Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

tiểu luận được 9,5 điểm môn quản lý tài chính trong giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.08 KB, 52 trang )

ĐỀ BÀI: Cho tứ giác đều ABCD. Trong đó:
A: Bách niên thụ nhân.
B: Phi sư bất thành.
C: Tôn tài đại thịnh.
D: Quy trí tất hưng.
O: Giáo dục
A
B
D
O
C
a) Hãy luận về tứ giác đều ABCD ?
b) Có những đề xuất gì cho chính sách giáo dục hiện nay?
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong tiến trình phát triển lịch sử, Việt Nam nằm ở một trong những
khu vực được coi là cái nôi của loài người và cũng được coi là một trong
những trung tâm phát sinh nông nghiệp sớm với nền văn minh lúa nước, nơi
đã từng trải qua các cuộc cách mạng đá mới và cách mạng luyện kim. Trên
nền tảng phát triển kinh tế - xã hội thời Đông Sơn, trước những đòi hỏi của
công cuộc trị thủy và chống xâm lăng, Nhà nước Văn Lang - Nhà nước đầu
tiên - đã ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII trước Công nguyên. Bằng sức lao
động cần cù sáng tạo, cư dân Văn Lang, (sau đó là Âu Lạc) đã tạo dựng nên
một nền văn minh tỏa sáng khắp vùng Đông Nam Á. Đi cùng với Nhà nước
đầu tiên của lịch sử Việt Nam là một nền kinh tế phong phú, một nền văn hóa
cao mà mọi người biết đến với tên gọi là văn minh Sông Hồng (còn gọi là văn
minh Đông Sơn) với biểu tượng là trống đồng Đông Sơn - thể hiện sự kết tinh
lối sống, truyền thống và văn hóa của người Việt cổ.
Vừa dựng nước người Việt đã phải liên tiếp đương đầu với sự xâm lăng
của các thế lực bên ngoài, lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc là lịch sử hàng
ngàn năm dựng nước và giữ nước. Độ dài thời gian và tần suất các cuộc


kháng chiến, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam rất lớn.
Kể từ cuộc kháng chiến chống Tần (thế kỷ III trước Công nguyên) đến cuối
thế kỷ XX, đã có tới 12 thế kỷ Việt Nam phải tiến hành hàng trăm cuộc chiến
tranh giữ nước, khởi nghĩa và chiến tranh giải phóng. Các thế hệ người Việt
chúng ta hoàn toàn có thể tự hào về điều đó và vô cùng biết ơn các thế hệ cha
anh đi trước. Với truyền thống lịch sử vẻ vang như vậy, các thế hệ con cháu
ngày nay phải không ngừng cố gắng, tiếp tục giữ vững và đưa đất nước ngày
càng phát triển. Trong bối cảnh của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và sự
phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ đang mở ra nhiều cơ hội cũng
như cả thách thức với mọi quốc gia trên thế giới. Trong nước, chúng ta đang
tiến hành Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa. Tuy nhiên, thực tế hiện nay cho
3
thấy nước ta mới chỉ là một nước đang phát triển, thu nhập bình quân đầu
người còn thấp so với nhiều nước trên thế giới, mức sống, chất lượng cuộc
sống mặc dù đã được cải thiện song chưa cao… Vấn đề đặt ra hiện nay là
chúng ta phải đưa đất nước phát triển hưng thịnh bền vững về sau và nâng cao
vị thế trên trường quốc tế. Muốn thực hiện tốt điều đó thì con người chính là
nhân tố quan trọng nhất, phải chăm lo đầu tư phát triển cho con người, nâng
cao trình độ dân trí cho các tầng lớp nhân dân, coi trọng bậc hiền tài. Và giáo
dục chính là yếu tố then chốt, đảm bảo sự phát triển bền vững cho quốc gia
dân tộc. Đây cũng là nội dung cốt lõi được thể hiện trong tư tưởng của nhiều
bậc tiền nhân xưa, mà tiêu biểu chúng ta phải kể đến bốn mệnh đề sau:
A: Bách niên thụ nhân.
B: Phi sư bất thành.
C: Tôn tài đại thịnh.
D: Quy trí tất hưng.
Đây là bốn trụ cột cho sự phát triển bền vững quốc gia. Chúng tạo
thành tứ giác đều ABCD, giáo dục ở tâm tứ giác đều này. Nó vừa là nhân tố
mục tiêu, vừa thụ hưởng thành quả hoạt động của các lĩnh vực này.
Với nội dung đã nêu trên, trong khuôn khổ của tiểu luận môn học em

xin được thực hiện đề tài “Luận về tứ giác đều ABCD và có những đề xuất gì
cho chính sách giáo dục hiện nay?”.
Cấu trúc tiểu luận gồm:
Mở đầu
Chương 1: Luận bàn về bốn mệnh đề của các vị tiền nhân xưa.
Chương 2: Một số điều về thực trạng giáo dục nước ta hiện nay.
Chương 3: Một số đề xuất cho chính sách giáo dục hiện nay.
Kết luận.
4
Chương 1: LUẬN BÀN VỀ BỐN MỆNH ĐỀ CỦA CÁC VỊ TIỀN
NHÂN XƯA
1.1. Vài nét về bốn vị tiền nhân xưa.
1.1.1 Quản Trọng (730 – 645 TCN).
Quản Trọng (chữ Hán: 管仲; 725 TCN - 645 TCN) là một chính trị gia,
nhà quân sự và nhà tư tưởng Trung Quốc thời Xuân Thu (685 TCN). Tên ban
đầu của ông là Di Ngô (夷 吾). Trọng là tên hiệu. Được Bảo Thúc Nha tiến cử,
Tề Hoàn Công phong ông làm Tể tướng năm 685 TCN. Ông nổi tiếng với
"chiến lược không đánh mà thắng" mà người Trung Hoa gọi là diễn biến hòa
bình - đó là tấn công bằng mưu trí, trừng phạt và dùng kinh tế để giáo huấn.
Quản Trọng đã hiện đại hóa nước Tề thông qua việc tiến hành rất nhiều
cải cách. Về mặt chính trị, ông tập trung hóa quyền lực và phân chia nước
thành nhiều làng, mỗi làng tập trung vào một lĩnh vực thương mại riêng. Thay
vì dựa vào giai cấp quý tộc để thu thuế như truyền thống trước kia, ông áp
dụng tiền thuế trực tiếp tới mỗi đơn vị làng xã. Ông cũng phát triển một biện
pháp lựa chọn người tài mới và có hiệu quả hơn. Dưới thời Quản Trọng, nước
Tề chuyển từ chế độ quan liêu quý tộc sang chế độ quan liêu chuyên nghiệp.
Quản Trọng cũng đề xuất nhiều cải cách kinh tế quan trọng. Ông đưa ra
một biểu thuế thống nhất. Ông cũng sử dụng nguồn lực nhà nước để khuyến
khích sản xuất muối và sắt; các nhà sử học thường cho Quản Trọng là người
đề xướng ra sự độc quyền nhà nước về hai mặt hàng này. Khi ông làm Tể

