Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Hãy chứng minh đánh giá là một khoa học mô tả việc sử dụng một trong những thành tựu của khoa học đánh giá để quản lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.69 KB, 20 trang )

Hãy chứng minh đánh giá là một khoa học. Mô tả việc
sử dụng một trong những thành tựu của khoa học đánh giá
để quản lý. Bình luận.
1
BÀI LÀM
1. Chứng minh đánh giá là một khoa học
Đánh giá giáo dục là quá trình “thu thập, chỉnh lí, xử lí,
phân tích một cách toàn diện, khoa học, hệ thống những
thông tin về sự nghiệp giáo dục, để rồi phán đoán giá trị của
nó nhằm thúc đẩy công cuộc cải cách giáo dục, nâng cao
trình độ phát triển của giáo dục, đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của cộng đồng xã hội”.
Đánh giá không chỉ là công cụ của quản lý giáo dục mà
bản thân nó cũng chính là một khoa học với đầy đủ các đặc
trưng vốn có của một khoa học, cũng có những thành tựu to
lớn và những thành tựu đó lại được ứng dụng vào quản lý để
quay trở lại đánh giá.
Đánh giá là một khoa học, điều này được thể hiện qua
những luận điểm sau đây:
1.1. Đánh giá có những đặc trưng cơ bản, khác biệt với
các khoa học khác
Với tư cách vừa là một lĩnh vực của khoa học quản lí
giáo dục, vừa là một công cụ của quản lí giáo dục, đánh giá
có những đặc trưng cơ bản sau:
- Tính khách quan: Đánh giá trong giáo dục bao giờ
cũng cần các thông tin thu thập về đối tượng được đánh giá,
2
thông tin đó phải đảm bảo tính toàn diện, tính hệ thống.
Nghĩa là thông tin cần phải được thu thập từ nhiều nguồn
khác nhau có liên quan đến đối tượng đánh giá.
- Tính khoa học: Trong đánh giá, thông tin đầu vào và


đầu ra của đánh giá phải đảm bảo xử lý khoa học, chính xác,
được phân tích và lưu trữ thuận tiện.
- Tính thích ứng phổ biến: Khái niệm đánh giá trong
giáo dục phải thích ứng và dễ sử dụng trong toàn bộ hệ
thống giáo dục.
- Tính mục đích: Đánh giá bao giờ cũng có mục đích,
kết quả đánh giá phải được sử dụng cho mục đích của cá
nhân, tổ chức để có những kế hoạch, chiến lược cải cách,
nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2. Đánh giá có hệ thống các khái niệm phạm trù liên
quan
Bên cạnh các đặc trưng, đánh giá còn có hệ thống các
khái niệm liên quan:
- Khái niệm giá trị:
Khi một sự vật hiện tượng có những đặc trưng phù hợp
với mong muốn, mục tiêu của con người thì nó mới có giá
trị. Mỗi sự vật, hiện tượng, càng có nhiều đặc trưng phù hợp
3
thì càng có giá trị. Khái niệm giá trị có tính lịch sử và tính
tương đối.
Đánh giá bao giờ cũng gắn liền với giá trị, vì đánh giá là
thước đo phản ảnh giá trị của sự vật hiện tượng. Phải thống
nhất được quan niệm về giá trị thì mới tạo được sự đồng
thuận trong đánh giá. Trong đánh giá, giá trị phản ánh mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thế đánh giá.
- Khái niệm nhận thức:
Đánh giá là một hoạt động nhận thức, thông qua đánh
giá, con người nhận thức được bản chất của thế giới khách
quan và xác định được trạng thái của con người đối với thế
giới khách quan. Chỉ khi nào có nhận thức luận đúng đắn,

