Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong
quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức
thương mại thế giới
Vũ Văn Hùng
Trường Đại học Kinh tế
Luận án TS chuyên ngành: Kinh tế chính trị; Mã số: 62 31 01 01
Người hướng dẫn: PGS.TS Phạm Văn Dũng; TS. Vũ Thị Dậu
Năm bảo vệ: 2012
Abstract: Nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam với tư cách là công cụ
thúc đẩy sự gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; đảm
bảo lợi ích của các chủ thể kinh tế ở nông thôn, trong đó lợi ích của người nông dân làm
trung tâm. Tiếp cận chính sách tiêu thụ nông sản dưới góc độ kinh tế chính trị. Chính
sách tiêu thụ nông sản được nghiên cứu là vấn đề mang tính liên ngành, liên quan đến cả
4 khâu của quá trình tái sản xuất (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng); và điều
quan trọng hơn là phải đảm bảo được các lợi ích của các chủ thể Việt Nam trong điều
kiện người chơi, sân chơi, luật chơi toàn cầu. Làm rõ được thực trạng chính sách tiêu thụ
nông sản của một số nước trong quá trình thực hiện cam kết với WTO; rút ra được những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản trong
điều kiện mới của đất nước và thế giới. Phân tích và đánh giá chính sách tiêu thụ nông
sản Việt Nam thời gian qua, vừa phải thực hiện các cam kết với WTO, vừa phải bảo vệ
được lợi ích của nông dân, của đất nước; từ đó chỉ ra những thành tựu, những hạn chế,
tồn tại và nguyên nhân. Đưa ra một số gợi ý hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt
Nam nhằm gia tăng giá trị của nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu;
gia tăng thu nhập và vị thế của nông dân Việt Nam trong bối cảnh thực hiện các cam kết
với WTO.
Keywords: Thương mại quốc tế; Nông sản; Tổ chức thương mại thế giới; Chính sách
tiêu thụ
Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
- Nông nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh do điều kiện tự nhiên thuận lợi và chi phí
nhân công thấp nhưng những lợi thế này ngày càng giảm trong điều kiện cạnh tranh thương mại
toàn cầu hiện nay. Sau 6 năm gia nhập WTO, nông sản Việt Nam đã có vị trí cao trên thị trường
nông sản thế giới, những cam kết được thực hiện nghiêm túc, đúng với quy định của WTO. Bên
cạnh đó còn tồn tại nhiều hạn chế về mặt chính sách khiến cho việc đẩy mạnh tiêu thụ về lượng
nhưng chưa đi kèm với những lợi ích thiết thực mang về cho đất nước, cho nông dân vẫn đang
hiện hữu.
- Dù xuất khẩu nhiều nông sản trên thị trường thế giới nhưng các chủ thể kinh tế Việt Nam
chỉ tham gia vào các công đoạn mang lại ít giá trị gia tăng trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Vì vậy, cần phải có những chính sách hợp lý nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản đi kèm với gia
tăng về giá trị mang lại cho nông dân, cho các chủ thể kinh tế Việt Nam.
- Gia nhập WTO, cạnh tranh cả trên thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu đều gay gắt
và khốc liệt hơn. Bên cạnh sự nỗ lực nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh của nông dân và các
doanh nghiệp, rất cần chính sách hợp lý từ phía Nhà nước nhằm mang lại lợi ích tốt nhất cho các
chủ thể và cho cả nền kinh tế. Vì vậy, câu hỏi đặt ra là, chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam
trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO đã thật sự phù hợp chưa? Cần phải làm gì và làm
như thế nào để hoàn thiện và phát huy vai trò của chính sách tiêu thụ nông sản để tăng vị thế của
nông dân, gia tăng giá trị mà người nông dân nhận được trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu?
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu thực trạng và tìm ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với
WTO là vấn đề có ý nghĩa cả về lý luận và cấp thiết về thực tiễn. Vì vậy, “Chính sách tiêu thụ
nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới”
được Nghiên cứu sinh lựa chọn làm đề tài luận án tiến sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu
Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam được nghiên cứu dưới dạng sách chuyên khảo,
tham khảo, giáo trình, đề tài cấp bộ, bài đăng báo, tạp chí, bài viết hội thảo các cấp cho thấy có
nhiều công trình đề cập đến chính sách tiêu thụ nông sản theo cách tiếp cận khác nhau. Về cơ
bản, các công trình này đã đạt được những kết quả sau đây:
Thứ nhất, chỉ rõ giá cả nông sản Việt Nam thấp, thiếu ổn định, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của nông dân. Các giải pháp vĩ mô của Nhà nước cũng như những nỗ lực cần thiết của
người nông dân có ý nghĩa hết sức quan trọng để giải quyết vấn đề này. Đồng thời, các công
trình cũng đã chỉ ra mối liên hệ mật thiết của thị trường trong nước và thị trường ngoài nước về
giá cả, từ đó có thể chọn được thời điểm đẩy mạnh xuất khẩu nông sản cho tối ưu hóa lợi ích.
Thứ hai, giá cả nông sản có liên quan mật thiết với vấn đề sản lượng, mùa vụ, quy hoạch,
chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển công nghệ sinh học để lai tạo các giống năng
suất cao, chất lượng tốt, kháng trừ sâu bệnh. Vấn đề thu mua và cất trữ nông sản, vừa đảm bảo về
tính tự chủ, vừa đảm bảo có lợi về kinh tế khi mà giá thấp thì thu mua dự trữ và bán ra khi giá
cao cũng đã được phân tích kỹ, theo đó là các giải pháp của Nhà nước về vấn đề này cũng được
các nghiên cứu chỉ rõ.
Thứ ba, vấn đề liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản (đặc biệt là mối liên hệ giữa Nhà
nông, Nhà nước, Nhà doanh nghiệp và Nhà khoa học) đã được đề cập và phân tích, trong đó đặc
biệt là mối quan hệ giữa nông dân và doanh nghiệp đã được các bài viết, các đề tài phản ánh rõ
nét về thực trạng mối quan hệ này. Nhiều giải pháp về phía nhà nước, về phía các chủ thể trong
chuỗi liên kết trên cũng được các tác giả đưa ra.
Thứ tư, cần phải phát triển công nghiệp chế biến theo hướng công nghệ hiện đại để gia tăng
giá trị cho nông sản trong chuỗi giá trị toàn cầu, khắc phục tình trạng nông sản Việt Nam chỉ
tham gia vào khâu mang lại ít giá trị nhất đó là sản xuất, trong khi khâu chế biến, thương mại có
giá trị gia tăng cao lại “nhường” cho quốc gia khác.
Thứ năm, vấn đề xúc tiến thương mại nhằm xây dựng và quảng bá thương hiệu nông sản
Việt Nam thời gian qua cũng đã được chú trọng từ cấp vĩ mô đến cấp vi mô; từ trung ương đến
địa phương. Các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận ra và bước đầu có những biện pháp cụ thể để
chiếm lĩnh thị trường trong nước khi mà các cam kết với WTO đang dần hết biên độ cho phép
theo lộ trình mở cửa (cả trong lĩnh vực nông sản).
Tuy nhiên, trong các công trình nghiên cứu về chính sách tiêu thụ nông sản, một số vấn đề
vẫn còn bỏ ngỏ cần được tiếp tục nghiên cứu trong bối cảnh, điều kiện mới, đó là:
Một là, chính sách tiêu thụ nông sản phải góp phần gia tăng giá trị nông sản và thu nhập
của người nông dân trong chuỗi giá trị toàn cầu khi thực hiện các cam kết với WTO; từ đó nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần, gia tăng vị thế của nông dân.
Hai là, phân tích chính sách tiêu thụ nông sản dưới góc độ kinh tế chính trị, phân tích mối
quan hệ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào quá trình tái sản xuất nông sản, từ sản xuất đến
phân phối, lưu thông. Chính sách đó phải coi lợi ích của nông dân là trung tâm nhưng phải hài
hòa với lợi ích của các chủ thể khác như nhà doanh nghiệp, nhà khoa học, nhà nước.
Ba là, vấn đề bảo quản, chế biến nông sản cần được tập trung phát triển nhưng phải đặc
biệt lưu ý đến đặc thù của từng loại sản phẩm. Chính sách bảo quản giúp cho nông dân và doanh
nghiệp tránh được tổn thất lớn trong quá trình sản xuất và chế biến cũng như có tác động tích cực
đến chất lượng và giá thành. Phát triển công nghiệp chế biến giúp cho phần giá trị gia tăng mà
các chủ thể kinh tế Việt Nam nhận được sẽ tăng lên; mặt khác, nó còn làm cho cơ cấu các mặt
hàng nông sản đa dạng hơn, xâm nhập được những thị trường lớn, tăng khả năng cạnh tranh.
Bốn là, đối với các nước đang phát triển như Việt Nam, vấn đề nông nghiệp, nông thôn,
nông dân có tầm quan trọng đặc biệt bởi chúng dễ bị tổn thương nhất trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế. Là thành viên của WTO, Việt Nam vừa phải thực hiện các cam kết về thị trường
nông sản với tổ chức này, vừa phải bảo vệ được lợi ích của nông dân, của đất nước. Bởi vậy,
kinh nghiệm của các nước đi trước trong việc hoạch định và thực thi chính sách tiêu thụ nông sản
nhằm thực hiện các mục tiêu trên cần phải được học hỏi một cách nghiêm túc và phù hợp về điều
kiện kinh tế - xã hội.
Năm là, thị trường nông sản thế giới hiện nay có nhiều xu hướng phát triển mới mang lại
nhiều cơ hội nhưng cũng không ít những thách thức, khó khăn cho nông sản Việt Nam. Vì vậy,
chính sách tiêu thụ nông sản phải phù hợp với điều kiện mới – điều kiện Việt Nam đã gia nhập
WTO được hơn 6 năm. Vấn đề này cần tiếp tục được nghiên cứu trong bối cảnh và điều kiện
mới.
Sáu là, chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam có những ưu điểm và hạn chế gì? cần phải
được hoàn thiện như thế nào để vừa thực hiện được các cam kết với WTO, vừa phải bảo vệ được
lợi ích của nông dân, của đất nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Từ việc phân tích thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam hiện nay, đánh giá
mặt tích cực, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế; Luận án đưa ra các giải pháp hoàn thiện
chính sách tiêu thụ nông sản nhằm gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn
cầu; đảm bảo hài hòa lợi ích của các chủ thể kinh tế nông nghiệp, nông thôn mà trung tâm là lợi
ích của người nông dân trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khung lý thuyết về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các
cam kết với WTO.
