Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Phòng Giao Dịch Hà Đông -Ngân hàng TMCP Á Châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.59 KB, 67 trang )

Chuyờn tt nghip
GVHD: ThS. Lờ Thu Thy
TRƯờNG ĐạI HọC KINH Tế QuốC DÂN
viện TàI CHíNH NGÂN HàNG

Chuyên đề tốt nghiệp
đề tài:
GIảI PHáP TĂNG CƯờNG HUY ĐộNG VốN
TạI PHòNG GIAO DịCH Hà ĐÔNG - NGÂN HàNG TMCP á ĐÔNG
Sinh viên thực hiện
: Đỗ THU HằNG
Mã sinh viên
: TC412227
Lớp
: ngân hàng k41
Giáo viên hớng dẫn
: ths. lê thu thủy
Hà NộI - 2014
SV: Thu Hng
MSV: TC412227
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
MỤC LỤC
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
BẢNG
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 : Biểu đồ tăng trưởng nguồn vốn PGD Hà Đông 2010 - 2012


Error: Reference source not found
Biểu đồ 2.2: Biểu đồ huy động vốn theo loại hình khách hàng Error:
Reference source not found
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức PGD Hà Đông Ngân hàng TMCP Á
Châu Error: Reference source not found
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
LỜI MỞ ĐẦU
Vốn là một trong những yếu tố cơ bản của quá trình hoạt động kinh
doanh mọi doanh nghiệp cũng như và các Ngân hàng thương mại (NHTM)
với tư cách là một doanh nghiệp, một chế tài trung gian hoạt động trong lĩnh
vực tiền tệ thì vốn lại có một vai trò hết sức quan trọng.
NHTM là đơn vị chủ yếu cung cấp vốn thu lãi, vì vậy các NHTM rất chú
trọng đến vấn đề huy động vốn để đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang phát triển, nhu cầu về vốn của các cá
nhân cũng như các tổ chức kinh tế là rất lớn. Đứng trước tình hình đó, hệ
thống NHTM đang phấn đấu nhằm thực hiện có hiệu quả chiến lược huy động
vốn trong nước và nguồn vốn từ bên ngoài để đáp ứng nhu cầu vốn của nền
kinh tế.
Để tăng cường huy động vốn các ngân hàng cần nghiên cứu các hình
thức huy động, các tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn như:
Tốc độ tăng trưởng huy động vốn qua thời gian; nguồn vốn có chi phí
hợp lý; sự thay đổi cơ cấu của những nguồn vốn mà Ngân hàng muốn tăng
cường huy động qua thời gian. Cũng như phân tích các nhân tố ảnh hưởng
đến công tác huy động vốn.
Phòng Giao Dịch Hà Đông – Ngân hàng Thương mại cổ phần (TMCP) Á
Châu là một đơn vị ngân hàng non trẻ. Sau hơn sáu năm đi vào hoạt động,

Phòng đã đạt được những thành công nhất định trong hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên để có thể có được chỗ đứng vững chắc hơn trong hệ thống ngân
hàng thì PGD cần đẩy nhanh hơn nữa hoạt động kinh doanh của mình, và
công tác cơ bản đầu tiên và vô cùng quan trọng đó là công tác huy động vốn
Và trong định hướng phát triển của PGD Hà Đông, tăng cường huy động vốn
vẫn là ưu tiên hàng đầu. Đây là một hoạt động vô cùng cần thiết góp phần
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
1
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế, và để đảm bảo
đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh cho ngân hàng.
Thời gian gần đây do những biến động của nền kinh tế và do chính sách
kinh tế của Chính phủ, thêm vào đó là sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay
gắt không chỉ riêng hệ thống NHTM mà còn từ sự tham gia ngày càng nhiều
của các tổ chức tài chính phi ngân hàng. Từ đó đòi hỏi PGD Hà Đông - Ngân
hàng TMCP Á Châu phải có những giải pháp huy động vốn đúng đắn thích
hợp mới đáp ứng được nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Chính vì vậy em đã lựa
chọn nghiên cứu về đề tài "Giải pháp tăng cường huy động vốn tại Phòng
Giao Dịch Hà Đông -Ngân hàng TMCP Á Châu” cho chuyên đề thực tập
của mình trong thời gian thực tập tại PGD Hà Đông
Kết cấu của chuyên đề gồm 3 chương:
Chương 1 : Cơ sở lý luận về tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng tăng cường huy động vốn tại PGD Hà Đông -
Ngân hàng TMCP Á Châu.
Chương 3: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại PGD Hà Đông -
Ngân hàng TMCP Á Châu.
SV: Đỗ Thu Hằng

MSV: TC412227
2
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
1.1. Khái quát về Ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế, hoạt động kinh doanh trên
lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, nó cung cấp một số dịch vụ cho khách hàng và
ngược lại nó nhận tiền gửi của khách hàng với các hình thức khác nhau.
Nghiệp vụ kinh doanh của NHTM rất phong phú và đa dạng với sự phát triển
của khách hàng, khoa học kỹ thuật kinh tế và xã hội, hoạt động của NHTM
cũng có nhiều phương pháp mới, nhưng các nghiệp vụ kinh doanh cơ bản
không thay đổi là nhận tiền gửi và hoạt động cho vay, đầu tư. Qua NHTM các
chính sách tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh
chóng và cũng nhờ nó mà việc kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp theo
đúng luật pháp được dễ dàng hơn. Sự ra đời, tồn tại và pháp triển của Ngân
hàng luôn gắn liền với sự phát triển của kinh tế và đời sống xã hội. Trong cơ
chế thị trường, các NHTM và các tổ chức tín dụng cũng là các doanh nghiệp
nhưng chúng là doanh nghiệp đặc biệt vì tái sản trong quá trình kinh doanh
của các NHTM đều phụ thuộc vào khách hàng hóa mà các Ngân hàng kinh
doanh là một hàng hóa đặc biệt, nó rất nhậy cảm với sự thay đổi của thị
trường và tình hình kinh tế xã hội.
1.1.2. Đặc điểm ngân hàng thương mại
NHTM là loại hình kinh doanh với mục đích kiếm lời (bao gồm 2 hình
thức chủ yếu là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng). Trong đó, hoạt
SV: Đỗ Thu Hằng

