Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Thực trạng phát hành trái phiếu quốc tế ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (338.4 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
BỘ MÔN TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
Đề tài thảo luận
THỰC TRẠNG PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ Ở
VIỆT NAM
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: PHÙNG VIỆT HÀ
1
MỤC LỤC
Lời mở đầu………………………………………………………………4
I. LÝ THUYẾT……………………………………………………………4
1.1. Tổng quan về Tín dụng quốc tế……………………………………………… 4
1.2. Các hình thức Tín dụng quốc Tế……………………………………………….5
1.2.1. Nợ công và nợ nước ngoài…………………………………………………….5
1.2.2. Trái phiếu quốc tế và thị trường trái phiếu quốc tế……………………………6
1.2.2.1. Trái phiếu quốc tế………………………………………………………… 6
1.2.2.2. Thị trường trái phiếu quốc tế……………………………………………….7
II. TÌNH HÌNH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM HIỆN NAY…………………………………………………… 12
II.1. Tình hình phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam qua các giai đoạn…….12
II.1.1. Đợt phát hành đầu tiên năm 2005…………………………………………….13
II.1.2. Năm 2007…………………………………………………………………… 15
II.1.3. Năm 2009…………………………………………………………………… 17
II.1.4. Năm 2014…………………………………………………………………… 20
II.2. Trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp - Liên hệ thực tế CTCPXD Vinashin….22
II.2.1. Giới thiệu chung về doanh nghiệp Vinashin…………………………………22
II.2.2. Quá trình phát hành trái phiếu quốc tế của CTCPXD Vinashin…………… 23
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG………………………………………………… 25
III.1. Những tác động tích cực khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế…… 25
III.2. Những thách thức đối với kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính
quốc tế……………………………………………………………………… 26


Kết luận……………………………………………………………………….27
Tài liệu tham khảo………………………………………………………… 27
2
Lời mở đầu
Hội nhập kinh tế thế giới đã trở thành một xu thế khách quan đối với mọi quốc gia
trên thế giới. Làn sóng toàn cầu hóa diễn ra rất khẩn trương và mạnh mẽ. Việc gia nhập
tổ chức thương mại thế giới WTO đánh dấu bước tiến rất quan trọng đối với nền kinh tế
Việt Nam. Năm 2014, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,9% cao hơn 2013 (5,42%), đưa
Việt Nam trở thành nước có tốc độ tăng trưởng GDP cao thứ 2 trong trên thế giới (sau
Trung Quốc). Để đạt được tốc độ tăng trưởng như vậy, thì phải chuẩn bị nguồn lực thật
tốt và một trong những nguồn lực không thể thiếu là vốn.Đặc biệt trong giai đoạn hiện
nay nhu cầu vốn tăng cao và tăng dần qua các năm.
Việc huy động nguồn vốn trong và ngoài nước của Việt Nam đã đạt được kết quả
hết sức khả quan. Tuy nhiên, việc huy động vốn trong nước cũng chưa thật sự phát triển
mạnh, đặc biệt là nguồn vốn dài hạn. Do đó, để đẩy nhanh việc huy động nguồn huy động
dài hạn thì việc phát triển thị trường vốn trong thời gian sắp tới là cần thiết. Đặc biệt là
phát triển thị trường trái phiếu, đây là kênh dẫn vốn quan trọng để ổn định và phát triển
nền kinh tế đất nước.
Với tính cấp thiết của việc phát hành trái phiếu, nhóm 8 chọn đề tài “Thực trạng
phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam” nhằm đưa ra cái nhìn rõ hơn về thị trường
này, từ đó có những giải pháp mang tính định hướng để việc phát triển trái phiếu quốc tế
của Việt Nam hoạt động hiệu quả trong ngắn hạn và dài hạn trên thị trường vốn quốc tế.
I. LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quát về Tín dụng quốc tế.
Lịch sử phát triển cho thấy, tín dụng là một phạm trù kinh tế và cũng là một sản phẩm
của nền sản xuất hàng hoá. Nó tồn tại song song và phát triển cùng với nền kinh tế hàng
hoá và là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển lên những giai
đoạn cao hơn. Tồn tại và phát triển qua nhiều hình thái kinh tế-xã hội, đã có nhiều khái
niệm khác nhau về tín dụng được đưa ra. Song khái quát lại có thể hiểu tín dụng theo
khái niệm cơ bản sau:

“Tín dụng là một phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ giao dịch giữa hai chủ thể,
trong đó một bên chuyển giao một lượng giá trị sang cho bên kia được sử dụng trong
một thời gian nhất định, đồng thời bên nhận được phải cam kết hoàn trả theo thời hạn đã
thoả thuận”.
3
Mối quan hệ giao dịch này thể hiện các nội dung sau:
- Người cho vay chuyển giao cho người đi vay một lượng giá trị nhất định. Giá trị này
có thể dưới hình thái tiền tệ hoặc dưới hình thái hiện vật như: hàng hoá, máy móc, thiết
bị, bất động sản.
- Người đi vay chỉ được sử dụng tạm thời trong một thời gian nhất định, sau khi hết
thời hạn sử dụng theo thoả thuận, người đi vay phải hoàn trả cho người cho vay.
- Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay ban đầu hay nói cách khác
người đi vay phải trả thêm phần lợi tức (lãi vay).
- Tóm lại, tín dụng là phạm trù kinh tế phản ánh mối quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau
giữa các chủ thể trong nền kinh tế trên nguyên tắc hoàn trả cả vốn lẫn lãi.
1.2. Các hình thức Tín dụng quốc tế.
1.2.1. Nợ công và nợ nước ngoài.
• Nợ công
Một cách khái quát nhất, có thể hiểu nợ chính phủ, nợ công hoặc nợ quốc gia là tổng
giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay
nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách, vì thế, nợ chính phủ, nói cách khác, là
thâm hụt ngân sách luỹ kế tính đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của
nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với
tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
• Nợ nước ngoài
Nợ nước ngoài là một khái niệm cần làm rõ để quản lý một cách hiệu quả, với cách
hiểu khác nhau sẽ cho số liệu khác nhau dẫn đến đánh giá và giải quyết vấn đề nợ khác
nhau. Theo quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài (Ban hành kèm nghị định số
90/1998/NĐ-CP ngày 07/11/1998 của Chính phủ) thì không gọi là nợ mà gọi là vay nước
ngoài: “Vay nước ngoài là khoản vay ngắn, trung và dài hạn (có hoặc không có lãi) do

Nhà nước Việt Nam, Chính phủ Việt Nam hoặc doanh nghiệp là pháp nhân Việt Nam (kể
cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) vay của tổ chức tài chính quốc tế, của Chính
phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức và cá nhân nước ngoài khác (sau đây
gọi là bên cho vay nước ngoài)”. Như vậy, theo cách hiểu này nợ nước ngoài là tất cả các
khoản vay mượn của tất cả các pháp nhân Việt Nam đối với nước ngoài và không bao
gồm nợ của các thể nhân (nợ của cá nhân và hộ gia đình). Theo 8 tổ chức quốc tế nghiên
cứu thống kê nợ nước ngoài, gồm Ngân hàng Thanh toán Quốc tế, Ban Thư ký Khối
4
Thịnh Vượng chung, Tổ chức Thống Kê Châu Âu, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế, Ban Thư ký Câu lạc bộ Paris, Hội nghị về Thương mại và Phát
triển của Liên Hiệp Quốc, nợ nước ngoài được thống nhất định nghĩa: “Tổng nợ nước
ngoài tại bất kỳ thời điểm nào, là tổng dư nợ của các nghĩa vụ nợ tại thời điểm đó, không
bao gồm các nghĩa vụ nợ dự phòng, đòi hỏi người đi vay phải thanh toán nợ gốc có hay
không có lãi trong tương lai và khoản nợ này là nợ của người cư trú với người không cư
trú trong quốc gia”.
1.2.2. Trái phiếu quốc tế và thị trường trái phiếu quốc tế
1.2.2.1. Trái phiếu quốc tế
• Khái niệm
Trái phiếu quốc tế là chứng chỉ vay nợ do nhà phát hành bao gồm chính phủ, chính
quyền địa phương các tổ chức kinh tế của một nước hay các tổ chức tài chính quốc tế
phát hành trên thị trường vốn quốc tế nhằm huy động vốn từ các nhà đầu tư trên thế giới.
• Phân loại
Phân loại theo nhà phát hành
- Trái phiếu chính phủ - Trái phiếu doanh nghiệp, ngân hàng
- Trái phiếu của các tổ chức quốc tế
Phân loại theo thị trường phát hành
- Trái phiếu nước ngoài
- Trái phiếu châu Âu
Phân loại theo lãi suất
- Trái phiếu có lãi suất cố định

