Tải bản đầy đủ (.ppt) (42 trang)

Quản lý nhân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 42 trang )

Việt Nam đang trong quá trình phát
triển nền kinh tế, nguồn đầu tư của các
tập đoàn đa quốc gia đang ào ạt đổ về
Việt Nam, khiến cho thị phần và năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
Việt Nam – ngày càng khó khăn và có
nhiều thách thức trong công tác trong
công tác quản lý nhân sự

Trong những thập kỷ gần đây cách mạng khoa
học kỹ thuật đã có những từng bước phát triển
và đạt tốc độ nhanh chưa từng thấy.Bối cảnh
của xã hội đã có những sự thay đổi , các nền
văn hóa đang có xu hướng xích lại gần nhau
hơn.

Thực tế đã chỉ ra rằng dù có thay đổi sâu sắc
đến đâu thì con người vẫn là trung tâm là quan
trọng nhất trong các tổ chức xã hội nói chung
và các doanh nghiệp nói riêng. Các vấn đề thu
hút, đãi ngộ, sa thải tuyển dụng, phát triển đội
ngũ … là vấn đề sống còn của mỗi doanh
nghiệp trong giai đoạn hiện nay.

Quản trị nhân sự là công tác quản lý con người
trong phạm vi nội bộ của tổ chức, là sự đối xử
của tổ chức doanh nghiệp với người lao động

Mục tiêu cơ bản của quản trị nhân sự là thu
hút người tài về doanh nghiệp và sự dụng hiệu


quả nguồn lực đó để đưa doanh nghiệp nâng
cao năng suất lao động và nâng cao tính hiểu
quả của doanh nghiệp.

Con người là yếu tố cấu thành nên tổ chức
doanh nghiệp, vận hành doanh nghiệp và
quyết định sự thành bại của doanh nghiệp đặc
biệt là trong những ngành phi sản xuất thì yếu
tố con người thì càng quan trọng gấp bội hơn.

Một doanh nghiệp sẽ quản lý không hiệu
quả các nguồn lực khác nếu doanh nghiệp
đó không quản lý tốt nguồn nhân lực.

Xét về mặt kinh tế thì quản trị nguồn nhân lực
giúp cho các doanh nghiệp khai thác được khả
năng tiềm tàng, nâng cao năng suất lao động
và lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp về
nguồn nhân lực.

Về mặt xã hội, quản trị nhân sự thể hiện được
quan điểm nhân bản về quyền lợi của người
lao động , chú trọng hài hòa mối quan hệ giữa
tổ chức doanh nghiệp và người lao động

Nhận thức được tầm quan trọng của quản trị
nhân sự vì vậy hiện nay các doanh nghiệp đã
chú trọng đến vấn đề này. Sự tiến bộ của quản
trị nhân sự được coi là một trong những
nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các doanh

nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn.

Trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động
chưa cao. Thiếu cán bộ quản lý giỏi chuyên môn
về quản lý nhân sự.

Một vài doanh nghiệp có bộ phận quản lý nhân sự
nhưng bộ phận này được cắt ghép từ các bộ phận
khác tạo thành, trình độ của người quản lý nhân
sự không được đào tạo kỹ càng khiến cho họ còn
khó khăn bỡ ngỡ trong công tác quản lý con
người nên có nhiều quyết định ảnh hưởng xấu tới
công tác sản xuất của doanh nghiệp.

Tình trạng “sống lâu lên lão làng” làm đội ngũ
lãnh đạo có thâm niên mà không có năng lực
khiến cho tình trạng sản xuất trở nên yếu kém
và gây bất bình cho các nhân viên trong doanh
nghiệp.

Bên cạnh đó việc đào tạo các cử nhân quản trị
nói chung và quản trị nhân sự nói riêng tại các
trường ĐH, CĐ ở Việt Nam còn chưa bám sát
với thực tế của xã hội, kiến thức đào tạo ra thì
không còn hợp với xu thế của xã hội dẫn đến
năng suất lao động hiểu quả thấp.

Nhiều đơn vị sử dụng lao động đã nhận xét: do
sinh viên không có nhiều thời gian thực hành, đa

phần chỉ tiếp cận chuyên môn trên lý thuyết nên
khi ra trường chỉ có một số đáp ứng công việc.
Còn lại phải mất thời gian đào tạo thêm.

Theo thống kê của Bộ GDĐT , năm 2006 có 63%
tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường không có
việc làm. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì
cũng không đáp ứng được công việc, không ít
công ty phải mất 1-2 năm đào tạo lại

Mặt bằng dân trí nước ta còn thấp, đại bộ phận
chưa được đào tạo. Năng lực chuyên môn của lao
động nước ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới.

Theo số liệu sơ bộ 2006
Lao động Việt Nam mới chỉ có 25% trong số
42 triệu lao động qua đào tạo. Tỷ lệ lao động
đã có chứng chỉ đào ngắn hạn là 14,4%.
Khoảng 80% thanh niên (18 – 23 tuổi) bước
vào thị trường lao động chưa qua đào tạo nghề.