một quan điểm lịch sử, khoa học, khách quan trong đánh giá
mới có thể đảm bảo xác định được tính chỉnh thế của giá trị
sự vật, mới có những kết luận đánh giá có giá trị, có tác
dụng đối mới, cải tạo hoặc thích ứng với sự vật, hiện tượng
của thế giới khách quan.
Quá trình nhận thức bao gồm 6 giai đoạn: Biết (tái hiện),
Hiểu, Vận dụng, Phân tích, Tổng hợp, Đánh giá. Như vậy,
đánh giá là bậc cao nhất của quá trình nhận thức.
- Khái niệm thực tiễn:
4
Nhận thức của con người không thể tách rời thực tiễn.
Thực tiễn là nguồn gốc của nhận thức và cũng là mục đích
của nhận thức.
Thực tiễn là nơi xuất phát của đánh giá và cũng là điểm
kết thúc của quá trình đánh giá. Sự kiểm nghiệm này được
thể hiện: Mức độ phát triển của khách thể giá trị có phù hợp
với kết quả đánh giá không? Mức độ thỏa mãn nhu cầu của
chủ thể có giá trị có phù hợp với kết quả đánh giá không?
Nguyện vọng chủ quan của chủ thể đánh giá có được đáp
ứng không?
Đánh giá trong giáo dục về thực chất cũng là quá trình
phán đoán mức độ cao thấp của sự nghiệp giáo dục. Giá trị
của sự nghiệp giáo dục ở đây nhằm chỉ mối quan hệ giữa
đặc tính, tính chất của sự nghiệp giáo dục với nhu cầu của
con người chủ thể trong thực tiễn xã hội.
1.3. Đánh giá có nội dung nghiên cứu
Những nội dung nghiên cứu chủ yếu của đánh giá giáo
dục như một ngành khoa học, bao gồm:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động
đánh giá: Loại hình đánh giá, quy trình đánh giá, chỉ đạo

thực hiện đánh giá
5
- Nghiên cứu tìm ra các phương pháp thực thi cụ thể,
như: Phương pháp xác định chuẩn cho các loại hình đánh
giá, phương pháp thu thập, xử lý thông tin của các loại hình
đánh giá, nghiên cứu áp dụng công nghệ tiên tiến vào quá
trình đánh giá.v.v
- Nghiên cứu các loại hình đánh giá cụ thể như đánh giá
kết quả học tập, đánh giá giảng viên đại học, đánh giá phổ
cập giáo dục. v.v
1.4. Đánh giá có đối tượng nghiên cứu
Với tư cách là một ngành khoa học, đối tượng nghiên
cứu của đánh giá là các loại hình hoạt động giáo dục, mối
quan hệ của chúng, các chức năng của hoạt động giáo dục và
nhu cầu thực thi các chức năng ấy trong hệ thống xã hội.
Điều đó có nghĩa là đánh giá giáo dục nghiên cứu các
phương thức hiệu quả nhất để giáo dục có thể phát huy cao
nhất hiệu quả của các nguồn lực để đạt các mục tiêu về dân
trí, nhân lực, nhân tài và nhân cách con người.
Nói cách khác, đối tượng nghiên cứu của đánh giá giáo
dục là hệ thống các mục tiêu của giá dục, cách thức và mức
độ đạt được mục tiêu của các cơ sở giáo dục, tác động vào
việc đạt được mục tiêu đối với nhu cầu phát triển của hệ
thống xã hội.
6
1.5. Đánh giá có phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp thường dùng đánh giá hoạt động
giáo dục bao gồm
- Phương pháp lịch sử. Đây là phương pháp nghiên cứu,
tìm kiếm, phát hiện qui luật và bản chất của sự vật trong quá

trình chúng phát sinh, phát triển và triển vọng. Trong đánh
giá giáo dục, phương pháp lịch sử được sử dụng khi cần thu
thập, xử lí các thông tin mang tính hệ thống, tính qui luật, để
tìm hiểu qui luật phát triển đặc thù, xu thế phát triển của một
đối tượng nào đó trong sự nghiệp giáo dục.
- Phương pháp điều tra. Đây là phương pháp thường
dùng trong việc thu thập thông tin đánh giá từ các nguồn
khác nhau thông qua các công cụ như bảng hỏi, phỏng vấn,
phỏng vấn sâu, phỏng vấn cá biệt. Qua việc thu thập thông
tin đánh giá từ các nguồn khác nhau cho phép chủ thể đánh
giá xác định mức độ tương quan của các thông tin, từ đó xác
định được các thông tin tin cậy và có giá trị phục vụ tốt cho
quá trình phán đoán giá trị.
- Phương pháp thực nghiệm. Phương pháp thực nghiệm
cho phép thử nghiệm một biện pháp, một giả thuyết trong
điều kiện thực có đối chứng với một mẫu ở tình trạng bình
thường. Sau một thời gian nhất định so sánh, đối chiếu kết
7
quả của 2 cơ sở có thực nghiệm và cơ sở đối chứng từ đó có
những kết quả về một kết luận đánh giá nào đó.
- Phương pháp quan sát. Quan sát là một phương pháp
dễ dùng nhất trong đánh giá. Chủ thể đánh giá có mặt trong
tình huống tự nhiên của hoạt động giáo dục, quan sát có mục
đích các hoạt động đang diễn ra thông qua đó thu được các
thông tin đánh giá cần thiết. Tuy nhiên trong đánh giá giáo
dục, quan sát chỉ cung cấp các thông tin trên bề mặt các sự
kiện. Cần thêm thông tin từ nhiều nguồn khác nhau mới có
được cơ sở khoa học cho các phán đoán giá trị.
- Phương pháp toán thống kê. Các phương pháp thường
dùng là thống kê, mô hình toán… có sử dụng máy tính và