- Trái phiếu có lãi suất biến đổi
- Trái phiếu có lãi suất chiết khấu
• Đặc điểm
a. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính
+ Mệnh giá.
+ Lãi suất định kỳ (coupon).
5
+ Thời hạn.
b. Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ – con nợ giữa người phát hành và người đầu
tư.
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn và
như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu
(trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn,
song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành.
c. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố:
+ Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào
chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân
sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
+ Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro của lãi
suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng cao.
+ Thời gian đáo hạn của trái phiếu. Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như nhau, nhìn
chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
1.2.2.2. Thị trường trái phiếu quốc tế - khái niệm, phân loại và diễn biến
• Khái niệm và phân loại
Theo cách phân loại cơ bản thì thị trường trái phiếu quốc tế gồm có thị trường trái
phiếu nước ngoài (Foreign bond market), thị trường trái phiếu Châu Âu (Eurobond
Market). Nói đơn giản, thị trường trái phiếu quốc tế là nơi mà các chủ thể phát hành và
chủ thể đầu tư đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Khi một trái phiếu do người không cư trú
phát hành vào một quốc gia mà được định giá bằng bản tệ của quốc gia đó thì trái phiếu
đó gọi là trái phiếu nước ngoài và tạo nên thị trường trái phiếu nước ngoài. Khi một trái

phiếu được do người không cư trú phát hành vào một quốc gia mà được định giá bằng
đồng tiền không phải nội tệ quốc gia đó thì gọi là trái phiếu Châu Âu và tạo ra thị trường
trái phiếu Châu Âu. Global bond là loại trái phiếu được phát hành đồng thời ở nhiều quốc
gia khác nhau, được định giá bằng nhiều loại tiền tệ, là nội tệ của các quốc gia được phát
hành. Do đó, có tài liệu phân loại Euro Bond là một phần của Global bond.
6
II. TÌNH HÌNH PHÁT HÀNH TRÁI PHIẾU QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tình hình phát triển trái phiếu quốc tế của Việt Nam qua các giai đoạn
Trong giai đoạn hiện nay và những năm tới, nhu cầu vốn cho sự nghiệp công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước ngày càng lớn. Bên cạnh việc khai thác nguồn vốn đầu tư trong
nước, cần phải huy động nguồn vốn từ nước ngoài bằng các hình thức khác nhau để đáp
ứng nhu cầu phát triển đất nước. Vì vậy, Việt Nam đã mạnh dạn tham gia thị trường trái
phiếu Quốc tế và đã thu được những tín hiệu đáng mừng song song với những lo ngại và
thách thức! Cùng điểm lại các đợt phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam ra thị
trường thế giới, đặc biệt là lần phát hành đầu tiên vào năm 2005.
2.1.1. Đợt phát hành đầu tiên 2005
Đề án phát hành trái phiếu quốc tế đã được Bộ Tài chính “thai nghén” từ cách đây
hơn 10 năm. Năm 1994, ngay sau khi Trung Quốc phát hành trái phiếu lần đầu tiên ra thị
trường thế giới, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Tài chính bắt tay vào nghiên cứu, học hỏi kinh
nghiệm để xây dựng đề án này. Năm 2005, thời cơ đã đến khi các yếu tố “thiên-thời-địa-
lợi” chín muồi: Kinh tế trong nước phát triển, nợ nước ngoài ở mức an toàn, thị trường tài
chính thế giới ổn định cộng với nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ngày một lớn.
Việc Việt Nam lựa chọn thời điểm cuối tháng 10/2005 để phát hành trái phiếu là hết
sức đúng đắn bởi trong khi vay thương mại từ các ngân hàng trong nước đang ở một mặt
bằng lãi suất cao thì việc huy động nguồn ngoại tệ từ bên ngoài với lãi suất thấp hơn sẽ
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Đặc biệt, trong bối cảnh nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) đang
ngày càng bị thu hẹp dần và dự kiến đến năm 2010 sẽ “biến mất” khỏi cơ cấu vốn vay, thì
trái phiếu sẽ trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.

"Hiếm thấy lần phát hành trái phiếu Chính phủ đầu tiên nào thu được thành công như
của Việt Nam" là nhận định được nhiều nhà đầu tư nước ngoài đưa ra. Bằng chứng là số
lượng nhà đầu tư đặt mua trái phiếu lên tới trên 255 nhà đầu tư lớn (so với 150 nhà đầu tư
mua trái phiếu của Chính phủ Indonesia đầu tháng 10/2005). Tính trung bình, mỗi nhà
đầu tư chỉ mua được khoảng 20% lượng đặt mua, thậm chí có nhà đầu tư không mua
được trái phiếu. Việc nhiều nhà đầu tư lớn tham gia mua trái phiếu Việt Nam sẽ là điều
kiện tốt để tăng tính thanh khoản cho trái phiếu khi giao dịch trên thị trường thứ cấp, tạo
thuận lợi cho những lần phát hành tiếp theo.
7
Ngay ngày đầu tiên tại Hồng Kông (19/10), số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã đạt
khoảng 1 tỷ USD, gấp 2 lần số lượng trái phiếu Chính phủ Việt Nam định phát hành. Đến
ngày 26/10, sau khi Chính phủ quyết định tăng khối lượng phát hành thêm 250 triệu
USD, số lượng các nhà đầu tư đặt mua đã tăng lên tới hơn gấp 3 lần từ mức trên 1 tỷ
USD lên khoảng 3 tỷ USD. Ngày định giá trái phiếu, 29/10, số lượng các nhà đầu tư đặt
mua đã lên tới con số kỷ lục 4,5 tỷ USD, tức là gấp 6 lần mức Chính phủ Việt Nam phát
hành trong đợt này. Tất cả các nhà đầu tư quan trọng, có uy tín lớn trên thị trường tài
chính thế giới từ Châu Á, Châu Âu và Châu Mỹ đều quan tâm tham gia đặt mua trái
phiếu của Chính phủ VN với số lượng lớn. Đặc biệt lần này một số Ngân hàng trung
ương và các tổ chức đầu tư của Chính phủ các nước trong khu vực Châu Á đặt mua tới 50
- 100 triệu USD. Trong đó có Ngân hàng dự trữ quốc gia Malaysia tính đến nay chưa
từng mua trái phiếu Chính phủ của quốc gia nào thì nay đã đặt mua trái phiếu của Chính
phủ VN. Đặc biệt, còn dùng cả tiền dự trữ để tham gia mua 50 triệu USD. Điều này
chứng tỏ, sức hút mạnh mẽ của trái phiếu Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế.
Kết quả, 750 triệu USD trái phiếu đã được bán hết với lãi suất danh nghĩa là
6,875%/năm; trong đó các nhà đầu tư châu Á nắm giữ 38%, châu Âu 32% và Mỹ là 30%.
Trong số các nhà đầu tư này, các quỹ đầu tư tài chính là đối tượng quan tâm nhiều nhất
đến trái phiếu của Việt Nam (chiếm tới 52%), còn lại là ngân hàng (25%), các công ty
bảo hiểm (17%) và các tổ chức tài chính khác (7%).
Lãi suất coupon là 6,875%, giá bán là 99,223 USD. Điều này có nghĩa là lãi suất thực
mà Việt Nam phải trả cho trái phiếu này là 7,13%/năm. Mức lãi suất này được coi là thấp

so với các nước có mức tín nhiệm tương đương với Việt Nam. Ở thời điểm hiện tại, lãi
suất trái phiếu chính phủ của Indonesia là 7,717%/năm, Philippines là 8,59%. Hầu hết các
nước Nam Mỹ như Brasil, Argentina, Colombia đều phải chịu mức lãi suất cao hơn 7,5%.
So với một số nền kinh tế mạnh như Hàn Quốc, Úc, Nga thì mức lãi suất mà Việt Nam
phải chịu chỉ cao hơn từ 1,32-1,65%.
30 giây sau khi được định giá phát hành ở thị trường sơ cấp, trái phiếu Chính phủ Việt
Nam đã được giao dịch trên thị trường thứ cấp và giá trái phiếu đã tăng khoảng 5 điểm,
sau 15 phút tăng lên 10 điểm và đến ngày 1/11 vẫn giữ ở mức tăng 10 điểm so với lúc
định giá phát hành
Việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam thành công là một tín hiệu tích cực.
Điều này thể hiện mức tín nhiệm của Việt Nam đã gia tăng làm cho các nhà đầu tư nước
ngoài yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Có thể sau sự kiện này, việc thu hút nguồn
vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp (FDI) cũng như gián tiếp (FPI) sẽ gia tăng, thúc đẩy hơn
8
nữa kinh tế Việt Nam tăng trưởng. Việc trái phiếu bán chạy trên thị trường quốc tế cũng
là điều kiện để Việt Nam có thể huy động thêm nguồn vốn, tăng cường đầu tư, thúc đẩy
cỗ máy tăng trưởng, khi mà nguồn vốn trong nước đang đi dần đến điểm bão hòa, khó
huy động hơn. Việc phát hành trái phiếu quốc tế của Việt Nam sẽ có những tác tích cực.
Tuy nhiên, nếu không có những giải pháp hợp lý, những bất lợi sẽ nổi lên, đôi khi triệt
tiêu hẳn những tác động tích cực, thậm chí còn làm cho tình huống trở nên tồi tệ hơn.
Huy động trái phiếu có nghĩa là chính phủ đi vay ở nước ngoài. Đã đi vay thì phải trả
mà còn phải trả với lãi suất cao. Một khoản đi vay chỉ có thể trả được khi suất sinh lợi mà
nó làm ra tối thiểu phải bằng lãi suất đi vay. Con số cụ thể ở đây là 7,125%. Vấn đề đặt ra
đầu tiên đối với khoản vay này là phải sử dụng một cách hiệu quả. Có nghĩa là, việc sử
dụng khoản vốn này không được rơi vào vết xe đổ của các khoản vốn vay ODA.
Đây là đợt phát hành TPQTCP lần đầu tiên của VN ra thị trường vốn quốc tế và giao
dịch này khẳng định cam kết của VN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Đây là
bước đi "khai phá" đầy thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận vào thị trường
vốn quốc tế. Tín hiệu vui là thị trường quốc tế đã đón nhận mạnh mẽ và hi vọng giao dịch
lần này sẽ khuyến khích hơn nữa sự quan tâm của các nhà đầu tư đối với VN. Đợt huy