tướng, nước Tề trở thành nước hùng mạnh nhất và Tề Hoàn Công được phong
làm bá chủ chư hầu.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng của Quản Trọng là sách “Quản
Tử” - bộ sách có tính giáo khoa đầu tiên của nhân loại về quản lý với những ý
tưởng đặc sắc trong hai chương : “Quyền Tu” (Bàn về sự tu dưỡng của nhà
cầm quyền) và “Mục dân” (Bàn về cách quản lý nhân dân).
1.1.2. Trình Di (1033 – 1107).
5
Ông Trình Di (1033 – 1107), người tỉnh Lạc Dương, tự là Chánh Thúc,
em ruột ông Trình Hạo (1.032 – 1.085) nhà Tống (960 – 1.279) do Triệu
Khuông Dẫn sáng lập. Trình Hạo và Trình Di, hai anh em là học giả có danh
nhất về Nho giáo, có công lớn trong việc nghiên cứu, soạn tập, chú giải Ngũ
kinh và Tứ thư, cho nên đời xưng chung cho hai anh em là Trình tử. Ông
Trình hạo qua đời trước ông Trình Di hai mươi hai năm, Trình Di tiếp tục
nghiên cứu, chú thích và truyền bá các kinh thánh truyện hiền của Nho gia.
Bình sanh ông lấy đức Thành để làm căn bản tu thân và lấy thuyết Cùng lý để
làm chủ đích học đạo. Người đồng thời tặng ông hiệu Y Xuyên. Ông cũng
từng làm giáo sư ở Quốc tử giám là trường Đại học do triều đình lập ra ở kinh
đô dể đào tạo nhân tài ra làm quan. Khi Trình Di mãn phần, ông được triều
đình phong thụy hiệu là Chánh Công.
Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông là sách “Minh đạo gia
huấn”. Sách Minh đạo gia huấn này gồm 90 bài, toàn là những cách ngôn
thâm thúy, khuyên bảo cho trở nên người đủ tư cách ở gia đình, xã hội, thấm
nhuần lẽ thanh cao về triết học và tâm lý. Tuy nhan đề Giảng rõ để dạy con
cháu trong nhà, nhưng thật là sách có giá trị có thể dùng để làm kim chỉ nam
cho tất cả nhân dân ở các quốc gia chịu ảnh hưởng chủa Nho giáo.
1.1.3. Nguyễn Khắc Niêm (1889 – 1954).
Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm (1889-1954) là một đại thần triều
Nguyễn, nguyên Tham tri Bộ Hình, Phủ doãn Thừa Thiên, Quyền Tổng đốc
Thanh Hóa.

Nguyễn Khắc Niêm sinh năm 1889 tại làng Gôi Vị, nay là xã Sơn Hòa,
huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ nhỏ Nguyễn Khắc Niêm đã thông minh
tuấn tú hơn người. Năm 1906, ông thi đậu cử nhân, trường thi Nghệ An. Năm
1907, ông thi đậu đệ nhị giáp tiến sĩ (Hoàng giáp), khoa thi đình Đinh Mùi, tại
Huế. Khi thi đỗ đại khoa, được cùng các vị tiến sĩ đồng khoa triều kiến vua
6
Thành Thái, nhà vua đề nghị mỗi vị hãy góp kế sách để phục hưng quốc gia,
Nguyễn Khắc Niêm đã đọc 4 câu.
Tôn tộc đại quy
Tôn lộc đại nguy
Tôn tài đại thịnh
Tôn nịnh đại suy.
Ông được bổ nhiệm làm Giám khảo khoa thi Hội năm 1910 ở Huế, thi
Hương năm 1912 ở Bình Định. Năm 1920, ông được bổ nhiệm Đốc học Nghệ
An, đảm trách việc tổ chức các trường học Pháp Việt ở Nghệ An.
Sau đó ông được điều về kinh đô giữ chức Tư nghiệp Quốc Tử Giám,
Tham tri Bộ Hình, hai lần giữ chức Phủ Doãn phủ Thừa Thiên (1936 và
1938), Tuần vũ tỉnh Khánh Hòa, Chủ tịch Ủy ban nghiên cứu Cải lương
hương ước ở Huế.
Tháng 8/1941 là quyền Tổng đốc tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 2/1942, ông xin về hưu trước tuổi.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Khắc Niêm tích cực tham
gia công tác tại địa phương: Hội đồng nhân dân xã, Ủy ban phòng vệ huyện
Hương Sơn, Ban văn hóa tỉnh Hà Tĩnh, Ủy viên Ban chấp hành Mặt trận Liên
Việt, kiêm Trưởng Ban cứu trợ thương binh Liên khu 4. Năm 1952, ông được
mời lên Việt Bắc họp hội nghị Liên Việt Trung ương, nhưng vì sức khỏe yếu
không đi được. Trong cải cách ruộng đất ông bị đấu tố, bị bắt giam và qua đời
tại quê nhà năm 1954.
1.1.4. Nguyễn Thị Ngọc Diễm (1721- 1784).
Vương Phi Nguyễn Thị Ngọc Diễm (1721-1784), là một vương phi của

chúa Trịnh. Bà là vợ chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải
và Trịnh Cán.
7
Bà Ngọc Diễm, hồi còn nhỏ có tên là Khương, quê ở làng Linh Đường,
huyện Thanh Trì, phía Nam kinh thành Thăng Long. Bà Diễm sinh ra và lớn
lên tại ngôi làng cổ này và thuộc dòng họ Nguyễn Linh Đường, một dòng họ
vẻ vang, uy thế.
Cha của bà là Nguyễn Luân (1686 - 1739), tự là Đình Anh, Đình Tư
nên người ta thường gọi ông là Nguyễn Đình Tư.
Xuất thân trong một gia đình danh giá, cha giữ chức lớn trong triều, lại
là thầy học của vua Lê chúa Trịnh; các anh trai đều làm quan, chị em gái đều
làm vợ quận công, tướng lĩnh. Kế thừa truyền thống dòng tộc, lại là người
thông minh, ham học nên đến tuổi cập kê, Nguyễn Thị Ngọc Diễm trở thành
một người tài sắc, mẫn tiệp nổi tiếng. Chúa Trịnh Doanh nghe tiếng đã làm lễ
xin cưới bà làm vợ, đưa vào phủ chúa phong làm chính phi và đặt mỹ hiệu là
Hoa Dung.
Bà đã sống vào những năm cuối của chính quyền chúa Trịnh, chứng
kiến sự phục hưng phát triển cúa chính quyền chúa qua tài năng của chồng là
Trịnh Doanh, con là Trịnh Sâm; nhưng đồng thời cũng là những năm tháng
suy tàn, sụp đổ của nhà chúa khi Trịnh Sâm lại bỏ bê nghiệp chúa, say mê yêu
chiều Tuyên phi Đặng Thị Huệ, làm hại cơ đồ nhà Trịnh, và rồi nhà chúa cũng
kết thúc cơ đồ khi Tây Sơn tiến quân ra Bắc.
Bà nổi tiếng là người uyên bác, có tư duy chiến lược xây dựng đất
nước, là người lập ra Ngũ Quy, tuy có điểm đồng nhất với tư tưởng Tứ Bất
của Bảng nhãn Lê Quý Đôn (người cùng thời với bà) là:
Phi nông bất ổn
Phi công bất phú
Phi thương bất hoạt
Phi trí bất thành.
8