MSV: TC412227
3
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
động kinh doanh tiền tệ được biểu hiện ở nghiệp vụ huy động vốn dưới các
hình thức khác nhau để cấp tín dụng cho khách hàng có nhu cầu về vốn với
mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận. Còn hoạt động dịch vụ Ngân hàng được biểu hiện thông qua các
nghiệp vụ sẵn có về tiền tệ, thanh toán, ngoại hối và chứng khoán để cam kết
thực hiện công việc nhất định cho khách hàng trong một thời hạn nhất định
nhằm mục đích thụ hưởng tiền công dịch vụ do khách hàng chi trả dưới dạng
phí hay hoa hồng.
NHTM là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện, nghĩa là chỉ khi
nào NHTM thoả mãn đầy đủ những điều kiện khắt khe do pháp luật quy định
( vốn pháp định, phương án kinh doanh, . . . ) thì mới được phép hoạt động
trên thị trường.
NHTM là loại hình kinh doanh có độ rủi ro cao hơn nhiều so với các
loại hình kinh doanh khác và thường có ảnh hưởng sâu sắc mang tính chất
dây truyền đối với nền kinh tế. Sở dĩ nói như vậy là vì trong hoạt động Ngân
hàng, đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ, do các NHTM phải tiến hành
huy động vốn của người khác để cấp tín dụng cho khách hàng và trên nguyên
tắc NHTM chỉ có thể đòi tiền của người vay sau một thời hạn nhất định, nên
đã tạo ra khả năng rủi ro cao cho hoạt động Ngân hàng, kéo theo đó là sự rủi
ro đối với người gửi tiền ở NHTM, cũng như rủi ro đối với nền kinh tế. Vì
vậy, hoạt động Ngân hàng Ở nhiều quốc gia khác nhau trên thế giới thường
được điều chỉnh và kiểm soát hết sức chặt chẽ bằng những đạo luật riêng biệt,
nhằm đảm bảo cho hoạt động này được vận hành an toàn và hiệu quả trong
nền kinh tế thị trường.
1.1.3. Vai trò của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng thương mại là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế. Thực tế cho

thấy, để phát triển kinh tế các đơn vị kinh tế cần phải có một lượng vốn lớn
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
4
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác. Nhưng điều
khó khăn hơn lợi ích là cần có người đứng ra tập trung tiền nhàn dỗi ở mọi
nơi mọi lúc và kịp thời cung ứng cho nơi cần vốn. Bằng vốn huy động được
trong xã hội thông qua hoạt động tín dụng, Ngân hàng thương mại đã cung
cấp vốn cho mọi hoạt động kinh tế, đáp ứng nhu cầu vốn một cách kịp thời
cho quá trình sản xuất. Nhờ có hoạt động của hệ thống Ngân hàng thương mại
và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh nghiệp, cá nhân có điều kiện mở
rộng sản xuất, cải tiến máy móc, công nghệ để tăng năng suất lao động, nâng
cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản phẩm cho xã hội.
Ngân hàng thương mại là cầu nối các doanh nghiệp với thị trường.
Trong cơ chế thị trường, đòi hỏi sự phát triển của tín dụng Ngân hàng đã làm
biến đổi hoạt động trong các nhà máy, xí nghiệp các dây chuyền sản xuất hiện
đại năng suất cao, thực hiện chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Các
doanh nghiệp với vốn tự có rất ít ỏi bởi vậy tín dụng ngân hàng còn cung cấp
một phần vốn không nhỏ trong việc tăng cường nguồn vốn lưu động của các
doanh nghiệp.
Ngân hàng thương mại là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền
kinh tế.Cùng với sự vận động của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng được chia
làm hai cấp: Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại (NHTM).
NHTM được Nhà nước cấp vốn cho hoạt động và sử dụng như công cụ để
quản lý hoạt động tiền tệ, điều tiết chính sách tiền tệ quốc gia.Nhà nước điều
tiết ngân hàng, ngân hàng dẫn dắt thị trường thông qua hoạt động tín dụng và
thanh toán giữa các Ngân hàng thương mại trong hệ thống từ đó góp phần mở
rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông và thông qua việc cung ứng tín

dụng cho các ngành trong nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài
chính quốc tế.Nhận thức được tầm quan trọng của kinh tế quốc tế, sự hội nhập
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
5
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
kinh tế quốc gia với thế giới đem lại những lợi ích kinh tế to lớn, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Một trong các điều kiện quan trọng góp
phần thúc đẩy sự hội nhập nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đó là
nền tài chính quốc gia. Nền tài chính quốc gia là cầu nối với nền tài chính
quốc tế thông qua hoạt động của Ngân hàng thương mại trong các lĩnh vực
kinh doanh như nhận tiền gửi, cho vay, nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại
hối và các nghiệp vụ khác. Đặc biệt là các hoạt động thanh toán quốc tế buôn
bán ngoại hối, quan hệ tín dụng với các ngân hàng Nhà nước của Ngân hàng
thương mại trực tiếp hoặc gián tiếp tác động góp phần thúc đẩy hoạt động
thanh toán xuất nhập khẩu và thông qua đó Ngân hàng thương mại đã thực
hiện vai trò điều tiết tài chính trong nước phù hợp với sự vận động của nền tài
chính quốc tế.
1.1.4. Chức năng của Ngân hàng thương mại
* Chức năng trung gian tín dụng.
Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu nối"
giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích
cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi
ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được
lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất
tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng
thương mại tồn tại và phát triển. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn
nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân

chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.
*Chức năng trung gian thanh toán
Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh
toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyền tiền từ tài khoan này sang tài
khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
6
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là
người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị
trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở
rộng.
Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống Ngân hàng thương
mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua
ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng
thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn, làm cho
hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng
*Chức năng tạo tiền
Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một
số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển
khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với
lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống
ngân hàng.
Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi
của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại
một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ
chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông
qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng. Ngân hàng thương mại

thực hiện được chức năng tạo tiền.
1.2. Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng thương mại là một hoạt động
quan trọng của Ngân hàng thương mại nhằm thu hút, huy động những giá trị
tiền tệ từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua các quá
trình thực hiện các nghiệp vụ ký thác, các nghiệp vụ khác của Ngân hàng
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
7
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm hoàn trả đúng
hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kỳ hạn (nếu là tiền gửi có kỳ hạn) hoặc khi khách
hàng có nhu cầu rút vốn (nếu là tiền gửi không kỳ hạn). Ngân hàng chỉ có
quyền sử dụng nguồn vốn này chứ không có quyền sở hữu.
Vốn huy động đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng. Ngân hàng thương mại huy động vốn dưới các hình thức: Nhận
tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm); phát
hành các công cụ nợ (tín phiếu, trái phiếu); và nguồn vốn đi vay. Ngoài ra vốn
của ngân hàng còn được hình thành thông qua việc làm uỷ thác, đại lý cho các
tổ chức trong và ngoài nước hoặc cung cấp các phương tiện thanh toán như
thẻ rút tiền tự động từ máy ATM,
Nhìn chung nguồn vốn của ngân hàng được hình thành từ nhiều nguồn
khác nhau nhưng trong đó nguồn vốn huy động từ tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn
nhất, chiếm khoảng từ 70% - 80% và nó có tính biến động. Nhất là đối với
loại tiền gửi không kỳ hạn và vốn ngắn hạn, hơn nữa vốn huy động chịu tác
động lớn của thị trường và môi trường kinh doanh trên địa bàn hoạt động. Vì
vậy Ngân hàng thương mại cần phải đi sâu tìm hiểu, phân tích nguồn hình
thành vốn này, dự đoán trước tình hình cung cầu vốn để có đối sách phù hợp.

1.2.2. Các hình thức huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
* Huy động vốn từ tài khoản tiền gửi
- Tiền gửi không kỳ hạn. Là loại tiền gửi khách hàng gửi vào ngân hàng
mà khách hàng không có thoả thuận trước về thời gian rút tiền. Ngân hàng
phải trả một mức lãi suất thấp hoặc không phải trả một lãi cho số tiền gửi này.
Bởi vì, tiền gửi không kỳ hạn của khách hàng rất biến động, khách hàng có
thể rút ra bất kỳ lúc nào, do đó ngân hàng không chủ động sử dụng số vốn
này, ngân hàng phải dự trữ một số tiền để đảm bảo có thể thanh toán ngay khi
khách hàng có nhu cầu. Tiền gửi không kỳ hạn gồm hai loại:
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
8
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
Tiền gửi thanh toán: Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
để thực hiện các khoản thanh toán về tiền mua hàng hoá, dịch vụ và các
khoản thanh toán khác phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
khách hàng.
Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý: Là loại tiền gửi không kỳ hạn, khách
hàng gửi vào ngân hàng nhằm bảo đảm an toàn về tài sản. Tiền gửi không kỳ
hạn thuần tuý cũng là tài sản của người ký thác, họ có quyền rút bất kỳ lúc
nào, ngân hàng luôn luôn phải đảm bảo có thể thanh toán, lãi suất tiền gửi
không kỳ hạn thuần tuý cao hơn lãi suất tiền gửi thanh toán.
- Tiền gửi có kỳ hạn. Là loại tiền gửi, khách hàng gửi vào ngân hàng có
sự thoả thuận trước về thời hạn rút tiền. Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi
tương đối ổn định vì ngân hàng xác định được thời gian rút tiền của khách
hàng để thanh toán cho khách hàng đúng thời hạn. Do đó ngân hàng có thề
chủ động sử dụng số tiền gửi đó vào mục đích kinh doanh trong thời gian ký
kết. Đối với loại tiền gửi này, ngân hàng có rất nhiều loại thời hạn từ 1 tháng,
3 tháng, 6 tháng mục đích là tạo cho khách hàng có được nhiều kỳ hạn gửi

phù hợp với thời gian nhàn rỗi của khoản tiền mà họ có. Chính vì là loại tiền
gửi mà ngân hàng có quyền sử dụng nó trong thời gian nhất định nên loại tiền
gửi này được trả lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi không kỳ hạn.
- Tiền gửi tiết kiệm. Là loại tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng
nhằm hưởng lãi. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng cấp cho
khách hàng một cuốn sổ, khách hàng phải quản lý và mang theo mỗi khi đến
ngân hàng giao dịch.
Xét về bản chất, tài khoản tiền gửi tiết kiệm là một phần thu nhập của cá
nhân người lao động mà họ chưa đưa vào tiêu dùng, và là một dạng đặc biệt
để tích luỹ tiền tệ thay cho hình thức cất trữ vàng, hàng hoá. Tiền gửi tiết
kiệm có ba loại :
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
9
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có thể rút ra bất cứ
lúc nào song không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người
khác. Số dư tiền gửi này không lớn, nhưng ít biến động, vì vậy đối với loại
tiền gửi này các Ngân hàng thương mại thường trả lãi suất cao hơn với tiền
gửi thanh toán.
Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: Là khoản tiền gửi có sự thoả thuận về thời
gian gửi và rút tiền, có mức lãi suất cao hơn so với tiền gửi không kỳ hạn.
Loại hình tiết kiệm này khá quen thuộc ở Việt Nam, các Ngân hàng thương
mại Việt Nam thường huy động tiết kiệm với thời hạn phong phú từ ba tháng
đến một năm.
Tiết kiệm dài hạn: Đây là loại tiền gửi phổ biến ở một số nước công
nghiệp. Loại tiết kiệm này có tính ổn định cao bởi vì thời gian gửi tiền từ một
năm trở lên, do đó ngân hàng chủ động sử dụng nguồn vốn này, nó tạo cho
ngân hàng có tính chủ động sử dụng vốn cho mục đích vốn dài hạn. Để thu