động vốn từ Quốc tế lần đầu tiên của Việt Nam đã mang lại những dấu hiệu tốt song bên
cạnh đó cần phải xem xét để sử dụng nguồn vốn ấy thật hợp lí, để không trở nên lãng phí,
thành gánh nặng cho thế hệ sau.
2.1.2. Năm 2007
Huy động vốn qua phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế đang được xem là xu
hướng phát triển tất yếu của thị trường vốn Việt Nam. Năm 2005, lần đầu tiên Chính phủ
VN phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế đã thành công rực rỡ. Sau đợt
phát hành thành công này, việc tìm nguồn vốn trên thị trường quốc tế trở thành một kênh
huy động đầy hứa hẹn với nhiều tổng công ty lớn và các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo Bộ Tài chính, trong giai đoạn 2006-2010, Việt Nam cần có nguồn vốn đầu tư
khoảng 140 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước là 91 tỷ USD – chiếm tỷ trọng 65%,
phần còn lại khoảng 49 tỷ USD dự kiến huy động bổ sung từ các nguồn vốn bên ngoài
như FDI – 13 tỷ USD, ODA – 11 tỷ USD và vay thương mại của Chính phủ, doanh
nghiệp khoảng 25 tỷ USD.
Bộ Tài chính đánh giá việc phát hành trái phiếu lần này sẽ tiếp tục khả quan do hệ số
tín nhiệm của Việt Nam năm 2006 - 2007 đã được cải thiện. Công ty đánh giá hệ số tín
nhiệm Moody’s nâng đánh giá về triển vọng cho Việt Nam từ “ổn định” lên “tích cực” là
9
tiền đề cho việc nâng hạng cho Việt Nam thời gian tới. Ngoài ra, OECD cũng đã nâng
mức phân loại rủi ro cho Việt Nam từ bậc 5 lên bậc 4 giúp mức bảo hiểm tín dụng cho
các khoản vay của Việt Nam giảm được khoảng 3%.
Bên cạnh đó, tình hình giao dịch trái phiếu Việt Nam trên thị trường thứ cấp sau đợt
phát hành năm 2005 cũng khả quan. Trái phiếu Chính phủ sau khi phát hành tăng giá liên
tục lên 104% (tương đương mức lãi suất 6,4-6,5%) trong suốt thời gian dài. Từ đầu năm
đến nay, giá trái phiếu có xu hướng tăng ổn định, tại thời điểm ngày 24/4/2007, mức giá
đã đạt tới 107,5% - tương đương lãi suất 5,766%.
Căn cứ vào các biến động thị trường và lãi suất trái phiếu kho bạc Hoa Kỳ, Bộ Tài
chính nhận định rằng năm 2007 là thời điểm thuận lợi để phát hành trái phiếu ra thị
trường vốn quốc tế.
Ngày 5.6, Chính phủ đã thông qua đề án phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam ra

thị trường vốn quốc tế năm 2007 với giá trị khoảng 1 tỉ USD có thời hạn 15 và 20 năm.
Sau khi Văn phòng Chính phủ đã hoàn chỉnh các thủ tục để trình lên Thủ tướng, Thủ
tướng ký ban hành nghị quyết về vấn đề này.
Bộ Tài chính lựa chọn khoảng 3 ngân hàng đầu tư nước ngoài hàng đầu làm đồng bảo
lãnh chính - đồng quản lý sổ đăng ký đầu tư theo hình thức chào thầu trực tiếp. Được
biết, nguồn vốn 1 tỉ USD từ việc phát hành trái phiếu dự kiến được phân bổ cho dự án
Nhà máy lọc dầu Dung Quất là 700 triệu USD (thời hạn vay 16 năm); cho dự án thủy
điện Xê Ca Mản 3 là 60 triệu USD (thời gian thu hồi vốn khoảng 10 năm) và cho dự án
mua tàu vận tải của Tổng công ty hàng hải Việt Nam (Vinalines) là 240 triệu USD.
Có thể nói, năm 2007, thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng
khá khả quan, bất chấp thị trường tài chính Việt Nam biến động, với quy mô tăng từ 11%
GDP năm 2006 lên 13% GDP cuối 2007. Sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài đã tăng
lên đáng kể, khối này đã mua 50% khối lượng trái phiếu phát hành. Mặc dù tính thanh
khoản của Thị Trường Trái Phiếu Việt Nam vẫn bị hạn chế do tồn tại quá nhiều loại
nhưng tới năm 2008, khả năng phát triển của thị trường này vẫn được đánh giá là khá lớn.
Đây sẽ là động lực cơ bản cho sự thành công của các kế hoạch phát hành Trái phiếu Quốc
tế.
Mặc dù nhận thức rõ các lợi ích có thể đem lại từ phát hành trái phiếu quốc tế, song
hiện nay, việc phát hành loại trái phiếu này đang gặp phải rất nhiều khó khăn trước mắt.
Kế hoạch phát hành 1 tỷ USD trái phiếu ra thị trường quốc tế từ tháng 6/2007 đã bị hoãn
lại, và vẫn chưa có doanh nghiệp nào tiếp tục thực hiện được hoạt động này. Bắt nguồn từ
10
bối cảnh kinh tế toàn cầu, đặc biệt là nền kinh tế Mỹ gặp khó khăn, thị trường tài chính
quốc tế tạm rơi vào tình trạng trầm lắng khiến các nhà đầu tư Mỹ cũng như các nước
khác có phần dè dặt hơn trong việc tham gia đầu tư vào trái phiếu của các quốc gia khác.
Về phía bản thân các chủ thể trong nước, để phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế
thì hiện tại doanh nghiệp vẫn đang gặp các trở ngại nhất định về định giá hệ số tín nhiệm,
về năng lực tài chính, về khâu kiểm toán Điều quan trọng nhất lúc này là các doanh
nghiệp Việt Nam phải chuẩn bị tất cả các điều kiện phát hành và chờ đến khi thị trường
phục hồi trở lại sẽ chớp lấy thời cơ. doanh nghiệp Việt Nam phải xác định được nhà đầu

tư vào trái phiếu là ai để công bố công khai kế hoạch phát hành, mục đích huy động vốn,
tình hình hoạt động một cách minh bạch. Đây là điều kiện tối cần thiết để đẩy nhanh
tiến trình thâm nhập thị trường vốn quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam, từ đó tạo
tiền lệ mở đường cho phát hành cổ phiếu và niêm yết quốc tế.
2.1.3. Năm 2009
Đợt I
Ngày 13/02/09, Thủ tướng vừa ký ban hành Quyết định số 211/QĐ-TTg về việc phát
hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trên thị trường vốn trong nước.
Theo đó, Bộ Tài chính sẽ quyết định khối lượng của từng đợt phát hành trên cơ sở
nhu cầu vốn đầu tư cho các dự án trọng điểm và nhu cầu bù đắp bội chi ngân sách nhà
nước. Và để huy động vốn cho các công trình trọng điểm phục vụ nhập khẩu thiết bị, máy
móc. Đồng thời, Thủ tướng cũng giao Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định lãi suất trái
phiếu cho từng đợt phát hành sau khi tham khảo ý kiến của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước.
Kỳ hạn trái phiếu là 1 năm trở lên, được niêm yết và giao dịch tại sở giao dịch chứng
khoán. Trái phiếu Chính phủ được phát hành theo phương thức bảo lãnh, đấu thầu hoặc
bán lẻ thông qua hệ thống kho bạc Nhà nước.
Ngày 12/3/2009, Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 505/QĐ-BTC về việc phát
hành trái phiếu đợt I năm 2009. Cụ thể, trái phiếu được phát hành, niêm yết, giao dịch và
thanh toán bằng đồng USD. Mệnh giá trái phiếu: 100 USD/trái phiếu hoặc bội số của
100 USD. Trong đó, loại trái phiếu phát hành dưới hình thức ghi sổ, huy động 100
triệu USD kỳ hạn 1 năm; 100 triệu USD loại trái phiếu có kỳ hạn 2 năm và 100
triệu USD loại trái phiếu có kỳ hạn 3 năm.
11
Trái phiếu có lãi suất cố định áp dụng cho cả kỳ hạn; Lãi suất đặt thầu được tính theo
tỉ lệ phần trăm (%) và có phần thập phân tối đa là 2 chữ số; Lãi suất trần sẽ do Bộ trưởng
Bộ Tài chính quy định; Lãi suất trúng thầu được xác định trên sơ sở kết quả đấu thầu.
Tiền lãi trái phiếu được thanh toán định kỳ hàng năm vào ngày phát hành trái phiếu;
Tiền gốc trái phiếu được thanh toán một lần bằng mệnh giá khi đến hạn. Ngân sách Nhà
nước đảm bảo nguồn thanh toán gốc, lãi trái phiếu khi đến hạn.