- Từ việc nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước, luận án rút ra những
bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách tiêu
thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
- Phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và chính sách tiêu thụ nông sản sau 6 năm gia nhập
WTO; đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam thời gian qua, chỉ ra thành tựu và hạn
chế, nguyên nhân của hạn chế.
- Đưa ra một số quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt
Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam là đối tượng nghiên cứu của luận án. Chính sách
được nghiên cứu dưới góc độ là sản phẩm chủ quan của nhà nước, phản ánh năng lực nhận thức
và vận dụng các quy luật kinh tế khách quan của Nhà nước; đồng thời chính sách còn được
nghiên cứu dưới góc độ là công cụ quản lý kinh tế vĩ mô, thể hiện quan điểm, mục tiêu và giải
pháp của nhà nước trong lĩnh vực tiêu thụ nông sản.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Giới hạn nội dung nghiên cứu:
Luận án tập trung nghiên cứu các chính sách vĩ mô của Nhà nước tác động trực tiếp đến
hoạt động tiêu thụ nông sản: Chính sách giá cả, sản lượng nông sản; chính sách bảo quản, chế
biến nông sản; chính sách xúc tiến thương mại nông sản; chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ
nông sản.
Nông sản chỉ bao gồm các sản phẩm nông nghiệp theo danh mục cam kết với WTO (không
bao gồm thủy sản). Đề tài tập trung nghiên cứu 5 nông sản thế mạnh của Việt Nam: Gạo, cà phê,
cao su, tiêu và điều.
- Thời gian: Chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam từ 2002 đến nay và tầm nhìn đến
2020.
- Không gian: Thị trường tiêu thụ nông sản nội địa và xuất khẩu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp trừu tượng hóa khoa học được sử dụng để tạm gạt bỏ những nhân tố thứ
yếu, không ảnh hưởng quyết định đến vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng để đánh giá một cách khách quan về thực
trạng chính sách tiêu thụ nông sản của Việt Nam.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong việc xem xét chính sách tiêu thụ nông sản của
một số quốc gia để chỉ ra những tương đồng, khác biệt và bài học rút ra cho Việt Nam.
- Phương pháp phân tích chính sách kinh tế - xã hội được sử dụng để làm rõ nội dung, ưu
điểm và hạn chế của các chính sách có tác động trực tiếp đến tiêu thụ nông sản thông qua các
tiêu chí đánh giá chính sách: tính hiệu lực, tính phù hợp, tính hiệu quả, tính công bằng và tính
đồng bộ, hệ thống,
6. Đóng góp của luận án
- Luận án nghiên cứu chính sách tiêu thụ nông sản ở Việt Nam với tư cách là công cụ thúc
đẩy sự gia tăng giá trị nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; đảm bảo lợi ích
của các chủ thể kinh tế ở nông thôn, trong đó lợi ích của người nông dân làm trung tâm.
- Luận án tiếp cận chính sách tiêu thụ nông sản dưới góc độ kinh tế chính trị. Chính sách
tiêu thụ nông sản được nghiên cứu là vấn đề mang tính liên ngành, liên quan đến cả 4 khâu của
quá trình tái sản xuất (sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng); và điều quan trọng hơn là
phải đảm bảo được các lợi ích của các chủ thể Việt Nam trong điều kiện người chơi, sân chơi,
luật chơi toàn cầu.
- Làm rõ được thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước trong quá trình
thực hiện cam kết với WTO; rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm hoàn
thiện chính sách tiêu thụ nông sản trong điều kiện mới của đất nước và thế giới.
- Phân tích và đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam thời gian qua, vừa phải thực
hiện các cam kết với WTO, vừa phải bảo vệ được lợi ích của nông dân, của đất nước; từ đó chỉ ra
những thành tựu, những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân.
- Đưa ra một số gợi ý hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam nhằm gia tăng giá
trị của nông sản Việt Nam trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu; gia tăng thu nhập và vị thế của
nông dân Việt Nam trong bối cảnh thực hiện các cam kết với WTO.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được kết cấu thành 3
chương
Chương 1: Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức
thương mại thế giới – Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế
Chương 2: Thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các
cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
Chương 3: Quan điểm và giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt
Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với Tổ chức thương mại thế giới
CHƢƠNG 1
CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM
KẾT VỚI TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI – CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH
NGHIỆM QUỐC TẾ
1.1. Một số vấn đề lý luận về chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện
các cam kết với Tổ chức thƣơng mại thế giới
1.1.1. Nông sản và chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
- Đặc điểm của nông sản
Một là, sản xuất nông sản mang tính thời vụ và tính khu vực rõ rệt;
Hai là, hầu hết nông sản là những sản phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu, ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe người tiêu dùng;
Ba là, quá trình sản xuất, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ đối với nông sản cũng có những
điểm khác biệt so với các hàng hóa khác do tính tươi sống, đảm bảo mùi vị, chế biến đa dạng,
yêu cầu về dinh dưỡng, cảm quan,…
- Chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
Quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản trải qua nhiều công đoạn, mỗi công đoạn góp phần
tạo ra giá trị tăng thêm cho nông sản đó. Sự phân công lao động xã hội càng phức tạp, phạm vi
phân công lao động xã hội càng lớn, quá trình tạo ra nông sản càng chi tiết và càng trải rộng ra
không gian nhiều quốc gia (toàn cầu), sự gia tăng thêm giá trị vào nông sản càng vì thế mà nhiều
công đoạn hơn. Một quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản như vậy, xét dưới góc độ kinh tế
(tăng thêm giá trị), được các nhà kinh tế gọi là “chuỗi giá trị nông sản toàn cầu”. Như vậy, chuỗi
giá trị nông sản toàn cầu là một thuật ngữ để chỉ một dây chuyền sản xuất – kinh doanh theo
phương thức toàn cầu hóa, trong đó các chủ thể kinh tế của nhiều nước tham gia vào các công
đoạn khác nhau.
1.1.2. Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
- Chính sách tiêu thụ nông sản là tổng thể các công cụ và giải pháp mà Nhà nước sử dụng
để tác động đến các ngành, lĩnh vực có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động tiêu thụ
nông sản nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện không gian và thời gian nhất
định.
Khái niệm chính sách tiêu thụ nông sản bao hàm hai nội dung cơ bản:
Một là, những biện pháp nhà nước đưa ra phải đạt được mục tiêu là đáp ứng được lợi ích
của các chủ thể thông qua tiêu thụ nông sản. Về số lượng, mở rộng và khẳng định vị thế của
nông sản ở thị trường nội địa cũng như thị trường xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh so với
nông sản của các nước khác… Về chất lượng, gia tăng giá trị cho nông dân, cho các doanh
nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản của Việt Nam, bảo vệ được lợi ích của đất nước trong quá
trình cạnh tranh toàn cầu.
Hai là, công cụ và giải pháp của chính sách. Để thực hiện mục tiêu, Nhà nước phải sử dụng
các công cụ và giải pháp nhất định, tác động trực tiếp và gián tiếp đến tiêu thụ nông sản. Khi
điều kiện thị trường thay đổi, tình hình phát triển kinh tế xã hội có những biến động, Nhà nước
cần căn cứ vào nguồn lực hiện có để điều chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tế.
- Các chính sách bộ phận của chính sách tiêu thụ nông sản
Chính sách giá cả, sản lượng. Giá cả nông sản được hình thành một cách khách quan trên
thị trường dưới sự tác động của cung và cầu. Tuy nhiên, Nhà nước xây dựng chính sách có thể
tác động đến quan hệ cung cầu để làm thay đổi giá hoặc có thể can thiệp đến các nhân tố, kể cả
các nhân tố gây méo giá nông sản làm thay đổi giá. Chính sách giá hướng tới việc tăng sản lượng
và lợi ích của sản xuất nông nghiệp.
Chính sách bảo quản, chế biến nông sản. Là những chính sách Nhà nước đưa ra nhằm thay
thế công nghệ bảo quản, xử lý tổn thất sau thu hoạch bởi các loại hóa chất bằng các biện pháp
khác đã giảm đáng kể nguy cơ ô nhiễm môi trường, nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu
dùng.
Chính sách xúc tiến thương mại nông sản. Để đạt được mục tiêu của chính sách xúc tiến
thương mại nông sản, Nhà nước can thiệp tới các tổ chức tham gia thị trường nông sản nhằm
hoàn thiện các tổ chức này. Đây là hình thức can thiệp phổ biến được nhiều quốc gia sử dụng,
nhất là các nước đang phát triển.
Chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, nông dân
sản xuất quy mô nhỏ khó tồn tại trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh và nhiều biến động. Ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới, xu hướng tầng lớp nông dân có quy mô sản xuất nhỏ, manh
mún bị lấn át bởi những tổ chức sản xuất có quy mô lớn vì họ tổ chức sản xuất hợp lý, liên kết
được các nhân tố trong chuỗi giá trị từ sản xuất tới tiêu thụ, tăng giá trị gia tăng, phân phối bình
đẳng lợi nhuận thu được và nhất là giảm thiểu những rủi ro do biến động giá cả.
- Các tiêu chí đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản
Tính phù hợp: Chính sách có phù hợp với điều kiện nguồn lực hiện có hay không? Chính
sách hướng đến những đối tượng nào? Chính sách có phù hợp các cam kết với các tổ chức tham
gia hay không? Có mâu thuẫn giữa việc cam kết với tổ chức này và với tổ chức khác hay không?
Tính hiệu lực: Chính sách có hiệu lực trong thực tế hay không? Chẳng hạn, chính sách tăng
cường thu mua lúa dự trữ của NN có thực sự đem lại lợi ích cho nông dân hay chỉ tăng lợi nhuận
cho các tổng công ty lương thực? Chính sách chỉ có hiệu lực trong thực tế mới đem lại hiệu quả.
Tính hiệu quả: Chính sách khi thực hiện mất bao nhiêu chi phí và mang lại bao nhiêu lợi
ích? Tỷ lệ lợi ích/chi phí là bao nhiêu?
