Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Thực trạng và đánh giá khái quát tổ chức hạch toán kế toán về xí nghiệp trang trí bề mặt trung văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.44 KB, 54 trang )

LỜI MỞ ĐẦU

Nằm trong chương trình đào tạo của Trường Đại học Kinh tế quốc dân,
khoa Kế toán - Kiểm toán tổ chức khoá thực tập cho sinh viên năm cuối
chuyên ngành Kế toán tổng hợp, quá trình thực tập là cơ hội để sinh viên tiếp
xúc với hoạt động kế toán trên thực tế để từ đó kiểm chứng, bổ trợ và nâng cao
phần kiến thức đã được học là một bước đệm giúp sinh viên có thêm nhiều
hiểu biết và kinh nghiệm khi tốt nghiệp và ra trường tìm kiếm việc làm. Quá
trình thực tập tốt nghiệp được chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn thực tập tổng hợp
Giai đoạn 2: Giai đoạn thực tập chuyên đề
Trong giai đoạn thực tâp tổng hợp tại Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn
với quá trình tìm hiểu và thu thập thông tin về cơ sở thực tập là những tiền đề
để em hoàn thành bản Báo cáo thực tập tổng hợp sau. Kết cấu bản Báo cáo này
gồm 3 phần:
Phần I: Những vấn đề chung về Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn
Phần II: Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán tại Xí nghiệp trang trí bề
mặt Trung Văn
Phần III: Đánh giá khái quát tổ chức hạch toán kế toán tại Xí nghiệp trang
trí bề mặt Trung Văn
Bản báo cáo của em được trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của thầy giáo hướng dẫn và của
các anh chị tại cơ sở thực tập để bản Báo cáo của em được hoàn thiện hơn. Em
xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của thầy giáo hướng dẫn TS.Trần Quý
Liên cùng ban lãnh đạo và phòng Tài chính - Kế toán xí nghiệp đã giúp đỡ, tạo
điều kiện cho em trong quá trình thực tập và hoàn thành bản Báo cáo này.



PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÍ NGHIỆP
TRANG TRÍ BỀ MẶT TRUNG VĂN


I.1. Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp trang trí bề mặt
Trung Văn
Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn là một đơn vị hạch toán phụ thuộc và
chịu sự quản lý của Công ty chế biến Ván nhân tạo thuộc Liên hiệp khoa học sản
xuất, thiết kế và xây dựng công trình lâm nghiệp- Bộ lâm nghiệp. Năm 1995 sau khi
quyết định hợp nhất ký ngày 31/8 thành lập công ty chế biến Ván nhân tạo có hiệu
lực, ngày 5/9 Tổng giám đốc liên hiệp khoa học sản xuất, thiết kế và xây dựng công
trình lâm nghiệp ký quyết định thành lập Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn, trụ
sở của xí nghiệp đặt tại xã Trung Văn - Từ Liêm – Hà Nội.
Trong quá trình hoạt động tính đến nay Xí nghiệp đã có hai lần chuyển địa điểm
nhằm thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh, năm 1998 xí nghiệp chuyển về Giáp
Bát và đến năm 2004 trụ sở của xí nghiệp đạt tại Thị trấn Văn Điển – Thanh Trì –
Hà Nội nằm trong khuôn viên Công ty chế biến Ván nhân tạo nhằm thuận tiện cho
quá trình quản lý và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Quy mô của xí
nghiệp bao gồm trụ sở của xí nghiệp đặt tại thị trấn Văn Điển – Thanh Trì – Hà Nội
là nơi tổ chức các hoạt động sản xuất, điều hành các hoạt động sản xuất và Cửa
hàng giới thiệu sản phẩm, đây là nơi giới thiệu và bán các sản phẩm của xí nghiệp.
Là một xí nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất các mặt hàng ván nhân tạo,
nội thất văn phòng và gia đình theo hình thức sở hữu nhà nước nhưng xí nghiệp đã
không ngừng cố gắng vươn lên tổ chức các hoạt động sản xuất giống như một
doanh nghiệp độc lập, không những sử dụng hợp lý nguồn kinh phí được cấp hàng
năm còn tạo được số lợi nhuận khá lớn. Qua nhiều năm hoạt động xí nghiệp đã
không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, tăng gia sản xuất đưa quy mô xí nghiệp
ngày càng mở rộng và lớn mạnh. Các sản phẩm của xí nghiệp ngày càng tăng cả về
số lượng, chủng loại, chất lượng, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm góp phần tăng
doanh thu, tăng lợi nhuận, mở rộng thị phần hàng hoá sản phẩm của xí nghiệp trên
thị trường và ngày càng có nhiều người biết đến sản phẩm của xí nghiệp.
Bước sang năm 2007 Công ty chế biến ván nhân tạo tiến hành cổ phần hoá do
đó Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn là một đơn vị trực thuộc cũng trực thuộc
cũng được cổ phần hoá, thay đổi này sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động sản