Ngày 16/6, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch phát hành trái phiếu Chính phủ
bằng ngoại tệ năm 2009 khoảng 1 tỷ USD cho mục đích đầu tư cho các dự án trọng điểm
và bù đắp bội chi ngân sách Nhà nước, theo Quyết định số 211/QĐ-TTg ngày 13/2/2009
của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trên thị
trường vốn trong nước.
Thủ tướng giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục theo dõi quan hệ cung cầu trên thị trường để xem xét
quyết định việc phát hành trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ tại thị trường vốn trong
nước các đợt tiếp theo trong năm 2009 vào thời điểm thích hợp.
Đợt II
Ngày 17/8, Bộ Tài Chính ban hành Quyết định 1958/QĐ- BTC về việc phát hành trái
phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ đợt II năm 2009. Theo đó, Kho bạc Nhà nước phát hành
thêm trái phiếu Chính phủ bằng ngoại tệ trên thị trường nội địa với tổng khối lượng phát
hành là 250 triệu. Thời gian phát hành từ ngày 20/8/2009 đến hết ngày 31/8/2009, trong
đó loại trái phiếu có kỳ hạn 1 năm có khối lượng 100 triệu USD; kỳ hạn 2 năm có khối
lượng 100 triệu USD và kỳ hạn 3 năm có khối lượng 50 triệu USD.
Trái phiếu sẽ được bán bằng mệnh giá là 100 USD/trái phiếu và được phát hành thông
qua hình thức đấu thầu tại Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Đợt phát hành trái phiếu
bằng ngoại tệ lần này nhằm mục đích đầu tư cho các dự án trọng điểm và bù đắp bội chi
Ngân sách Nhà nước.
Kết quả hai đợt phát hành trái phiếu:
Đợt 1:
12

Nguồn từ
HNX
Đợt 2:
Đợt đấu thầu Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
Ngày đấu thầu
24/08/200

9 26/08/2009 28/08/2009
Kỳ hạn trái phiếu 1 năm 2 năm 3 năm
Số lượng thành viên tham gia 10 6 2
Mức lãi suất đăng ký thấp nhất 2,00% 2,90% 3,80%
Mức lãi suất đăng ký cao nhất 4,50% 4,50% 5,00%
Lãi suất trúng thầu 2,98% 3,75% 3,90%
Lãi suất trần 2,98% 3,75% 3,90%
Số tiền đăng ký (triệu USD) 370 67 30
Số tiền gọi thâu (triệu USD) 100 100 100
13
Đợt đấu thầu Đợt 1 Đợt 2 Đợt 3
Ngày đấu thầu
20/03/200
9
24/03/200
9
27/03/200
9
Kỳ hạn trái phiếu 1 năm 2 năm 3 năm
Số lượng thành viên tham gia 30 13 7
Mức lãi suất đăng ký thấp nhất 1,50% 1,95% 2,15%
Mức lãi suất đăng ký cao nhất 6,00% 6.00% 7,00%
Lãi suất trúng thầu 3,00% 3,20% 3,60%
Lãi suất trần 3,00% 3,30% 3,60%
Số tiền đăng ký (triệu USD) 766 494 362,1
Số tiền gọi thầu (triệu USD) 100 100 100
Khối lượng trúng thầu (triệu
USD) 100 80.01 50.1
Khối lượng trúng thầu (triệu USD) 100 47 10
Thống kê từ HNX

Bảng 1,2 cho thấy chính phủ đã có một số thất bại trong việc phát hành trái phiếu.
Trong khi các phiên đấu thầu kỳ hạn 1 năm được nhà đầu tư quan tâm chú ý thì các kỳ
hạn 2 và 3 năm lại ít quan tâm hơn.
Trong đợt phát hành trái phiếu chính phủ lần thứ nhất (3/2009) đã huy động được 230
triệu trong ba phiên đấu thầu với lãi suất trúng thầu là 3,00% - 3,60%.
Đợt phát hành trái phiếu Chính phủ (TPCP) lần thứ 2 (tháng 8/2009) đã kết thúc với
tổng số tiền huy động được trong 3 phiên đấu thấu là 157 triệu USD, lãi suất trúng thầu
từ 2,98% - 3,9%/năm.
Cũng giống như lần phát hành trái phiếu CPTCP lần 1 (tháng 3/2009), phiên đấu giá
chỉ thành công ở kỳ hạn 1 năm còn các kỳ hạn 2 và 3 năm đều có khối lượng đặt mua rất
thấp. Cụ thể khối lượng được chào bán ra lần này là 250 triệu USD nhưng chỉ bán được
157 triệu (trên 50%).
Đợt phát hành TPCP ngoại tệ lần này không có sức hấp dẫn như hồi đầu năm khi số
tiền đăng ký chỉ gấp 3,7 lần so với lượng gọi thầu. Con số này thấp hơn nhiều so với tỷ số
đăng ký/gọi thầu bằng 7,66 lần trong lần đấu thầu đầu tiên.
Lý do của việc “không nóng” là áp lực giải ngân của các ngân hàng khác nhau giữa
hai lần đấu thầu. Trong lần gọi thầu đầu tiên, các ngân hàng huy động được nhiều USD
trong khi lượng cho vay rất ít. Thống kê cho thấy ba tháng đầu năm số dư tiền gửi ngoại
tệ tăng 3.6% so với đầu năm trong khi tốc độ tăng dư nợ tín dụng ngoại tệ chỉ là 2,24%.
Do vậy, các ngân hàng có lượng ngoại tệ khá dồi dào và cần giải ngân. Bước sang quý 2,
mức độ chênh lệch giữa huy động và cho vay đã giảm dần. Vào tháng 5, tốc độ tăng
trưởng tiền gửi và cho vay ngoại tệ đều có mức tăng 0,68% so với tháng trước. Chính vì
vậy các ngân hàng không cần thiết phải tham gia mua trái phiếu trong đợt phát hành lần
này. Nếu so lãi suất trần 2,98%/năm với lãi suất cho vay ngoại tệ 3%-5%/năm, các ngân
hàng rõ ràng không mặn mà với TPCP ngoại tệ. Nói cách khác, tín dụng ngoại tệ càng
hấp dẫn là một tín hiệu không tốt cho phát hành TPCP ngoại tệ.
Bảng 3: So sánh huy động và cho vay ngoại tệ
14
Nguồn: NHNN
2.1.4. Năm 2014