hút vốn này, ngân hàng thường phải trả lãi suất cao.
* Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá
Phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn của NHTM dưới
hình thức phát hành các chứng từ như: Chứng chỉ tiền gửi ( kỳ phiếu), trái
phiếu,
Các NHTM nhận thấy rằng, người gửi tiền rất nhạy cảm với những thay
đổi trong lãi suất huy động của ngân hàng. Vì vậy khi cần vốn, một NHTM có
thể phát hành giấy tờ có giá với một mức lãi suất hấp dẫn hơn các loại nghiệp
vụ huy động thông thường khác nhằm huy động được kịp thời lượng vốn cần
thiết. Mức lãi được trả cho các công cụ này sẽ được thoả thuận trực tiếp giữa
NHTM và khách hàng hoặc được ấn định ở một mức độ nhất định mà người
gửi tiền có thể chấp nhận được, đồng thời đảm bảo hiệu quả kinh doành cho
ngân hàng.
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
10
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
Thông thường, phát hành giấy tờ có giá là nghiệp vụ huy động vốn theo
sáng kiến riêng của từng NHTM với hình thức và kỳ hạn rất đa dạng nhằm
thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng và huy động được vốn cho ngân hàng. Để
tìm hiểu kỹ hơn chúng ta sẽ xem xét hai công cụ cơ bản là: Kỳ phiếu và Trái
phiếu ngân hàng.
- Kỳ phiếu là một loại giấy nhận nợ do NHTM quốc doanh phát hành
nhằm huy động vốn trong xã hội một cách linh hoạt. Căn cứ vào mục đích,
nhu cầu cụ thể mà ngân hàng có thể phát hành kỳ phiếu bằng VNĐ hay USD.
Nhu cầu phát hành kỳ phiếu thường phát sinh khi ngân hàng muốn có
nguồn vốn đủ điều kiện để tài trợ các dự án có quy mô, trọng điểm nhằm phục
vụ kịp thời cho đầu tư phát triền của đất nước hoặc vì mục đích kinh doanh
của ngân hàng như: Đầu tư chứng khoán, kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ mà

các nguồn huy động khác chưa đáp ứng được. Khi đó ngân hàng có thể xin
phép phát hành bằng từ trình gửi NHNN. Trong tờ trình Xin phép phát hành
kỳ phiếu phải trình bày đầy đủ các nội dung sau:
+ Lý do xin phát hành
+ Kế hoạch sử dụng và nhu cầu sử dụng vốn
+ Các loại kỳ phiếu xin phát hành ( về kỳ hạn, phương thức trả lãi)
+ Thời gian phát hành
+ Tỷ lệ lãi cho từng loại kỳ phiếu
+ Tính toán hiệu quả kinh tế cho từng loại kỳ phiếu.
Phát hành kỳ phiếu là một nghiệp vụ huy động vốn có tính hiệu quả cao,
hấp dẫn người mua và NHTM luôn chủ động trong việc bổ sung vốn hạn khi
cần thiết.
-Trái phiếu là một loại công cụ nợ do NHTM phát hành nhằm tài trợ vốn
cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Thông thường việc phát hành trái
phiếu phải được sự cho phép của Ngân hàng trung ương. Kỳ hạn của trái
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
11
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
phiếu rất phong phú: 7 năm, 10 năm, 20 năm, Chủng loại cũng rất đa dạng
như: Trái phiếu có lãi suất điều chỉnh, trái phiếu có lãi suất thả nổi, trái phiếu
có lãi suất cố định, trái phiếu có thể chuyển đổi sang cổ phiếu, Người sở hữu
có thể bán trái phiếu trên thị trường thứ cấp trước khi trái phiếu đó hết hạn.
Trái phiếu Ngân hàng được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình
thức mua bán, cho, tặng, thừa kế. Người sở hữu có thể dùng trái phiếu làm thế
chấp tiền vay nếu được người cho vay chấp nhận.
Trái phiếu Ngân hàng có thề phát hành dưới các hình thức: vô danh, ghi
sổ ghi danh. Trái phiếu vô danh thuộc quyền sở hữu của người có trái phiếu
và được tự do chuyển nhượng, chủ sở hữu trái phiếu ghi danh và ghi sổ muốn