xuất kinh doanh của xí nghiệp từ quản lý đến tổ chức sản xuất. Với sự nỗ lực cố
gắng của toàn thể cán bộ công nhân xí nghiệp hy vọng sẽ đưa xí nghiệp ngày càng
tiến nhanh, tiến mạnh và vững chắc đứng vững trong nền kinh tế thị trường hiện
nay.
I.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh
Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn là doanh nghiệp nhà nước trực thuộc
Công ty chế biến Ván nhân tạo hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh các
mặt hàng ván nhân tạo, nội thất văn phòng và gia đình, có hình thức sở hữu vốn là
sở hữu nhà nước hạch toán phụ thuộc Công ty chế biến Ván nhân tạo và vốn sản
xuất kinh doanh do công ty cấp.Các sản phẩm sản xuất của xí nghiệp thường theo
kế hoạch của công ty giao và theo đơn đặt hàng của khách. Bên cạnh chức năng sản
xuất, xí nghiệp còn có chức năng tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu thị trường để đáp
ứng ngày càng tăng doanh thu từ đó tăng lợi nhuận mở rộng quy mô cho xí nghiệp.
Về tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh, xí nghiệp gồm hai phân xưởng: Phân
xưởng ép và phân xưởng mộc. Các sản phẩm được tạo ra từ hai phân xưỡng này bao
gồm:
- Các sản phẩm về ván nhân tạo bao gồm: Ván ép ti tan, ván ép pơ mu, Ván lạng
pơ mu phủ bóng, ván dán, ván sợi ép gỗ, ván sợi ép giấy màng, ván sợi ép ti tan, gỗ
dán, gỗ ép dổi,… các loại với nhiều kích thước, màu sắc khác nhau tuỳ theo yêu cầu
và đơn đặt hàng của khách hàng.
- Các sản phẩm về nội thất văn phòng và gia đình bao gồm:
+ Văn phòng: Bàn làm việc, bàn vi tính, bàn góc, bàn họp tròn, bàn hội thảo,
bàn quầy tủ sách,… các loại với nhiều hình dáng, kích thước, màu sắc khác nhau.
+ Gia đình: Tủ đầu giường, tủ Tivi, tủ áo, tủ bếp, tủ tường, tủ đơn chiếc, tủ góc,
… các loại.
Về quy mô hoạt động của xí nghiệp: Ở quy mô xí nghiệp thì xí nghiệp trang trí bề
mặt Trung Văn có quy mô hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngay từ khi
thành lập xí nghiệp được cấp số vốn kinh doanh từ trên công ty và tự tổ chức hoạt
động sản xuất kinh doanh thực hiện hạch toán độc lập, có kế hoạch chi tiêu hợp lý
và tự nghiên cứu tìm hiểu, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng doanh