Tính công bằng: Những lợi ích và chi phí có được phân phối công bằng cho các chủ thể,
các nhóm? Nông dân được hưởng bao nhiêu trong sự gia tăng về lợi ích?
Tính đồng bộ, hệ thống: Chính sách tiêu thụ nông sản có mâu thuẫn với các chính sách
khác đối với nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung? Mối liên hệ của chính sách tiêu
thụ nông sản với các chính sách khác đến mức nào và cần phải làm như thế nào để có thể phát
huy tác dụng tốt nhất nhằm đạt được mục tiêu đề ra?
1.2. Chính sách tiêu thụ nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO của
một số nƣớc và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
1.2.1. Chính sách tiêu thụ nông sản của một số nước
- Chính sách tiêu thụ nông sản của Trung Quốc:
Ngoài việc thực hiện các cam kết của WTO, Trung Quốc có sự điều chỉnh đối với nông
nghiệp như: Điều chỉnh cơ cấu sản phẩm nông nghiệp theo vùng; chuyển đổi sản xuất của các
nông hộ; thuế xuất khẩu chỉ áp dụng đối với rất ít mặt hàng; giảm bớt những rào cản phi thuế
quan và thay bằng thuế suất; thúc đẩy tiêu thụ nông sản trong nước nhằm cân đối cung cầu;…
Một số chính sách Trung Quốc thực hiện nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông sản: Chính sách giá
cả nông sản; phát triển thị trường vốn cho sản xuất và tiêu thụ nông sản; liên kết sản xuất và tiêu
thụ nông sản; tạo điều kiện mở rộng công tác xúc tiến thị trường cho doanh nghiệp xuất khẩu;
chính sách tỷ giá…
- Chính sách tiêu thụ nông sản của Thái Lan:
Khi giá cả xuống thấp, Chính phủ sẽ thu mua nông sản nhằm kích cầu, nâng giá bán nông
sản. Ngoài ra, Thái Lan còn thực hiện biện pháp lưu kho, là biện pháp được áp dụng cho cả xuất
khẩu và các thị trường trung tâm ở những vùng sản xuất lớn nhằm lưu trữ đủ nông sản theo chỉ
tiêu, tập trung nông sản bán ở đầu vụ. Biện pháp này không tiến hành trực tiếp với người sản
xuất nhưng cũng góp phần làm tăng giá thu mua nông sản lên trên mức giá tối thiểu.
Việc sản xuất theo hợp đồng ở Thái Lan phần lớn xuất phát từ nhu cầu của doanh nghiệp
chế biến. Cấu trúc sản xuất theo hợp đồng của Thái Lan chủ yếu theo mô hình tập trung, giữa
một bên là doanh nghiệp chế biến và một bên là các trang trại. Trong mô hình này người nông
dân chủ yếu sản xuất gia công cho doanh nghiệp chế biến. Các doanh nghiệp chế biến đầu tư
giống cây trồng, vật nuôi, cung cấp đầu vào, hướng dẫn kỹ thuật và kiểm soát chất lượng.
Thái Lan liên tục nâng cao chất lượng nông sản và cải thiện hệ thống vận chuyển hàng hóa
từ các nông trại tới thị trường trong và ngoài nước. Phát triển các khu chế xuất nông nghiệp và
công nghiệp nông thôn, phát triển công nghiệp chế biến trong các trang trại, xây dựng các trung
tâm công nghệ và sản phẩm nông nghiệp. Thái Lan cũng rất chú trọng việc tiêu chuẩn hóa, kiểm
tra, dán nhãn và chứng nhận đối với các mặt hàng thực phẩm nhập khẩu, khuyến khích các doanh
nghiệp xuất khẩu những mặt hàng có chất lượng cao, có nhãn hiệu của quốc gia và bảo vệ những
nhãn hiệu đó.
1.2.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
- Kinh nghiệm xác định công cụ chính sách tiêu thụ nông sản
Kinh nghiệm về chính sách giá cả, sản lượng nông sản. Chính phủ cần có biện pháp ổn
định giá cả thị trường, cân đối cung cầu đảm bảo ổn định thu nhập cho người sản xuất và chi phí
thu mua nguyên liệu cho các doanh nghiệp chế biến nông sản. Cả Trung Quốc và Thái Lan đều
rất chú trọng công tác này thông qua việc xây dựng hệ thống kho bãi lưu trữ lương thực, thu mua
nông sản khi dư cung và xuất bán khi dư cầu trên thị trường.
Kinh nghiệm trong chính sách phát triển công nghiệp chế biến nông sản. Gắn chặt sự phát
triển của nông nghiệp với công nghiệp chế biến ngay từ khi đưa ra các chủ trương, chính sách và
giải pháp; Áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, tranh thủ hiện đại hóa công nghệ ở những
khâu mũi nhọn; Thực hiện các chính sách hỗ trợ cho công nghiệp chế biến phát triển.
Kinh nghiệm về chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản. Doanh nghiệp chế biến,
tiêu thụ đóng vai trò hạt nhân quyết định sự thành công của hình thức sản xuất theo hợp đồng;
Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và thúc đẩy trong nền sản xuất nông nghiệp phân tán, lạc hậu; Sự
thành công của các mô hình sản xuất theo hợp đồng tùy thuộc vào những điều kiện vật chất nhất
định và đặc điểm của chủng loại hàng hóa.
- Kinh nghiệm tổ chức thực hiện chính sách tiêu thụ nông sản
Trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách sản xuất và tiêu thụ nông sản, phải có
bước đi phù hợp, đánh giá đúng mức độ tác động của WTO đối với các lĩnh vực, tránh tâm lý
hoang mang cho nông dân.
Cần phải có sự kết hợp hài hòa và hợp lý trong quá trình thực hiện bảo hộ và tự do hóa
thương mại. Hài hòa trong việc xác định các nguồn vốn tín dụng cho phát triển nông sản ở các
thời kỳ khác nhau.
Chú trọng vai trò của các hiệp hội.
Trong quá trình thực hiện các chính sách thúc đẩy tiêu thụ nông sản ra thị trường nước
ngoài cần phải phát huy lợi thế trong việc sản xuất một số nông sản phù hợp với đặc điểm kinh
tế, xã hội của đất nước.
- Kinh nghiệm điều chỉnh chính sách tiêu thụ nông sản
Theo kinh nghiệm của các nước cho thấy, Việt Nam cần phải có quy hoạch, điều chỉnh cơ
cấu sản phẩm nông nghiệp hợp lý, đa dạng hóa sản phẩm và cải tiến chất lượng theo hướng toàn
diện. Để gia nhập WTO có hiệu quả, Việt Nam cần điều chỉnh và hoàn chỉnh chính sách vĩ mô
nói chung và chính sách ngoại thương nói riêng để phù hợp với các quy định và các cam kết với
WTO khi gia nhập đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong nước. Việt Nam phải
thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết cắt giảm thuế quan. Về thực chất, đây chính là hành động
nhằm bảo hộ, xóa bao cấp, tăng độ mở nền kinh tế, tạo sức ép buộc các doanh nghiệp cải cách.
Chính phủ cần rà soát, cải tiến các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia, kiện toàn hệ thống kiểm dịch
theo các tiêu chuẩn quốc tế.
- Kinh nghiệm thành công và không thành công của Trung Quốc và Thái Lan về tiêu thụ
nông sản sau gia nhập WTO
+ Kinh nghiệm thành công cần học tập và áp dụng vào điều kiện của Việt Nam
Kinh nghiệm thành công từ Trung Quốc
Thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường, xây dựng hệ thống quản lý
theo nguyên tắc của WTO; Điều chỉnh quy hoạch ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp theo
hướng ưu tiên những ngành có lợi thế và cho xuất khẩu; Đẩy mạnh thu hút nguồn vốn và công
nghệ hiện đại từ bên ngoài, chú trọng công nghệ sinh học, chuẩn hóa các chỉ tiêu và thông số kỹ
thuật; Áp dụng hạn ngạch thuế quan đối với một số ngành dễ bị tổn thương hoặc dễ có tác động
xấu đến đời sống của người nông dân; Đào tạo nguồn nhân lực đặc biệt là nguồn nhân lực cho
nông thôn thông qua các khóa học bồi dưỡng, công tác truyền thông, phối hợp đào tạo giữa viện,
trường, trung tâm và bộ ngành; Bảo vệ môi trường sinh thái thông qua việc xây dựng các khu
sinh thái nông thôn, khu phát triển bền vững nông thôn, khu công nghiệp sạch, khu nông sản
sạch, khu nông sản hữu cơ. Khuyến khích nông dân sử dụng bếp ga sinh học đồng kết hợp giải
quyết năng lượng cho nông dân.
Kinh nghiệm thành công từ Thái Lan
Thái Lan đã có những thay đổi như: Ban hành và thực hiện các chính sách cải thiện chất
lượng và an toàn; Thiết lập hệ thống GAP quốc gia; Quy định cơ cấu tổ chức và hướng dẫn cho
việc phát triển cao hơn kế hoạch chương trình GAP quốc gia; Tách bạch rõ vai trò và trách
nhiệm của mỗi cơ quan chính phủ và các bộ phận tư nhân; Khuyến khích việc đối thoại giữa tất
cả các thành viên liên quan; Xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát và lên kế hoạch tiến hành;
Cung cấp dịch vụ tư vấn và huấn luyện về GAP cho cả những người sản xuất cá thể, tập thể và
các doanh nghiệp trong nước Nhờ đó, từng bước rau hoa quả của Thái Lan đã thâm nhập được
vào ngày càng nhiều nước trên thế giới.
Kinh nghiệm trong phát triển hệ thống khuyến nông của Thái Lan. Cục khuyến nông Thái
Lan được chia làm hai cấp: Quản lý Nhà nước cấp Trung ương, có nhiệm vụ hướng dẫn, chỉ đạo,
điều phối và hỗ trợ cho các đơn vị địa phương thực hiện các chương trình, dự án khuyến nông.
Cấp quản lý hành chính cấp địa phương có nhiệm vụ xúc tiến, phát triển nông dân, tổ chức nông
dân trên địa bàn tỉnh quản lý, điều phối các hoạt động chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về nông
nghiệp.
Một số chương trình lớn có hiệu quả cao của Thái Lan như: Chương trình hoãn nợ cho
nông dân vay tiền của Ngân hàng nông nghiệp; Chương trình "Mỗi làng một triệu baht", "Mỗi
làng một sản phẩm".