Thực hiện Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 16 tháng 10 năm 2014 của Chính phủ, vào
lúc 1 giờ chiều giờ San Francisco (Mỹ) ngày 6/11/2014 (tức 4 giờ sáng ngày 7/11/2014
giờ Việt Nam) Bộ Tài chính đã phát hành thành công trái phiếu Chính phủ kỳ hạn 10 năm
ra thị trường vốn quốc tế với tổng khối lượng 1 tỷ Đô la Mỹ theo hình thức 144A/Quy
chế S. Đợt chào bán trái phiếu lần này diễn ra đồng thời với giao dịch hoán đổi hai trái
phiếu Chính phủ đã phát hành ra thị trường vốn quốc tế trước đó với đến hạn thanh toán
vào năm 2016 và 2020.
Với điều kiện thị trường vốn quốc tế diễn biến thuận lợi và nhu cầu nắm giữ trái phiếu
Chính phủ Việt Nam của các nhà đầu tư quốc tế đạt mức kỷ lục so với khối lượng phát
hành, trái phiếu quốc tế của Chính phủ đạt mức lãi suất cố định 4,8%/năm, thấp hơn mức
dự kiến là 5,125%/năm, đây là mức lãi suất thấp nhất trong các đợt phát hành từ trước
đến nay (lần lượt là 6,875%/năm và 6,755/năm đối với trái phiếu phát hành năm 2005 và
2010).
Cùng với việc Fitch nâng hệ số tín nhiệm quốc gia của Việt Nam lên một bậc (từ B+
lên BB-) và Moody (từ B2 lên B1), thành công của đợt phát hành trái phiếu Chính phủ ra
thị trường vốn quốc tế lần này đã giúp thiết lập mức lãi suất chuẩn thấp hơn nhiều so với
trước, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam huy động vốn trên thị
trường quốc tế với lãi suất hợp lý hơn so với trước đây. Đồng thời, đợt phát hành trái
phiếu lần này cũng giúp giảm rủi ro tái cấp vốn và rủi ro lãi suất đối với danh mục nợ
nước ngoài của Chính phủ. Đây là việc chủ động thực hiện nghiệp vụ quản lý rủi ro đối
với danh mục nợ công, tiếp cận với thông lệ quản lý nợ công của quốc tế.
Tổng trị giá đăng ký mua trái phiếu của Chính phủ từ 437 nhà đầu tư quốc tế là trên
[10,6] tỷ Đô la Mỹ, gấp hơn 10 lần so với lượng chào bán ra là 1 tỷ Đô la Mỹ, trong đó
có [17%] nhà đầu tư ở Châu Á, [28%] nhà đầu tư ở Châu Âu và [55%] nhà đầu tư ở
Mỹ. Nếu phân loại theo loại hình nhà đầu tư, có [84%] nhà đầu tư là các công ty quản lý
quỹ đầu tư, [12%] nhà đầu tư là các ngân hàng và [4%] nhà đầu tư là các công ty bảo
hiểm và quỹ hưu trí. Tổng mệnh giá đăng ký hoán đổi lại trái phiếu đã phát hành được
15
chấp nhận mua lại là 726.626.000 Đô la Mỹ, trong đó mua lại 436.452.000 Đô la Mỹ trái
phiếu phát hành năm 2005 và 290.174.000 Đô la Mỹ trái phiếu phát hành năm 2010.

Các ngân hàng là Deutsche Bank, HSBC, và Standard Chartered Bank đóng vai trò là
Tổ hợp quản lý cho đợt phát hành trái phiếu và giao dịch hoán đổi/mua lại các trái phiếu
cũ. HSBC là ngân hàng thanh toán và phân phối trái phiếu.
Thành công của đợt phát hành trái phiếu 2014 được thể hiện ở một số mặt sau:
Lãi suất phát hành thấp (4,8%/năm so với mức lãi suất dự kiến ban đầu khi chào bán
là 5,125%/năm), tiết kiệm được khoảng 32,5 triệu USD tiền thanh toán lãi trái phiếu
Chính phủ (trong 10 năm);
Hoán đổi được 54,4% giá trị gốc của trái phiếu quốc tế 2005 và 25,4% giá trị gốc của
trái phiếu quốc tế 2010 với tổng lợi ích sau khi hoán đổi là 13,9 triệu USD; góp phần cơ
cấu lại nợ công theo hướng kéo dài thời hạn vay và giảm áp lực về nghĩa vụ trả nợ theo
đúng tinh thần chỉ đạo của Chính phủ.
Với thành công vượt mức mong đợi về lãi suất đối với trái phiếu mới phát hành lần
này, đồng thời tận dụng thị trường vốn quốc tế đang diễn biến rất thuận lợi, Bộ Tài chính
đang nghiên cứu và báo cáo Chính phủ khả năng phát hành trong thời gian tới để tiếp tục
chủ động tái cơ cấu danh mục nợ công hiện hành. (Nguồn: Bộ Tài Chính ngày
07/11/2014.)
2.2. Trái phiếu quốc tế của doanh nghiệp – liên hệ thực tế doanh nghiệp
Vinashin
2.2.1. Giới thiệu chung về CTCPXD Vinashin
Công ty Cổ phần Xây dựng Vinashin được thành lập theo quyết định số 555/QĐ-
TCCB-LĐ ngày 17 tháng 12 năm 2001 của Chủ tịch hội đồng quản trị Tập đoàn Công
nghiệp tàu thủy Việt Nam, dựa trên cơ sở vốn góp giữa xí nghiệp xây dựng dân dụng và
công nghiệp thuộc công ty Xây dựng và ứng dụng công nghệ mới và một số thể nhân
trong đó vốn góp của Nhà nước chiếm 51% (cổ phần chi phối). Đây là một loại hình
doanh nghiệp hoàn toàn mới: vẫn là một công ty cổ phần hoạt động theo luật doanh
nghiệp nhưng không phải là doanh nghiệp được cổ phần hóa theo tiến hành đổi mới
doanh nghiệp nên đã loại bỏ được rất nhiều thủ tục rườm rà và kéo dài như những doanh
nghiệp cổ phần khác.
16
Tên công ty: Công ty Cổ phần Xây dựng Vinashin

Tên giao dịch: VINASHIN CONSTRUCTION JOINT STOCK COMPANY
Số điện thoại: 043.514.6516
Trụ sở công ty: Số 1- ngách 371/3 – Đê La Thành – TP Hà Nội
Vốn điều lệ: 50.000.000.000đ (Năm mươi tỷ đồng)
Tỷ lệ vốn góp của các cổ đông sáng lập:
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam góp 25.500.000.000đ tương ứng với 51%
vốn điều lệ
Các cổ đông đóng góp 24.500.000.000đ tương ứng 49% vốn điều lệ.
2.2.2. Quá trình phát hành trái phiếu quốc tế của CTCPXD Vinashin
Vinashin là một tập đoàn kinh tế trọng điểm của quá trình CNH-HĐH ngành đóng tàu
biển Việt Nam; Tập đoàn Vinashin được hưởng những cơ chế, chính sách ưu đãi rất lớn
với định hướng để phát triển ngành đóng tàu.
Trong đợt huy động 750 triệu USD trái phiếu quốc tế phát hành đầu tiên vào năm
2005 của chính phủ, Tổng công ty công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) là doanh
nghiệp đầu tiên đã được lựa chọn giải ngân. Nhìn vào Vinashin, đơn vị được ủy thác
gánh vác trọng trách này, thấy rằng vào cuối năm 2004, tổng tài sản của họ hơn 750 triệu
đô la Mỹ một chút, tương đương với số vốn vừa được giao, tổng doanh thu khoảng chừng
350 triệu đô la, và hệ số ROE (suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu thấp hơn con số 7,13%
rất nhiều).
Hoạt động của Vinashin mới có sự khởi sắc trong giai đoạn 2001 - 2005. Trong kế
hoạch được phê duyệt trong năm 2001, với tốc độ tăng trưởng hàng năm là 30% thì đến
năm 2010, quy mô về doanh thu, tài sản của Vinashin sẽ gấp 4 lần hiện nay là một sự
thành công vô cùng lớn lao, nhưng kế hoạch mới được duyệt sẽ là gấp 5 lần. Tốc độ phát
triển này đòi hỏi phải có một cách tổ chức cực kỳ năng động và khả năng thích ứng vô
cùng lớn. Nếu không, sẽ dẫn tới tình trạng “dục tốc bất đạt".
17
Diễn biến quá trình giải ngân trái phiếu chính phủ của Vinashin
Ngày 1-9-2005, Thủ tướng Chính phủ quyết định cho phép Tập đoàn vay lại trái
phiếu chính phủ phát hành ra thị trường quốc tế để thực hiện mục tiêu hiện đại hóa ngành
đóng tàu biển và giao cho Bộ Tài chính theo dõi quản lý. Trái phiếu quốc tế 750 triệu