thu trang trải khoản chi phí phát sinh và tạo ra lợi nhuận cho xí nghiệp và hàng năm
xí nghiệp phải nộp một khoản phí về cấp trên theo quy định gọi là khoản trích đài
thọ phí nộp về công ty. Trích số liệu đầu năm 2006 ta thấy: (đơn vị tính: đồng)
- Tài sản: Tổng Tài sản: 9.733.614.642
+ Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: 3.748.654.002
+ Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: 6.024.960.640
- Nguồn vốn: Tổng nguồn vốn: 9.733.614.642
+ Nợ phải trả: 17.938.222.907
Trong đó: Phải trả cho các đơn vị nội bộ: 15.843.766.426
+ Nguồn vốn chủ sở hữu: - 8.164.608.265
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2006)
Chú thích: Nguồn vốn chủ sở hữu < 0 là do số vốn này được công ty cấp ngay từ
khi mới thành lập để tiến hành hoạt động kinh doanh, do đó được ghi giảm nguồn
vốn chủ sở hữu và ghi tăng số nợ phải trả của xí nghiệp.
Về lao động trong xí nghiệp: Tổng số cán bộ công nhân viên trong xí nghiệp là 42
người, trong đó:
- Lao động gián tiếp 12 người, trong đó nhân viên quản lý 5 người
- Lao động trực tiếp 30người (công nhân)
- Lao động ổn định 38 nguời
- Lao động thời vụ 4 người
Về cơ sở vật chất kỹ thuật, xí nghiệp có quy mô hoạt động bao gồm trụ sở xí
nghiệp nơi đặt các phòng ban chức năng, các phân xưởng sản xuất và cửa hàng giới
thiệu sản phẩm là nơi giới thiệu, giao dịch và bán các sản phẩm của xí nghiệp. Các
TSCĐ của xí nghiệp bao gồm nhà xưởng và các máy móc thiết bị sử dụng trong sản
xuất ở các phân xưởng như dàn máy ép, tấm đệm ép, máy tráng keo, máy khâu gỗ
lạng, máy dán cạnh, dàn máy mộc, máy nén khí, máy cưa đĩa,… có giá trị lớn. Tuy
những cơ sở vật chất kỹ thuật của xí nghiệp ban đầu là do công ty cấp và đầu tư
nhưng qua quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh xí nghiệp đã từng
bước đi lên sử dụng hợp lý cơ sở vật chất kỹ thuật vốn có và mở rộng trang bị thêm
một số máy móc thiết bị sản xuất hiện đại cho các phân xưởng.

Về thị trường kinh doanh của xí nghiệp, tính đến thời điểm hiện nay xí nghiệp
cung cấp những mặt hàng về ván nhân tạo trang trí bề mặt, nội thất văn phòng và
gia đình trên thị trường nội địa. Và trong tương lai xí nghiệp sẽ đổi mới, mở rộng
mặt hàng và hướng ra xuất khẩu mở rộng thị phần ra ngoài nước, đó cũng là xu
hướng chung của các doanh nghiệp trong nước hiện nay khi Việt Nam đã tham gia
Tổ chức thương mại quốc tế - WTO.Những năm gần đây, các mặt hàng về nội thất
văn phòng và gia đình có những thay đổi đáng kể, không chỉ là những sản phẩm
chất lượng tốt mà còn phải có mẫu mã, chủng loại phong phú, đẹp và tiện nghi.
Nắm bắt được nhu cầu thị trường, xí nghiệp đã không ngường cải tiến quy trình sản
xuất, thiết kế và cho ra những sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, phong phú về
chủng loại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của thị trường và làm hài lòng người tiêu
dùng do đó thị trường tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp không ngừng mở rộng, sản
phẩm của xí nghiệp dần có chỗ đứng trên thị trường và dần trở thành những vật
dụng quen thuộc của mỗi gia đình và văn phòng.
I.3. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất kinh doanh
Hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp được tổ chức thành hai phân
xưởng sản xuất bao gồm: Phân xưởng ép và phân xưởng mộc. Hai phân xưởng này
được vận hành với quy trình công nghệ sản xuất khác nhau cụ thể như sau:
I.3.1. Phân xưởng ép
Nguyên vật liệu chính của phân xưởng này là các loại ván nhập ngoại và phụ
kiện nhập ngoại. Các loại ván như ván dăm, ván sợi, ván 18 ly đánh bóng, ván ghép,
ván chi phí thô, ván cốt pha ép gỗ bóc, … Các loại giấy trang trí bề mặt như giấy
titan các mầu, poliete, các loại gỗ như gỗ lạng dổi, gỗ lạng tếch,…
Ở khâu đầu tiên của quá trình sản xuất, các loại gỗ lạng dổi với chiều dài
0.4mm, độ rộng 20cm được đưa qua máy khâu để ghép chúng lại với nhau. Sau đó
vận chuyển trên băng chuyền tổ ép, rồi được phủ lên bề mặt của ván dăm đã tráng
keo. Việc ép gỗ lạng dổi trên bề mặt ván dăm đã tráng keo tạo cho ván có một lớp
mặt trông như gỗ tự nhiên. Việc ép các loại giấy tráng phủ bề mặt như giấy tráng
phủ Titan cũng đựơc thực hiện tương tự như việc ép ván lạng dổi chỉ khác là không
phải qua giai đoạn khâu ván. Ván được ép xong sẽ được chuyển xuống tổ vệ sinh