Nhưng tư tưởng Ngũ Quy đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Cho đến giờ, trong
công cuộc xây dựng đất nước, tư tưởng chiến lược của người xưa vẫn còn
nhiều điều khả thủ, gợi ý cho cuộc sống hôm nay.
1.2. Luận bàn về bốn mệnh đề của các vị tiền nhân xưa
Bốn vị tiền nhân (hai Trung Quốc + hai Việt Nam) đã có các phát biểu,
mà ngày nay liên kết lại là minh triết cho chiến lược Kinh tế - Giáo dục trong
bối cảnh mới của đất nước.
1.2.1. Luận bàn về mệnh đề “Bách niên thụ nhân”.
Trước hết, chúng ta hãy bàn luận đến mệnh đề A: Bách niên thụ nhân.
Một trong “Tứ Thụ” của Quản Trọng (730 – 645 TCN) được nêu trong sách
“Quản Tử”.
“Nhất niên thụ cốc
Thập niên thụ mộc
Bách niên thụ nhân
Thiên niên thụ đức”
“Bách niên” có nghĩa là trăm năm, “Thụ” là trồng, là nuôi dưỡng;
“Nhân” là người. cả câu “Bách niên thụ nhân” có nghĩa là tính kế trăm năm
trồng người, phát triển con người. Con người, vốn con người chính là yếu tố,
là nguồn lực quan trọng nhất. Con người có thể làm được mọi việc. Lịch sử
nhân loại hàng nghìn năm đã minh chứng cho sức lao động và sáng tạo vô
biên của con người. Những nền văn minh nổi tiếng như Ai Cập cổ đại, Hy
Lạp, La Mã, nền văn minh Tây Á, nền văn minh Ấn Độ, nền văn minh Trung
Hoa, nền văn minh Maya và nền văn minh Andes.…cùng hàng triệu những
phát minh mà nhiều phát minh trong số đó đã làm thay đổi cả thế giới như
chữ viết, các con số, lịch, máy tính, điện thoại, tivi… đều do con người tạo ra.
Con người đã dần đi sâu tìm hiểu khám phá mọi ngóc cạnh của thế giới tự
nhiên từ sa mạc, lên núi cao, xuống biển sâu… làm ra vô vàn của cải vật chất,
duy trì sự tồn tại và phát triển của xã hội. Chính con người là yếu tố giữ gìn
9
và duy trì các giá trị văn hóa truyền thống, làm cho nó ngày càng phong phú

và phát triển thêm. Có thể nói vai trò của con người trong thế giới này là
không gì có thể thay thế được; con người giúp duy trì, bảo tồn và phát triển
các giá trị, làm cho chúng trường tồn mãi với thời gian.
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát
triển kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con
người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất,
có tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi
quốc gia từ trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong
phú, máy móc kỹ thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ,
có đủ khả năng khai thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt
được sự phát triển như mong muốn. Trong khi hầu hết các nguồn lực khác
càng khai thác càng cạn kiệt thì nguồn lực con người, vốn con người càng
khai thác thì càng có khả năng tái sinh. Khi nguồn lực con người được phát
huy thì nó sẽ biết khai thác, sử dụng và quản lý, bảo vệ và tái tạo một cách
hiệu quả nhất các nguồn lực khác. So với các nguồn lực khác, nguồn lực con
người, vốn con người với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi
bật ở chỗ nó không bị cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp
lý, còn các nguồn lực khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ
phát huy được tác dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả.
Vì vậy, con người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố
bản thân của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính
quyết định quá trình phát triển kinh tế - xã hội. V.I.Lênin đã chỉ ra “Lực lượng
sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”.
Con người khi được làm chủ tư liệu sản xuất, được đào tạo một cách chu đáo
sẽ có điều kiện khai thác một cách hiệu quả tiềm năng kinh tế.
10
Trong chủ trương của nhiều nước trên thế giới như Nhật Bản,
Singapo… cũng luôn nhấn mạnh vai trò của con người với sự phát triển của
đất nước.
Quá trình Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong

công cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: “Nguồn lao động
dồi dào, con người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có
nền tảng văn hoá, giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công
nghệ là nguồn lực quan trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh”. Nguồn nhân
lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự
nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa; là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, xã hội, từ sử dụng lao động thủ công
là phổ biến sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động được đào tạo cùng
với công nghệ tiên tiến, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại nhằm
tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình tất
yếu để phát triển kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tiếp cận kinh tế tri thức trong điều kiện phát triển kinh tế - xã hội còn
thấp, do đó yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực có ý
nghĩa quyết định tới sự thành công của sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại
hóa đất nước và phát triển bền vững. Đảng ta đã xác định phải lấy việc phát
huy chất lượng nguồn nhân lực làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và
bền vững. Nguồn nhân lực với chất lượng cao còn là điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế.
Thực tế hiện nay, theo kết quả thống kê năm 2005 dân số nước ta hiện
nay khoảng trên 80 triệu người trong đó: Thành thị chiếm 30% và nông thôn
chiếm 70%; Lao động nông nghiệp chiếm trên 60%; Cơ cấu giới, nam chiếm
49,6% và nữ chiếm 50,4%; Tỷ lệ người biết chữ chiếm 92%; Tuổi thọ trung
bình đạt 71,5 tuổi. - Thu nhập bình quân đầu người đạt dưới 2 USD/ ngày,
11
đứng thứ 132/174 nước - Chỉ số HDI đứng thứ 108 - Chỉ tiêu bình đẳng giới
đứng thứ 89/143 nước - Tỷ lệ người lao động trên 15 tuổi chiếm 71,9% trong
đó độ tuổi từ 15-35 chiếm 50,7%, từ 35-54 chiếm 42,2%, từ 55 tuổi trở lên
chiếm 7%. Qua đó cho thấy lực lượng lao động nước ta trẻ, tỷ lệ người lao
động trên tổng dân số chiếm tỷ lệ cao. Qua thực trạng dân số nước ta như trên