USD được phát hành vào ngày 3-11-2005, lãi suất 6,875%/năm, trả gốc một lần vào ngày
15-1-2016, trả lãi 6 tháng một lần vào ngày 15-1 và 15-7 hằng năm, phí phát hành trái
phiếu quốc tế trả một lần 168 tỷ đồng.
Chiều 7/5/2007, Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) công bố đã
thực hiện thành công đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp lớn nhất từ trước tới nay với
tổng số tiền lên đến 3.000 tỷ đồng cả trong nước và quốc tế. Đây là trái phiếu loại 10 năm
được phát hành bằng tiền đồng cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước với lãi suất
9%/năm, số lượng nhà đầu tư đặt mua trái phiếu của Vinashin gấp 3 lần lượng phát hành
và có tới 95% lượng trái phiếu đã được phát hành cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ông
Bình cho biết, số tiền huy động được từ đợt phát hành trái phiếu này sẽ được dùng để đầu
tư vào 4 dự án là Nhà máy đóng tàu Cam Ranh để đóng tàu chở hàng 700.000 tấn và tàu
khách, Nhà máy đóng tàu Dung Quất để đóng tàu chở dầu 350.000 tấn, mở rộng Nhà
máy đóng tàu 76 tại thành phố Hồ Chí Minh để đóng tàu 50.000 tấn và phát triển công
nghiệp phụ trợ đóng tàu như đầu tư sản xuất thép đóng tàu, động cơ tàu biển cỡ lớn, trang
thiết bị hàng hải và nội thất tàu biển
Trong hai năm qua, TBKTSG liên tục có nhiều bài viết lên tiếng cảnh báo cho
"con tàu" Vinashin (Tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam) xung quanh những
dự án chậm tiến độ, đầu tư ra ngoài ngành hay những ưu ái mà Vinashin có được.
“Hơn nữa, việc chuyển giao cổ phiếu theo giá gốc của Vinashin về SCIC còn có thể
tạo ra tiền lệ không tích cực cho những doanh nghiệp nhà nước khác đã tham gia IPO
Đạm Phú Mỹ, Vietcombank, Sabeco, Habeco. Họ có thể đề nghị chuyển nhượng lại cổ
phiếu đã mua cho SCIC với giá IPO và SCIC có chấp nhận không? Mặt khác, nếu hai
năm vừa qua giá cổ phiếu Bảo Việt tăng cao hơn giá IPO, thì Vinashin có đồng ý chuyển
nhượng cho SCIC với giá gốc không? Những câu hỏi đó đang gợi lên nhiều thắc mắc cho
thị trường tài chính!”. (Bài “Ước gì như Vinashin ” đăng ngày 8/10/2009).
“Vinashin đang “mắc cạn” ở một số dự án không phải vì những khó khăn mang tính
thời điểm và cũng không nằm ở vấn đề vốn hay công nghệ đóng tàu”, trong bài “Viết tiếp
chuyện đóng tàu ở Vinashin” đăng ngày 22/10/2009.
“Không ai nghi ngờ việc Vinashin có đầy đủ ưu thế và kỹ năng để “làm ăn lớn” trên
địa hạt công nghiệp đóng tàu vận tải thủy, nhưng nếu vẫn tư duy kinh doanh theo kiểu tự

cung tự cấp, tự làm mọi thứ để phục vụ việc đóng tàu thì quả là khó hiểu, nhất là trong
thời buổi mà tiến trình phân công lao động thị trường ngày càng đi vào tinh vi và chuyên
nghiệp hóa”. (Bài “Từ Vinashin, nghĩ về vai trò của doanh nghiệp lớn” đăng ngày
6/11/2009).
“Vấn đề là ở chỗ trong khi nợ của Vinashin được khoanh và cơ cấu lại, thì các khách
hàng khác của PVFC, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, lại không được ưu đãi này?
18
Liệu điều đó có công bằng giữa các doanh nghiệp nhà nước với nhau, chưa nói giữa
doanh nghiệp quốc doanh và dân doanh? Hơn nữa việc khoanh nợ của Vinashin làm cho
việc phân loại nợ của PVFC trở nên phức tạp”. (Bài “Vinashin: bài toán khó của
PVFC”, TBKTSG đăng ngày 19/4/2010).
Vinashin đã vỡ nợ chưa?
Trả lời câu hỏi của một tờ báo về khả năng Vinashin có lâm vào tình trạng vỡ nợ nếu
không được giải cứu, Tổng giám đốc điều hành của Vinashin ông Trần Quang Vũ khẳng
định: “Chúng tôi gặp khó khăn nhưng chúng tôi không thể vỡ nợ được. Bởi thực ra,
Vinashin không phải mất tài sản mà tài sản của chúng tôi vẫn ở các dự án, là đất, là
những con tàu đóng dở” (người viết nhấn mạnh).
Thật buồn cho câu hỏi và càng đáng buồn hơn vì câu trả lời của “doanh nhân” lớn,
CEO của một tập đoàn một thời lừng lẫy. Nếu lãnh đạo cấp cao vẫn tư duy theo kiểu đó,
sau tái cơ cấu lần này Vinashin sẽ lại vỡ nợ trong tương lai không xa.
Vinashin đã thực sự vỡ nợ từ lâu rồi.
Một doanh nghiệp không có khả năng trả nợ gốc và lãi khi đến hạn là doanh nghiệp
lâm vào trạng thái vỡ nợ, hay phá sản.
Điều 3 của Luật Phá sản quy định, “Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng
thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng
phá sản”. Tài sản của doanh nghiệp có thể lớn hơn công nợ nhiều nhưng doanh nghiệp
vẫn có thể bị phá sản.
Theo báo cáo giám sát của Quốc hội “tổng số nợ quá hạn của Vinashin đến hết năm
2008 cũng lên tới 3.812 tỉ đồng, chiếm trên 91% tổng số nợ quá hạn của các tập đoàn
năm 2008”. Nói cách khác năm 2008 Vinashin đã lâm vào tình trạng không trả được nợ

đến hạn, tức là lâm vào tình trạng vỡ nợ hay phá sản (chỉ có điều chưa chủ nợ nào buộc
Vinashin tuyên bố phá sản theo luật. Vinashin còn nợ Tổng công ty Tài chính cổ phần
Dầu khí (PVFC) 1.835 tỉ đồng trong đó nợ quá hạn hơn 1.300 tỉ đồng).
Chỉ qua 2 con số trên cũng thấy Vinashin đã thực sự vỡ nợ sau hai năm thành lập.
Chính vì thế mà năm 2009, đã có lúc Chính phủ phải can thiệp để tái cơ cấu Vinashin.
Chính phủ có ưu ái Vinashin?
Ông Phạm Viết Muôn, Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ, phủ nhận: “Nói Chính
phủ ưu ái Vinashin là không đúng. Phát triển công nghiệp chế tạo, trong đó có đóng tàu,
là một trọng điểm của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế biển. Đã là trọng điểm thì
có hỗ trợ, và Chính phủ có cơ chế hỗ trợ”.
Theo từ điển tiếng Việt (Trung tâm từ điển học, 2009), ưu ái có nghĩa là “yêu thương
và lo lắng cho”. Chẳng lẽ Chính phủ không yêu thương, không lo lắng cho Vinashin?
Chính phủ đi vay 750 triệu đô la Mỹ cho Vinashin dùng, Chính phủ yêu cầu các ngân
hàng khoanh nợ cho Vinashin từ gần một năm nay, nợ quá hạn của Vinashin không được
coi là quá hạn và bất chấp những quy định về tín dụng của Ngân hàng Nhà nước, Chính
19
phủ yêu cầu các ngân hàng tiếp tục cho Vinashin vay (đấy là sự can thiệp vi phạm các
quy định hiện hành). Từ tháng 10-2009, Thủ tướng đã có Quyết định 1596/QĐ-TTg về
các giải pháp thực hiện tái cơ cấu tài chính đối với Vinashin, Ngân hàng Nhà nước đã có
Văn bản số 357/NHNN-TD.m ngày 17-7-2009 về khoanh và cơ cấu lại các khoản nợ cũ
của Vinashin. Nay lại tái cơ cấu một lần nữa và Chính phủ tiếp tục phát hành trái phiếu
và cho tập đoàn này vay lại để thực hiện các dự án cấp thiết và cơ cấu lại nợ trong nước
đã đến hạn.
Đấy mới chỉ là nói đến một phần vốn mà chính phủ lo cho Vinashin. Đấy chẳng lẽ
không là sự ưu ái?
Vinashin có cơ man nào là đất từ Quảng Ninh đến Cà Mau, cứ đến tỉnh nào là đều
“xin” được đất. Có công ty nào trong bốn năm trời làm được như vậy? Đấy chẳng lẽ
không là sự ưu ái? Còn có thể kể ra nhiều bằng chứng khác (như quyết định của Chính
phủ bắt Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước “ôm” khoản đầu tư vào Bảo
Việt của Vinashin giúp giảm cả ngàn tỉ đồng lỗ từ năm ngoái) về sự ưu ái mà Chính phủ