công nghiệp để làm sạch sản phẩm và cắt bỏ những phần ván, giấy ép bị thừa ra
ngoài.
I.3.2. Tại phân xưởng mộc
Nguyên vật liệu chính của phân xưởng mộc là các loại ván được chuyển từ phân
xưởng ép sang hoặc mua trực tiếp từ bên ngoài.
Nguyên vật liệu được chuyển xuống tổ cắt pha để thực hiện khâu đầu tiên của
quá trình sản xuất, các loại ván được cắt theo các kích cỡ trên bản vẽ đã được thiết
kế sẵn từ trước. Sau đó sẽ được chuyển sang tổ dán cạnh để thực hiện việc dán các
mép gỗ đã được cắt. Tiếp theo các bán thành phẩm này được chuyển qua tổ khoan,
lắp ráp để lắp ghép thành sản phẩm. Cuối cùng, được chuyển qua tổ bả chít để làm
vệ sinh sản phẩm.
Dưới đây là sơ đồ quy trình sản xuất tại hai phân xưởng:
Sơ đồ 1: Sơ đồ quy trình xưởng ép
Nguyên vật liệu
(Ván lạng
dổi)
Nguyên vật liệu
(Ván lạng dổi)
Tổ khâu ván
lạng
Tổ bốc xếp, vận
chuyển ván lên
băng chuyền
Tổ ép
Nguyên vật liệu
(Ván dăm)
Tổ vệ sinh
công nghiệp
Thành
phẩm

Sơ đồ 2: Sơ đồ quy trình xưởng mộc
I.4. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh của xí nghiệp
Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn tổ chức bộ máy quản lý theo mô hình
“chức năng trực tuyến”. Đây là kiểu quản lý hỗn hợp nên đã khắc phục được phần
lớn những nhược điểm của mô hình quản lý kiểu “chức năng” (quyền lực không tập
Nguyên vật liệu

(gỗ, ván)
Tổ cắt pha
Tổ dán cạnh
Tổ khoan, lắp
ráp
Tổ bả chít
Thành phẩm
trung vào một người do đó dẫn đến tình trạng không ai chịu trách nhiệm trước một
công việc cụ thể) đồng thời cũng khắc phục được nhược điểm của mô hình quản lý
“trực tuyến” (tình trạng quan liêu không dân chủ, mọi quyết định đều chỉ phụ thuộc
vào quyết định của giám đốc). Tổ chức bộ máy quản lý hoạt động kinh doanh theo
kiểu “chức năng trực tuyến” có nghĩa là các phòng ban có nhiệm vụ tham mưu cho
giám đốc và được phép ra một số các quyết định thuộc phạm vi chức năng, chuyên
môn của phòng ban mình. Những quyết định lớn ảnh hưởng đến trực tiếp đến sự
phát triển của xí nghiệp đều phải do giám đốc quyết định.
Cơ cấu tổ chức quản lý của xí nghiệp được sắp xếp một cách hợp lý nhằm tạo
ra hiệu quả tốt nhất trong công tác điều hành, quản lý. Có thể khái quát mô hình tổ
chức quản lý của xí nghiệp như sau:
Sơ đồ 3: Tổ chức bộ máy quản lý của xí nghiệp
Trong sơ đồ tổ chức trên ta có thể giải thích như sau:
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng


kinh
doanh
Phòng
kỹ
thuật
Phòng
Tài chính
kế toán
Các
phân
xưởng
- Giám đốc: Là người đứng đầu bộ máy quản lý của xí nghiệp, thay mặt xí nghiệp
chịu trách nhiệm trước công ty và các cơ quan chức năng về toàn bộ hoạt động của
xí nghiệp. Là người có quyết định cao nhất trong xí nghiệp, chỉ huy quản lý tất cả
các bộ phận của xí nghiệp. Các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến xí nghiệp đều
phải thông qua giám đốc hoặc do giám đốc trực tiếp ra quyết định.
- Phó giám đốc: Là người có vị trí cao thứ hai trong xí nghiệp, chịu sự điều hành
trực tiếp của giám đốc và hỗ trợ cho giám đốc trong việc thực hiện công tác quản lý
xí nghiệp. Phó giám đốc cũng là người quản lý trực tiếp hoạt động của các phòng
ban chức năng trong xí nghiệp và chịu trách nhiệm trước giám đốc về các quyết
định của mình đối với xí nghiệp. Các quyết định mà phó giám đốc đưa ra phải phù
hợp với mục tiêu trung của xí nghiệp, đối với các quyết định quan trọng nhất thiết
phải thông qua giám đốc xí nghiệp thì mới ra quyết định.
- Phòng Tài chính - Kế toán: Là phòng ban chức năng thực hiện nhiệm vụ ghi chép
và phản ánh toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh của doanh nghiệp thông qua
công tác hạch toán kế toán và thực hiện nhiệm vụ giao dịch với khách hàng để mua
các nguyên vật liệu đầu vào cần thiết cho hoạt động sản xuất, bán các sản phẩm đầu
ra của xí nghiệp. Đồng thời có nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra và kiểm soát các chi phí
đã phát sinh trong quá trình sản xuất, quản lý tại xí nghiệp và còn kiêm luôn nhiệm

vụ quản lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân sự trong xí nghiệp.
- Phòng kinh doanh: Là phòng ban chức năng có nhiệm vụ nghiên cứu, tìm hiểu nhu
cầu thị trường, liên hệ tìm kiếm khách hàng để ký kết hợp đồng bao gồm cả hợp
đồng mua và hợp đồng bán.
- Phòng kỹ thuật: Là phòng ban chức năng có nhịêm vụ nghiên cứu, triển khai đưa
tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, lập định mức tổ chức kỹ thuật. Đồng thời
phòng kỹ thuật cũng có nhiệm vụ thiết kế sản phẩm và giám sát, kiểm tra các khâu
trong quy trình sản xuất thực hiện theo đúng yêu cầu về chỉ tiêu kỹ thuật của sản
phẩm.
- Các phân xưởng: Bao gồm phân xưởng mộc và phân xưởng ép có nhiệm vụ thực
hiện các hoạt động sản xuất sản phẩm của xí nghiệp, các phân xưởng cũng được tổ
chức bộ máy quản lý riêng. Tại phân xưởng ép đứng đầu là quản đốc, phó quản đốc
sau đó đến các công nhân trong phân xưởng trong đó quản đốc là người trực tiếp
kiểm tra, giám sát, đôn đốc các công nhân trong quá trình làm việc, còn phó quản
đốc là người giúp quản đốc trong công tác quản lý công nhân trong phân xưởng còn
ở phân xưởng mộc có có tổ trưởng là người trực tiếp quản lý các công nhân trong
phân xưởng.
I.5. Những thành tích đã đạt được và một số mặt còn tồn tại trong quá trình
phát triển của Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn
Đến năm 2007, xí nghiệp đã đi vào hoạt động được 12 năm và từ những bước đi
ban đầu sản phẩm của xí nghiệp đã dần tạo được chỗ đứng trên thị trường. Xí
nghiệp đã khai thác được một số hợp đồng có giá trị, các khách hàng truyền thống
ngày càng tin tưởng vào sản phẩm của xí nghiệp và xí nghiệp đã trúng thầu đựơc
những công trình lớn như TODA< cung cấp sản phẩm về nội thất văn phòng cho
thư viện trường Đại học kinh tế quốc dân, nhà ga T1 Nội Bài, trung tâm thương mại
Tràng Tiền và nhiều hợp đồng có giá trị lớn khác.
Dưới đây là một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của xí nghiệp:
Biểu số 01:
Chỉ tiêu 2004 2005 2006

