Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (343.76 KB, 59 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước, đất
nước ta ngày càng phát triển, nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã giành được nhiều thành tựu to lớn
như tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đời sống của người dân ngày càng được nâng
cao…Nhưng bên cạnh đó chúng ta vẫn còn những hạn chế: tình hình xã hội còn
nhiều tiêu cực, quản lý về kinh tế của Nhà nước còn lỏng lẻo thiếu chặt chẽ gây thất
thoát vốn, chỉ số tiêu dùng tăng nhanh… Đảng và Nhà nước đã xác định nhiệm vụ
quan trọng trong thời gian tới là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế
của đất nước.
Muốn thực hiện được điều này chúng ta cần có nguồn vốn trung – dài hạn để
xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời mở
rộng sản xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế từ đó tạo đà cho sự phát
triển. Vì vậy nguồn vốn trung – dài hạn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế nước ta hiện nay.
Tuy nhiên có nguồn vốn trung – dài hạn thôi thì vẫn chưa đủ mà phải biết sử
dụng có hiệu quả nguồn vốn đó thì mới phát huy hết được vai trò tích cực, tránh sự
thất thoát lãng phí vốn. Hay nó cách khác chỉ khi nào mở rộng gắn liền với nâng
cao chất lượng tín dụng thì nguồn vốn trung – dài hạn mới phát huy được vai trò
tích cực của mình.
Nền kinh tế của nước ta còn nhiều biến động, chúng ta không thể nào dự doán
được hết những rủi ro có thể xảy ra đối với các ngành nghề, lĩnh vực kể cả hoạt
động tín dụng nói chung và hoạt động tín dụng trung – dài hạn nói riêng của toàn bộ
ngành ngân hàng cũng như của NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên Phong – tỉnh
Bắc Ninh.
Qua thời gian thực tập, tìm hiểu tại NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên
Phong – tỉnh Bắc Ninh, với vốn kiến thức đã được học và được sự giúp đỡ của các
cán bộ ngân hàng, nhận thấy vai trò quan trọng của tín dụng trung – dài hạn nên em
đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B


1
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh”. Thời gian được
nghiên cứu là các năm 2009, 2010, 2011.
Kết cấu của báo cáo chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về chất lượng tín dụng trung – dài hạn của
NHTM.
Chương II: Thực trạng chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi nhánh
NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh.
Chương III: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung – dài hạn tại chi
nhánh NHNo&PTNT chi nhánh huyện Yên Phong – tỉnh Bắc Ninh.
Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, hơn nữa đề tài tín dụng
trung – dài hạn rất rộng và phức tạp do đó không thể tránh khỏi những thiếu sót
trong chuyện đề tốt nghiệp. Vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô
và các cán bộ trong Ngân hàng để em hoàn thiện hơn đề tài được nghiên cứu.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
2
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG
TÍN DỤNG TRUNG – DÀI HẠN CỦA NHTM
1.1. Khái quát về NHTM
1.1.1. Khái niệm NHTM
Trong một nền kinh tế hàng hóa, tại một thời điểm nhất định luôn tồn tại
một thực tế là có những người tạm thời đang có một số tiền nhàn rỗi, trong khi
đó có những người đang rất cần khối lượng tiền như vậy và họ có thể trả một
khoản chi phí để có quyền sử dụng số tiền này. Theo quy luật cung - cầu, họ sẽ
gặp nhau và khi đó tất cả (người cho vay, người đi vay, và cả xã hội) đều có lợi,
sản xuất lưu thông được phát triển và đời sống được cải thiện. Cách thức gặp

nhau rất đa dạng, và theo đà phát triển NHTM ra đời như một tất yếu và là một
cách thức quan trọng, phổ biến nhất.
Ngày càng có nhiều người quan tâm tới hoạt động của ngân hàng, vậy
thực ra ngân hàng là gì. Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội
đồng nhà nước Việt Nam xác định: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà
hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách
nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết
khấu và làm phương tiện thanh toán”.
1.1.2. Vai trò của NHTM trong nền kinh tế
NHTM là một pháp nhân thực tế, là một doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá
đặc biệt, với phương châm kinh doanh phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và tự chịu
trách nhiệm, một thực thể kinh doanh với tư cách là ngân hàng kinh doanh nên
NHTM tổ chức kinh doanh độc lập và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh
của mình.
NHTM vai trò rất to lớn trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển vì ngân
hàng thương mại đã đáp ứng được những như cầu vốn ngắn hạn cần thiết phải bổ
xung cho khách hàng để đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Mặt khác
ngân hàng còn đáp ứng nhu cầu vốn cố định cho các doanh nghiệp, từ đó làm tăng
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
3
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
năng lực sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, hơn nữa NHTM còn cho vay đối
với ngân sách trong những thời kỳ tạm thời thiếu hụt ngân sách, nhằm phát triển cơ
sở hạ tầng, phúc lợi. Các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng làm tăng tốc độ thanh
toán trong nền kinh tế, khối lượng vốn luân chuyển nhiều hơn góp phần đẩy mạnh
sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Hơn nữa thanh toán qua các ngân hàng còn làm giảm khối lượng tiền mặt
trong lưu thông. Từ đó NHTM trở thành một công cụ hiệu quả để thực hiện mục