có thể đi đến một số đánh giá như sau: Thứ nhất: Số lượng dân số đông, tỷ lệ
người trong độ tuổi lao động cao. Điều đó cho thấy nguồn nhân lực nước ta
hết sức dồi dào, đặc biệt số người trong độ tuổi lao động lớn, sẽ là điều kiện
thuận lợi trong khai thác, sử dụng nguồn nhân lực. Thứ hai: Tỷ lệ người lao
động biết chữ cao, lại cần cù, thông minh, sáng tạo, có truyền thống yêu nước,
đoàn kết trong lao động. Với những giá trị ấy sẽ là điều kiện tốt để chúng ta
có thể khai thác, sử dụng, phát huy nguồn nhân lực đồng thới đó còn là cơ sở
để nước ta có thể đào tạo nâng cao trình độ cho nguồn nhân lực đáp ứng được
yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá và nền kinh tế thị
trường hiện nay. Bên cạnh những giá trị tích cực trong việc phát huy nguồn
nhân lực thiết nghĩa còn tồn tại một số mặt hạn chế sạu: Một là: Mặc dù tỷ lệ
nguồn nhân lực biết chữ cao nhưng số người có trình độ từ trung học phổ
thông trở lên còn thấp nên gặp không ít khó khăn trong việc chiếm lĩnh những
trị thức khoa học công nghệ cao, khó có thể đáp ứng yêu cầu của công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Hai là: Tỷ lệ công nhân và dân thành thị thấp phản ánh cơ
cấu kinh tế ở nước ta nông nghiệp là chủ yếu. Ba là: Sức khoẻ kém, chiều cao
thấp, cân nặng ít (trọng lượng cơ thể của người Việt nam chỉ bằng gần 70%
trọng lượng cơ thể của người Châu Âu), trẻ em bị suy dinh dưỡng cao khoảng
36%. Bốn là: Tâm lí của người Việt Nam còn nặng tư tưởng địa phương, cục
bộ. Năm là: Mặc dù khi đất nước đổi mới đời sống nhân dân đã được cải thiện
tuy nhiên thu nhập bình quân đầu người còn thấp gây khó khăn trong việc đào
tạo nâng cao trình độ của nguồn nhân lực.
12
Từ những phân tích trên, đặt ra yêu cầu chúng ta phải đáp ứng tốt mục
tiêu trồng người – phát triển con người, phát huy những thế mạnh và hạn chế
những nhược điểm của nguồn lực con người. Muốn “Trồng người” thì phải có
giáo dục mới làm được, giáo dục chính là then chốt. Mạnh Tử nói: “Nhân chi
sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là con người sinh ra
ban đầu vốn dĩ lương thiện, tính tình khá đồng nhất, nhưng do môi trường và
sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Tuân Tử

nói: “Nhân chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là con người sinh
ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí, biết cái đúng
cái sai. Mạnh Tử và Tuân Tử đều là bậc thầy của Nho giáo thời Chiến quốc,
dù có những đánh giá khác nhau về tính con người nhưng đều thống nhất rằng
môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng
vai trò quyết định cho bản tính của con người trong tương lai. Thật ra, đánh
giá khác nhau về bản chất con người của hai ông không có gì mâu thuẫn.
Tuân Tử nhìn theo hướng tiến hóa của vạn vật, cho rằng con người là một loài
động vật trong thế giới sinh học nên theo nguồn gốc ban đầu vốn dữ tính,
muốn thành người có lý trí thì phải được giáo dục. Mạnh Tử nhìn con người
từ khía cạnh xã hội học, cho rằng con người được sinh ra trong cộng đồng, có
tình thương của cha mẹ, anh em, bè bạn nên bản tính ban đầu lương thiện,
nhưng khi tiếp xúc, học tập trong các điều kiện xã hội khác nhau thì tính tình
ắt sẽ khác nhau. Từ đó có thể thấy từ xưa đến nay, mọi thế hệ nhân loại đều
khẳng định vai trò vô cùng to lớn của giáo dục đối với con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng chăm lo phát triển giáo dục, mở
mang trí tuệ cho con người. Viết Di chúc trước lúc đi xa, Người căn dặn thiết
tha: “Đầu tiên là công việc với con người”. Người tiếp thu lời dạy của Quản
Trọng, đặt vào hoàn cảnh Việt Nam hiện nay có lời dạy:
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây
Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”
13
Đây là bài nói chuyện của Bác ngày 13/8/1958 cho lớp nghiên cứu
chính trị của giáo viên cấp 2, 3 toàn miền Bắc đặt tại trường Bổ túc công
nông, (nay là Học viện Quản lí giáo dục).
Sau khi nêu ra lời dạy trên, Bác còn có lời dạy thiết tha sau:
"Chúng ta phải đào tạo ra nhữnh công dân tốt và cán bộ tốt cho nước
nhà mong mọi người phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ" (Toàn tập, tập 9, tr
222).
Cùng nói tới việc "trồng người", song sự "trồng người" của Quản Trọng

là theo lí tưởng "Bá đạo" (Phục vụ lợi ích cho một tập đoàn thống trị), còn của
Hồ Chí Minh theo lí tưởng "Vương đạo" (Phục vụ cho toàn thể nhân dân).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo dục - sự nghiệp “Trồng người” là
một chiến lược vừa cơ bản, lâu dài, vừa là quốc sách hàng đầu của Đảng và
Nhà nước ta. Điều này cũng đúng với tuyên bố đưa ra năm 1994 của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học, và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO): “Không có
một sự tiến bộ và thành đạt nào có thể tách khỏi sự tiến bộ và thành đạt trong
lĩnh vực giáo dục của quốc gia đó. Và những quốc gia nào coi nhẹ giáo dục
hoặc không đủ tri thức và khả năng cần thiết để làm giáo dục một cách có
hiệu quả thì số phận của quốc gia đó xem như đã an bài và điều đó còn tồi tệ
hơn cả sự phá sản”.
1.2.2. Luận bàn về mệnh đề “Phi sư bất thành”.
“Thụ nhân” là sứ mệnh hết sức khó khăn, muốn “Thụ nhân”, muốn có
hiền tài phải có thầy, chẳng thế mà cổ nhân xưa có câu “Phi sư bất thành”. Ý
tưởng trên nằm trong “Tam phi… bất”, được nêu ra trong sách “Minh đạo gia
huấn” – cuốn dạy về sự tu dưỡng đạo đức do Trình Di (1033 – 1107) đời Tống
biên soạn đã được phổ biến tại nhiều nước chịu ảnh hưởng của Đạo Khổng.
“Nhân hữu tam tình, sự chi như nhất
Phi phụ bất sinh
Phi sư bất thành
14
Phi quân bất vinh”
Phân tích nghĩa từng từ ta có thể hiểu “Phi” là không; “Sư” là thầy, là
người dạy dỗ, chỉ bảo; “Bất” là không có, không thể; “Thành” là đạt được,
trọn vẹn, hoàn chỉnh, đạt được. Cả câu có nghĩa là không có thầy làm sao
thành đạt được. “Phi sư bất thành” ngày nay không chỉ có ý nghĩa cho mỗi cá
nhân, nó còn có ý nghĩa cho số phận cộng đồng và dân tộc.
Từ xa xưa, trong chế độ phong kiến, một trong những tư tưởng quan
trọng của hệ tư tưởng Nho giáo là luôn đề cao việc xây dựng con người lý
tưởng, đó là người Quân tử. Người Quân tử thường được coi là người hành