các thành tựu khác của công nghệ thông tin.
1.6. Đánh giá có những chức năng quan trọng
Đánh giá có các chức năng sau:
- Chức năng định hướng:
Đánh giá giáo dục được tiến hành trên cơ sở của mục
tiêu giáo dục. Nó tiến hành phán đoán độ sai lệch giữa hiện
trạng thực tế và mục tiêu đề ra trước đó, làm cho khoảng
cách này ngày một ngắn hơn.
Chính vì vậy đánh giá giáo dục có khả năng chỉ ra
phương hướng về mục tiêu, tôn chỉ giúp các trường lập kế
8
hoạch dạy và học. Đánh giá giáo dục chỉ ra phương hướng
phấn đấu cho giáo viên và học sinh, cho các cơ sở giáo dục
và đào tạo nói chung.
Chức năng định hướng của đánh giá tồn tại khách quan,
không bị ý chí cá nhân của con người chi phối . Ngoài ra
đánh giá giáo dục còn có khả năng tác động và bảo đảm tính
thông suốt cho quá trình thực hiện các mục tiêu, chính sách
giáo dục.
- Chức năng đốc thúc, kích thích, tạo động lực:
Thông qua đánh giá, giáo dục có thể kích thích tinh
thần học hỏi và vươn lên không ngừng của những đối tượng
được đánh giá, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh chính
thức hoặc phi chính thức.
Trong quá trình quản lí dạy và học, căn cứ vào đặc
đIểm công việc và qui luật hoạt động của ngành giáo dục
chúng ta có thể sử dụng đánh giá để đôn đốc, tăng cường
tinh thần cạnh tranh giữa các đối tượng được đánh giá. Từ
đó có thể giúp cho những đối tượng này thực hiện được
những mục tiêu đề ra trong tương lai.

- Chức năng sàng lọc, lựa chọn:
Trong thực tế chúng ta phải thường xuyên tiến hành lựa
chọn, sàng lọc, phân loại đối tượng.
9
Kết quả của quá trình đánh giá sẽ giúp phân loại, sàng
lọc đối tượng và từ đó sẽ có những chiến lược phù hợp với
từng loại đối tượng, giúp đối tượng tiến bộ không ngừng.
- Chức năng cải tiến, dự báo:
Nhờ có đánh giá mới phát hiện được những vấn đề tồn
tại trong công tác dạy và học, từ đó tiến hành sử dụng các
biện pháp thích hợp để bù đắp những chỗ thiếu hụt hoặc loại
bỏ những sai sót không đáng có. Đó chính là chức năng cải
tiến và dự báo của đánh giá. Ví dụ, nhờ có phân tích và
nghiên cứu từng khâu, từng bước trong quản lí giáo dục và
kiểm tra đánh giá tính chính xác, độ thích hợp của các hoạt
đọng giáo dục, chúng ta mới có thể phán đoán hoặc dự báo
các vấn đề hoặc các khâu còn yếu kém trong công tác dạy và
học. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để tiến tới việc xác lập
mục tiêu cải tiến giáo dục.
Để tiến tới mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng
dạy và học, không thể thiếu đánh giá: đó chính là một trong
những ý nghĩa thực tế quan trọng nhất của công tác đánh
giá.
1.7. Đánh giá có những thành tựu quan trọng
Đánh giá cũng giống như các ngành khoa học khác, đều
có những thành tựu nhất định trong lịch sử phát triển của
10
mình, những thành tựu đó được con người vận dụng vào
trong thực tiễn quản lý (để quay trở lại đánh giá). Những
thành tựu đó là: các bộ chuẩn về tiêu chí đánh giá, quy trình