tiêu của chính sách tiền tệ. Ngoài ra NHTM còn có khả năng mở rộng tiền gửi lên
nhiều lần, tức là chức năng tạo tiền của NHTM. Hay nói một cách khác từ một
khoản tiền gửi ban đầu vào một NHTM nào đó thông qua việc cho vay, hệ thống
NHTM đã mở rộng khoản tiền gửi đó lên nhiều lần, thực chất chức năng này được
thực hiện trên cơ sở của quá trình liên kết chặt chẽ giữa hoạt động tín dụng với hoạt
động thanh toán không dùng tiền mặt của hệ thống NHTM. Hoạt động tín dụng
năng động là điều kiện cần thiết cho hoạt động phát triển nền kinh tế với tốc độ
nhanh, vững chắc.
1.1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM
Hoạt động kinh doanh của NHTM có rất nhiều nghiệp vụ khác nhau và ngày
càng được phát triển đa dạng, phong phú. Song để khái quát được toàn bộ hoạt động
của NHTM người ta quy các nghiệp vụ kinh doanh của NHTM thành 3 nghiệp vụ
cụ thể chủ yếu sau:
- Các nghiệp vụ tài sản Nợ (Bên có).
- Các nghiệp vụ tài sản Có (Bên nợ).
- Các nghiệp vụ trung gian.
1.1.3.1. Các nghiệp vụ tài sản Nợ (nghiệp vụ nguồn vốn)
Nghiệp vụ tài sản Nợ là nghiệp vụ tạo nguồn vốn hoạt động của NHTM và các
TCTD. Nguồn vốn của NHTM là những giá trị do ngân hàng huy động tạo lập được
dùng để cho vay, đầu tư và thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh khác .
Nguồn vốn là cơ sở để hoạt động kinh doanh của ngân hàng, tạo nguồn vốn là
nghiệp vụ đầu tiên của NHTM. Họat động của nghiệp vụ này quyết định đến các
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
4
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ khác. Nguồn vốn tạo ra các tài sản Nợ của
ngân hàng bao gồm :
Nguồn vốn huy động
Đây là nguồn vốn mà ngân hàng huy động được từ các khoản tiền nhàn rỗi của

các chủ thể trong xã hội. Thông thường nguồn vốn huy động chiếm một tỷ trọng rất lớn
trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại, đây là nguồn vốn quan trọng và chủ
yếu để đáp ứng mọi nhu cầu vốn của nền kinh tế.
Nguồn vốn huy động bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán
+ Tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn
* Tiền gửi thanh toán
Trong quá trình hoạt động kinh doanh các doanh nghiệp thường mở tài khoản
tiền gửi thanh toán ở ngân hàng nhằm phục vụ cho quá trình thanh toán qua ngân
hàng được hình thành nhanh chóng, chính xác, thuận tiện, đảm bảo an toàn mọi
khoản thanh toán chi trả.
* Tiền gửi không kỳ hạn thuần tuý
Đây là khoản tiền gửi mà khách hàng gửi vào ngân hàng có thể rút ra bất cứ
lúc nào, tiền gửi dưới hình thức này là do khách hàng không có điều kiện mở tài
khoản hoặc không muốn mở tài khoản tiền gửi thanh toán mà chỉ mở tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn nhằm mục đích an toàn tài sản và hưởng một khoản lãi nhất định.
Đối với khoản tiền này ngân hàng cũng phải chi trả bất kỳ lúc nào và ngân hàng
cũng chỉ được sử dụng một phần số dư của các tài khoản này để kinh doanh .
* Tiền gửi có kỳ hạn :
Là loại tiền gửi có sự thoả thuận về thời gian giữa người gửi tiền và ngân hàng.
Nó được hình thành từ nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi và tạm thời chưa sử dụng đến
của khách hàng, mục đích tiền gửi của khách hàng là để đảm bảo an toàn vốn, tránh
rủi ro, hưởng lãi và để dự trữ. Do tính chất của nguồn vốn này là có thời hạn quy
định nên tương đối ổn định và người gửi tiền được hưởng lãi suất tùy thuộc vào thời
hạn và tính chất của mỗi khoản ký thác. Về nguyên tắc thì thời hạn càng dài thì lãi
suất càng cao. Trả lãi khoản vốn này là khoản chi phí chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
5
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai

chi phí của ngân hàng thương mại. Khi nhu cầu tín dụng của khách hàng vượt quá
tổng số tiền gửi ngân hàng huy động được thì ngân hàng huy động thêm vốn bằng
các hình thức như phát hành chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu và thời hạn tuỳ
thuộc vào nhu cầu sử dụng vốn.
Mức lãi suất của loại vốn huy động này thường cao hơn lãi suất tiền gửi thông
thường, việc định ra lãi suất này ngoài việc dựa vào khung lãi suất quy định, ngân
hàng còn phải linh hoạt dựa trên cơ sở cung cầu vốn trên thị trường nhưng vẫn phải
đảm bảo kinh doanh có lãi.
Về nguyên tắc tiền gửi có kỳ hạn chỉ được rút ra khi hết thời hạn, tuy nhiên để
thực thi tốt chính sách khách hàng, các tổ chức tín dụng có thể giải quyết cho khách
hàng rút tiền ra trước hạn nhưng khách hàng không được hưởng lãi suất có kỳ hạn
mà được hưởng lãi suất không kỳ hạn .
Vốn đi vay
Khi nhu cầu tín dụng của nền kinh tế vượt quá tổng số nguồn vốn huy động
trên để đảm bảo cho mọi hoạt động của nền kinh tế tiến hành đều đặn, ngân hàng
đảm bảo cung cấp mọi nhu cầu vốn cho nền kinh tế thì NHTM ngoài các nguồn vốn
trên huy động từ tiền gửi dân cư và tiền gửi của tổ chức kinh tế, của các TCTD khác
hoặc vay vốn của NHTW hoặc vay vốn của NHNN
- Vốn của NHTW
NHTW cho các NHTM vay vốn trong trường hợp NHTM thiếu vốn tạm thời
trong hoạt động kinh doanh và thanh toán chi trả, hình thức vay chủ yếu là thanh
toán chiết khấu. NHTW với tư cách là người cho vay cuối cùng đối với NHTM.
Tuy nhiên việc này nằm trong khuôn khổ của chính sách tiền tệ.
- Vay ở các TCTD khác
Ở bất kỳ mọi thời điểm nào cũng có những ngân hàng có nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi tại tài khoản tiền gửi thanh toán của họ ở NHNN, khoản dự trữ này không
sinh lời. Bởi vậy họ sẵn sàng cho các ngân hàng khác vay trong một thời gian ngắn.
Quá trình vay và cho vay lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại trên thị trường
tiền tệ được diễn ra khá phổ biến dưới nhiều hình thức, thời hạn cho vay lãi suất cho
vay thường rất linh hoạt nhằm đảm bảo khả năng chi trả.

SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
6
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
Vốn tự có của NHTM
Vốn tự có của NHTM là vốn riêng, được hình thành qua quá trình tạo lập ở
một ngân hàng và thuộc sở hữu của một ngân hàng. Nó được hình thành khi thành
lập ngân hàng và không ngừng được bổ xung trong quá trình hoạt động.
Do tính chất ổn định và thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, vốn tự có được sử
dụng để mua sắm tài sản cố định, thiết bị làm việc và tham gia làm vốn liên doanh,
liên kết, mua cổ phần Vốn tự có có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh
của NHTM.
Việc hình thành trên các tài sản Nợ sẽ tạo nên các khoản chi chủ yếu và
thường xuyên của ngân hàng đó là chi trả lãi. Do vậy để nâng cao hiệu quả hoạt
động của kinh doanh thì mỗi ngân hàng cần có các biện pháp để quản lý các tài sản
nợ một cách linh hoạt, kiểm tra, kiểm soát các khoản chi trả lãi và sẵn sàng đáp ứng
nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng.
1.1.3.2 Nghiệp vụ tài sản Có (sử dụng vốn)
Nghiệp vụ tài sản Có là nghiệp vụ sử dụng vốn phân bổ các nguồn vốn vào các
mục đích kinh doanh. Nghiệp vụ tài sản Có bao gồm :
- Nghiệp vụ ngân quỹ
- Nghiệp vụ tín dụng
- Nghiệp vụ tài chính
* Nghiệp vụ ngân quỹ
Đây là khoản tiền dự trữ để đảm bảo cho quá trình hoạt động kinh doanh của
mỗi ngân hàng. Mục đích của việc dự trữ là phương tiện thanh toán để đảm bảo khả
năng thanh toán của hệ thống ngân hàng mình. Để đảm bảo an toàn cho mọi hoạt
động của ngân hàng thương mại, ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng
thương mại phải thường xuyên duy trì một phần tài sản dưới hình thức quỹ dự trữ
bao gồm dự trữ tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại NHTW và các TCTD khác, tiền dự trữ

bắt buộc trong đó mỗi quỹ dự trữ có một ý nghĩa khác nhau.
Đối với dự trữ bắt buộc là hình thức dự trữ theo quyết định của NHTW, làm
công cụ chủ yếu để NHTW điều hành chính sách tiền tệ, các tài sản dự trữ trong
nghiệp vụ này không đem lại một chút lợi nhuận nào cho ngân hàng, song nó đáp
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
7
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
ứng cho các nhu cầu rút tiền thoả mãn các nhu cầu vay tiền, đồng thời đảm bảo cho
các hoạt động của ngân hàng, đảm bảo uy tín của ngân hàng .
* Nghiệp vụ tín dụng
Đây là nghiệp vụ sinh lời chủ yếu của NHTM, là nghiệp vụ cơ bản đóng vai trò
quyết định cho việc kinh doanh và phương hướng phát triển của ngân hàng. Nghiệp
vụ cho vay thường chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng số tài sản có của ngân hàng. Xu
hướng chung muốn nâng cao tỷ trọng của nghiệp vụ này, vì hoạt động sinh lời chủ
yếu của NHTM này là cho vay, tuy nhiên nghiệp vụ này còn gặp nhiều rủi ro. Vì vậy
NHTM phải tuân thủ nguyên tắc quản lý các khoản cho vay như sau:
- Sàng lọc và giám sát khách hàng để tránh rủi ro thì ngân hàng phải kiểm tra
kỹ các thông tin về khách hàng, những thông tin đó phải trung thực chính xác.
- Giám sát khách hàng để giảm bớt rủi ro, ngân hàng yêu cầu khách hàng chỉ
sử dụng tiền vay cho những mục đích nhất định mà ngân hàng phải giám sát thường
xuyên theo các mục đích đã ấn định.
Ngân hàng phải đặt mối quan hệ lâu dài với khách hàng từ đó sẽ làm giảm chi
phí tập hợp thông tin và việc sàng lọc khách hàng sẽ được dễ dàng hơn.
Ngoài ra trong nghiệp vụ cho vay cần phải thực hiện thế chấp vì đây là công
cụ quan trọng để hạn chế rủi ro. Nghiệp vụ tín dụng được chia thành nghiệp vụ tín
dụng ngắn hạn và nghiệp vụ tín dụng trung - dài hạn. Đối với ngân hàng thương mại
thì nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn là chủ yếu, đem lại phần lớn lợi nhuận cho ngân
hàng.
Xét về kỹ thuật cấp tín dụng của NHTM thì NHTM cấp tín dụng dưới hình