chuyển nhượng thì phải làm thủ tục Ở Ngân hàng ( nơi mua trái phiếu).
Trái phiếu được các NHTM phát hành với kỳ hạn trên 1 năm. Tuy nhiên,
thời hạn cụ thể sẽ do các NHTM quyết định tuỳ theo phương án sử dụng vốn.
Trái phiếu phát hành cùng một đợt được ghi cùng thời hạn và được thanh toán
vào cùng thời điểm đáo hạn. Mệnh giá của trái phiếu là số tiền ghi trên trái
phiếu lúc phát hành và có giá trị tối thiểu là 50.000 VND.
Các loại mệnh giá lớn hơn được xác định bằng bội số của mệnh giá tối
thiểu.
Lãi suất của trái phiếu do NHTM ấn định trên cơ sở quan hệ cung cầu về
vốn trên thị trường sao cho có thể khuyến khích, động viên được người gửi
vốn, người vay có thể chấp nhận được và NHTM đảm bảo hiệu quả kinh
doanh. Phương thức trả lãi cũng được các NHTM áp dụng một cách linh hoạt:
Trả lãi trước, Trả lãi sau, Trả lãi định kỳ
NHTM muốn được phép phát hành trái phiếu cần phải hội đủ các điều
+ Hoạt động ổn định ít nhất 2 năm và chứng minh được hoạt động kinh
doanh của đơn vị được quản lý có hiệu quả
+ Có phương án kinh doanh cụ thể
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
12
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
+ Cần phải có vốn điều lệ đủ lớn theo pháp định
+ Được phép bằng văn bản của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Sau khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, NHTM phải làm thủ tục xin
phép NHNN về việc phát hành trái phiếu theo quy định của pháp luật.
Nguồn vốn huy động được từ nghiệp vụ phát hành trái phiếu không chịu
sự điều chỉnh của quy định dự trữ bắt buộc. Hơn nữa, nó là nguồn có tính ổn
định cao, đáng được quan tâm nếu muốn mở rộng nguồn vốn huy động trung
và dài hạn tại một NHTM. Bằng cộng cụ này, các NHTM có thể chủ động tạo

được một khối lượng vốn như mong muốn một cách nhanh chóng để đáp ứng
nhu cầu vốn cấp bách đầu tư cho các công trình lớn của quốc gia.
* Vay Ngân hàng Nhà nước hoặc tổ chức tín dụng khác.
Khi cần vốn thì các NHTM có thể đi vay trực tiếp từ các tổ chức tín
dụng khác, Ngân hàng nước ngoài, từ công ty mẹ, Nhưng dù vay ở nguồn
nào thì nhìn chung chi phí cho các khoản vay trực tiếp thường cao hơn chi phí
phải trả cho các hình thức huy động vốn khác.
-Vay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Bộ tài chính (BTC)
+ Vay từ NHNN: Trong quan hệ giữa NHTM và NHNN thì NHNN có
tư cách là Ngân hàng của các Ngân hàng, là " Người cho vay cuối cùng" đối
với các NHTM. Thông thường các NHTM chỉ được vay NHNN để bù đắp
những thiếu hụt ngắn hạn, tạm thời dưới hình thức chiết khấu, tái chiết khấu
tái cấp vốn. Tuy nhiên, có những trường hợp đặc biệt, NHNN vẫn cho NHTM
vay để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà nước với một mức lãi
suất ưu đãi. Nhưng khoản vay này thường bị hạn chế số lượng, đặc biệt là khi
chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
+ Vay từ Bộ Tài chính: Mặc dù đã có Tổng cục đầu tư phát triển nhưng
Bộ tài chính vẫn có sự hỗ trợ cho các chương trình tín dụng Ngân hàng. Hàng
năm, các địa phương được phân bổ một số vốn trung và dài hạn cho các công
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
13
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
trình phục vụ các mục tiêu quốc kế dân sinh. Nguồn này sẽ được Bộ Tài chính
chuyển sang Ngân hàng Đầu tư và Phát triển hoặc của NHTM quốc doanh
khác dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển để cho các đối tượng này vay với
lãi suất ưu đãi Nhưng cũng có những dự án thuộc danh mục Chính phủ chỉ
định nhưng NHTM sẽ lo vốn đầu tư toàn bộ. Do đó NHTM có thể vay một
phần từ Bộ Tài chính để tài trợ cho các dự án này, Bộ Tài chính sẽ chuyển tiền

để cấp bù phần chênh lệch giữa lãi suất cho vay trung và dài hạn của NHTM
là lãi suất ưu đãi để NHTM không bị lỗ trong kinh doanh.
- Vay từ các NHTM và Tổ chức tín dụng khác
Ngoài nghiệp vụ vay từ NHNN và.Bộ Tài chính thì các NHTM có thể
vay mượn lẫn nhau hoặc vay từ các Công ty Bảo hiểm để đảm bảo vốn cho
hoạt động kinh doanh dựa trên nguyên tắc:
Các NHTM phải hoạt động hợp pháp
Thực hiện việc đi vay và cho vay theo hợp đồng tín dụng.
Vốn vay phải được bảo đảm bằng thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của
NHNN.
Nguồn vay mượn này thường có chi phí cao, kỳ hạn trung hạn là chủ yếu
phụ thuộc nhiều vào quan hệ cũng như uy tín của NHTM đi vay.
- Vay từ nước ngoài
Theo tinh thần Nghị định 90/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 thì các
NHTM có thể vay vốn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước.
Các NHTM Việt Nam hiện có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi
với các Ngân hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành
cũng khá thuận lợi. Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường
tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành
một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định. Hạn mức này phải được
Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh. Theo Nghị định 90/CP, thì mức
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
14
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6 lần vốn tự
có của tổ chức đó. Nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến
thời điềm đến thời điểm vay mới. Như vậy muốn tận dụng hạn mức tín dụng
của nước ngoài, các NHTM Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả.