- Kinh nghiệm không thành công cần tránh đối với Việt Nam
Thái Lan duy trì thực hiện một chính sách mua hết gạo cho nông dân với một mức giá đảm
bảo có lời. Chính sách này được gọi là chương trình thế chấp gạo và được phổ biến rộng. Nhưng
chương trình này khá tốn kém cho ngân sách, nhất là khi chính phủ đưa ra mức giá sai. Sai lầm
xảy ra vào năm 2008 khi giá gạo trên thị trường thế giới cao ngất ngưởng. Khi giá gạo bắt đầu
giảm, Thái Lan vẫn nhấn mạnh rằng, giá gạo mua của nông dân phải được duy trì ở mức cao. Kết
quả là Chính phủ Thái Lan nắm giữ một lượng gạo dự trữ rất lớn đã được mua vào trong thời
điểm giá cao. Là nhà cung cấp nhiều gạo nhất ra thị trường thế giới, Thái Lan không thể bán hết
lượng gạo này mà không làm giá gạo giảm thêm.
Trung Quốc nhập khẩu tăng lên sau gia nhập WTO. Giai đoạn 2004 – 2005 sau gia nhập
WTO, thuế nhập khẩu nông sản giảm, các mặt hàng như lương thực, bông, dầu nhập khẩu tăng
lên. Trung Quốc đã chuyển từ nước xuất siêu sanh nước nhập siêu nông sản. Dân số đông, quy
mô sản xuất nhỏ, năng suất lao động thấp, trình độ kỹ thuật yếu cùng với hạn chế về môi trường
sản xuất, thuốc trừ sâu, điều kiện phòng dịch kém,… nông nghiệp Trung Quốc đã phải chịu một
số ảnh hưởng tiêu cực sau khi gia nhập WTO. Một số sản phẩm trước khi gia nhập xuất khẩu
nhiều thì sau khi gia nhập lại chuyển sang nhập khẩu như bong, đậu tương, dầu ăn,
Xuất khẩu nông sản Trung Quốc gặp nhiều bất lợi do hàng rào thuế quan của các thành
viên WTO cùng với các hình thức bảo hộ khác. Bên cạnh đó, giá cả nhiều loại sản phẩm nông
nghiệp Trung Quốc cao hơn so với giá thế giới do chi phí sản xuất cao, kết cấu hạ tầng kém.
Xuất khẩu của doanh nghiệp Trung Quốc giảm rõ rệt, một nửa kim ngạch xuất khẩu nông sản là
của các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Thu nhập thực tế của một bộ phận nông dân có chiều hướng giảm sau vài năm gia nhập
WTO. Thu nhập nông nghiệp giảm đã dẫn đến thất thu thuế nông nghiệp.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG SẢN VIỆT NAM
TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT
VỚI TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI
2.1. Cam kết của Việt Nam về thị trƣờng nông sản và những cơ hội, thách thức đối
với tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
2.1.1. Quy định của WTO về thương mại nông sản
- Mở cửa thị trường nông sản
- Chính sách hỗ trợ trong nước đối với nông sản
2.1.2. Các cam kết của Việt Nam về thị trường nông sản
Trong lĩnh vực nông nghiệp, các cam kết của Chính phủ Việt Nam là: Bỏ trợ cấp xuất khẩu
đối với nông sản, hỗ trợ nông sản nội địa sẽ chỉ được duy trì tối đa 10% giá trị sản lượng như các
nước đang phát triển khác trong WTO và mức cam kết cắt giảm bình quân đối với sản phẩm
nông nghiệp từ 25,2% xuống còn 21%. Việt Nam cam kết bãi bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu cho
hàng nông sản khi chính thức được kết nạp vào WTO. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn được bảo lưu
quyền thụ hưởng một số quy định riêng của WTO dành cho một nước đang phát triển ở lĩnh vực
này trong một thời gian nhất định.
2.1.3. Cơ hội và thách thức đối với tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực
hiện các cam kết với WTO
- Cơ hội
Những lợi thế của nông sản Việt Nam trên thị trường nông sản toàn cầu
Lợi thế về điều kiện tự nhiên, đất đai, khí hậu, khoa học công nghệ, giá nhân công rẻ;Cơ
hội tiếp cận, mở rộng thị trường do được đối xử bình đẳng trên thị trường quốc tế;Tạo điều kiện
cho Việt Nam đổi mới, minh bạch chính sách liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp và kinh doanh
nông sản. Là thành viên WTO sẽ như một chứng chỉ giúp cho Việt Nam tạo dựng được lòng tin
của các nhà đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi đầu tư vào Việt
Nam, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp. Năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam được nâng
cao. Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp, nông dân phải đối mặt với môi trường cạnh tranh
khốc liệt hơn.
- Thách thức
Những hạn chế của nông nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO;
Trình độ sản xuất nông sản còn thấp, công nghệ hiện đại chưa được áp dụng nhiều và chủ yếu
sản xuất hàng hóa nhỏ; Hàm lượng chất xám trong nông sản thấp; Công nghiệp chế biến ở nước
ta còn chậm phát triển so với nhu cầu phát triển của ngành nông nghiệp; Những áp lực về kinh
tế, xã hội của việc gia nhập WTO đến nông nghiệp Việt Nam; Cạnh tranh trong nông nghiệp
ngày càng gay gắt hơn; Sự phụ thuộc của nền kinh tế ngày càng tăng lên; Phân phối lợi ích
không đều giữa các tầng lớp dân cư; Môi trường, an ninh, văn hóa truyền thống và lối sống có
nhiều biến đổi tiêu cực.
2.2. Thực trạng tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam trƣớc và sau gia nhập
Tổ chức thƣơng mại thế giới
2.2.1. Tổng quan tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam trước và sau gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới
2.2.1.1. Tình hình tiêu thụ một số nông sản chủ yếu tại thị trường nội địa
* Giai đoạn 2002 – 2006
Đây là giai đoạn Việt Nam gấp rút chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho việc gia nhập
WTO, các vòng đàm phán song phương, đa phương được tổ chức nhằm thỏa thuận để đi tới đạt
được những điều kiện cũng như lộ trình cam kết. Nông nghiệp nói chung và sản xuất, tiêu thụ
một số nông sản nói riêng ít nhiều có chịu ảnh hưởng. Tuy nhiên, tình hình sản xuất và tiêu thụ
vẫn ổn định, không có nhiều biến động về diện tích canh tác, sản lượng và tiêu thụ trên thị
trường nội địa (xem bảng 2.1).
Bảng 2.1: Tổng sản lƣợng và lƣợng tiêu thụ nội địa một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam trƣớc gia nhập WTO (2002 - 2006)
Đơn vị: Nghìn tấn
Mặt
hàng
Tổng sản lƣợng và lƣợng
tiêu thụ nội địa
2002
2003
2004
2005
2006
Gạo
Tổng sản lượng
34.909
35.040
36.203
36.050
35.970
Lượng tiêu thụ nội địa
31.742
31.186
32.113
30.752
31.256
Cà phê
Tổng sản lượng
700,6
780,3
790,7
730,2
905,0
Lượng tiêu thụ nội địa
30,9
31,1
29,5
32,2
33,0
Cao su
Tổng sản lượng
300,3
382,3
405,3
487,0
567,2
Lượng tiêu thụ nội địa
45,0
57,3
60,7
73,0
85,0
Tiêu
Tổng sản lượng
47,3
70,3
74,9
80,5
82,3
Lượng tiêu thụ nội địa
2,8
4,8
4,9
5,5
6,2
Điều
Tổng sản lượng
170,7
210,2
275,6
313,0
302,2
Lượng tiêu thụ nội địa
3,4
4,2
5,5
6,2
6,0
Nguồn: Tác giả tập hợp số liệu từ [94;tr54,56,58,59,60]
* Giai đoạn 2007 - 2012
Sau 6 năm Việt Nam gia nhập WTO, những cam kết của Việt Nam về thị trường nông sản
cùng với tác động từ thị trường bên ngoài nhanh hơn, mạnh hơn đã ít nhiều tác động đến tiêu thụ
nông sản trong nước. Điều này đồng nghĩa với sự cạnh tranh của nông sản Việt Nam với hàng
loạt các nông sản đến từ nước ngoài tăng lên, nông dân và doanh nghiệp của Việt Nam phải đối
diện với cuộc cạnh tranh mới trong quá trình Việt Nam thực hiện các cam kết với WTO ngay tại
thị trường nội địa.
Bảng 2.2: Tổng sản lƣợng và lƣợng tiêu thụ nội địa một số mặt hàng nông sản của
Việt Nam sau gia nhập WTO (2007 - 2012)
Đơn vị: Nghìn tấn
Mặt
hàng
Tổng sản lƣợng
và tiêu thụ nội
địa
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Gạo
Tổng sản lượng
35.868,5
38.630,5
38.100,6
40.005,4
42.324,4
48.470
Tiêu thụ nội địa
31.336,5
34.206,5
32.142,6
33.127,4
35.137,4
40.370
Cà
phê
Tổng sản lượng
961,7
996,3
1.057,5
1.112,2
1.167,9
1.848,0
Tiêu thụ nội địa
57,6
59,7
63,4
66,7
70,0
88,0
Cao
su
Tổng sản lượng
609,8
662,9
711,3
751,7
811,6
1.188,7
Tiêu thụ nội địa
91,3
99,3
106,6
112,6
121,6
168,7
Tiêu
Tổng sản lượng
89,3
104,5
108
105,4
109,4
130,5
Têu thụ nội địa
6,3
9,0
10,5
10,2
11,0
12,5
Điều
Tổng sản lượng
312,5
313,4
291,9
310,5
318
230,3
Tiêu thụ nội địa
6,3
6,2
5,8
6,2
6,4
7,3
Nguồn: Tác giả tập hợp số liệu từ [94], [95], [96], [97] và [98]
Bảng 2.2 cho thấy: Các mặt hàng nông sản đều có mức tăng trưởng ổn định, về cơ bản năm
sau tăng so với năm trước. Quá trình CNH, HĐH và tình hình thị trường biến động khiến cho tại
một số thời điểm diện tích canh tác bị giảm sút nhưng do năng suất có xu hướng tăng nên tính
chung toàn giai đoạn sản lượng luôn tăng, góp phần ổn định tiêu thụ trong nước.