Theo một số số liệu điều tra: TBKTSG tháng
7/2007: Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có
tổng cộng 45,3 triệu lao động, trong đó 3/4 là
lao động ở nông thôn. Hiện mới chỉ có 32% số
lao động là đã qua đào tạo

Tình trạng dư thừa lao động phổ thông, thiếu
lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia,

doanh nhân, nhà quản lý, cán bộ hành chính,
cán bộ quản lý chất lượng cao, cán bộ khoa
học và công nghệ có trình độ

Lực lượng lao động phân bổ không đồng đều
giữa nông thôn và thành thị (nông thôn
75,6%, thành thị 24,4%), tập trung chủ yếu
vùng đồng bằng sông Hồng và đồng bằng
sông Cửu Long (44%), các vùng còn lại 56%.
Số đông lực lượng lao động có nguồn gốc làm
nông nghiệp…

Vì thế gặp nhiều khó khăn trong chuyển đổi cơ
cấu ngành nghề từ nông nghiệp sang lao động
phi nông nghiệp và trong tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự cách
biệt về chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao
động giữa thành thị và nông thôn là rất lớn, đã
đang và sẽ gây bất lợi cho khu vực nông thôn

Mỗi năm cả nước có trên dưới 200.000 sinh viên
các trường đại học và cao đẳng ra trường, đây là
nguồn cung cấp nhân lực có chất xám dồi dào cho
xã hội, cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, đang diễn
ra một nghịch lý là số sinh viên ra trường chưa
tìm được việc làm hoặc làm không đúng ngành
học còn đông, trong khi doanh nghiệp lại không
ngớt kêu ca là thiếu nhân sự, tìm không ra người
phù hợp.


Năm 2008 Việt Nam có khoảng 2,6 triệu
người có trình độ đại học trở lên. Con số này
có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức
nước nhà. Tỉ lệ cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên
đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của
Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập
quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng
gấp đôi của nước ta… tuy nhiên chất lượng
nguồn nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79/10
so với 5,78/10 của Trung Quốc và 4,04/10
của Thái Lan.

Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong
cả nước không làm khoa học mà đang làm
công tác quản lý; số bài báo khoa học được
công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của
Thái Lan và bằng 0,00043% của thế giới, mặc
dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng
thường nhiều hơn của Thái Lan, có năm cao
gần gấp đôi…

Trong thời kỳ đổi mới đang dần chuyển từ
biên chế sang hợp đồng dài hạn, song vẫn
chưa thực hiện được dứt điểm và áp dụng rộng
rãi mà chỉ áp dụng đối với những lao động mới
vào tổ chức, còn lao động cũ vẫn được giữa ở
chế độ biên chế .

Cùng với chế độ biên chế thì lao động ở thời

kỳ trước trình độ, kỹ năng làm việc thấp. còn
những người được đào tạo lành nghề thì lại có
xu hướng đi tìm một công việc có mức thu
nhập cao hơn, chứ không cam chịu ở trong tổ
chức.

Sự thiếu hụt lao động có chất lượng cao đáp
ứng được công việc trong ttoor chức và lao
động phổ thông có chất lượng thấp sẽ tiếp tục
diễn ra mất cân đối sẽ dẫn đến tịnh trạng lao
động lành nghề ít.

Nhiều tổ chức rơi vào tình trạng thừ biên chế
nhưng cùng lúc phải giải quyết tình trạng thiếu
lao động lành nghề cao nhưng lại thiếu lao
động không có trình độ lành nghề hoặc có
những kỹ năng được đào tạo không phù hợp
với những yêu cầu hiện tại dẫn đến năng suất
lao động thấp

Sinh viên ra trường làm trái ngành mình học
chiếm 50%, như vậy công việc sẽ không phù
hợp với kiến thức đã học nên hiệu quả công
việc không cao.

Trong khi đó thì đội ngũ quản lý là đầu tàu của
doanh nghiệp thì còn thiếu và yếu về các kỹ
năng mềm , kỹ năng quản lý con người, kỹ
năng xử lý sự cố, kỹ năng truyền đạt ý tưởng
và kỹ năng truyền cảm hứng cho người lao

động để giữ chân người lao động và phát huy
sáng tạo của người lao động.

Bên cạnh đó các doanh nghiệp còn chưa chăm lo
đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của
người lao động làm ảnh hưởng sâu sắc đến nhiệt
tình làm việc của người lao động.

Theo thống kê thì hiện nay có hàng chục ngàn
người lao động sau giờ làm việc không được giải
trí, không được các doanh nghiệp tổ chức đi tham
quan, không nắm bắt được thông tin chính sách và
chủ trương của nhà nước.

Hiện nay các doanh nghiệp còn chưa chú trọng
đến điều kiện ăn ở của người công nhân, doanh
nghiệp chỉ xây nhà xưởng mà không chịu xây nhà
ở cho công nhân khiến cho công nhân phải phụ
thuộc nhiều vào nhà trọ ở ngoài mất an toàn, mất
vệ sinh ,điều kiện sinh hoạt còn thiếu thốn vì vậy
cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất.

Một vấn đề cơ bản khác của người công nhân
liên quan tới tất cả vấn đề khác là lương, hiện
nay việc trả lương của doanh nghiệp đối với
người công nhân còn quá thấp khiến cho công
nhân phải tăng ca, làm thêm nghề phụ để kiếm
thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống những
nguyên nhân này khiến cho khả năng lao động

và cống hiến cho doanh nghiệp còn hạn chế.
(theo số liệu của Diễn đàn Kinh tế thế giới, thu
nhập của người Việt đạt 1.050 USD trong năm
2009).

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×