thức cho vay chiết khấu tín dụng bằng chữ ký, tín dụng bằng tiêu dùng, tín dụng có
đảm bảo
* Nghiệp vụ tài chính
Đây cũng là một trong những nghiệp vụ sinh lời của ngân hàng. Nghiệp vụ tài
chính bao gồm:
+ Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán của Nhà nước .
+ Ngân hàng đầu tư vào chứng khoán của công ty.
+ Ngân hàng hùn vốn liên doanh, liên kết để thành lập công ty.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
8
8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
1.1.3.3. Nghiệp vụ trung gian
Đặc trưng cơ bản của nghiệp vụ này là ngân hàng phải bỏ vốn ra rất ít thậm chí
không phải bỏ vốn ra để kinh doanh, rủi ro ít song đối với các nghiệp vụ này đòi hỏi
phải có kỹ thuật, áp dụng công nghệ ngân hàng.
Nghiệp vụ trung gian là việc ngân hàng đứng ra làm trung gian, làm môi giới
để phục vụ theo yêu cầu của khách hàng như nghiệp vụ thu hộ, nghiệp vụ chi hộ,
nghiệp vụ làm trung gian thanh toán qua ngân hàng, nghiệp vụ hoạt động của ngân
hàng trên thị trường chứng khoán, nghiệp vụ uỷ thác tư vấn. Thông qua việc thực
hiện các nghiệp vụ này ngân hàng sẽ được hưởng một khoản lệ phí hoa hồng, đây là
một khoản thu nhập của ngân hàng. Khi nền kinh tế càng phát triển thì nghiệp vụ
này càng được mở rộng và đem lại nguồn thu lớn cho ngân hàng.
Nghiệp vụ tài sản Nợ, nghiệp vụ tài sản Có và nghiệp vụ trung gian là 3 nghiệp
vụ chủ yếu của NHTM, các nghiệp vụ này có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nghiệp
vụ tài sản Nợ quyết định phạm vi, quy mô sử dụng vốn, đồng thời qua nghiệp vụ này
phản ánh được phần lớn nhu cầu chi phí của ngân hàng, nghiệp vụ tài sản Có quyết
định mức thu nhập của mỗi ngân hàng. Đồng thời nghiệp vụ trung gian là nghiệp vụ
do trung gian tín dụng của ngân hàng mà có. Tuy nhiên nghiệp vụ này cũng góp phần
làm tăng thu nhập và phát triển hoạt động của ngân hàng từ đó thu hút được khách

hàng.
1.1.4. Các loại hình thức tín dụng ngân hàng
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và
mục tiêu quản lý của ngân hàng thương mại mà có cách phân loại tín dụng như sau:
1.1.4.1. Phân loại theo thời hạn
Theo thời gian tín dụng chia thành các loại sau đây:
- Tín dụng ngắn hạn: Có thời hạn dưới 1 năm.
- Tín dụng trung hạn: Có thời gian từ 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: Có thời hạn từ 5 năm trở nên.
Thời hạn tín dụng đó chính là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho
khách hàng một khoản tín dụng và nó được xác định cụ thể ngày, tháng, năm. Hay
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
9
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
thời hạn tín dụng còn được hiểu là thời hạn được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của
ngân hàng được phát ra cho đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng phải thu về.
Tín dụng ngắn hạn thường gắn với những khoản vay của doanh nghiệp để bổ
sung vào tài sản lưu động, bởi vì tài sản lưu động thường có vòng quay trên một
vòng thấp hơn 1 năm. Do vậy trong một năm doanh nghiệp có thể hoàn trả được số
tiền vay ở ngân hàng.
Các tài sản cố định như phương tiện sản xuất, phương tiện vận tải, một số cây
trồng vật nuôi các trang thiết bị nhanh hao mòn có nhu cầu nguồn vốn từ 1 năm
đến 5 năm.
Ngược lại, những công trình đầu tư lớn, thu hồi vốn lâu, thuộc tầm vĩ mô như
máy móc thiết bị công nghiệp nặng, xây dựng cầu đường có nhu cầu nguồn vốn từ
5 năm đến 10 năm có khi tới 20 năm.
Phân loại tín dụng theo thời gian có ý nghĩa rất quan trọng đối với NHTM. Nó
phản ánh khả năng hoàn trả, độ rủi ro cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến tính an toàn
và sinh lợi của một NHTM.

1.1.4.2. Phân loại theo hình thức cho vay
Căn cứ theo hình thức cho vay ta có các loại tín dụng sau:
- Chiết khấu: là việc NHTM ứng trước tiền cho khách hàng tương ứng với giá
trị của thương phiếu sau khi đã trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở hữu một
thương phiếu chưa đến hạn. Về mặt pháp lý thì ngân hàng không phải là nhà cho
vay với chủ sở hữu thương phiếu và chỉ là hình thức trao đổi trái quyền. Tuy nhiên
đối với ngân hàng, việc bỏ tiền ở thời điểm hiện tại để thu về một khoản tiền lớn
hơn trong tương lai với lãi suất ấn định trước được coi như là hoạt động tín dụng,
nhưng có lẽ coi đây là một hoạt động đầu tư của ngân hàng hơn là một hoạt động tín
dụng.
- Cho vay: được hiểu là việc ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng với sự
cam kết khách hàng phải hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định với
mức lãi suất cam kết. Cho vay được gọi là một trong các nghiệp vụ truyền thống
của ngân hàng thương mại, nó được hình thành ngay từ buổi sơ khai của các ngân
hàng, và được đánh giá là hoạt động sinh lời cao nhất cho các NHTM.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
10
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
- Bảo lãnh: là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
khách hàng của mình khi khách hàng của mình không có khả năng trả nợ. Mặc dù
không phải chi tiền ra, song ngân hàng vẫn thu được lợi từ khách hàng nhờ uy tín
của mình. Nghiệp vụ này được đưa vào tài khoản ngoại bảng của ngân hàng. Tuy
nhiên nếu có nghiệp vụ phát sinh tức là ngân hàng đứng ra thực hiện nghĩa vụ tài
chính thay cho khách hàng của mình thì nó lại được đưa vào tài khoản nội bảng.
- Cho thuê: là việc ngân hàng đứng ra bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những điều kiện nhất định. Sau thời gian đó khách hàng phải trả cả gốc
lẫn lãi cho ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này sinh lời khá cao, nhưng nó cũng
chứa đựng nhiều rủi ro trong đó có yếu tố về công nghệ. Điều này đòi hỏi cán bộ tín
dụng không những phải có chuyên môn về nghề nghiệp mà còn có cả sự hiểu biết