2.2.1.2. Tình hình tiêu thụ một số nông sản chủ yếu tại thị trường nước ngoài
* Giai đoạn 2002 – 2006
Giai đoạn này do sản lượng và tiêu thụ trong nước nhìn chung ổn định nên tình hình xuất
khẩu một số nông sản của Việt Nam vẫn tăng trưởng đều qua các năm.
Bảng 2.3: Lƣợng và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam
trƣớc gia nhập WTO (2002 - 2006)
Đơn vị: - Lượng: Nghìn tấn;
- Kim ngạch: Triệu USD
Mặt
hàng
Lƣợng, kim
ngạch
2002
2003
2004
2005
2006
Gạo
Lượng
3.157,6
3.813,2
4.086,7
5.247,9
4.643,4
Kim ngạch
709,8
720,5
950,3
1.406,6
1.275,8
Cà phê
Lượng
669,7
749,2
974,7
889,5
980,8
Kim ngạch
290,6
504,8
641,0
732,8
1.217,1
Cao su
Lượng
413,9
433,1
513,2
586,4
707,7
Kim ngạch
242,6
377,8
596,8
803,4
1.286,3
Tiêu
Lượng
75,6
74,1
111,9
109,0
116,8
Kim ngạch
105,5
104,9
152,3
150,3
190,4
Điều
Lượng
58,3
83,9
85,0
108,8
127,0
Kim ngạch
195,6
284,4
300,3
501,0
503,7
Nguồn: Tổng cục Hải quan, 2007
Bảng 2.3 cho thấy: Mặt hàng gạo có tỷ trọng xuất khẩu khá thấp, còn lại các mặt hàng cà
phê, cao su, tiêu và điều đều có tỷ trọng xuất khẩu cao nếu so sánh với số liệu tổng sản lượng ở
bảng 2.1. Chính vì vậy, những mặt hàng này được hy vọng sẽ hưởng lợi nhiều khi Việt Nam gia
nhập WTO – thị trường xuất khẩu được mở rộng, được hưởng các đãi ngộ thuế, phí tại các thị
trường trong WTO; Mặc khác, những ngành này còn được hưởng những chính sách của Nhà
nước do Việt Nam là được đang phát triển, sử dụng những quy định trong “hộp xanh”.
* Giai đoạn 2007 - 2012
Xuất khẩu nông sản của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật sau 6 năm gia nhập
WTO, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, một số mặt hàng nông sản đạt
kim ngạch hàng tỷ USD/năm như cà phê, gạo. Việt Nam trở thành quốc gia hàng đầu thế giới về
xuất khẩu tiêu, điều; đứng thứ hai về xuất khẩu gạo và cà phê.
Bảng 2.4: Lƣợng và kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng nông sản của Việt Nam
sau gia nhập WTO (2007 - 2012)
Đơn vị: - Lượng: nghìn tấn;
- Kim ngạch: triệu USD
Mặt
hàng
Lƣợng,
kim ngạch
2007
2008
2009
2010
2011
2012
Gạo
Lượng
4.532
4.424
5.958
6.878
7.187
8.100
Kim ngạch
1.472
2.758
2.664
3.229
3.703
3.700
Cà phê
Lượng
1.200
1.132
1.181
1.113
1.220
1.760
Kim ngạch
1.881
2.116
1.731
1.666
2.691
3.740
Cao su
Lượng
719
544
731
773
846
1.020
Kim ngạch
1.296.5
1.675
1.227
2.321
3.283
2.850
Tiêu
Lượng
86
90,3
108
116
125
118
Kim ngạch
267
310
348
419
736
802
Điều
Lượng
153
163
177
196
178
223
Kim ngạch
642
914
847
1.141
1.476
1.483
Nguồn: Tác giả tập hợp số liệu từ [94], [95], [96], [97] và [98]
Từ số liệu bảng 2.4 cho thấy:
Xuất khẩu 5 mặt hàng của Việt Nam ổn định cả về lượng và kim ngạch, điều này phần nào
do diện tích khai thác không có nhiều biến động và các chính sách của Nhà nước đưa ra nhằm
thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng này trên thị trường thế giới về cơ bản sát với tình hình của thị
trường.
2.2.2. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ một số nông sản chủ yếu của Việt Nam
trước và sau gia nhập WTO
2.2.2.1. Tình hình tiêu thụ trong nước
Giai đoạn 2002 – 2006, các mặt hàng nông sản nhìn chung có năng suất, sản lượng ổn định
và về cơ bản phục vụ được nhu cầu tiêu dùng trong nước. Về cao su, giai đoạn này sản lượng
tăng trung bình 12,2%/năm trong khi diện tích trồng cao su chỉ tăng trung bình 4,3%/năm. Về hạt
điều, giai đoạn này sản lượng trung bình tăng 28,7%/năm và tốc độ tăng về diện tích là
12,9%/năm. Riêng đối với cà phê, diện tích gieo trồng bị giảm sút (2,8%/năm) nhưng sản lượng
vẫn tăng qua các năm (1,1%/năm).
Sau khi VN chính thức là thành viên của WTO, thị trường tiêu thụ nông sản trong nước đã
có những diễn biến sôi động, hàng loạt những cam kết về thị trường nông sản đã được ký kết và
VN phải thực hiện theo lộ trình. Những cơ hội và thách thức đã lộ rõ và cuộc cạnh tranh của
nông sản VN với nông sản đến từ nước ngoài trở nên gay gắt hơn, người nông dân đã có những
thay đổi về tư duy cả trong sản xuất canh tác và tiêu thụ. Nhà nước cũng đã đưa ra hàng loạt
những chính sách tác động vào nông nghiệp nông thôn nhằm tận dụng những lợi thế của đất
nước cũng như những ưu đãi về thuế và các biện pháp hỗ trợ dành cho các nước đang phát triển.
Tất cả những điều này khiến cho sản lượng nông sản tăng lên sau 6 năm gia nhập WTO, đời sống
của người nông dân đã được cải thiện đáng kể. Chẳng hạn, đối với mặt hàng gạo, từ chỗ sản
lượng chỉ đạt mức khoảng 30-35 triệu tấn/năm giai đoạn 2002 – 2006 đến 40-42 triệu tấn/năm;
cà phê tăng từ 70-90 nghìn tấn/năm (2002 - 2006) đến 100 – 120 nghìn tấn/năm (2007 - 2012);
Cao su tăng từ 300 – 500 nghìn tấn/năm (2002 - 2006) đến 600 – 800 nghìn tấn/năm (2007 -
2012);…
2.2.2.2. Tình hình xuất khẩu
Sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu nông sản đạt được
những thành tựu quan trọng và luôn góp phần vào duy trì mức xuất siêu của các mặt hàng nông
lâm, thủy sản. Trước gia nhập, thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn tập trung vào các thị trường
truyền thống, nhưng sau gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu đã được mở rộng và khai thác thêm
những thị trường lớn, yêu cầu chất lượng nông sản tốt hơn như Mỹ, EU và Nhật Bản. Từ khâu
sản xuất đến chế biến, tiêu thụ,… đều được đổi mới theo hướng sản xuất nhằm phục vụ thị
trường WTO với những tiêu chuẩn chất lượng toàn cầu.
2.3. Thực trạng chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các
cam kết với WTO
2.3.1. Chính sách giá cả, sản lượng nông sản
- Đối với gạo, cơ chế điều hành xuất khẩu gạo đã được Chính phủ chỉ đạo trong Nghị quyết
số 11/NQ-CP, ngày 24/2/2011, về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội, trong đó nhấn mạnh: “chỉ đạo điều hành xuất khẩu gạo
bảo đảm hiệu quả, ổn định giá lương thực trong nước và đảm bảo an ninh lương thực quốc gia”.
Chính sách tạm trữ lúa gạo, chủ trương thu mua tạm trữ gạo được thực hiện mỗi năm 2 lần,
vào các vụ đông xuân và hè thu, chính sách này có tác động tích cực là giúp giá lúa gạo trên thị
trường trong nước không bị sụt giảm khi nguồn cung tăng, đảm bảo cho người nông dân có mức
lãi nhất định. Chính phủ đã quyết định giao Hiệp hội Lương thực Việt Nam thu mua tạm trữ từ
500 ngàn đến 1 triệu tấn quy gạo. Việc thu mua này chủ yếu qua hệ thống thương lái, nông dân
hầu như không được bán trực tiếp cho doanh nghiệp nên lợi nhuận không về tay nông dân. Như
vậy, có thể thấy chính sách tạm trữ đã không đạt được mục đích cao nhất là hỗ trợ tận tay người
nông dân mà đôi khi làm lợi cho các thương lái và doanh nghiệp thu mua.
- Đối với cao su, theo quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông lâm thủy sản cả nước
đến năm 2010, diện tích cao su sẽ được quy hoạch ở mức từ 500 – 700 nghìn ha chủ yếu tập
trung tại Đông Nam Bộ và Tây Nguyên. Trong 6 tháng đầu năm 2007, Tập đoàn công nghiệp cao
su Việt Nam đã tiến hành khảo sát phát triển cao su tại hai tỉnh Sơn La và Lai Châu về chủ
trương phát triển cao su tại vùng Tây Bắc. Đầu tư sản xuất cao su còn được mở rộng ra nước
ngoài, tại Campuchia và Lào. Chính phủ Lào có chủ trường dành cho Việt Nam 100.000 ha để
đầu tư phát triển trồng cao su và hiện đã thực hiện được khoảng 7.500 ha (Lào) và 8.100 ha
(Campuchia).
- Đối với hạt điều, vào tháng 5/2007, Bộ NN & PTNT đã ban hành Quyết định số
39/2007/QĐ-BNN phê duyệt phát triển ngành điều đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,
trong đó nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt điều thô cho chế biến xuất khẩu. Bộ NN & PTNT
dự tính sẽ nhập khẩu 123.000 tấn điều thô từ 2007 đến 2010. Cùng Quyết định này, diện tích
trồng điều cả nước năm 2010 là 450.000 ha. Đến năm 2020, diện tích trồng điều ổn định khoảng
400.000 ha. Những địa bàn có điều kiện, nhất là các vùng đất xám ở Tây Nguyên, Đông Nam
Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ là những vùng nằm trong quy hoạch phát triển của ngành điều.