động ngay thẳng, công khai theo lẽ phải và không khuất tất vụ lợi cá nhân.
Quân tử còn có nghĩa là người tốt hơn, nghĩa là người hơn hẳn về mặt đạo
đức, luân lí. Người Quân tử cũng là người nắm được mệnh trời và sống
theo mệnh trời. Đây là hình mẫu mà hầu hết mọi người đàn ông đều cố gắng
vươn tới. Người quân tử là người có đầy đủ các đức tính trong ngũ thường:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, trong đó Nhân là quan trọng nhất. “Nhân”: Người
với người đối xử với nhau trên cơ sở tình thương yêu. Tình thương yêu được
cụ thể hóa bằng những nguyên tắc sau: Cái gì bản thân mình không muốn
hoặc người không muốn thì không làm cho người. Cái gì người muốn thì tích
tụ lại cho người; mình muốn đứng vững thì làm cho người khác đứng vững;
mình muốn thành đạt thì giúp đỡ cho người khác thành đạt. “Lễ”: Theo quan
điểm của Nho giáo, Lễ bao gồm việc thờ cúng, lễ bái thánh thần, trời Phật và
cả những quy định có tính chất pháp luật, những phong tục, tập quán và kỷ
luật tinh thần của cá nhân. “Nghĩa”: Chỉ làm và nên làm những việc nhằm duy
trì đạo lý, lẽ phải. “Trí”: Tri thức để suy xét, hành động. Một trong những
điểm quan trọng của Trí là phải nắm được mệnh trời. “Tín”: Việc làm nhất
quán với lời nói, giữ lời "Nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy". Người quy tụ
các đức tính trên mà trong đó trung tâm là “Nhân” được coi là người có đức
Nhân: tình cảm chân thật, ngay thẳng; hết lòng vì nghĩa; nghiêm trang, tề
15
chỉnh; rộng lượng, khoan dung và siêng năng cần mẫn. Người có đức Nhân
chỉ hành động vì nhân nghĩa, đối lập với kẻ bất nhân chỉ hành động vì lợi.
Muốn thành người Quân tử, ngoài việc bản thân phải có nỗ lực, ý chí
vươn tới thì phải có thầy chỉ dạy. Thầy chính là người định hướng, chỉ bảo,
dạy dỗ, tạo nên những nền tảng tri thức, nhân cách cơ bản quan trọng đầu tiên
trong cuộc đời mỗi con người. Thầy dạy dỗ học trò theo chuẩn mực của xã
hội, cụ thể trong xã hội xưa là thành người Quân tử. Thầy ươm những mầm
xanh hi vọng cho ngày mai, muốn đào tạo nên những người có tài để có thể
giúp dân, cứu nước. Họ muốn gửi vào thế hệ học trò của mình tất cả niềm hi
vọng rằng: Mai sau những học trò của mình sẽ thành tài, đem sức lực và sở

học của mình để kiến tạo một xã hội công bằng, thịnh vượng. Nhà giáo với
chức năng là truyền lại cho thế hệ trẻ những tinh hoa văn hóa của dân tộc và
của loài người; đồng cam cộng khổ với nhân dân, bồi đắp, hun đúc tâm hồn
người qua các thời đại; là cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, gìn giữ
và phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp, qúy báu của dân tộc.
Chính vì vậy, Nghề dạy học đã lưu sâu trong tâm khảm của mỗi con người.
Về phẩm cách và trí tuệ của người thầy thì người thầy là những người có kiến
thức rộng, có phẩm chất đạo đức tốt, có lòng yêu nước nồng nàn, có lối sống
giản dị, gần gũi với nhân dân. Có thể nói những truyền thống tốt đẹp của dân
tộc ta về tư tưởng, tình cảm, về đạo đức đều tập trung ở thầy giáo. Người thầy
hầu hết đều có cái "Tâm". Cái “Tâm” của người thầy chính là những hành
động theo giá trị "chân, thiện, mỹ", bất luận trong hoàn cảnh nào nhịp đập con
tim của người thầy cũng luôn hướng về học trò, vì lợi ích của cộng đồng, vì
lợi ích của dân tộc. Người thầy bao giờ cũng có đạo đức, đạo đức của người
thầy thể hiện ở cách sống không vụ lợi, không chuộng hư danh, trong sáng,
giản dị, luôn ý thức trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn để vươn lên phía
trước với mục đích tất cả vì học trò. Người thầy không chỉ dạy cho học trò
những tri thức giáo dục mà còn dạy cho học trò cách học, cách tự học, cách
16
tìm tòi để phát hiện ra cái mới, không ai khác chính người thầy luôn là tấm
gương sáng cho học trò noi theo. Ngày nay, yêu cầu về chất lượng đối với
người thầy cũng rất cao. Đồng thời với dạy chữ, người thầy còn phải dạy
người. Dạy chữ không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức, mà quan trọng
hơn là phải tạo cho người học khả năng sáng tạo, khả năng tự thích nghi với
mọi hoàn cảnh. Muốn vậy người học phải nắm được những điều bản chất
nhất, những cái cơ bản nhất. Người thầy còn phải là một điển hình tốt về tinh
thần tự học, tự vươn lên, một tấm gương sáng ngời về đạo đức, về nhân cách
đối với học sinh. Như vậy, chất lượng đòi hỏi ở người thầy là rất cao, rất toàn
diện.
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hiếu học, dẫu có nghèo đói cũng