đánh giá (chuẩn cơ sở giáo dục, chuẩn chức danh, chuẩn
kiến thức, kĩ năng…); các mô hình đánh giá trong giáo
dục… Cụ thể như sau:
- Các bộ chuẩn:
+ Chuẩn kiến thức, kỹ năng: Chuẩn kiến thức kỹ năng là
một thành tựu của khoa học đánh giá. Nó là các yêu cầu cơ
bản, tối thiểu về kiến thức, kỹ năng của môn học, hoạt động
giáo dục mà học sinh cần phải và có thể đạt được sau từng
giai đoạn học tập. Chuẩn kiến thức, kỹ năng là căn cứ để
biên soạn sách giáo khoa, quản lý dạy học, đánh giá kết quả
giáo dục ở từng môn học, ngành học, hoạt động giáo dục
nhằm bảo đảm chất lượng và hiệu quả của quá trình giáo
dục. Đồng thời nó là cơ sở pháp lý cho công tác chỉ đạo,
quản lý, dạy học, đặt ra mức độ cần đạt để nhà trường thực
hiện dạy học đảm bảo những yêu cầu cơ bản, tối thiểu của
chương trình giáo dục.
Đối với chuẩn kiến thức, kỹ năng bậc phổ thống, Bộ
giáo dục đã ban hành Quyết định 16/2006/QĐ-BGD ĐT
ngày 5/5/2006 ban hành chương trình giáo dục phổ thông.
11
Đối với giáo dục đại học, chuẩn kiến thức kỹ năng thể hiện ở
khung chương trình giáo dục các ngành do Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành, và các trường phải tuân thủ.
+ Chuẩn chức danh. Bên cạnh các tiêu chuẩn về kiến
thức và kỹ năng, khoa học đánh giá cũng có thành tựu xây
dựng các chuẩn chức danh: Chuẩn hiệu trưởng các cấp,
chuẩn giáo viên các cấp…
+ Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục các cấp.
Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng giáo dục các cấp do Bộ
Giáo dục và Đào tạo ban hành là một thành tựu quan trọng

của khoa học đánh giá giáo dục ở Việt Nam. Dựa trên một
bộ chuẩn đã xác định một cách khách quan đảm bảo độ tin
cậy, chủ thể đánh giá so sánh với các đổi tượng để đánh giá
mức độ phù hợp chuẩn của các đối tượng. Đây là cách đánh
giá đảm bảo độ tin cậy và độ giá trị cao, cung cấp cho các
đối tượng đánh giá độ chênh lệch so với chuẩn để có kế
hoạch phấn đầu đạt chuẩn. Hiện nay, từ mầm non, tiểu học,
THCS, THPT cho đến cao đẳng, đại học đã có các bộ chuẩn
kiểm định chất lượng giáo dục.
- Bộ test
Các bộ test là một trong các thành tựu quan trọng của
khoa học đánh giá. Các bộ test nhằm đo các chỉ số phát triển
12
của con người về các khía cạnh khác nhau, có thể kể tên một
số bộ test dưới đây:
IQ: Chỉ số thông minh
EQ: Chỉ số thông minh cảm xúc
AQ: Chỉ số vượt khó
SQ: Chỉ số thông minh xã hội
PQ: Chỉ số đam mê
CQ: Trí thông minh sáng tạo
SQ: Trình độ biểu đạt ngôn ngữ
MQ: Chỉ số đạo đức
- Các mô hình đánh giá:
Ngoài các thành tựu kể trên, khoa học đánh giá còn để
lại thành tựu là các mô hình đánh giá. Có thể kể đến các mô
hình chủ yếu sau đây:
+ Mô hình đánh giá theo mục tiêu (Goal-based), hay mô
hình E B Taylor
+ Mô hình CIPP

+ Mô hình đánh giá sự khác biệt (Discrepancy
Evaluation Model)
+ Mô hình đánh giá không theo mục tiêu (Goal – Free
model)
13
Tóm lại, từ những phân tích trên đây có thể khẳng định
đánh giá là một khoa học
2. Mô tả việc sử dụng một trong những thành tựu của
khoa học đánh giá để quản lý
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc là đơn vị hiện nay em đang
công tác. Trường được thành lập năm 1997 theo quyết định
của Ủy ban nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc. Trải qua 17 năm hoạt
động, nhà trường không ngừng mở rộng quy mô và đa dạng
hóa loại hình hoạt động trên cơ sở đảm bảo chất lượng đội
ngũ và điều kiện cơ sở vật chất. Khi đề cập đến yêu cầu
“Hãy mô tả việc sử dụng một trong những thành tựu của
khoa học đánh giá để quản lý” tôi xin mô tả một thành tựu
quan trọng đã và đang được thực hiện tại nhà trường, đó là
công tác kiểm định chất lượng giáo dục.
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc là cơ sở đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục của
tỉnh, cung cấp nguồn nhân lực cho tỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông và yêu cầu phát triển
KT-XH của tỉnh.
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc luôn phấn đấu đạt mục
tiêu chất lượng trên mọi mặt hoạt động đáp ứng với chuẩn
giáo dục chung của cả nước. Muốn vậy, điều quan trọng
14
trước hết là phải đánh giá được những mặt mạnh, những mặt
còn tồn tại, từ đó, xây dựng kế hoạch hành động để tiếp tục