về kỹ thuật, về công nghệ.
1.1.4.3. Phân loại tín dụng theo tài sản đảm bảo
Nếu căn cứ vào tài sản đảm bảo thì ta có các loại hình tín dụng sau đây:
- Tín dụng đảm bảo: đó là sự cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài
sản đảm bảo thuộc sở hữu của mình để thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với ngân
hàng trong trường hợp không trả được nợ. Trong trường hợp này khi khách hàng
không trả được nợ, hoặc vì sử dụng sai mục đích nguồn vốn vay dẫn đến không
thanh toán được thì ngân hàng sẽ bán tài sản đi để thu hồi nguồn vốn. Tín dụng đảm
bảo được áp dụng đối với các khách hàng có độ rủi ro cao như khách hàng mới hay
những khách hàng có tình hình tài chính không tốt
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là loại hình tín dụng mà khách hàng có
nhu cầu vay vốn với một hạn mức nhất định mà không cần tài sản đảm bảo. Loại tín
dụng này thường được cấp cho các khách hàng có uy tín cao, những khách hàng có
mối quan hệ tốt và lâu dài đối với ngân hàng, họ có tình hình tài chính lành mạnh,
có mối quan hệ tốt với các tổ chức tài chính. Cũng có thể là các khoản vay thực hiện
theo chỉ thị của chính phủ, hay chính phủ yêu cầu không cần tài sản đảm bảo.
Bên cạnh những tiêu thức phân loại trên, NHTM còn sử dụng các tiêu thức
khác tuỳ theo đối tượng cho vay, tính đa dạng của sản phẩm hay tính chuyên môn
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
hoá trong ngành để phân chia như tín dụng lành mạnh, tín dụng có vấn đề, tín dụng
sản xuất, tín dụng tiêu dùng
1.2. Tín dụng trung - dài hạn
1.2.1. Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng trung – dài hạn là hoạt động cho khách hàng vay vốn trung – dài hạn
nhằm thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh, phục vụ đời sống. Các
khoản vay trung – dài hạn là các khoản vay có thời hạn trên 1 năm. Ở Việt Nam
hiện nay các khoản vay có thời hạn trên 1 năm đến 5 năm là vay trung hạn, trên 5

năm là vay dài hạn.
1.2.2. Đặc điểm tín dụng trung - dài hạn
Tín dụng trung - dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
- Thời gian hoàn vốn chậm: tín dụng trung – dài hạn là các khoản tín dụng
nhằm hình thành mới hoặc hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp.
Để thực hiện mục đích đó cần một khoản thời gian dài, thậm chí rất dài. Thời gian
này phụ thuộc rất nhiều vào tính chất, đặc điểm của chu kỳ sản xuất kinh doanh,
thời gian thi công thực hiện công trình, quy mô và mức độ phức tạp của công trình,
công nghệ sản xuất của doanh nghiệp. Không giống như tín dụng ngắn hạn, tai fsanr
hình thành từ vốn trung – dài hạn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và sinh lời gắn liền với tuổi thọ của nó qua nhiều giai đoạn. Nguồn
vốn dùng để trả nợ căn bản được tạo nên trên cỏ sở thông qua hoạt động của tài sản
đó. Chính vì vậy thời gian hoàn vốn thường rất chậm.
- Lãi suất cao: việc thỏa mãn nhu cầu vay vốn của khách hàng trong tín dụng
trung – dài hạn khó khăn và phức tạp, nó liên quan đến điều kiện diễn biến kinh tế
trong tương lai, các chi phí phát sinh trong việc tạo vốn của ngân hàng, qua trình
thẩm định, xem xét, thực hiện và giám sát khoản vay, kỳ hạn cho vay đều ảnh
hưởng lớn đến tính thanh khoản của ngân hàng. Hơn nữa trong tín dụng trung – dài
hạn các hoạt động sinh lời của doanh nghiệp vay vốn diễn ra và trải qua một thời
gian tương đối dài nên thường có nhiều rủi ro hơn trong cho vay ngắn hạn. Chính vì
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
12
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
các lý do trên, lãi suất trong cho vay trung – dài hạn thường phải cao hơn trong cho
vay ngắn hạn.
- Giá trị khoản vay lớn: thực chất tín dung trung – dài hạn chính là tín dụng
vốn cố định, mà đối tượng chủ yếu của nó là những chi phí để hình thành nên cơ sở
vật chất kỹ thuật mới hoặc cải tạo, mở rộng, nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật đã có
sẵn của doanh nghiệp. Mà để thực hiện được việc cải tao, nâng cấp đó thì doanh

nghiệp phải có một khối lượng vốn lớn. Chính vì vậy một trong những đặc điểm của
tín dụng trung – dài hạn đó là giá trị khoản vay lớn.
- Rủi ro trong tín dụng trung – dài hạn: giữa rủi ro và khả năng sinh lời có mối
quan hệ cùng chiều, lợi nhuận càng cao thì rủi ro cũng cao và ngược lại. Đồng thời
tín dụng trung – dài hạn có thời gian hoàn vốn châm, giá trị khoản vay lớn nên rủi
ro trong hoạt động tín dụng trung – dài hạn cao.
1.2.3. Các hình thức tín dụng trung - dài hạn
1.2.3.1. Tín dụng theo dự án đầu tư
a. Cho vay đồng tài trợ
- Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng
trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phối hợp với các bên
đồng tài trợ để thực hiện, nhằm phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng.
- Hình thức này được áp dụng trong các trường hợp các dự án đầu tư đòi hỏi một
khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thì không đáp ứng hết được. Ngân hàng
thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với tổng nguồn vốn của
mình và không được đầu tư quá nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn vốn tài
sản. Thậm chí đối với một vài dự án ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ, nhưng rủi ro
quá lớn ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là một họat
động tín dụng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn vốn của
họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.
b. Cho vay trực tiếp theo dự án
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
13
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
- Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. Ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với
từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đã lựa chọn để tài trợ.
Do vậy công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay, mà còn phải
quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến tính thực thi có hiệu quả

