theo kết luận này các công ty tham gia và_quá trình điều tra bán phá
giá của DOC gồm Agifish, Cataco, Nam Việt, sẽ chịu mức thuế từ 36,84%
đến 52,90%. Những đơn vị khác có tham gia vụ kiện nhưng chỉ trả lời các câu
hỏi phần A của DOC (bộ câu hỏi điều tra bán phá giá) như Afiex, Cafatex, Đà
Nẵng…sẽ chịu mức thuế 44,66%. Các đơn vị khác cũng tham gia xuất sản
phẩm sang Hoa Kỳ nhưng không theo kiện sẽ chịu mức thuế 63,88%.
SV: Lê Thị Thùy Linh 17 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
Theo quy định của Luật chống bán phá giá Hoa Kỳ, quyết định cuối
cùng sẽ do Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ đưa ra trong 45 ngày tiếp đó.
Chỉ khi cơ quan này phán quyết cá tra và cá basa filê đông lạnh nhập khẩu từ
Việt Nam vào Hoa Kỳ có đe dọa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại cho ngành
công nghiệp cá nheo Mỹ, DOC mới có thể ban hành lệnh áp dụng thuế chống
bán phá giá. 25/06/2003 VASEP phát hành sách trắng khẳng định Việt Nam
không bán phá giá và cho rằng quyết định của DOC không công bằng và
mang tính bảo hộ.
Kết luận DOC đưa ra mức thuế sửa đổi so với mức thuế trong quyết
định cuối cùng áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam.
18/07/2003
Quyết định ITC đưa ra phán quyết cuối cùng: khẳng định doanh nghiệp

VN bán phá với giá thấp hơn giá thành và gây tổn hại cho ngành sản xuất của
Hoa Kỳ,và ấn định mức thuế suất bán phá giá từ 36,84 đến 63,88%
Tên công ty
Mức thuế (sửa
đổi) trong Quyết
Định Sơ Bộ (%)
Mức thuế (sửa đổi)
trong Quyết Định Cuối
Cùng
Agifish 31,45 47,05
CATACO 41,06 45,81
Vĩnh Hoàn 37,94 36,84
Nam Việt 38,09 53,68
Bị đơn tự
nguyện(Afiex,Cafatex,ĐàNẵng,
Mekonimex, AVD, Việt Hải và
Vĩnh long)
36,76 45,55
Các công ty không tham gia vụ
kiện
63,88 63,88
Nguồn: chongbanpha.vn
SV: Lê Thị Thùy Linh 18 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
*Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định cuối cùng (lần 2) đối
với các doanh nghiệp Việt Nam tại Hoa Kỳ ( ngày 18/07/2003)
Sáng ngày 24/7/2003,Uỷ ban Thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) đã đưa
ra phán quyết cuối cùng về vụ kiện cá basa. Theo đó cơ quan này đã khẳng định
các doanh nghiệp Việt Nam bán cá basa vào thị trường Hoa Kỳ thấp hơn giá
thành, gây tổn hại cho ngành sản xuất cá da trơn của Hoa Kỳ và ấn định mức

thuế suất chống bán phá giá rất cao từ 36,84% đến 63,88%. Cả 4 thành viên của
ITC dự họp đều bỏ phiếu thuận theo đề nghị của Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC)
và khẳng định các bằng chứng về việc cá filê đông lạnh của Việt Nam được bán
phá giá là hợp lý, bất chấp sự phản đối gay gắt từ các doanh nghiệp thủy sản Việt
Nam, của nhiều thượng nghị sỹ và báo giới Hoa Kỳ.
Quyết định của ITC đã chấm dứt các tranh cãi liên quan đến vụ kiện bán
phá giá cá basa. Ngày 12/8/2003, sau khi cơ quan này ra văn bản chính thức gửi
Bộ Thương mại Hoa Kỳ, mức thuế chống bán phá giá mới sẽ có hiệu lực.
2. Xem xét hành chính hàng năm
*Xem xét hành chính hàng năm lần 1
31/08/2005: Hoa Kỳ tiến hành xét lại mức thuế chống bán phá giá cá
tra, basa lần 1 cho 29doanh nghiệp Việt Nam.
CFA đã đề nghị DOC xem xét lại việc xuất khẩu cá tra, basa sang Hoa
Kỳ của 29 doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá tra, basa trong năm thứ hai,
tính từ thời điểm 1/8/2004 đến 31/7/2005
Bao gồm:
1. Afiex Seafood;17. Seaprodex Sai Gon;
2. Antesco;18. Tan Thanh Loi Frozen
3. Agifish;Food Co.;
4. Anhaco;19. Thang Loi Frozen Food
5. Bamboo Food Co., Ltd.;Enterprise;
6. Imex Bình Định;20. Thanh Viet Co., Ltd.;
7. Cataco;21. Thufico;
8. Cafatex;22. Tin Thinh Co., Ltd.;
9. Seaprodex Đà Nẵng;23. Vietnam Fish-one Co.,
SV: Lê Thị Thùy Linh 19 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
10. Coseafex;Ltd.;
11. Gepimex 404 Co;24. Vifaco;
12. Havuco;25. Vinh Hoan Co., Ltd;