phát huy mặt mạnh, khắc phục mặt tồn tại, không ngừng cải
tiến và nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường.
Trường đã thành lập Hội đồng tự đánh giá để chỉ đạo
công tác tự đánh giá và kiểm định chất lượng của nhà
trường. Hội đồng tự đánh giá của trường do Hiệu trưởng làm
Chủ tịch, có 17 thành viên gồm: Ban Giám hiệu, Chủ tịch
công đoàn, Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, một số trưởng,
phó các phòng khoa và một số CBGV. Ban thư kí của Hội
đồng gồm 6 thành viên do Trưởng phòng Khảo thí và đảm
bảo chất lượng làm trưởng ban và một số cán bộ, giảng viên
làm uỷ viên. Năm nhóm công tác chuyên trách của Hội đồng
gồm 21 thành viên có trách nhiệm nghiên cứu, đánh giá 10
tiêu chuẩn với 55 tiêu chí của Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất
lượng trường Cao đẳng.
Dựa trên Bộ tiêu chuẩn kiểm định chất lượng trường
cao đẳng do Bộ GD&ĐT ban hành kèm theo Quyết định số
66/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 01/11/2007, được sửa đổi bổ
sung theo thông tư số 37/2012/QĐ-BGDĐT ngày
30/10/2012, Thông tư số 62/2012/TT-BGDĐT của Bộ
trưởng BGDĐT ngày 28/12/2012, căn cứ Kế hoạch Tự
15
đánh giá của nhà trường, các nhóm công tác chuyên trách
lập kế hoạch hoạt động, điều tra, thu thập minh chứng, viết
mô tả tiêu chí và hoàn thiện tiêu chuẩn. Ban Thư ký đã
tổng hợp, chỉnh sửa báo cáo Tự đánh giá của Trường sau
khi được Hội đồng Tự đánh giá và toàn thể các đơn vị
trong trường góp ý.
Trước khi đánh giá chi tiết từng tiêu chí theo Bộ tiêu
chuẩn kiểm định chất lượng, trường Cao đẳng Vĩnh Phúc
trình bày tổng quát những đặc trưng cơ bản của trường

tương ứng các tiêu chuẩn kiểm định nhằm đánh giá khái
quát những điểm mạnh và các mặt còn tồn tại, làm cơ sở xây
dựng chính sách và kế hoạch hành động, ngày một hoàn
thiện hơn các điều kiện đảm bảo thúc đẩy sự phát triển của
nhà trường.
Sau 6 tháng triển khai hoạt động Tự đánh giá, Hội
đồng đã hoàn thành bản báo cáo Tự đánh giá với 10 tiêu
chuẩn và 55 tiêu chí, tất cả đều được đánh giá ở mức đạt.
Bản báo cáo được Hiệu trưởng ký duyệt và gửi cho Cục
Khảo thí và Kiểm định chất lượng – Bộ GD&ĐT.
3. Bình luận
Kiểm định chất lượng là một trong những hoạt động
đảm bảo chất lượng bên ngoài các trường đại học – cao
16
đẳng. Kiểm định chất lượng giáo dục đã có một lịch sử phát
triển lâu dài ở Hoa Kỳ và Bắc Mỹ, nhưng trước đây ít được
các nước khác biết đến. Trong quá trình phi tập trung hoá và
đại chúng hoá giáo dục đại học, các chuẩn mực giáo dục đại
học bị thay đổi và khác khác nhau giữa các trường đại học
do chất lượng tuyển sinh đầu vào bị hạ thấp, qui mô tăng
nhanh nhưng tài chính tăng chậm, các yếu tố tiêu cực ở bên
ngoài tác động đến nhà trường. Đặc biệt, giáo dục đại học
của thế giới đang dần dần chuyển từ nền giáo dục đại học
theo định hướng của Nhà nước hay theo định hướng học
thuật của nhà trường sang nền giáo dục đại học theo định
hướng của thị trường. Trong bối cảnh đó, kiểm định chất
lượng trở thành một công cụ hữu hiệu của nhiều nước trên
thế giới để duy trì các chuẩn mực chất lượng giáo dục đại
học và không ngừng nâng cao chất lượng dạy và học.
Kiểm định chất lượng là một quá trình đánh giá bên