của dự án như quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn thiết bị
máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư… Bởi vì việc quy định cấp một khoản
tín dụng sẽ ràng buộc ngân hàng với người vay trong một số thời gian, cho nên cần
phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể xảy ra.
1.2.3.2. Tín dụng thuê mua
- Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng thuê
mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho
người đi thuê sử dụng và người thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê và có thể được quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản
thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
* Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản :
- Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô dây chuyền công nghệ…
- Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
Về mặt pháp lý thì tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi
thuê chỉ được quyền sử dụng. Do đó người đi thuê không đựơc bán chuyển nhượng
cho người khác. Nhưng họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó
đem lại, đồng thời chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng thuê mua
có một số hình thức như thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua có sự tham gia
của hai bên, tái thuê mua, thuê mua hợp tác, thuê mua giáp lưng …
* Xét về lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi
- Đối với ngân hàng (bên cho thuê) thì đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các
hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở rộng dịch vụ,
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
14
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc vốn vay
được sử dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp thì hình thức này có thể giúp các doanh nghiệp có
thể sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị mà không phải bỏ vốn lớn,

không ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn mức tín dụng của doanh nghiệp,
việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh chóng từ đó cho phép đầu tư khẩn cấp,
đáp ứng được thời cơ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mặt khác
phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản
xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
- Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín, ngân hàng có thể
không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê mua. Có
thể nói mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường, nhất
là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.
1.2.4. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.2.4.1. Đối với khách hàng
- Tín dụng trung – dài hạn là nguồn tài trợ giúp doanh nghiệp có điều kiện mở
rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường: với những lợi thế đặc thù, tín dụng trung
– dài hạn của ngân hàng được các doanh nghiệp ưa thích hơn hình thức phát hành
cổ phiếu.
- Tín dụng trung – dài hạn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đổi mới công
nghệ, thay đổi cơ cấu sản xuất: về dài hạn, các doanh nghiệp luôn chú trọng đến
việc mở rộng sản xuất, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc, đổi mới công nghệ
để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức
tối thiểu.
- Tín dụng trung – dài hạn còn là trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong
việc thỏa mãn và chớp cơ hội kinh doanh: khi có cơ hội kinh doanh, các doanh
nghiệp có thể vay vốn nhanh chóng của ngân hàng để mở rộng sản xuất kinh doanh,
gia tăng sản lượng để chiếm lĩnh thị trường.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
15
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
1.2.4.2. Đối với hoạt động của NHTM
- Tín dụng trung – dài hạn góp phần đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng,

đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng: tind dụng trung – dài hạn
về cả số lượng và chất lượng là hoạt động mang tính chiến lược của các NHTM.
Với những khoản tín dụng trung – dài hạn thường có quy mô lớn, lãi suất cao, thời
gian hoàn vốn chậm, rủi ro cao vì vậy lãi suất cho vay cao mang lại lợi nhuận chủ
yếu cho ngân hàng. Ngân hàng cần nhận thức rõ rằng tín dụng trung – dài hạn cũng
là một loại sản phẩm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng nhằm mục đích lợi
nhuận.
- Khi ngân hang cung cấp tín dụng trung – dài hạn cho khách hàng chính là
ngân hàng đang tạo ra và duy trì khách hàng của mình trong tương lai: tín dụng
trung – dài hạn giúp ngân hàng mở rộng phạm vi hoạt động của mình và ngày càng
khẳng định vai trò, vị thế của mình trong nền kinh tế. Khi ngân hàng không đa dạng
hóa hoạt động cho vay, đa dạng hóa khách hàng thì ngân hàng khó có thể đứng
vững được trong nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng
khác. Tín dụng trung – dài hạn là một trong những công cụ cạnh tranh có hiệu quả
cao của các ngân hàng nhằm thu hút khách hàng về phía mình, giúp ngân hàng có
điều kiện lôi kéo khách hàng sử dụng các dịch vụ khác do mình cung cấp.
1.2.4.3. Đối với nền kinh tế quốc dân
- Tín dụng trung – dài hạn thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn, điều hòa
lượng cung cầu về vốn trong nền kinh tế: với chức năng là trung gian tài chính, các
ngân hàng tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế và cho vay đối với
các đối tượng có nhu cầu. Điều đó được thể hiện rõ ràng trong hoạt động tín dung
trung – dài hạn của ngân hàng, nó giúp các doanh nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế
nói chung hoạt động một cách liền mạch không ngắt quãng và là một kênh truyền
dẫn vốn có hiệu quả. Thông qua tín dụng trung – dài hạn chúng ta có thể đổi mới
công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình tái sản xuât,
mở rộng, đầu tư phát triển nền kinh tế. Hoạt động tín dụng thúc đẩy quá trình lưu
thông hàng hóa và lưu chuyển tiền tệ, thúc đẩy tái sản xuất.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
16
16

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
- Tín dụng trung – dài hạn có vai trò quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, tăng tỷ trọng các ngành sản
xuất vật chất, là nền tảng cho phát triển kinh tế đất nước, đáp ứng nhu cầu trước mắt
cũng như lâu dài.
- Tín dụng trung – dài hạn tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế đối
ngoại: thông qua các hình thức như: tín dụng tài trợ xuất khẩu, tín dụng hỗ trợ phát
triển, cho vay viện trợ…
1.3. Chất lượng tín dụng trung – dài hạn
1.3.1. Quan điểm về chất lượng tín dụng trung – dài hạn
Trong nền kinh tế thị trường để tồn tại và phát triển được các doanh nghiệp
phải trả lời ba câu hỏi lớn đó là: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế
nào? Đây là ba vấn đề cơ bản mà các doanh nghiệp gặp phải trong nền kinh tế thị
trường. Để làm được điều này các doanh nghiệp phải quan tâm đến một yếu tố quan
trọng đó là chất lượng sản phẩm. Ngân hàng là một doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực tiền tệ trong đó các khoản tín dụng là một trong các sản phẩm chủ yếu
mang lại lợi nhuận cho ngân hàng, nó cũng có giá cả và chất lượng như những hàng
hóa khác. Chất lượng tín dụng được hiểu là “mức độ đáp ứng yêu cầu của khách
hàng, phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội và điều kiện riêng cuat bản than
ngân hàng, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng”. Chất lượng tín dụng
được xem xét trên những góc độ:
1.3.1.1. Đối với khách hàng
Đó là vay được tiền phù hợp với mục đích sử dụng, điều kiện về lãi suất, lỳ
hạn trả nợ, thủ tục vay, phương thức thanh toán… phù hợp với điều kiện của khách
hàng và luật pháp hiện hành nhằm đảm bảo khả năng duy trì và mở rộng sản xuất,
tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng.
1.3.1.2. Đối với NHTM
Cho vay phù hợp với thực lực tài chính và quản lý của ngân hàng, phù hợp với
chiến lược của ngân hàng, phù hợp với các nguyên tắc cho vay, chiến lược cạnh
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B