13. Kien Giang Ltd;26. Imex Cuu Long
14. Mekongfish Co;27. QVD Food Co., Ltd.;
15. Navico;28. Phuoc My Factory;
16. Phan Quan Trading Co.,29. Phu Thanh Co., Ltd.
02/09/2005 : DOC có quyết định sơ bộ về việc giảm mức thuế chống bán phá
giá trong xem xét hành chính năm đầu tiên cho hai trong số các doanh nghiệp
Việt Nam bị áp thuế bán phá giá cá basa vào Hoa Kỳ:
-Công ty Nông súc sản xuất nhập khẩu Cần Thơ (CATACO) được
giảm thuế xuống còn 38,8%;
-Công ty Nông súc sản xuất nhập khẩu Cần Thơ (CATACO) được
giảm thuế xuống còn 38,8%;
Mức thuế đối với các công ty khác giữ nguyên như mức thuế trong
quyết định cuối cùng (sửa đổi) của DOC ngày 18/07/2003.
Tên công ty
Mức thuế (sửa đổi)
trong Quyết Định
Sơ Bộ (%)
Mức thuế (sửa đổi)
trong Quyết Định
Cuối Cùng
Agifish 47,05 47,05
CATACO 45,81 38,8
Vĩnh Hoàn 36,84 7,23
Nam Việt 53,68 53,68
Bị đơn tự
nguyện(Afiex,Cafatex,ĐàNẵng,
Mekonimex, AVD, Việt Hải và
Vĩnh long)
45,55 45,55
Các công ty không tham gia vụ

kiện
63,88 63,88
Nguồn: chongbanphagia.vn
SV: Lê Thị Thùy Linh 20 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
* Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định sơ bộ của xem xét
hành chính hàng năm lần 1 đối với các doanh nghiệp Việt Nam tại Hoa Kỳ
( ngày 02/09/2005)
30/9/2005: Vĩnh Hoàn công khai nộp các thông tin sẵn có phục vụ cho
việc đánh giá các yếu tố thay thế trong quá trình sản xuất để Hoa Kỳ đưa ra
kết luận cuối cùng. DOC đưa ra các bản thảo về việc thẩm tra tại chỗ Vĩnh
Hoàn và CATACO tiến hành từ 10/10/2005 đến 14/10/2005.
06/10/200:5 Bên Nguyên gửi văn bản giải trình trước khi thẩm tra đối
với Vĩnh Hoàn và CATACO liên quan đến doanh thu và các yếu tố về việc
thẩm tra sản xuất diễn ra từ 10/10/2005 đến 14/10/2005.
10/10/2005: DOC tiến hành thẩm tra CATACO thông qua bản câu hỏi
điều tra.
13/10/2005 Bên Nguyên nộp đơn xin mở phiên điều trần.
17/10/2005 Bên Nguyên công khai nộp các thông tin sẵn có để DOC
xem xét nhằm đưa ra phán quyết trong xem xét hành chính hàng năm.
14/11/2005 DOC công bố bản báo cáo thẩm tra Vĩnh Hoàn.
20/01/2006 Bên Nguyên rút lại đơn xin mở phiên điều trần ngày
13/10/2005.
24/01/2006 Bên Nguyên, Vĩnh Hoàn và Công ty Thực Phẩm Quốc tế
H&N nộp các bản tóm tắt về vụ kiện đối với trường hợp của Vĩnh Hoàn.
27/01/2006 : Bên Nguyên nộp bản tóm tắt về vụ kiện liên quan đến
CATACO.
03/02/2006 : Bên Nguyên, Vĩnh Hoàn và Công ty Thực Phẩm Quốc tế
H&N nộp các bản tóm tắt bác bỏ lý lẽ của bên đối lập.
Trong bản tóm tắt của Vĩnh Hoàn về việc bác bỏ lý lẽ của Bên Nguyên,