dành cho Vinashin. Có thể nói Chính phủ đã “quá ưu ái” Vinashin và chính sự nuông
chiều này đã làm mềm ràng buộc ngân sách và là một trong vài nguyên nhân chính dẫn
đến sự sụp đổ của Vinashin.
Ai chịu trách nhiệm về sự đổ vỡ Vinashin?
Theo Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, những sai phạm của
ông Phạm Thanh Bình, Chủ tịch HĐQT Vinashin “trong huy động, quản lý, sử dụng tiền
vốn của Nhà nước là do thiếu tinh thần trách nhiệm, cố ý làm trái và có biểu hiện vụ lợi
cá nhân, gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội. Các khoản nợ của
Vinashin rất lớn, mất khả năng thanh toán”. Ông chủ tịch còn để xảy ra xung đột lợi ích
khi bổ nhiệm người thân giữ các trọng trách lớn mà luật pháp nghiêm cấm. Các lãnh đạo
khác của Vinashin cũng đang tiến hành kiểm điểm trách nhiệm và một số có thể bị truy
cứu trách nhiệm. Sự thiếu hiểu biết của họ dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng.
Nhưng ngoài những người trực tiếp này còn những ai cũng phải chịu trách nhiệm?
Đấy mới là vấn đề chính.
Khi “bán lại” cổ phần Bảo Việt cho SCIC Vinashin lấy giá gốc (cao hơn khoảng 2 lần
giá thị trường) và giảm được khoản lỗ cả ngàn tỉ đồng; còn tái cơ cấu lần này với việc
“bán lại” các tài sản mà chủ yếu là đất kiếm được với giá rẻ nay chắc sẽ được chuyển
nhượng với giá “quy định của Nhà nước mới đây” cao gấp nhiều lần, chắc chắn trên sổ
sách Vinashin sẽ lấy lại được “cân đối”, thậm chí có lời và có thể khỏa lấp các khoản thất
thoát khó ai có thể biết là bao nhiêu. (Tổng công ty Dầu khí Việt Nam cứu Vinashin thực
ra một phần cũng là để “siết nợ”).
Cách “cứu vớt” doanh nghiệp kiểu này sẽ tạo ra tiền lệ rất xấu cho các doanh nghiệp
nhà nước và càng làm cho ràng buộc ngân sách của chúng mềm hơn và sẽ có những hậu
quả khôn lường. Cần rút ra bài học nghiêm túc từ sự đổ vỡ của Vinashin và thay đổi tư
duy một cách triệt để nhằm cải tổ các doanh nghiệp nhà nước. (Theo Thời báo kinh tế Sài
Gòn)
20
Tới 2013, vụ án Vinashin vẫn được xem là vụ án kinh tế lớn nhất từ trước tới
nay tại Việt Nam, với con số thất thoát lên tới trên 900 tỷ đồng. Một loạt các quan
chức của Vinashin đã bị đưa ra xét xử với tội danh “cố ý làm trái các quy định của

Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên, đây cũng là vụ
án mà hiệu quả thi hành án kém nhất, thiệt hại hầu như khắc phục không đáng kể.
TÓM TẮT VỤ ÁN
Vinashin là tên gọi tắt của Tập đoàn công nghiệp tà thủy Việt Nam, được thành lập
vào năm 2001 với số vốn rất lớn và kỳ vọng đưa ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam
vào top 10 thế giới. Thế nhưng, chỉ sau một thời gian không dài hoạt động, tập đoàn này
đã có những việc làm "quái lạ" và gây lãng phí, thất thoát rất lớn.
9 bị cáo được đưa ra xét xử trong vụ án này gồm: Phạm Thanh Bình, nguyên chủ tịch
HĐQT kiêm Tổng giám đốc Vinashin; Trần Quang Vũ, nguyên Tổng giám đốc Vinashin;
Trần Văn Liêm, nguyên Trưởng ban kiểm soát tập đoàn; Nguyễn Văn Tuyên, nguyên
Giám đốc công ty cổ phần Công nghệ tàu thủy Hoàng Anh cùng các bị cáo: Nguyễn Tuấn
Dương, Tô Nghiêm, Trịnh Thị Hậu, Hoàng Gia Hiệp, Đỗ Đình Côn là nguyên các cán bộ
ở Vinashin.
2 bị can Hồ Ngọc Tùng (nguyên Tổng giám đốc Công ty tài chính TNHH một thành
viên Công nghiệp tàu thủy) và Giang Kim Đạt (nguyên Trưởng phòng kinh doanh Công
ty vận tải viễn dương Vinashin) đã bỏ trốn.
Theo cáo trạng dài 32 trang của Viện KSND tối cao, bị cáo Phạm Thanh Bình cùng
các đồng phạm đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn cố ý làm trái các quy định của Nhà nước
về quản lý kinh tế trong lĩnh vực đầu tư, quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước ở
năm dự án với tổng thiệt hại trên 910 tỉ đồng.
Các dự án có sai phạm của Vinashin gồm:
1. Dự án mua tàu Hoa Sen gây thiệt hại cho nhà nước số tiền hơn 469,5 tỷ đồng;
Theo cáo trạng, ông Bình (với tư cách là người tổ chức) và các đồng phạm đã cố ý
làm trái khi thực hiện một số hành vi như không thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, phê
duyệt mua tàu trước khi lập và thẩm định dự án, không thực hiện thủ tục chào hàng cạnh
tranh, không quyết toán vốn dự án… Hậu quả của những hành vi này, theo giám định, đã
gây thiệt hại cho Vinashin nói riêng và ngân sách nói chung gần 470 tỷ đồng, trong đó
riêng tiền lãi vay và chi phí vay vốn đã lên tới hơn 464 tỷ.
2. Dự án đầu tư xây dựng nhà máy nhiệt điện Sông Hồng (tỉnh Nam Định) là hơn
316,5 tỷ đồng;

3. Dự án đầu tư xây dựng Nhà máy nhiệt điện Diezel Cái Lân gây thiệt hại hơn 66,5
tỷ đồng;
4. Dự án đầu tư tàu Bình Định Star gây thiệt hại hơn 30,4 tỷ đồng và
21
5. Việc bán vỏ tàu Bạch Đằng Giang gây thiệt hại hơn 27,3 tỷ đồng.
Ngày 30/8/2012, vụ án đã được xét xử phúc thẩm. Hội đồng xét xử nhận định hành vi
phạm tội của các bị cáo rất nguy hiểm, diễn ra ở nhiều địa phương, gây thiệt hại nghiêm
trọng đối với tài sản nhà nước, gây dư luận xấu trong xã hội, làm ảnh hưởng xấu đến môi
trường đầu tư.
Bản án tuyên như sau:
Bị cáo Phạm Thanh Bình y án 20 năm tù, phải bồi thường hơn 500 tỷ đồng về tội Cố
ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng trong các sai
phạm tại dự án mua tàu Hoa Sen, Nhiệt điện Sông Hồng (Nam Định) và Nhà máy nhiệt
điện Diezel Cái Lân (Quảng Ninh). Vị cựu chủ tịch Vinashin được xác định là người tổ
chức, giữ vai trò quyết định.
Bị cáo Trần Văn Liêm (nguyên Trưởng ban kiểm soát Vinashin, nguyên Giám đốc
Công ty Viễn Dương) biết chưa đủ thủ tục đầu tư nhưng vẫn làm theo chỉ đạo của bị cáo
Bình, với cương vị chủ dự án mua con tàu Hoa Sen (bị xác định gây thiệt hại hơn 990 tỷ
đồng), ông Liêm bị giữ nguyên mức phạt 19 năm tù cùng tiền bồi thường 495 tỷ đồng.
Bị cáo Tô Nghiêm (nguyên Chủ tịch Công ty TNHH Công nghiệp tàu thủy Cái Lân,
Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư phát triển khu kinh tế Hải Hà, Quảng Ninh) bị 18 năm
tù. Cơ quan tố tụng cho rằng Tô Nghiêm là chủ đầu tư dự án Nhà máy nhiệt điện Dieze.
Cái Lân trực tiếp đi khảo sát thiết bị máy móc, biết rõ là cũ nhưng vẫn cùng ông Bình
cho nhập về. Khi nhà máy chưa lắp đặt xong, chưa chạy thử đã ký nghiệm thu, bị cáo đã
bàn giao thanh toán hết tiền bảo trì cho đối tác nước ngoài. Tô Nghiêm phải bồi thường
số tiền 16 tỷ đồng đã gây thiệt hại.
Bị cáo Nguyễn Văn Tuyên (nguyên giám đốc Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu thủy
Hoàng Anh) bị 16 năm tù. Nguyễn Văn Tuyên được cho là người khởi xướng, chủ đầu tư
dự án Nhà máy nhiệt điện Sông Hồng, phải bồi thường 14 tỷ đồng.
Bị cáo Trịnh Thị Hậu bị 14 năm tù, vì trực tiếp ký duyệt giải ngân trong các dự án