luôn cố gắng học hành để nên người. Chính biết bao các thế hệ nhà giáo từ
xưa đến nay – những người có đạo đức, học vấn với lòng nhiệt huyết, nhân ái,
bao dung, sự trách nhiệm và luôn một lòng với sự nghiệp trồng người đã,
đang và sẽ luôn bồi đắp cho các thế hệ mãi mãi về sau. Chúng ta sẽ mãi luôn
tôn kính và biết ơn sâu sắc bao người thầy nổi tiếng “hay chữ”, “tài cao đức
trọng” như Thầy Lê Quý Đôn, Thầy Chu Văn An, Cao Bá Quát, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Đình Chiểu… và nhiều thế hệ thầy cô khác đã có nhiều đóng
góp to lớn cho sự nghiệp trồng người. Chúng ta sẽ không bao giờ quyên ơn
những thầy cô đã không quản ngại gian khổ, thậm chí hi sinh tuổi xuân của
mình đi gieo chữ ở những vùng biên giới, hải đảo xa xôi, hẻo lánh. Tất cả
những đóng góp đó đều xuất phát từ cái “Tâm” với nghề, sâu xa hơn đó là
xuất phát từ tấm lòng với con người, với đất nước và dân tộc.
Với những đóng góp to lớn đó của người thầy, các cụ ta xưa có nhiều
câu khẳng định như “Không thầy đố mày làm nên”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi
sư” (Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy)… hầu hết tri thức mà ta có
được là do công lao của thầy. Nói tới vị trí xã hội và vai trò của thầy giáo,
Nguyễn Trãi viết: “Người thầy giáo không những dạy chữ mà còn dạy đạo lý
17
làm người”. Đó là đào luyện tâm hồn, đào tạo lớp thế hệ trẻ, lớp sau kế tiếp
lớp trước bước vào đời xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của người thầy - những người mở trí khai
tâm cho con người. Bác nói: “Còn gì vẻ vang hơn nghề đào tạo những thế hệ
sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Người thầy tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất dù
là tên tuổi không được đăng trên báo, không được hưởng huân chương, những
người thầy giáo tốt là những người anh hùng vô danh”, đúng vậy dù không
được huân chương nhưng những thế hệ học trò thành đạt, đóng góp sức mình
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc chính là phần thưởng to lớn vô giá
nhất cho thầy. Cũng nói về vấn đề này, Tagore (1861 – 1942) – nhà hiền triết
và thi hào vĩ đại của Ấn Độ viết: “Đầu tư vào một người đàn ông được một

người chồng tốt. Đầu tư vào một người phụ nữ được một gia đình tốt. Đầu tư
vào một nhà giáo được một thế hệ công dân tốt của đất nước”. Có lẽ câu nói
này đúng với mọi dân tộc, mọi quốc gia, mọi thời đại. J.A.Cômenxki (1592 -
1670) - nhà giáo dục vĩ đại của dân tộc Séc và của thế giới đã khẳng định
“Dưới ánh mặt trời không có nghề nào cao quý hơn nghề dạy học”. Nghề dạy
học có vị trí hết sức quan trọng trong đời sống xã hội con người, các Nhà giáo
đã được nhân loại thừa nhận: “Không có một vĩ nhân, một anh hùng nào trên
đời này không qua bàn tay bế ẵm và sự dạy dỗ của bà mẹ, thì trên trái đất này
không có một vĩ nhân, một anh hùng nào lại không có bàn tay dìu dắt dạy dỗ
của người thầy giáo”.
Cùng với sự khẳng định công lao, dân tộc chúng ta luôn thể hiện thái
độ phải biết ơn, tôn trọng, yêu quý, tin tưởng thầy. Điều này đã trở thành
truyền thống tôn sư trọng đạo tốt đẹp của dân tộc. Từ xa xưa các cụ đã luôn
nhắc nhở con cháu:
“Muốn sang thì bắc cầu Kiều
Muốn con hay chữ thì yêu kính thầy”.
18
Hay “Mùng một tết cha
Mùng hai tết mẹ
Mùng ba tết thầy”
Lòng yêu kính ấy, được biểu hiện qua nhiều cung bậc ứng xử, cách
thức khác nhau, mỗi người chúng ta, ngoài sống có hiếu với cha, với mẹ, còn
phải sống có nghĩa đối với thầy. Cách đây 66 năm, Liên hiệp quốc tế các
Công đoàn giáo dục được thành lập (viết tắt là FISE), với bản “Hiến chương
các nhà giáo”, gồm nội dung chủ yếu: Một là: Đấu tranh chống lại mọi quan
điểm và phương pháp giáo dục lạc hậu phản động, phản dân chủ, phản khoa
học của nền giáo dục phong kiến, tư sản, nhằm xây dựng nền giáo dục tiến bộ,
dân chủ, khoa học; Hai là: Đấu tranh thủ tiêu chế độ bạc đãi, coi thường nghề
dạy học, bảo vệ những quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng của nhà
giáo; Ba là: Đặc biệt coi trọng tính chất nhân văn của nghề dạy học và

phương pháp dạy học tiên tiến. Tháng 5/1957 Hội nghị quốc tế các tổ chức
của nhà giáo lần thứ 2 đã quyết định lấy ngày 20 -11 hàng năm làm ngày
“Quốc tế hiến chương các nhà giáo”. Tại Việt Nam, ngày 20/11/1958 - lần đầu
tiên ngày “Quốc tế hiến chương các nhà giáo” được tổ chức tại miền Bắc. Sau
ngày đất nước thống nhất năm 1975, ngày 20-11 đã được tổ chức rộng rãi
trong cả nước, dần dần trở thành ngày hội của giáo giới Việt Nam. Những
ngày này, truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã được hòa quyện trong các hoạt
động tôn vinh Nhà giáo và đã trở thành ngày hội có tính chất xã hội rộng lớn.
Do tính chất và mục đích của việc tổ chức ngày “Quốc tế hiến chương các nhà
giáo” ở nước ta đã có những thay đổi cơ bản, thể theo nguyện vọng của các
nhà giáo và nhân dân, chấp nhận đề nghị Bộ Giáo dục và Công đoàn Giáo dục
Việt Nam, ngày 28/9/1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban
hành quyết định số 167-HĐBT với nội dung “Từ nay, hàng năm sẽ lấy ngày
20 - 11 là ngày Nhà giáo Việt Nam”. Ngày “Nhà giáo Việt Nam” lần đầu tiên
được tổ chức trọng thể vào ngày 20/11/1982 tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội.
19
Từ đó đến nay, ngày 20-11 hàng năm, giáo giới tiến bộ trên thế giới vẫn tổ
chức kỷ niệm mang tên ngày “Quốc tế hiến chương các nhà giáo”. Còn ở
nước ta, kể từ ngày 20/11/1982, ngày hội của giáo giới Việt Nam có tên gọi
riêng là ngày “Nhà giáo Việt Nam”. Người thầy trong xã hội Việt Nam từ bao
đời nay là biểu tượng cao quý tượng trưng cho trí tuệ tài năng của xã hội. Dẫu
rằng người thầy không phải là tất cả, nhưng đội ngũ các thầy cô giáo có vai
trò quyết định trong sự nghiệp nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi
dưỡng nhân tài.
Như vậy, muốn thực hiện tốt sự nghiệp trồng người, chúng ta cần hình
thành được người thầy và đội ngũ người thầy có phẩm chất, năng lực thực
hiện tốt sứ mệnh mà xã hội giao phó cho.
Tuy nhiên, bên cạnh việc chăm lo phát triến sự nghiệp giáo dục ở các
nhà trường thì chúng ta cũng cần quan tâm phát triển giáo dục gia đình và xã
hội như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh: "Giáo dục trong nhà trường dù tốt

mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng
không hoàn toàn" (Toàn tập, tập 8 tr 394).
Hồ Chí Minh còn xây dựng các phạm trù "Gia đình học hiệu", "tiểu
giáo viên", Người dạy: ngày nay xã hội ta mọi gia đình là trường học, mỗi
người công dân là một thầy giáo cho thế hệ trẻ (Toàn tập, tập 5, tr 67).
1.2.3. Luận bàn về mệnh đề “Tôn tài đại thịnh”
Muốn tính kế trăm năm về sau thì phải “Trồng người”. Muốn “Trồng
người” thì phải có thầy “Phi sư bất thành”. Nhưng nhờ thầy mà có những
người hiền tài rồi thì phải biết trọng dụng thì đất nước mới hưng thịnh “Tôn
tài đại thịnh”. Câu này trong bài “Tứ tôn châm” của Hoàng Giáp Nguyễn
Khắc Niêm (1889 – 1954), ông dâng kế sách cho Vua Thành Thái khoa thi
Đinh Mùi (1907):
“Tôn tộc đại quy
Tôn lộc đại nguy
20
Tôn tài đại thịnh
Tôn nịnh đại suy”
Trước Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm, từ thế kỷ XV, Vua Lê Thánh
Tông vị minh quân triều Lê qua Sử thần Thân Nhân trung đã nêu ra tuyên
ngôn:
“Hiền tài là nguyên khí quốc gia
Nguyên khí mạnh thì thế nước cường
Nguyên khí suy thì thế nước yếu”.
Sang thế kỷ XVIII, Quang Trung – Nguyễn Huệ sau khi đập tan sự xâm
lược của Mãn Thanh đã giao cho danh thần Ngô Thì Nhậm ban chiếu khuyến
học:
“Xây dựng Đất nước lấy việc dạy học làm đầu
Tìm lẽ bình trị, lấy tuyển nhân tài làm gốc”.
Trong thời đại mới, Bác Hồ rất quan tâm việc tiến cử người hiền tài cho
đất nước, Bác viết “Kiến thiết cần có nhân tài… khéo lựa chọn, khéo phân

phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều”.
Những tư tưởng trên, trước hết khẳng định tầm quan trọng của hiền tài
đối với quốc gia, là việc đem lại hưng thịnh cho đất nước.“Tài” muốn nói đến
bậc hiền tài, trước hết đó là người có trí thức, có sự thông minh và niềm khát
vọng, đam mê mãnh liệt. Đó là những con người có hiểu biết rất sâu rộng ít
nhất về một lĩnh vực nào đó. Trí thông minh thể hiện ở khả năng đặc biệt làm
một việc nào đó, mang lại kết quả cao. Trí thông minh đó còn thể hiện ở sự
nhạy bén, nhìn nhận chính xác vấn đề cần giải quyết. Họ cũng rất có khả năng
nắm bắt diễn biến của thời cuộc, dự đoán trước được xu thế phát triển. Người
hiền tài thường biểu hiện sự đam mê đến cháy bỏng trong công việc, không sợ
thất bại, biết cách chấp nhận sự rủi ro, tìm mọi phương cách làm cho công
việc mang lại hiệu quả cao nhất. Bên cạnh đó, họ còn là những con người có
khát vọng mãnh liệt được vươn lên khẳng định bản thân mình, khát vọng
21
được cống hiến cho công việc, cho nhân dân, cho tổ quốc. Chính những yếu
tố này giúp họ vượt qua những khó khăn trở ngại để theo đuổi mục đích của
mình. Người tài có khát vọng rất mãnh liệt nhưng đồng thời đó cũng là những
người có cái “Tôi” rất lớn, nếu biết trọng dụng đúng tài năng và tạo điều kiện
thuận lợi để họ phát triển thì họ sẽ cống hiến hết mình.
Bên cạnh đó, những người tài còn phải có “Đức”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã có sự phân biệt rõ: “Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô
hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa,
không giúp ích gì được cho ai” (HCM, toàn tập ,T8, 1996, tr184). Đây cũng là
sự phân biệt quan trọng, rất cần thiết, mà những người làm công tác tổ chức
nhân sự phải sáng suốt nhận biết để thấm nhuần phương pháp “Dùng người
như dùng gỗ” của Hồ Chí Minh. Khi sử dụng cán bộ cần xem xét cả tài và
đức. Trong chế độ phong kiến trước đây thì đức chính là lòng trung quân, ái
quốc, . Mọi suy nghĩ và hành động của họ đều không ngoài bốn chữ đó.
Những mưu cầu, toan tính vun vén cho lợi ích cá nhân không thể tác động và
làm ảnh hưởng đến lí tưởng cao quý giúp vua, giúp nước của họ. Xét theo

chuẩn mực đạo đức Nho giáo thì họ xứng đáng là những bậc chính nhân quân
tử : "Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất".
(Giàu sang không làm thay đổi, nghèo khó không thể chuyển lay, bạo lực
không thể khuất phục). Họ là những tấm gương quả cảm, tận trung với nước,
tận hiếu với dân. Mạc Đĩnh Chi, Trạng nguyên đời Trần được triều đình cử đi
sứ phương Bắc đã tỏ rõ cho vua quan nhà Minh biết chí khí hiên ngang của
người quân tử bằng tài ứng đối hùng biện của mình. Giang Văn Minh sẵn
sàng hi sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vua Nam và quốc thể nước
Nam, xứng đáng là sứ thần Đại Việt. Không thể kể hết tên tuổi các bậc "hiền
tài" của nước Nam, đúng như Nguyễn Trãi từng viết trong “Bình Ngô đại
cáo”:
"Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
22
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Trong đời sống xã hội hiện nay, hiền tài còn là những người vượt khó
để thành đạt; là những doanh nhân có tâm, có tài, sản xuất ra những hàng hoá
chất lượng cao đem lại lợi ích to lớn cho nhân dân, đất nước; là những nhà
khoa học có nhiều công trình hữu ích, thiết thực; là những vị lãnh đạo có tư
tưởng đổi mới, hoạch định các chính sách phù hợp, khả thi để thúc đẩy nền
kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội ngày càng phát triển.
Vì sao tôn trọng bậc hiền tài thì hưng thịnh? Lịch sử mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước của ta đã chứng minh, cứ thời nào có nhiều nhân tài
xuất hiện và được trọng dụng thì đất nước phồn vinh, dân tộc phát triển.
Ngược lại, khi nhân tài xa lánh chốn quan trường, quay lưng lại với thời cuộc,
hoặc bị vùi dập, hay những kẻ bất tài lộng hành thì vương triều ấy sớm muộn
sẽ suy vong. Hiền tài là sự kết tụ tinh hoa của đất trời, của khí thiêng sông
núi, của truyền thống dân tộc. Người xưa đã nói: “Địa linh sinh nhân kiệt, nên
hiền tài là nguyên khí của quốc gia”. Những người được coi là "hiền tài" có
vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hưng vong của một triều đại nói riêng
và của quốc gia nói chung. Có thể lấy rất nhiều ví dụ trong lịch sử nước ta để