17
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
tranh và phát triển, đảm bảo thu hồi được tiền đúng hạn và có lãi với giá thành hợp
lý, đảm bảo việc tuân thủ pháp luật hiện hành và vai trò của ngân hàng trong nền
kinh tế thi trường.
1.3.1.3. Đối với nền kinh tế
Cho vay giúp cho nhu cầu về vốn của nền kinh tế được đáp ứng kịp thời phục
vụ cho sản xuất kinh doanh hàng hóa, đảm bảo cung cấp vốn đầy đủ, đúng lúc và có
hiệu quả cho việc duy trì sản xuất, giúp các doanh nghiệp mở rộng sản xuất, tăng
cường hiệu quả và năng lực hoạt động của các doanh nghiệp. Qua đó góp phần giải
quyết các vấn đề xã hội: tạo công ăn việc làm cho người lao động, xóa đói giảm
nghèo…
Như vậy chúng ta có thể rút ra một số vấn đề khi tiếp cận khái niệm chất lượng
tín dụng đó là:
- Đây là một khía niệm tương đối: nó vừa cụ thể (thể hiện qua các chỉ tiêu tính
toán như: kết quả kinh doanh, doanh số cho vay, doanh số thu nợ, chỉ tiêu đánh giá
nợ xấu…) lại vừa trừu tượng (thể hiện qua năng lực thu hút khách hàng, tác động
đối với doanh nghiệp, tác động đối với nền kinh tế…)
- Chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp và được xác định qua nhiều yếu
tố như: lãi suất, mức độ an toàn của vốn, khả năng đáp ứng nhu cầu vốn của khách
hàng…
1.3.2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn
1.3.2.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn là đòi hỏi bức thiết
đối với sự phát triển kinh tế
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín dụng
cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để đáp
ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó chất lượng
tín dụng ngày càng được quan tâm vì:
- Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung

tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
18
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
- Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn
trong nền kinh tế, tín dụng trung - dài hạn đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm
thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp từ đố phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Mặt khác tín dụng
trung - dài hạn là một trong những cách để đưa tiền vào lưu thông nhằm làm cho
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hoá. Xuất phát từ
chức năng tạo tiền của các NHTM, thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện
thanh toán không dùng tiền mặt, các NHTM có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều
lần so với số tiền thực có hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát
hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khách cho khách vượt quá số tiền gửi
thực tế của hộ … nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều có quyển thanh toán, chi trả
như các phương tiện khác và thường chúng được chuyển thành tiền mặt. Như vậy
nghiệp vụ tín dụng của NHTM có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong
lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ
tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát,
ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm,
dịch vụ trương tương lai của các công trình đầu tư.
- Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự phân
tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những quyết định
đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền
vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã

hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… chất lượng tín
dụng trung - dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm
bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát
triển kinh tế.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
19
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
- Chất lượng tín dụng trung - dài hạn góp phần làm lành mạnh quan hệ tín
dụng: hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện
nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối
tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay
đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.
- Tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng có mối quan hệ mật
thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ, có hiệu
quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó cũng có
thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
1.3.2.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển
của các NHTM
- Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ
của các NHTM do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay vốn tín dụng
và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm, dịch vụ tạo ra
một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung thành của khách
hàng.
- Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí
quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Mặt khác
nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho
ngân hàng trong cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng vì
chất lượng tín dụng tốt tạo cho ngân hàng có nhiều khách hàng trung thành và

những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng tốt
giúp ngân hàng củng cố các mối quan hệ xã hội bằng những điều kiện tốt nhất.
Có thể nói, với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín
dụng trung - dài hạn của các NHTM là sự cần thiết khách quan vì sự tồn tại và phát
triển lâu dài của các NHTM. Vì vậy, chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải
được nâng cao.
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
20
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
1.3.3. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung – dài hạn
a. Chỉ tiêu về dư nợ
Tổng dư nợ tín dụng ngân hàng bao gồm dư nợ vốn ngắn hạn, dư nợ vốn trung
- dài hạn, vốn góp đồng tài trợ. Chỉ tiêu dư nợ này được tính bằng số tuyệt đối, nó
phản ánh doanh số cho vay của ngân hàng trong một thời kỳ nhất định thường là
một năm. Tổng dư nợ cao chứng tỏ ngân hàng cho vay được nhiều, uy tín của ngân
hàng tương đối tốt, có khả năng thu hút khách hàng. Ngược lại, khi tổng dư nợ thấp
chứng tỏ ngân hàng không có khả năng mở rộng và phát triển cho vay, từ đó có thể
thấy rằng uy tín của ngân hàng chưa cao, chưa có khả năng thu hút khách hàng, khả
năng tiếp thị kém, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của cả ngân hàng. Tuy
nhiên chúng ta không thể chỉ dựa vào riêng một chỉ tiêu này để đánh giá. Tuỳ từng
thời điểm chỉ tiêu này sẽ phản ánh những thực trạng khác nhau. Do đó khi đánh giá
chúng ta phải đặt vào mối quan hệ với nguồn vốn điều kiện kinh doanh cụ thể, của
khách hàng và ngân hàng.
Dư nợ tín dụng trung - dài hạn
Chỉ tiêu dư nợ =
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ tín dụng trung - dài hạn trên tổng dư nợ
tín dụng của ngân hàng. Qua chỉ tiêu này chúng ta có thể so sánh được quy mô của
tín dụng trung - dài hạn so với tín dụng ngắn hạn của ngân hàng. Tỷ lệ dư nợ này

càng cao chứng tỏ ngân hàng này có quy mô tín dụng trung - dài hạn đáp ứng được
nhu cầu của khách hàng cũng như của nền kinh tế. Tùy từng ngân hàng cụ thể và
tùy từng thời điển mà ngân hàng mong muốn lệ này cao sẽ đem lại cho ngân hàng
thu nhập cao do lãi suất tín dụng trung - dài hạn cao song rủi ro đối với ngân hàng
cũng cao.
b. Chỉ tiêu nợ quá hạn
Là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho vay

Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
21
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và không
được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá hạn
chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải là thước đo
chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Trên thực tế, các
ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể
được.
Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của trung - dài hạn chiếm bao nhiêu
phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ càng tốt.
c. Chỉ tiêu nợ xấu
Tỷ lệ nợ xấu trung – dài
Nợ xấu trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Nếu tỷ lệ này cao thì nó phản ánh rằng món cho vay của ngân hàng có chất
lượng rất thấp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu khác để

đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn trở nên không có giá trị. Vì vậy chỉ tiêu
này không có hoặc càng thấp càng tốt.
d. Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận từ tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn
Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ thấy được khả năng sinh lời của tín dụng trung -
dài hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay trung - dài
hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho
ngân hàng. Nhìn chung nếu như các chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như
nhau thì dự án cho vay nào đem lại lợi nhuận cao hơn vẫn thường được các ngân
hàng ưu ái hơn. Thường thì chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
e. Chỉ tiêu vòng quay của vốn
Doanh số thu nợ trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn bình quân
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
22
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín
dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay của vốn càng lớn
thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ nguồn
vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả. Ngược lại, nếu vòng
quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân hàng là kém và nguồn vốn trung -
dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động kém hiệu quả.
1.3.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng trung – dài hạn
1.3.4.1. Nhân tố chủ quan
a. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì chất
lượng của các khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay

đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng trung - dài
hạn xấu đi ngoài ý muốn. Bên cạnh đó sự thay đổi của môi trường kinh tế thế giới
cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với doanh nghiệp hoạt động xuất
nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động về nhu cầu thị trường,
sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị
thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ ngân hàng của doanh nghiệp.
b. Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi trường chính
trị - xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh dạn đầu tư mà chỉ
duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng
tới quy mô các khoản tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng, các món vay chủ yếu
sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự
không ổn định về chính trị - xã hội dẫn đến việc kinh doanh của doanh nghiệp gặp
nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình chính trị -
xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn bởi
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
23
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
vì hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho nên các loại
hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô hoạt
động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có ảnh hưởng tới
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
trung - dài hạn.
c. Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu
cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế không thể trôi chảy

được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết
khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói
chung là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn.
Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ,
đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt
động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Như vậy, pháp
luật có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất
lượng tín dụng trung - dài hạn nói riêng.
d. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng của
ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung - dài hạn nói riêng bởi vì thiên tai là
một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách chắc chắn là khi
nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch bệnh…sẽ xảy ra và mức
độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào. Thông thường khi thiên tai xảy ra,
nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến
động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các khách
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
24
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp GVHD: TS. Phan Hồng Mai
hàng của mình làm cho vốn của ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ ít nhiều
bị ảnh hưởng và dẫn tới rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng.
1.3.4.2. Nhân tố chủ quan
a. Nhân tố thuộc về ngân hàng
* Công tác huy động vốn của ngân hàng
Ngân hàng hoạt động trên nguyên tắc “đi vay để cho vay” do đó công tác huy
động vốn và công tác cho vay là hai hoạt động không thể tách rời nhau. Nguồn vốn

huy động trung – dài hạn là nguồn vốn chủ yếu để cho vay trung – dài hạn. Ngân
hàng có thể huy động vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn, nhưng đó phải là các nguồn
vốn ổn định và trong giới hạn quy định. Khối lượng vốn huy động được phù hợp
với khả năng cho vay của ngân hàng thì hoạt động sử dụng vốn mới có hiệu quả,
không gây ứ đọng vốn, làm ngân hàng bị thua lỗ. Vì vậy công tác huy động vốn có
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng trung – dài hạn của ngân hàng. Bởi vậy
muốn hoạt động tín dụng trung – dài hạn có chất lượng càng cao thì ngân hàng phải
luôn coi trọng công tác huy động vốn. Ngân hàng cần có công tác huy đọng vốn
hợp lý sẽ đảm bảo thắng lợi cho hoạt động của ngân hàng.
* Năng lực thẩm định
Ngân hàng sau khi nhận được hồ sơ của khách hàng sẽ tiến hành thẩm định hồ
sơ. Trên cơ sở đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp, khả năng quản lý,
sự ổn định của sản xuất, tính khả thi của dự án và các hiệu quả kinh tế xã hội của dự
án mang lại. Việc có cho vay hay không còn phụ thuộc vào việc thẩm định dự án.
Ngân hàng phải phân tích, thẩm định dự án để thấy được với một dự án đầu tư mà
khách hàng dự kiến ddaaauf tư như vậy có đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng hay
không cho dù dự án đó được thực hiện trong ngắn hạn hay dài hạn. Vì vậy công tác
thẩm định dự án nếu được thưc hiện một cách nghiêm túc, chặt chẽ, cẩn thận với
chất lượng cao sẽ mang lại các quyết định chính xác, hạn chế rủi ro, đảm bbaor khả
năng thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận cho ngân hàng.
* Chính sách tín dụng của ngân hàng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngân hàng, có ý
nghĩa quyết định sự thành coonh hay thất bại của ngân hàng. Ngân hàng đề ra chính
SV: Ngô Thị Nhung – Lớp NH B
25
25

×