Vĩnh Hoàn tuyên bố Bên Nguyên đã nêu thêm thông tin mới trong bản tóm tắt
ngày 24/01/2006.09/02/2006 DOC yêu cầu Bên Nguyên phải loại bỏ các
SV: Lê Thị Thùy Linh 21 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
thông tin mới trong bản tóm tắt ngày 24/01/2006 của Bên Nguyên mà có liên
quan đến Vĩnh Hoàn.
10/02/2006 Bên Nguyên nộp lại bản tóm tắt liên quan đến Vĩnh Hoàn
trong đó đã bỏ các thông tin không thích hợp trong bản tóm tắt ngày
24/01/2006 của Bên Nguyên.
16/02/2006 DOC công bố quyết định sơ bộ về việc thẩm tra phạm vi và
mưu đồ liên đới nhằm trốn tránh thuế chống phá giá áp dụng đối với cá basa,
cá tra có nguồn gốc từ Việt Nam. Do hai công ty của Cambodia, công ty
TNHH Lian Heng Trading và công ty TNHH Lian Heng Investment (gọi
chung là Lian Heng) sản xuất cá đông lạnh với nguyên liệu nhập từ Việt Nam,
nên DOC đã sơ bộ quyết định rằng Lian Heng đã có mưu đồ trốn thuế chống
bán phá giá đối với cá tra, cá basa từ Việt Nam.
Trong quyết định sơ bộ của DOC, DOC yêu cầu đình chỉ việc Lian
Heng bán sản phẩm vào thị trường Hoa Kỳ và yêu cầu Lian Heng nộp tiền đặt
cọc theo mức thuế chống bán phá giá áp dụng chung cho các doanh nghiệp
Việt Nam (Vietnam-wide rate) là 63,88% đối với tất cả các lô hàng nhập vào
thị trường Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ 22/10/2004 đến 15/07/2005
nhưng chưa được bán của Lian Heng. Đối với tất cả các lô hàng cá tra, cá
basa đông lạnh do Lian Heng sản xuất vào hoặc sau ngày 16/07/2005, Hải
quan Mỹ sẽ xem xét giấy phép chứng minh việc Lian Heng không sử dụng
nguyên liệu cá tra, cá basa trong việc quá trình sản xuất cá đông lạnh của
mình. Bất kỳ lô hàng nào không có giấy chứng nhận này sẽ phải đóng khoản
tiền đặt cọc theo mức thuế chống bán phá giá toàn quốc (63,88%).
22/02/2006 DOC công bố trên Sổ sách Liên bang quyết định về việc thẩm tra
phạm vi và mưu đồ liên đới nhằm trốn tránh thuế chống phá giá. DOC sẽ kéo
dài thời gian đưa ra quyết định cuối cùng về việc thẩm tra phạm vi và mưu đồ

liên đới nhằm trốn tránh thuế chống phá giá đến ngày 01/06/2006.
SV: Lê Thị Thùy Linh 22 Lớp: QTKD Thương mại 49B
Đề án môn học Khoa Thương mại và Kinh tế Quốc tế
21/03/2006 DOC công bố mức điều chỉnh thuế chống bán phá giá mới áp
dụng cho sản phẩm cá tra và basa fillê đông lạnh của các DN Việt Nam vào
thị trường nước này. Theo đó:
- Mức thuế đối với Công ty TNHH Vĩnh Hoàn được giảm xuống còn
6,81%.
- Mức thuế đối với Công ty CATACO cao hơn mức thuế cũ: 80,88%.
- Mức thuế đối với các Công ty Agifish, Nam Việt, Afiex, Cafatex, Đà
Nẵng, Mekonimex, AVD, Việt Hải và Vĩnh Long giữ nguyên so với quyết
định sơ bộ trong xem xét hành chính hàng năm lần 1 ngày 02/09/2006. cuối
cùng (sửa đổi) của DOC ngày 18/07/2003, nay bao gồm cả Công ty Phan
Quân, giữ nguyên như mức thuế trong quyết định sơ bộ của xem xét hành
chính hàng năm lần 1 ngày 02/09/2005 là 63,88%, do DOC không nhận được
bất kỳ văn bản giải trình nào từ phía các doanh nghiệp đó kể từ khi DOC
thông báo quyết định sơ bộ của xem xét hành chính hàng năm lần 1 ngày
02/09/2005.
Tên công ty
Mức thuế (sửa đổi)
trong Quyết Định
Sơ Bộ (%)
Mức thuế (sửa đổi)
trong Quyết Định
Cuối Cùng
Agifish
47,05 47,05
CATACO 38,8 80,88
Vĩnh Hoàn 7,23 6,81
Nam Việt 53,68 53,68

Bị đơn tự
nguyện(Afiex,Cafatex,ĐàNẵng,
Mekonimex, AVD, Việt Hải và
Vĩnh long)
45,55 45,55
Các công ty không tham gia vụ
kiện
63,88 63,88
Nguồn: chongbanphagia.vn
*Mức thuế phá giá cá tra, cá basa trong quyết định cuối cùng của xem
SV: Lê Thị Thùy Linh 23 Lớp: QTKD Thương mại 49B

×