2.3.2. Chính sách bảo quản, chế biến nông sản
- Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg, ngày 15/10/2010, của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản , thủy sản va
̀
Thông tư số
03/2011/TT-NHNN, ngày 08/3/2011, của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn chi tiết về vấn đề này ,
Ngân hàng NN & PTNT Viê
̣
t Nam đa
̃
ban ha
̀
nh quy đi
̣
nh về viê
̣
c cho vay hô
̃
trơ
̣
gia
̉
m tô
̉
n thất
sau thu hoa
̣
ch đối vơ
́
i nông sa
̉
n , thủy sản. Agribank là tổ chức tín dụng được giao thực hiện chính
sách cho vay hỗ trợ nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản , thủy sản . Việc hỗ trợ
nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản thông qua Agribank được thực hiện dưới hai
hình thức: Cho vay hỗ trợ lãi suất va
̀
cho vay theo lãi suất tín dụng đầu tư phát triển .
- Quyết định số 57/2010/QĐ-TTg ngày 17/9/2010 về việc miễn tiền thuê đất đối với các dự
án xây dựng kho dự trữ 4 triệu tấn lúa, ngô, kho lạnh bảo quản thủy sản, rau quả và kho tạm trữ
cà phê theo quy hoạch. Theo đó, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư các dự
án xây kho trữ lúa được miễn tiền thuê đất đối với diện tích đất thực hiện dự án đầu tư trong
vòng 5 năm kể từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động.
2.3.3. Chính sách xúc tiến thương mại nông sản
Xúc tiến thương mại nông sản chính là cầu nối doanh nghiệp với người tiêu dùng, giữa
nông dân với thị trường, doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước,… và góp
phần thúc đẩy sự phát triển chung của ngành nông nghiệp VN trong điều kiện mở cửa hội nhập
với thị trường thế giới, khi VN đã và đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Những
chương trình xúc tiến thương mại của ngành đã tác động tích cực vào việc quảng bá sản phẩm
nông lâm thủy sản, ổn định và phát triển thị trường nội địa; đẩy mạnh xuất khẩu và đang dần trở
thành đối tác tin cậy của nông dân và các doanh nghiệp kinh doanh nông sản. Đặc biệt, với các
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khi tham gia các chương trình hội chợ triển lãm đã góp phần
khuyên khích các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh nông sản tích cực mang nông sản VN đến
rộng rãi người tiêu dùng trong và ngoài nước.
2.3.4. Chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản
Tỷ lệ nông sản hàng hóa tiêu thụ qua liên kết sản xuất – chế biến tiêu thụ nông sản giữa
nông dân với các thành phần kinh tế khác còn thấp, chưa phát triển sâu rộng ở các địa phương,
ngành hàng và sản phẩm. Nhiều mô hình liên kết còn thiếu tính bền vững, tình trạng phá vỡ hợp
đồng khá phổ biến. Một số nông dân cố tình bán ra bên ngoài để lẫn tránh việc thanh toán các
khoản đầu tư ứng trước. Nhiều doanh nghiệp chưa tôn trọng lợi ích nông dân, không quan tâm
vùng nguyên liệu, lợi dụng thế độc quyền ép giá, ép cấp, Nói chung, QĐ 80 chưa tạo được mối
quan hệ giữa doanh nghiệp và nông dân trên cơ sở lợi ích. Nguyên nhân của tình trạng trên xuất
phát từ tình trạng sản xuất nhỏ lẻ; trình độ kỹ năng nghề nghiệp của nông dân thấp; năng lực hiệu
quả hoạt động của doanh nghiệp còn thấp.
2.4. Đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình thực hiện các
cam kết với WTO
2.4.1. Đánh giá thông qua các tiêu chí của chính sách tiêu thụ nông sản
2.4.1.1. Tính phù hợp của chính sách tiêu thụ nông sản
Trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO, cùng với biến động của thị trường nông
sản thế giới và trong nước, chính sách đưa ra chưa thực sự phù hợp và bám sát với những thay
đổi của kinh tế, xã hội. Chẳng hạn, điều hành kinh doanh lúa gạo chưa thật sự sát với tình hình
thực tế khiến cho việc xuất khẩu gạo chưa đạt được lợi ích lớn nhất cho đất nước. Gia tăng các
hộ nông dân giàu nhưng số hộ nông dân nghèo, tái nghèo vẫn còn nhiều. Khoảng cách giàu
nghèo giữa các nông dân ngày càng nới rộng ra.
2.4.1.2. Tính hiệu lực của chính sách tiêu thụ nông sản
Chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản (QĐ 80) không có hiệu lực khi nó không
có tác dụng trong thực tế: nông dân chạy theo lợi ích trước mắt mà phá bỏ hợp đồng; doanh
nghiệp thì không thực hiện đúng những cam kết về giống, phân bón và đặc biệt là bao tiêu sản
phẩm đầu ra; nhà khoa học không có nhiều nghiên cứu có tính ứng dụng cao; Nhà nước không
có trách nhiệm rõ ràng trong chuỗi liên kết này khiến cho liên kết trở nên hình thức và phi thực
tế. Về giá nông sản, Nhà nước can thiệp về giá để đảm bảo quyền lợi của người sản xuất và
người tiêu dùng – điều này hoàn toàn đúng đắn vì đây là mặt hàng thiết yếu, cần phải có sự điều
tiết nhưng hiệu lực trong thực tế chưa cao.
2.4.1.3. Tính hiệu quả của chính sách tiêu thụ nông sản
Chính sách xúc tiến thị trường chưa mang lại hiệu quả. Một là, đối với thị trường trong
nước, hầu hết các nông sản được coi là thế mạnh của Việt Nam đều tràn ngập nông sản của nước
ngoài, của đối thủ cạnh tranh trực tiếp như gạo Thái Lan. Với số dân đông, là thị trường rộng lớn
cho việc thúc đẩy tiêu thụ cà phê, hạt tiêu, điều,… nhưng các doanh nghiệp Việt Nam lại đang bỏ
quên thị trường tiềm năng này.
Chính sách tiêu thụ nông sản thời gian qua đã phần nào phản ánh rõ nét nhất các ưu thế của
Việt Nam trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Tuy nhiên, với những thuận lợi về điều kiện tự
nhiên, xã hội Việt Nam đang có, chính sách tiêu thụ nông sản vẫn chưa thực sự tương xứng với
tiềm năng về nông nghiệp.
2.4.1.4. Tính công bằng của chính sách tiêu thụ nông sản
Phân chia lợi ích giữa các tác nhân tham gia chuỗi giá trị nông sản là điều quan trọng đảm
bảo tính bền vững của chuỗi giá trị. Tuy nhiên, phân tích kinh tế chuỗi giá trị của nông sản VN ta
thấy, người nông dân còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất và giá trị mang lại còn rất
thấp do quản lý chuỗi cung ứng từ đầu vào đến đầu ra còn kém hiệu quả và quản lý chất lượng từ
đầu ra trở về đầu vào chưa được quan tâm đúng mức nên chất lượng nông sản thấp dẫn đến giá
bán thấp, hạn chế năng lực cạnh tranh của nông sản Việt Nam trên thị trường trong và ngoài
nước.
2.4.1.5. Tính đồng bộ, hệ thống của chính sách tiêu thụ nông sản
Nhìn chung, các chính sách bộ phận mà Nhà nước đưa ra thời gian qua khá đồng bộ và
bước đầu tạo nên những thành công cho nông nghiệp nói chung và nông sản nói riêng. Tuy
nhiên, cần phải tiếp tục hoàn thiện trong điều kiện và bối cảnh mới.
Chính sách của Nhà nước chưa thực sự đảm bảo sự đồng bộ giữa sản xuất và tiêu thụ, đặc
biệt trong bối cảnh hội nhập WTO, chính sách tiêu thụ nông sản ra thị trường thế giới càng phải
quan tâm vấn đề thị trường tiêu thụ, gắn chặt sản xuất và tiêu thụ nông sản. Sản xuất phải gắn
chặt với thị trường. Chính sách tiêu thụ nông sản còn nhiều bất hợp lý khi kết hợp với các chính
sách khác trong thực tế. Hỗ trợ lãi suất và cho vay vốn đối với các chủ thể được nhà nước quan
tâm nhưng nông dân lại là chủ thể chịu thiệt thòi nhất trong cuộc cạnh tranh nhằm vay vốn để
mở rộng sản xuất kinh doanh.
Tóm lại, chính sách tiêu thụ nông sản cần phải được điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện
mới, trước hết các chính sách bộ phận phải phù hợp với nhau, tiếp đến nó phải phù hợp với các
chính sách khác cả chính sách kinh tế lẫn chính sách xã hội.
2.4.2. Đánh giá năng lực tham gia của nông sản Việt Nam vào chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu
Thứ nhất, nhìn chung các mặt hàng nông sản chủ yếu của Việt Nam đều có khả năng tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ hai, nông sản Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ở khâu trồng trọt và chăn
nuôi là chủ yếu nên giá trị gia tăng mang lại rất thấp.
Thứ ba, một số loại nông sản Việt Nam và một số chuỗi giá trị riêng biệt của doanh nghiệp
đã tham gia được vào các khâu có giá trị gia tăng cao trong chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ tư, một số yếu tố thuộc về thể chế, môi trường kinh doanh đã bước đầu góp phần tạo
lập năng lực tham gia của nông sản Việt Nam vào chuỗi giá trị toàn cầu.
2.4.3. Đánh giá chung về thành tựu và hạn chế của chính sách tiêu thụ nông sản trong
quá trình thực hiện các cam kết với WTO
2.4.3.1. Thành tựu
Một là, các quy định pháp luật và chính sách có liên quan đến sản xuất và tiêu thụ nông sản
chuyển biến theo hướng minh bạch hơn, ít phân biệt hơn giữa các thành phần kinh tế và hướng
tới môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Hai là, sau gia nhập WTO, quy mô và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng nông
sản tiếp tục được duy trì ở mức cao; nông sản tiêu thụ trên thị trường nội địa đã có những chuyển
biến tích cực theo hướng người Việt Nam ngày càng lựa chọn nông sản Việt, tỷ trọng nông sản
nhập khẩu có xu hướng giảm đặc biệt là nông sản trái cây nhập từ Trung Quốc đã giảm rõ rệt do
lo ngại vấn đề thuốc bảo quản.