Nhà máy nhiệt điện sông Hồng, dự án đầu tư tàu Bình Định Star (gây thiệt hại hơn 30 tỷ
đồng). Riêng trong dự án tàu Hoa Sen, bị cáo đã chuyển tiền đặt cọc và ký công văn bảo
lãnh cho Công ty Viễn Dương.
Bị cáo Hoàng Gia Hiệp (nguyên phó tổng giám đốc Công ty Tài chính TNHH một
thành viên Công nghiệp tàu thủy) bị 13 năm tù.
Bị cáo Trần Quang Vũ (nguyên tổng giám đốc Vinashin, đã nộp 1 tỉ đồng khắc phục
một phần hậu quả) 11 năm tù.
Bị cáo Đỗ Đình Côn (nguyên phó tổng giám đốc Công ty Cổ phần Công nghiệp tàu
thủy Hoàng Anh) nhận mức án 10 năm tù.
Bị cáo Nguyễn Tuấn Dương (nguyên chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Đầu tư Cửu
Long) nhận 3 năm tù về tội “Sử dụng trái phép tài sản”.
Ảnh hưởng của Vụ án Vinashin có thể nói là rất lớn, gây bức xúc toàn xã hội.
22
Trên thực tế, Vinashin gây thất thoát rất lớn cho nguồn vốn Nhà nước (cũng chính là
của nhân dân).
Tại thời điểm xét xử, Vinashin đang "ôm nợ" số tiền khổng lồ lên tới hơn 4 tỷ đô la.
(Nguồn: />Tái cấu trúc thành công khoản vay này có ảnh hưởng quan trọng tới việc tái cấu trúc
các khoản vay khác, thúc đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu Tập đoàn theo đề án đã được
Chính phủ phê duyệt, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của
Tập đoàn trong giai đoạn tới.
Sau một thời gian thí điểm mô hình tập đoàn thất bại, Vinashin đã chính thức trở lại
hoạt động theo mô hình tổng công ty từ tháng 7/2013 với 8 đơn vị đóng tàu lớn, mục đích
chính là phấn đấu đến năm 2014 tái cơ cấu xong công nợ.
Vinashin tái cơ cấu xong khoản nợ 600 triệu USD
Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) vừa chính thức tuyên bố tái cơ
cấu xong khoản nợ 600 triệu USD. (Các nghĩa vụ của Vinashin theo hợp đồng vay cũ sẽ
được hoán đổi lấy trái phiếu do DATC phát hành có thời hạn 12 năm…)
Cụ thể, 20h tối 10/10/2013, Vinashin và Công ty Mua bán nợ và Tài sản tồn đọng của
doanh nghiệp (DATC) đã cùng các bên tư vấn và Ngân hàng Citi Bank điện đàm cuối
cùng với Trung tâm Lưu ký Chứng khoán tại New York chính thức xác nhận việc phát

23
hành trái phiếu dưới dạng chứng chỉ lưu ký toàn cầu do DATC phát hành, có sự bảo lãnh
của Chính phủ, để tái cơ cấu khoản nợ 600 triệu USD của Vinashin.
Khoản trái phiếu trên do Ngân hàng Credit Suisse làm đại lý và ngân hàng thu xếp.
Ngay sau khi phát hành, trái phiếu trên sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán
Singapore.
Ông Nguyễn Ngọc Sự, Chủ tịch Hội đồng thành viên Vinashin cho biết, trong 3 năm
qua vô cùng căng thẳng, vất vả, với nhiều sức ép, Vinashin một mặt phải đối phó với các
vụ kiện do một số chủ nợ của khoản vay này tiến hành tại tòa án tối cao tại London (Anh
quốc), mặt khác tranh thủ sự ủng hộ của các chủ nợ thiện chí để đi đến một thỏa thuận tái
cấu trúc.
Trước đó, tại hội nghị chủ nợ tổ chức tại Singapore ngày 5/8/2013 vừa qua, Vinashin
đã đạt được sự chấp thuận của 64,7059% số chủ nợ đại diện cho 79,3460% số nợ biểu
quyết thông qua “Thỏa thuận tái cấu trúc trong tố tụng” do Vinashin đề xuất. Trên cơ sở
kết quả đó, ngày 4/9/2013, Tòa thượng thẩm tòa án London đã ra phán quyết phê chuẩn
“Thỏa thuận tái cấu trúc trong tố tụng” của do Vinashin.
Theo thỏa thuận, các nghĩa vụ của Vinashin theo hợp đồng vay cũ sẽ được hoán đổi
lấy trái phiếu do DATC phát hành có thời hạn 12 năm, lãi suất đơn 1%/năm, thanh toán
cả gốc và lãi một lần vào thời gian đáo hạn. Theo ông Sự, việc tái cấu trúc trong tố tụng
theo Luật Anh quốc thành công khoản vay 600 triệu USD là việc làm hết sức khó khăn và
chưa có tiền lệ tại Việt Nam.
“Tái cấu trúc thành công khoản vay này có ảnh hưởng quan trọng tới việc tái cấu trúc
các khoản vay khác, thúc đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu Vinashin theo đề án đã được
Chính phủ phê duyệt, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho sự ổn định và phát triển của
Tập đoàn trong giai đoạn tới”, ông Sự nói trong buổi họp báo lúc 9h đêm ngày 10/10.
Được biết, đến nay, Vinashin đã thực hiện tái cơ cấu được 43 doanh nghiệp, bao gồm
rút vốn 14 đơn vị; giải thể 14 đơn vị; chuyển nhượng phần vốn góp, bán tài sản 12 đơn
vị; bàn giao, chuyển chủ sở hữu, quyền đại diện vốn 3 đơn vị.
Trước đó, ông Vũ Anh Tuấn, quyền Tổng giám đốc Vinashin cho biết, 8 tháng đầu
năm 2013, tập đoàn đạt giá trị tổng sản lượng hơn 4.000 tỷ đồng, bằng 112,11% so cùng

kỳ 2012 và bằng 61,76% kế hoạch năm 2013. Tổng doanh thu 8 tháng đạt hơn 2.700 tỷ
đồng, bằng 106,56% cùng kỳ năm 2012 nhưng chỉ bằng 39,67% kế hoạch năm. Tính đến
hết tháng 8/2013, tập đoàn cũng mới bàn giao được 20/69 tàu cho chủ tàu. (Nguồn
VnEconomy)
24
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG
3.1. Những tác động tích cực khi phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế
- Cầu nối giữa thị trường vốn trong nước với thị trường tài chính quốc tế. Việc phát
hành trái phiếu quốc tế mở ra một kênh huy động vốn có khả năng đáp ứng các dự án có
quy mô lớn, thời gian dài và nguồn lực hầu như không hạn chế. Trong bối cảnh các nước
đang phát triển có giới hạn về nguồn vốn tiết kiệm, thì nguồn vốn huy động từ hoạt động
phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính quốc tế có một ý nghĩa to lớn.
- Phát hành trái phiếu quốc tế sẽ tạo ra sự cạnh tranh trên thị trường vốn trong nước
với thị trường vốn nước ngoài. Khi phát hành trái phiếu, chủ thể phát hành trái phiếu
chấp nhận điều kiện chung của thị trường tài chính quốc tế, chấp nhận sự cạnh tranh và
các điều kiện ràng buộc tín dụng. Không chỉ dừng lại ở thị trường vốn mà còn có cơ hội
xác định chi phí sản xuất hàng hóa trong nước, khả năng cạnh tranh giữa hàng hoá trong
nước với hàng hóa nước ngoài.
- Trái phiếu quốc tế cho phép xác định điểm chuẩn của quốc gia phát hành trái phiếu
trên thị trường vốn quốc tế và sẽ là điều kiện tài chính đầu vào của các dự án đầu tư trong
nước. Điều này tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong nước lựa chọn khả năng đa dạng
hóa danh mục đầu tư, các loại tài sản tài chính để phòng ngừa rủi ro.
- Đối với những nước có thị trường tài chính phát triển, ngân sách nhà nước thặng dư,
trái phiếu quốc tế còn đóng vai trò là công cụ để thực hiện chính sách quản lý nợ quốc
gia. Thông qua việc phát hành mới trái phiếu ra thị trường quốc tế, chính phủ có thể chủ
động điều tiết danh mục tài sản nợ chính phủ để thực hiện các chính sách tài chính tiền
tệ.
3.2. Những thách thức đối với kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường tài chính
quốc tế
- Chấp nhận lãi suất thị trường: Lãi suất trên thị trường tài chính quốc tế sẽ được

quyết định theo thị trường quốc tế và sẽ phản ánh mức chi phí vốn thực tế so với các
nước khác. Với chính sách kinh tế mở, hội nhập kinh tế quốc tế sản phẩm hàng hóa quốc
gia cần phải cạnh tranh trên thị trường thế giới. Lãi suất trái phiếu quốc tế sẽ phản ánh chi
phí vốn thực tế của quốc gia trên thị trường và sẽ giúp cho chính phủ cũng như các công
ty tính toán đầu tư vào các dự án có hiệu quả, đảm bảo sản phẩm có thể cạnh tranh được
trên thị trường. Đây là một bước đi chiến lược đảm bảo tính hiệu quả và cạnh tranh của
nền kinh tế VN trong quá trình hội nhập.
- Lãi suất có thể cao hơn lãi suất danh nghĩa của các khoản vay ưu đãi, tín dụng xuất
nhập khẩu và vay qua ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên theo dự đoán nguồn ODA sẽ
giảm trong tương lai tín dụng xuất nhập khẩu thường kèm theo các ràng buộc đẩy phí vay
lên cao, trong khi hệ thống ngân hàng không đủ đáp ứng nhu cầu vốn trung dài hạn. Huy
động vốn bằng phát hành trái phiếu quốc tế sẽ đa dạng hóa các nguồn vốn vay, tạo kênh
huy động vốn trung dài hạn, nếu được quản lý thận trọng, hạn chế được những ảnh hưởng
25

×