chứng minh cho điều đó như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Giang Văn
Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ ở những thế
kỉ trước. Tài năng quân sự lỗi lạc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã
góp phần to lớn vào chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần ba lần đánh
thắng quân xâm lược Mông - Nguyên. Tài năng quân sự, ngoại giao xuất sắc
của Nguyễn Trãi khiến ông trở thành vị quân sư số một của Lê Lợi, có vai trò
quyết định chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, quét sạch mười vạn
giặc Minh ra khỏi bờ cõi nước ta. Một gương sáng "hiền tài" đã trở thành thần
tượng không chỉ trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra phạm vi toàn cầu là
Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tên tuổi của ông gắn liền với hai cuộc kháng
chiến đau thương và oanh liệt của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và
23
đế quốc Mĩ xâm lược. Ông đã làm vẻ vang cho lịch sử và truyền thống bất
khuất, hào hùng của đất nước. Nhắc đến ông, nhân dân ta và bè bạn năm châu
yêu mến, tự hào; còn kẻ bại trận cũng phải nghiêng mình kính phục. Và một
trong những nhân vật nổi tiếng của thế kỉ XX là Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
- người đã lãnh đạo thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc thoát
khỏi ách nô lệ của thực dân, phong kiến, giành lại chủ quyền độc lập, tự do
cho đất nước và khẳng định tên tuổi Việt Nam trước toàn thế giới. Trong
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, có một số nhân sĩ, trí thức được
đào tạo ở nước ngoài vì cảm phục đức hi sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí
Minh nên đã sẵn sàng từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý, trở về nước trực tiếp
đóng góp tài trí của mình cho sự nghiệp kháng chiến. Kĩ sư Trần Đại Nghĩa,
người chế tạo ra nhiều thứ vũ khí lợi hại cho kháng chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ đã bỏ ra bao công sức
nghiên cứu, tìm tòi và chế tạo ra những thứ thuốc kháng sinh quý giá để cứu
chữa cho thương binh, bộ đội trên chiến trường. Nhà nông học Lương Định
Của suốt đời trăn trở, nghiên cứu lai tạo ra những giống lúa mới có khả năng
chống sâu rầy và cho năng suất cao để cải thiện cuộc sống nông dân, tăng
nguồn lương thực tiếp tế cho chiến trường miền Nam đánh Mĩ Đó là gương

sáng của những bậc "hiền tài" một lòng một dạ vì quyền lợi chung của nhân
dân và Tổ quốc. Ngày nay, trên thế giới tài nguyên ngày càng cạn kiệt, còn tri
thức, tài năng và sức sáng tạo của con người là vô hạn. Tri thức là vốn quý
nhất, tri thức là sản phẩm trí tuệ của con người. Chính vì vậy, hiền tài, nhân
tài và lao động tri thức đã trở thành một lực lượng sản xuất mới, giữ vai trò
quyết định hơn cả vốn và tài nguyên. Hiền tài đã trở thành yếu tố quyết định
cho sự thành bại của đất nước ta trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các
quốc gia trong khu vực và thế giới mà thực chất đó là sự đọ sức về trí tuệ như
Long Tử Dân – một học giả Trung Quốc, đã có câu nói hết sức chí lý cho thời
đại hiện nay: “Sự lãng phí lớn nhất là lãng phí nhân tài, sự cạnh tranh căn bản
24
nhất là cạnh tranh nhân tài, năng lực chủ yếu của người lãnh đạo là phát hiện,
bồi dưỡng nhân tài và sử dụng nhân tài”.
Người hiền tài luôn mong muốn cống hiến cho nhân dân, cho tổ quốc
và nếu trọng dụng được người hiền tài thì sẽ hưng thịnh. Vấn đề đặt ra là tìm
kiếm và phát hiện hiền tài như thế nào? Lịch sử dân tộc cho thấy trong các
triều đại phong kiến Việt Nam, những bậc minh quân, luôn mong muốn có
nhiều nhân tài, cùng góp công sức và trí tuệ để xây dựng triều đại thịnh trị,
làm cho “Quốc thái dân an”. Vua Lê Thái Tổ trong “Chiếu Cầu hiền” đã viết:
“Người tài ở đời cố nhiên là không ít, nên đường lối tìm người cũng không
phải có một phương”. Các vương triều đã có nhiều cách khác nhau để phát
hiện và tuyển chọn nhân tài ra giúp nước như thi tuyển, tiến cử và tự tiến cử.
Bấy giờ chế độ thi tuyển thực hiện qua các kỳ khoa cử Nho học lựa chọn văn
quan, với quan niệm: “Muốn có được nhân tài, trước hết phải chọn lựa kẻ sĩ,
mà phép chọn lựa kẻ sĩ phải lấy thi cử làm đầu”; võ cử thông qua các hội vật,
hội võ sau này là thi võ nghệ và binh pháp; các hội thi tay nghề của các nghệ
nhân, các làng nghề để chọn ra những người tài, có tay nghề cao, kỹ thuật tinh
xảo trong những nghề ấy. Bên cạnh đó, để lựa chọn nhân tài, còn có hình thức
tiến cử nhằm tìm kiếm nhân tài, bổ sung vào đội ngũ quan lại, do đó: “Tiến cử
người hiền tài, loại bỏ kẻ bất tiếu, đó là việc lớn của chính trị”, hay “Muốn

thịnh trị phải được người hiền tài, muốn được người hiền tài phải do tiến cử.
Cho nên người đứng đầu thiên hạ phải lo việc ấy trước tiên”. Ngoài ra, còn có
phương thức tự tiến cử: hình thức này thường xuất hiện nhiều, những khi đất
nước gặp khó khăn, nhân tài muốn đem tài năng của mình để giúp nước, cứu
dân. Ví như, dưới triều đại của mình, vua Quang Trung đã cho phép được
dâng thư tự tiến cử. Ngày nay, chúng ta tổ chức nhiều cuộc thi tìm kiếm nhân
tài như: Đường lên đỉnh Olympia, cuộc thi chọn học sinh giỏi cấp quận,
huyện, thành phố, cấp quốc gia… Cuộc thi tay nghề giỏi, các cuộc thi tìm
kiếm tài năng, thi vào trường chuyên lớp chọn, thi đại học… Nhiều tổ chức,
25

×