Ba là, cơ cấu hàng nông sản có nhiều chuyển biến tích cực, tỷ lệ hàng nông sản qua chế
biến được nâng lên; nhiều ngành hàng, doanh nghiệp, nông dân đã chú trọng xây dựng thương
hiệu cho nông sản của mình và tiến hành sản xuất các sản phẩm xuất khẩu theo tiêu chuẩn quốc
tế để thâm nhập vào các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản,…Chất lượng và độ an toàn
thực phẩm được nâng lên nên giá nông sản xuất khẩu cũng tăng lên.
Bốn là, thị trường nông sản xuất khẩu được mở rộng hơn.
Năm là, vị thế của một số mặt hàng nông sản tiếp tục được củng cố trên thị trường quốc tế
như gạo, cà phê và điều xếp thứ 2 thế giới; hạt tiêu xếp thứ 1 và cao su xếp thứ 5.
2.4.3.2. Những hạn chế
Thứ nhất, Việt Nam vẫn vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm của WTO do
bản thân quá trình sản xuất, chế biến và xuất khẩu nông sản còn nhiều hạn chế.
Thứ hai, nông sản Việt Nam vẫn chưa chiếm lĩnh được thị trường trong nước, nhập khẩu
nông sản từ bên ngoài còn nhiều trong khi những nông sản này hoàn toàn có thể chủ động từ
chính nguồn cung trong nước. Người tiêu dùng Việt Nam còn hạn chế tiêu dùng các sản phẩm
như hạt điều, cà phê,…
Thứ ba, cơ cấu hàng xuất khẩu còn nhiều hạn chế thể hiện ở cả ba phương diện: chủng loại
hàng nông sản đơn điệu, chưa tích cực phát triển các mặt hàng xuất khẩu mới có đóng góp kim
ngạch cao, quá trình chuyển dịch cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo hướng công nghiệp hóa còn
diễn ra chậm, các mặt hàng có giá trị gia tăng cao còn thấp. Nhiều mặt hàng còn phụ thuộc khá
lớn vào một thị trường nào đó (chẳng hạn như cao su: phụ thuộc rất lớn vào thị trường Trung
Quốc).
Thứ tư, tỷ trọng hàng nông sản chế biến sâu còn thấp.
Thứ năm, nhiều mặt hàng nông sản đứng đầu hoặc trong nhóm hàng đầu thế giới nhưng lại
không có được vai trò chi phối chuỗi, chi phối thị trường. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm
yếu, xuất khẩu của nước ta thời gian qua chủ yếu dịch chuyển theo chiều rộng mà chưa đi vào
chiều sâu.
Thứ sáu, mạng lưới của các cơ quan đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài hoạt
động còn kém hiệu quả, chưa thực sự hỗ trợ tốt cho các cơ quan quản lý nhà nước và doanh
nghiệp, nông dân trong hoạt động xuất khẩu. Các chương trình xúc tiến thương mại còn nhỏ lẻ,
rời rạc, hiệu quả chưa cao.
Thứ bảy, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành nông nghiệp chưa cao, đặc biệt là
công nghiệp chế biến.
Thứ tám, cạnh tranh gay gắt diễn ra ở cả ba cấp độ: sản phẩm – sản phẩm, doanh nghiệp –
doanh nghiệp, chính phủ - chính phủ cả trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Thứ chín, chính sách của Nhà nước trong điều kiện khủng hoảng tài chính toàn cầu và
những hậu quả để lại của nó không được nhanh nhạy và chủ động khiến cho ngành nông nghiệp
bị ảnh hưởng lớn hơn: Giá cả nông sản lên xuống thất thường, nhu cầu tiêu dùng giảm mạnh, thị
trường trong nước và xuất khẩu bị thu hẹp, thiếu các đơn hàng mới. Giá một số yếu tố đầu vào
tăng làm cho chi phí sản xuất tăng lên,…
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIÊU THỤ NÔNG
SẢN VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CAM KẾT
VỚI TỔ CHỨC THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI
3.1. Bối cảnh mới ảnh hƣởng đến chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam
3.1.1. Triển vọng kinh tế thế giới và trong nước giai đoạn 2012 – 2020
- Kinh tế thế giới
Theo OECD, khối lượng GDP toàn cầu sẽ từ 32 nghìn tỷ USD tăng lên 42 nghìn tỷ USD
vào năm 2015 và 53 nghìn tỷ USD (theo giá năm 2000) vào năm 2020. Theo Hội đồng tình báo
quốc gia Mỹ (NIC) quy mô kinh tế thế giới sẽ tăng 80% so với năm 2000, thu nhập bình quân
đầu người của cả thế giới sẽ tăng hơn 50% (năm 2004, GDP bình quân đầu người toàn thế giới,
theo giá thực tế 6393 USD; theo sức mua tương đương 8760 USD, riêng 55 nước và vùng lãnh
thổ có thu nhập cao theo cách phân loại của Liên hợp quốc: 30970 USD, còn lại là 60 nước có
thu nhập thấp (trong đó có Việt Nam) là 2260 USD).
- Kinh tế Việt Nam
Giai đoạn từ nay đến 2020, mục tiêu cần hướng tới là: cơ cấu ngành nông, lâm, thủy sản:
Nông nghiệp 64,7%, lâm nghiệp 2%, thủy sản 33,3%; Tốc độ tăng trưởng GDP nông lâm thủy
sản bình quân từ 3,5 - 4%/năm; Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông lâm thủy sản 4,3 -
4,7%/năm; Kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản đạt 40 tỷ USD, trong đó nông nghiệp 22 tỷ
USD, lâm nghiệp 7 tỷ USD, thủy sản 11 tỷ USD; Giá trị sản lượng trên 1 ha đất sản xuất nông
nghiệp bình quân 70 triệu đồng;
3.1.2. Những xu hướng mới của thị trường nông sản
Xu hướng gia tăng nhu cầu nông sản và sự dịch chuyển tỷ trọng thương mại nông sản toàn
cầu sang các nước đang phát triển
Xu hướng gia tăng sự bất ổn của các yếu tố trên thị trường nông sản thế giới
Xu hướng tự do hóa thương mại nông sản gia tăng
Xu hướng gia tăng cạnh tranh trong thương mại nông sản và sự xuất hiện của các hình thức
rào cản thương mại mới
Xu hướng gia tăng FDI vào lĩnh vực sản xuất và tiêu thụ nông sản
Xu hướng tăng cường can thiệp vào sản xuất và thương mại nông sản
3.1.3. Xu hướng vận động của chuỗi giá trị nông sản toàn cầu
Gia tăng vai trò của nhà bán lẻ; Hợp nhất nhiều công đoạn từ sản xuất đến tiêu thụ nông
sản; Gia tăng của các tiêu chuẩn toàn cầu về nông sản; Gia tăng vai trò các nước đang phát triển
trong chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
3.2. Quan điểm hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá trình
thực hiện các cam kết với WTO
Việt Nam chính thức gia nhập WTO vào tháng 1/2012, hầu kết các cam kết mà phải thực
hiện trong vòng khoảng 7 năm, tức là đến năm 2014. Chính vì vậy, quan điểm và giải pháp đưa
ra phải nhằm: Một là, những chính sách đã thực hiện sau gia nhập WTO cần bổ sung chính sửa
cho phù hợp và có hiệu quả cao trong thực tế; Hai là, những cam kết còn thời hạn ở những năm
tiếp theo đến 2014 cần tiếp tục thực hiện theo đúng lộ trình đã cam kết.
3.2.1. Chính sách tiêu thụ nông sản phải vừa tuân thủ các cam kết với WTO, vừa bảo vệ
được lợi ích của đất nước
Hoàn thiện công tác quy hoạch và xác lập chiến lược phát triển nông sản xuất khẩu. Tham
gia WTO, sản xuất và tiêu thụ nông sản phải chịu sự chi phối của những quy định toàn cầu và thị
trường toàn cầu.
Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất và thương mại.
Tăng cường xúc tiến thương mại và dự báo thị trường. Nhà nước cần tăng cường công tác
đàm phán, xúc tiến thương mại, ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương để
mở đường cho nông sản Việt Nam thâm nhập thị trường nông sản thế giới, nhất là thị trường có
sức mua lớn.
Hoàn thiện hệ thống quy định VSATTP và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho nông sản. Nhà
nước cần có các chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào ngành giống để phát
triển sản xuất giống theo hướng CNH, HĐH.
3.2.2. Xây dựng chính sách tiêu thụ nông sản phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị
trường, xuất phát từ nhu cầu của thị trường
Quan điểm này đòi hỏi phải làm tốt công tác nghiên cứu nhu cầu thị trường và thị hiếu
khách hàng, từ đó xác định thị trường trọng điểm, dung lượng trao đổi và tính ổn định với những
mặt hàng có khả năng cạnh tranh cao, đem lại hiệu quả kinh tế lớn. Quyết định lựa chọn và định
hướng quy hoạch sản xuất một cách đồng bộ từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ phải căn cứ
vào nhu cầu thị trường, tránh quy hoạch một cách chủ quan, duy ý chí dựa vào những cái sẵn có,
những thứ ta có thể làm được, bởi trong kinh tế thị trường phải là sản xuất những cái mà thị
trường cần.
3.2.3. Đảm bảo hài hòa quan hệ lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động tiêu
thụ nông sản
Hoạt động tiêu thụ nông sản phải mang lại lợi ích hài hòa cho các chủ thể, bởi lẽ ở đây các
chủ thể hoạt động trên cơ sở lợi ích kinh tế và tuân theo các quy luật của thị trường. Như vậy,
các khâu từ sản xuất nguyên liệu, chế biến, tiêu thụ sản phẩm phải gắn kết chặt chẽ với nhau. Để
hạn chế những rủi ro và đảm bảo sự bền vững trong liên kết, rất cần có các quy định của Nhà
nước để bảo đảm quyền lợi cho các bên tham gia. Đồng thời có cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp,
nông dân đầu tư mạnh cho công nghệ sau thu hoạch, khâu bảo quản, chế biến để hạn chế thất
thoát, nâng cao giá trị nông sản.
3.2.4. Tăng cường năng lực tham gia của nông sản Việt Nam vào chuỗi giá trị nông sản
toàn cầu trong điều kiện hội nhập WTO
Tăng cường năng lực nhận thức và đổi mới tư duy trong hoạch định chính sách và quản trị
kinh doanh theo hướng chủ động tham gia chuỗi giá trị nông sản toàn cầu.