Các khoản vay từ Ngân hàng nước ngoài của các NHTM Việt Nam đều
do NHNN trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải
qua NHNN xét duyệt. Các NHTM được quyền chủ động tìm kiếm các nguồn
vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt
động kinh doanh ngân hàng.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến huy động vốn tại NHTM
* Nhân tố khách quan
- Sự ổn định và phát triển của nền kinh tế:
Động thái của nền kinh tế chính là cơ sở đầu tiên để người gửi tiền ra
quyết định nên gửi tiền vào Ngân hàng, tích trữ vàng, USD hay mua sắm các
tài sản khác. Trong điều kiện nền kinh tế bất ổn định, giá cả và sức mua của
đồng tiền biến động mạnh thì người dân có xu hướng tích trữ vàng, USD hoặc
các dạng tài sản khác thay vì đem số tiền đó gửi tại NHTM. Ngược lại, một
nền kinh tế phát triển ổn định với tỷ lệ lạm phát hợp lý thì người dân sẽ có cái
nhìn khả quan hơn và xu hướng tiền gửi ở các NHTM tăng lên là một điều tất
yếu.
- Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế:
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ " Để tạo vốn cho đầu tư phát
triển, giải pháp cơ bản và lâu dài là làm ăn có hiệu quả, phát triển kinh tế,
thực hành tiết kiệm kể cả trong chi tiêu của Nhà nước, trong sản xuất kinh
doanh và trong tiêu dùng của dân cư Thực tế cho thấy, người dân có thu nhập
càng cao thì lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể càng lớn, đặc biệt là khì thu
nhập bình quân đầu người đã đạt đến một mức độ nhất định thì tỷ lệ tiết kiệm
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
15
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
không phải tăng lên theo tương quan tỷ lệ với sự gia tăng của thu nhập mà
tăng với một tỷ lệ lớn hơn so với thu nhập do nhu cầu thiết yếu lúc này được

thoả mãn hoàn toàn và lượng tiền dư ra sẽ tăng nhanh. Tuy nhiên, lượng tiền
tiết kiệm có được gửi vào NHTM hay không còn phụ thuộc vào tâm lý tiêu
dùng các dân cư. Họ có thể đem gửi Ngân hàng, giữ tiền mặt, vàng, ngoại tệ
hoặc mua các tài sản khác.
Bên cạnh nguồn tiết kiệm từ dân cư thì nguồn tiết kiệm từ các tổ chức
kinh tế- xã hội cũng rất quan trọng. NHTM có thể huy động nguồn vốn này
thông qua nghiệp vụ phát hành trái phiếu. Do đó để NHTM thực hiện tổ chức
năng trung gian tài chính, phục vụ đầu tư phát triển thì đòi hỏi các tổ chức, cá
nhân và cả nhà nước phải có chính sách tiết kiệm hợp lý và coi tiết kiệm là
quốc sách hàng đầu.
- Chính sách của Nhà nước:
Đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến công tác huy
động vốn của các NHTM. Bởi vì khi Nhà nước khuyến khích việc mở rộng
huy động vốn thì sẽ có các chính sách văn bản hướng dẫn cụ thể. Từ đó, các
NHTM sẽ có các căn cứ pháp lý để thực hiện nghiệp vụ này một cách thuận
lợi hơn. Ngược lại, khi Nhà nước không khuyến khích thì tất yếu công tác này
sẽ rất khó có khả năng tồn tại và phát triển.
Hiện nay, Nhà nước ta đã thấy được sự cần thiết của việc huy động vốn
và đã ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể nhằm khuyến khích các NHTM
ngày càng mở rộng huy động vốn để đáp ứng nhu cầu vốn cho sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước.
- Nhu cầu vốn của nền kinh tế:
Nền kinh tế đòi hòi nhiều vốn cho đầu tư phát triến, ngoài vốn ngắn hạn
còn rất nhiều vốn. Song tự bản thân nó không thể đáp ứng đủ lượng vốn cần
thiết, NHTM với vai trò là cầu nối giữa người thiếu vốn và người thừa vốn đã
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
16
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy

góp phần cung cấp một nguồn vốn lớn cho phát triển kinh tế. Ở nước ta, thị
trường chứng khoán mở ở dạng sơ khai do đó việc đáp ứng nhu cầu tín dụng
của nền kinh tế thông qua hệ thống NHTM vẫn chiếm vị trí quan trọng và cấp
thiết.
- Cơ cấu dân cư và vị trí địa lý:
Ở những địa điểm dân cư đông đúc, các thành phố lớn có nhiều doanh
nghiệp hoạt động và kinh tế phát triển thì NHTM có thể huy động được nhanh
hơn và nhiều hơn những nơi kém phát triển Đặc biệt ở những thị trường sôi
động, có độ nhạy cảm cao với lãi suất và tiện ích khách do nghiệp vụ huy
động vốn của NHTM đem lại thì ở đó việc mở rộng và bổ sung nguồn vốn
của NHTM sẽ thuận lợi hơn các vùng nông thôn hay miền núi.
* Nhân tố chủ quan
- Uy tín của NHTM:
Người gửi khi xa rời vốn liếng một thời gian dài để gửi vào NHTM,
người gửi thường lo sợ trước sự biến động thường xuyên của nền kinh tế. Do
đó họ thường có sự cân nhắc và lựa chọn Ngân hàng nào được họ thừa nhận
là an toàn và thuận lợi nhất hay nói cách khác là có uy tín nhất đối với người
gửi tiền. Thông thường, người gửi tiền đánh giá uy tín của NHTM qua các
tiêu thức cơ bản như: Sự hoạt động lâu năm, quy mô, trình độ quản lý, công
nghệ, Do đó các NHTM cần nâng cao uy tín thông qua các nghiệp vụ của
mình, từng bước thoả mãn tối đa nhu cầu của người gửi tiền. Khi đã tin tưởng
vào một NHTM nào đó, tất yếu họ sẽ tạm xa rời vốn liếng của mình để gửi
vào Ngân hàng hưởng lãi. Không phải ngẫu nhiên mà nhân dân ta có câu tục
ngữ "Chọn mặt gửi vàng", và trong hoạt động ngân hàng chữ "Tín" và “lòng
tin" là rất quan trọng.
- Chính sách lãi suất cạnh tranh:
Bao gồm cả lãi suất huy động và cho vay. Đây là một chính sách quan
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
17

Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
trọng của NHTM, nó đòi hỏi phải có sự linh hoạt, vừa hấp dẫn người gửi ,
đồng thời phải đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng. Thông thường,
quy mô của tiền gửi vào ngân hàng biến động tỷ lệ thuận đặc biệt thì quy luật
này bị phá vỡ. Chẳng hạn khi lãi suất huy động giảm nhưng người gửi vẫn thu
được một khoản lợi tức sau khi đã trừ đi tỷ lệ trượt giá thì vốn huy động của
ngân hàng vẫn có thể tăng lên. Như vậy có thể nói lãi suất huy động có ảnh
hưởng lớn đến quy mô tiền gửi vào NHTM, đặc biệt là tiền gửi tiết kiệm. Vì
người dân thường quan tâm đến lãi suất tiết kiệm để so sánh nó với tỷ lệ trượt
giá của đồng tiền và khả năng sinh lời của các hình thức đầu tư khác như cồ
phiếu, trái phiếu, Từ đó dân chúng sẽ đưa ra quyết định có nên gửi tiền vào
ngân hàng hay không Gửi bao nhiêu và dưới hình thức nào.
Đối với các tổ chức kinh tế - xã hội thì ít nhạy cảm hơn đối với lãi suất
mà NHTM huy động mà họ quan tâm nhiều tới công nghệ ngân hàng, thái độ
phục vụ của nhân viên ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất và tính tiện ích cũng
như thanh khoản của trái phiếu ngân hàng cũng được các tổ chức này đặc biệt
quan tâm.
- Chính sách sản phẩm:
Đa dạng hoá sản phẩm trong lĩnh vực ngân hàng đã khó, đa dạng hoá các
hình thức huy động vốn lại càng nan giải hơn. Tuy nhiên, các NHTM đã cho
ra đời nhiều sản phẩm vừa mang tính truyền thống, vừa mang tính hiện đại
như: Tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu, trái phiếu, với sự phong phú về kỳ hạn,
mệnh giá và chủng loại. Qua đó từng bước đã thu hút được nhiều khác hàng
hưởng ứng. Một NHTM có sự đa dạng trong nghiệp vụ huy động vốn trong
nền kinh tế, thoả mãn được nhu cầu của người gửi tiền; một sản phẩm phù
hợp sẽ làm họ quan tâm và thúc dục họ gửi tiền vào ngân hàng hơn là tìm
kiếm các hình thức đầu tư khác. Vì vậy đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt là
trong huy động vốn có thể coi là "cuộc chạy đua" không có đích cuối cùng
SV: Đỗ Thu Hằng

MSV: TC412227
18
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
của các NHTM hiện nay.
- Công tác cân đối vốn của Ngân hàng:
Một chiến lược huy động vốn đúng đắn phù hợp với kế hoạch sử dụng
vốn trong cùng thời kỳ, sẽ tạo điều kiện cho các NHTM đạt được mục tiêu tối
đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng nguồn vốn đó chính là công tác cân đối vốn
của Ngân hàng. Trong quá trình đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển
tình hình công tác cân đối vốn có vai trò hết sức quan trọng đối với bất cứ
NHTM nào. Thông qua cân đối vốn, NHTM sẽ biết được thực trạng và có
những dự đoán nhu cầu biến động vốn trong tương lai. Từ đó có thể đưa ra
chính sách huy động thích hợp về số lượng cũng như là về loại tiền và kỳ hạn
huy động. Qua đó sẽ nâng cao tính chủ động của NHTM trong công tác huy
động vốn.
- Chính sách quảng cáo:
Chính sách quảng cáo đóng vai trò quan trọng đối với tất cả các ngành
trong thời đại ngày nay, trong đó không loại trừ ngành Ngân hàng. Để tạo
được hình ảnh đẹp trong con mắt khách hàng thì NHTM cần phải thực hiện
đồng bộ nhiều yếu tố. Trong đó không chỉ chú trọng đến các hình thức quảng
cáo như: Quảng cáo trên tạp chí, Pano, áp phích, Intemet, mà còn cần có sự
kết hợp với các chính sách như: Chính sách khách hàng, chính sách sản
phẩm, Việc tuyền truyền, quảng cáo để mọi tầng lớp dân cư hiểu biết về các
thông tin là rất cần thiết. Trên cơ sở hiểu biết công tác huy động của Ngân
hàng thì dân chúng mới có thể nhiệt tình hưởng ứng.
- Ngoài một số chính sách cơ bản trên, nghiệp vụ huy động vốn của
NHTM còn chịu sự tác động của một số chính sách như: Chính sách khách
hàng, các dịch vụ ngân hàng, Trong đó các dịch vụ huy động vốn như: Tư
vấn, chiết khấu, kèm theo nghiệp vụ huy động vốn có vai trò hỗ trợ quan

trọng. Qua đó nhằm tạo ra những tiện ích hấp dẫn khách hàng và có thể tăng
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
19
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
sức cạnh tranh trong công tác huy động vốn n của NHTM.
1.3. Tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
1.3.1. Khái niệm tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại
Tăng cường huy động vốn là việc Ngân hàng thực hiện những biện pháp
nhằm mục đích gia tăng nguồn vốn huy động một cách hợp lý theo chủ
chương của Ngân hàng qua từng thời kỳ, từng giai đoạn thông qua các hình
thức huy động vốn: Nhận tiền gửi (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn,
tiền gửi tiết kiệm); phát hành các công cụ nợ (tín phiếu, trái phiếu); và nguồn
vốn đi vay và những hoạt động nhằm thu hút ngày càng nhiều lượng khách
hàng cá nhân, tổ chức đến với ngân hàng mình.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ tăng cường huy động vốn tại
Ngân hàng thương mại
Để đo lường được mức độ tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng
thương mại, ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
-Tốc độ tăng trưởng huy động vốn qua thời gian: Ngân hàng cần xem xét
cụ thể tốc độ tăng trưởng huy động của từng loại vốn qua thời gian để biết
được công tác huy động vốn có đạt mục tiêu đề ra và có những biện pháp cụ
thể nhằm tăng cường huy động vốn.
- Sự thay đổi cơ cấu của những nguồn vốn mà Ngân hàng muốn tăng
cường huy động qua thời gian. Dựa vào những ưu thế và đặc điếm của mình,
Ngân hàng xác định được nguồn vốn huy động nào cần tăng cường. Qua các
thời kỳ, xem xét tỷ trọng và mức độ thay đổi tỷ trọng của nguồn vốn huy
động đó trong tổng nguồn vốn huy động. Sự tăng lên về tỷ trọng cho thấy
tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng đã phát huy hiệu quả. Nếu qua một

SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
20
Tốc độ tăng
trưởng HĐV
D nợ năm n - D nợ năm ( n - 1 )
Dư nợ năm ( n - 1 )
x 100%=
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
quãng thời gian nhất định mà Ngân hàng nhận thấy tỷ trọng nguồn vốn cần
tăng cường không có nhiều thay đổi hoặc giảm sút, Ngân hàng sẽ có những
biện pháp kịp thời nhằm cải thiện hoặc có những điều chỉnh theo hướng đi
khác. Ví dụ: NH muốn tăng tiền gửi kỳ hạn trên 1 năm, vậy cơ cấu của tiền
gửi kỳ hạn trên 1 năm thay đổi qua các năm như thế nào, có tăng lên hay
không? Từ đó, NH mới đưa ra được các phương án tốt hơn để tăng cường huy
động nguồn vốn đó phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
- Đa dạng các phương thức huy động vốn: Ngân hàng cung cấp tới khách
hàng ngày càng nhiều sản phẩm khác nhau cho thấy mức độ tăng cường huy
động vốn của ngân hàng càng được cải thiện. Khách hàng sẽ có nhiều lựa
chọn phù hợp hơn, ngân hàng có thể đáp ứng được nhiều yêu cầu khác nhau
từ mọi đối tượng khách hàng. Qua đó, ngân hàng sẽ ngày càng thu hút được
nhiều khách hàng đến với đơn vị mình hơn, và tăng cường huy động vốn sẽ
thu được những thành cộng nhất định.
1.3.3 Các nhân tố tác động đến tăng cường HĐV TẠI NHTM
* Các nhân tố khách quan
-Tình hình kinh tế - xã hội: Hoạt động huy động vốn nói chung hay tăng
cường huy động vốn đều bị các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế, thu nhập dự tính của người lao động, tâm lý người gửi tiền, chu
kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, sự ổn định vĩ mô của nền kinh tế

tác động trực tiếp. Khi nền kinh tế có sự trượt giá của đồng tiền dẫn đến việc
nguồn vốn nhàn rỗi hầu như sẽ được chuyển thành những tài sản có giá trị bền
vững hơn để an toàn hơn. Như thế tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng sẽ
gặp rất nhiều khó khăn.
-Môi trường pháp lý và các chính sách vĩ mô: Những yếu tố này ảnh
hưởng trực tiếp đến chủ trương, phương hướng trong hoạt động của Ngân
hàng thương mại. Vì thế nó cũng tác động tới tăng cường huy động vốn tại
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
21
Chuyên đề tốt nghiệp
GVHD: ThS. Lê Thu Thủy
Ngân hàng. Các NHTM xây dựng các chiến lược kình doanh cho riêng mình
phải dựa trên cơ sở tuân thủ pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nước như chính sách lãi suất, chính sách đầu tư, tiết kiệm, Ngân hàng Nhà
nước điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nâng cao năng lực, vai trò hiệu
quả và theo sát thị trường, phối hợp chặt chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô
khác thì mới tạo điều kiện và thúc đẩy phát triển các thị trường tiền tệ cũng
như hoạt động của hệ thống ngân hàng. Mặt khác, việc xây dựng một môi
trường pháp lý lành mạnh, thông thoáng cũng là một nhân tố quan trọng góp
phần tăng cường hiệu quả hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn của các
NHTM.
* Các nhân tố chủ quan
- Chính sách sản phẩm: Để thực hiện tốt công tác huy động vốn nói
chung và tăng cường huy động vốn nói riêng, các Ngân hàng thường đưa ra
nhiều hình thức huy động vốn đa dạng. Khối lượng vốn mà Ngân hàng huy
động được phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức huy động vốn mà ngân hàng
áp dụng. Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn sẽ tạo những cơ hội để
người gửi lựa chọn, đáp ứng được các nhu cầu của người gửi. Mỗi ngân hàng
đều tìm cho mình những hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện kinh

tế, xã hội, tâm lý dân cư vùng mà ngân hàng đặt địa điểm, đồng thời phù hợp
với yêu cầu sử dụng cũng như dễ dàng quản lý có hiệu quả nguồn vốn của
mình. Khi hình thức huy động vốn đa dạng có nghĩa là số lượng vốn huy động
được tăng lên và chi phí huy động có xu hướng giảm xuống.
- Chính sách lãi suất: Lãi suất là một trong các yếu tố kinh tế có tác động
mạnh đến việc thu hút vốn. Lãi suất huy động vốn thường là mối quan tâm
hàng đầu của cá nhân và tổ chức muốn gửi tiền vào ngân hàng. Điều này hoàn
toàn hợp lý vì trong nền kinh tế lĩnh vực có lợi nhuận cao hơn bao giờ cũng
thu hút được nhiều người tham gia đầu tư hơn. Tuy tăng cường huy động vốn
SV: Đỗ Thu Hằng
MSV: TC412227
22

×