ngoài nhằm đưa ra một quyết định công nhận một trường đại
học hay một chương trình đào tạo của nhà trường đáp
ứng các chuẩn mực qui định. Một đánh giá không nhằm
mục đích đưa ra một quyết định công nhận thì không phải là
kiểm định chất lượng. Kiểm định, trong tiếng Anh - Mỹ là
Accreditation, còn trong tiếng Anh – Anh là Recognition.
17
Kiểm định chất lượng giáo dục là một vấn đề khá mới
mẻ ở Việt Nam nhưng đến nay, một hệ thống kiểm định chất
lượng giáo dục đã được triển khai trong cả nước, từ cấp tiểu
học đến đại học.
Nằm trong xu thế đó, trường Cao đẳng Vĩnh Phúc cũng
đã tham gia kiểm định chất lượng giáo dục với mong muốn
xác định được mức độ đáp ứng được các tiêu chuẩn của Bộ
giáo dục và Đào tạo, biết được điểm mạnh, điểm yếu của
mình để từ đó có kế hoạch cải tiến và nâng cao chất lượng.
Qua quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục nhà
trường đã rút ra một số kết luận sau đây:
Việc tự đánh giá chất lượng giáo dục giúp cho các cơ sở
đào tạo làm quen với cách đánh giá chất lượng các công việc,
các khâu trong quá trình đào tạo trên cơ sở định lượng và tiêu
chuẩn hóa, đảm bảo tính khách quan, trung thực.
Thông qua tự đánh giá, các nhà quản lý giáo dục buộc
phải triển khai và giám sát việc tổ chức đào tạo theo kế
hoạch, đồng thời nhận rõ những ưu điểm, nhược điểm của
chính đơn vị mình để kịp thời điều chỉnh và khắc phục.
Tự đánh giá còn giúp cho nhà trường từng bước hoàn
thiện bộ công cụ để áp dụng vào việc tổ chức và quản lý đào
18
tạo, thông qua đó có thể tiêu chuẩn hoá quy trình và nội dung

công việc đảm bảo tính khoa học nhằm đem lại hiệu quả cao.
Từ việc tự đánh giá, chất lượng giáo dục tại trường cao
đẳng Vĩnh Phúc, đội ngũ cán bộ giảng viên, công nhân viên
nhà trường đã rút ra được những kinh nghiệm quý báu trong
việc giảng dạy và quản lý giảng dạy. Việc nắm vững các tiêu
chuẩn, tiêu chí trong quá trình tự đánh giá, đội ngũ quản lý,
giảng viên, công nhân viên nhận thấy rằng để đảm bảo chất
lượng công tác đào tạo, tất cả các việc làm phải đảm bảo
tính kế hoạch, có quy trình hợp lý, khoa học trên tinh thần
dân chủ, công khai, minh bạch.
Trường Cao đẳng Vĩnh Phúc tổ chức tự đánh giá 10
tiêu chuẩn và 55 tiêu chí đánh giá chất lượng giáo dục
trường cao đẳng, trong 55 tiêu chí, nhà trường đạt được 54,
không đạt 01. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện tại đơn vị
công tác tự đánh giá cũng bộc lộ một số tồn tại như sau:
Tự đánh giá do chính những thành viên của nhà trường
trực tiếp thực hiện nên thường thiếu khách quan và do
những người không chuyên thực hiện.
Nhiều tiêu chí đánh giá chưa rõ ràng, một số kết quả của
công tác đánh giá còn mang nặng tính hình thức, …
19
Trên đây là một số nội dung liên quan đến công tác kiểm
định chất lượng đã và đang được áp dụng tại trường Cao
đẳng Vĩnh Phúc. Trong thời gian tới để công tác này mang
lại hiệu quả tốt hơn cần có sự phối hợp và chỉ đạo quyết liệt
của Ban giám hiệu nhà trường cũng như cần có sự ủng hộ và
tham gia hơn nữa của các thành viên trong nhà trường.
20

×