Tăng cường năng lực tham gia ở các khâu có lợi thế cạnh tranh và từng bước phát triển lợi
thế cạnh tranh bền vững
Tập trung có chọn lọc, tăng cường năng lực tham gia đối với một số hàng nông sản có khối
lượng và kim ngạch xuất khẩu lớn để xây dựng và phát triển một số chuỗi ngành hàng của quốc
gia.
3.2.5. Xây dựng, thực hiện và điều chỉnh chính sách phải đồng bộ, hài hòa với các
chính sách và các mục tiêu kinh tế xã hội khác
Trong điều kiện hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, những tác động từ bên ngoài
ngày càng lớn và nhanh hơn khiến cho can thiệp của Nhà nước càng phải đúng và trúng. Những
điều chỉnh chính sách càng quan trọng hơn khi mà sự thay đổi của kinh tế thị trường diễn ra
nhanh chóng, điều chỉnh một chính sách phải tính đến ảnh hưởng của nó đối với các chủ thể có
liên quan, mà ở đây đối tượng dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Ngoài ra, việc ban hành chính
sách cần thận trọng tính đến các chính sách có liên quan trực tiếp cũng như gián tiếp.
3.3. Giải pháp cơ bản hoàn thiện chính sách tiêu thụ nông sản Việt Nam trong quá
trình thực hiện các cam kết với WTO
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện mục tiêu của chính sách tiêu thụ nông sản
Để đạt được mục tiêu của chính sách tiêu thụ nông sản, cần có hệ thống giải pháp đồng bộ
tác động tổng thể trên nhiều khía cạnh liên quan đến tiêu thụ nông sản.
Hai là, phát triển thị trường và xúc tiến thương mại
Thực hiện tốt các cam kết với WTO về kiểm dịch động thực vật, đầu tư, dịch vụ; các Hiệp
định bảo vệ và kiểm dịch động thực vật, thú y đối với các nước nhập khẩu nông sản Việt Nam,
tạo điều kiện thực hiện quy hoạch phát triển sản xuất kể cả đầu vào và đầu ra. Xây dựng và tổ
chức thực hiện chương trình xúc tiến thương mại nông sản, giữ vững các thị trường lớn, truyền
thống và mở rộng các thị trường mới như: Đông Âu, Trung Đông, Hàn Quốc Hỗ trợ và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng thương hiệu và tiêu chuẩn chất lượng các sản phẩm
nông, lâm, thủy sản xuất khẩu chủ lực; đáp ứng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã và quy cách của
các nước nhập khẩu.
. 3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các chính sách bộ phận của chính sách tiêu thụ
nông sản trong quá trình thực hiện các cam kết với WTO
- Giải pháp hoàn thiện chính sách giá cả, sản lượng nông sản
Quy định giá sàn đối với thu mua nông sản. Khi được mùa, giá cả nông sản thường xuyên
giảm sút, ảnh hưởng đến đời sống của nông dân và quy mô sản xuất trong những năm tiếp theo.
Nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông sản và để giá sàn được thực hiện trên thực tế, Nhà
nước cần có hỗ trợ về tài chính đối với các công ty tài chính thu mua nông sản.
Chính phủ tăng cường chiến lược hỗ trợ cho nông dân dự trữ trong những lúc thu hoạch rộ
thì nông dân sẽ được lợi, và giá gạo trên thị trường quốc tế không giảm mạnh, như vậy sẽ giảm
bớt những bất lợi đối với việc xuất khẩu gạo của Việt Nam và sẽ gia tăng lợi ích cho nông dân.
Cần có chương trình hỗ trợ cho việc lập dự trữ ở các nông hộ, các công ty xuất khẩu, khắc phục
tính thời vụ trên thị trường thế giới thường xuyên gây bất lợi với gạo xuất khẩu của Việt Nam.
- Giải pháp hoàn thiện chính sách bảo quản, chế biến nông sản
Các doanh nghiệp cần phải có kho bảo quản đúng yêu cầu kỹ thuật để không ảnh hưởng
đến việc duy trì và nâng cao chất lượng nông sản. Cần nghiên cứu và phát triển công nghệ sau
thu hoạch, hướng vào nghiên cứu và phổ biến công nghệ, thiết bị bảo quản, đóng gói các loại
nông sản. Hoàn thiện công tác quy hoạch sản xuất, chế biến nông sản. Cần phải hoàn thiện công
tác quy hoạch theo hướng rà soát và điều chỉnh các quy hoạch hiện đã không phù hợp, xác định
rõ ngành sản phẩm có nhiều lợi thế so sánh để phát triển, gắn kết quy hoạch sản xuất, chế biến
với tiêu thụ trong và ngoài nước. Hình thành các vùng nông sản hàng hóa tập trung. Phải đẩy
mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn bởi lẽ nó là khu vực đang chiếm gần 80% dân số cả
nước và 70% lực lượng lao động xã hội. Muốn CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, việc tạo
ra nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa có quy mô lớn là rất cần thiết. Phát triển mạnh công
nghiệp chế biến nông sản cần quy hoạch xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung, quy mô lớn
theo định hướng xuất khẩu. Từ đó, tập trung đầu tư thâm canh và ứng dụng các thành tựu KHCN
mới để đáp ứng tốt nhu cầu chế biến xuất khẩu. Tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp chế
biến nông sản gắn với vùng nguyên liệu.
- Giải pháp hoàn thiện chính sách xúc tiến thương mại nông sản. Do tính riêng biệt về từng
loại sản phẩm nên việc đa dạng hóa sản phẩm và xúc tiến thương mại nông sản cho mỗi mặt
hàng khác nhau nên cần có những giải pháp riêng cho từng loại nông sản.
- Giải pháp hoàn thiện chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản
Thông qua hợp đồng tiêu thụ nông sản, bước đầu đã gắn trách nhiệm các doanh nghiệp với
người sản xuất; nông dân có điều kiện tiếp nhận hỗ trợ về đầu tư, các biện pháp kỹ thuật, giá cả
hợp lý, phấn khởi, yên tâm sản xuất, thu nhập từng bước được nâng cao; doanh nghiệp đã chủ
động được nguyên liệu mở rộng quy mô sản xuất, tăng cường năng lực cạnh tranh. Thông qua
mối liên kết 4 nhà, xây dựng và phát triển thương hiệu nông sản. Nhà nông đảm bảo quy trình
sản xuất, được hướng dẫn kỹ thuật canh tác qua các chương trình khuyến nông; Nhà nước có các
chương trình hỗ trợ thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển; Nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu
giống mới chất lượng cao và quy trình thực hiện sau quy hoạch một cách khoa học; Nhà doanh
nghiệp cam kết thực hiện hợp đồng bao tiêu sản phẩm với giá hợp lý cho nhà nông.
3.3.3. Nhóm giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách tiêu thụ
nông sản
- Tiếp tục bổ sung, tăng cường giám sát thực hiện chính sách nông nghiệp, thương mại
nông sản theo cam kết của Việt Nam khi gia nhập và đối chiếu các quy định của WTO.
- Giải pháp nhằm đổi mới tư duy trong tổ chức sản xuất kinh doanh nông sản trong điều
kiện đã gia nhập WTO. Đổi mới tư duy trong khâu quy hoạch, quản lý, sử dụng và tích tụ đất
nông nghiệp: Sửa đổi các chính sách về hạn điền, thuế đất nông nghiệp theo hướng mở rộng quy
mô diện tích để phát triển nông nghiệp theo hướng quy mô lớn, hiện đại. Đổi mới tư duy trong
chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn; phát triển nông nghiệp công nghệ cao và giá trị cao.
- Giải pháp gắn kết giữa thực hiện các cam kết quốc tế với bảo vệ lợi ích của các chủ thể
kinh tế VN. Nhà nước hỗ trợ cho nông dân phù hợp với các cam kết với WTO và các hiệp định
nông nghiệp khu vực, song phương; Nhà nước cần hỗ trợ tiêu chuẩn hóa nông sản theo tập quán
kinh doanh quốc tế; Nhà nước hỗ trợ việc đáp ứng quy định và tiêu chuẩn VSATTP và tiếp cận
hệ thống chứng chỉ quốc tế.
- Đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động tiêu thụ nông sản. Nhà
nước cần hỗ trợ hình thành và phát triển các liên kết trong chuỗi nông sản; Phân phối hài hòa lợi
ích cho các chủ thể trong chuỗi giá trị; Đổi mới hệ thống phân phối để gia tăng vị thế và lợi ích
kinh tế của nông dân.
- Tăng cường và nâng cao hiệu quả hoạt động của các hiệp hội. Xây dựng mô hình liên kết
hiệp hội; Phát triển các hình thức hoạt động hỗ trợ của hiệp hội đối với việc hoạch định, thực
hiện chính sách tiêu thụ nông sản;…
- Phối hợp chính sách tiêu thụ nông sản với các chính sách khác. Đẩy mạnh thu hút FDI
vào nông nghiệp; Tăng cường công tác xúc tiến thương mại nông sản, cung cấp thông tin thị
trường cho các chủ thể liên quan; Tăng cường xây dựng và phát triển thương hiệu cho nông sản
Việt Nam; Phát triển hoạt động nhượng quyền kinh doanh.
KẾT LUẬN
Thứ nhất, sự can thiệp của Nhà nước là đặc biệt quan trọng nhằm thúc đẩy tiêu thụ nông
sản trên thị trường nội địa cũng như xuất khẩu, đưa nông sản thâm nhập vào thị trường toàn cầu,
tăng khả năng cạnh tranh của nông sản, của doanh nghiệp kinh doanh và tăng vị thế của đất
nước. Đây là một chính sách lớn, trong đó bao gồm các chính sách bộ phận như: chính sách giá
cả, sản lượng nông sản; chính sách bảo quản, chế biến nông sản; chính sách xúc tiến thương mại
nông sản; chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản,… Bên cạnh đó, qua nghiên cứu
chính sách tiêu thụ nông sản của Trung Quốc và Thái Lan, rút ra những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam trong việc hoạch định, thực thi và điều chỉnh chính sách tiêu thụ nông sản trong quá
trình thực hiện các cam kết với WTO.
Thứ hai, phân tích thực trạng tiêu thụ nông sản và đánh giá chính sách tiêu thụ nông sản
Việt Nam trước và sau 6 năm gia nhập WTO, chỉ ra thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của hạn