Doanh thu tiêu thụ 5.132.486.638 5.439.872.998 5.777.685.034
Nộp ngân sách 321.498.630 342.373.777 350.560.007
Thu nhập BQ 1
CN.1tháng/năm
1.070.000 1.322.000 1.466.000
Lợi nhuận thuần từ
hoạt động KD
195.366.425 228.354.492 280.184.465
Nhìn vào những số liệu trình bày ở trên ta phân tích khái quát như sau:
Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ các mặt hàng của xí nghiệp không ngừng tăng qua
các năm, năm 2005 doanh thu tăng 6% so với năm 2004 và năm 2006 tăng 6,2% so
với năm 2005, như vậy tốc độ tăng của chỉ tiêu doanh thu là khá ổn định qua các
năm vừa qua.
Về chỉ tiêu nộp ngân sách, chỉ tiêu này cũng tăng qua các năm, khoản nộp về
ngân sách này chiếm chủ yếu là khoản thuế GTGT phải nộp của hàng bán nội địa,
năm 2005 số nộp ngân sách tăng 6,5% so với năm 2004 và năm 2006 tăng 2,4%.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân 1 công nhân 1 tháng tính trong 1 năm tăng, năm
2005 tăng 23,55% và năm 2006 tăng 10,89%, chỉ tiêu này tăng là một dấu hiệu tốt
giúp công nhân sản xuất nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống.
Chỉ tiêu lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh biến động và có xu hướng tăng
qua các năm chứng tỏ xí nghiệp đang trên đà phát triển và ngày càng đem lại nhiều
lợi nhuận cho xí nghiệp. Năm 2005, lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh tăng
17% so với 2004 và năm 2006 chỉ tiêu này tăng 22,7% so với năm 2005 cho thấy
hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp ngày càng hiệu quả.
Bên cạnh những thuận lợi kể trên xí nghiệp còn gặp phải một số khó khăn như:
Thị trường ngày càng xuất hiện nhiều loại sản phẩm mới, sản phẩm hàng mộc đang
bị cạnh tranh gay gắt. Mặt khác số vốn lưu động luôn ở tình trạng thiếu lại luôn bị
khách hàng chiếm dụng nhiều nên gặp nhiều khó khăn trong công tác huy động vốn
khi cần thiết, khoản phải trả người bán hàng năm khá lớn chứng tỏ xí nghiệp đi
chiếm dụng vốn của đơn vị khác để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh. Do

thiếu vốn, nguyên vật liệu không được nhập trực tiếp từ nước ngoài mà chủ yếu đi
mua lại của công ty trong nước nên nhiều lúc không chủ động được trong sản xuất.
Để khắc phục những khó khăn hiện nay xí nghiệp phải nâng cao năng suất chất
lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã, đầu tư cải tạo máy móc thiết bị. Đồng thời cũng
cần phải có sự nỗ lực cố gắng trong lao động sản xuất của tập thể cán bộ công nhân
viên trong xí nghiệp từng bước đưa xí nghiệp bảo toàn và phát triển vốn được giao,
hoành thành nghĩa vụ với cấp trên và với ngân sách nhà nước.
PHẦN II: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HẠCH TOÁN KẾ
TOÁN TẠI XÍ NGHIỆP TRANG TRÍ BỀ MẶT TRUNG VĂN
II.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy kế toán xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn
II.1.1. Tổ chức bộ máy kế toán
Xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn là đơn vị hạch toán phụ thuộc công ty chế
biến Ván nhân tạo nhưng thực hiện chế độ hạch toán kế toán độc lập nên nó có đầy
đủ các giai đoạn của quá trình hạch toán từ khâu lập chứng từ, ghi sổ kế toán đến
khâu cuối cùng là lập hệ thống báo cáo kế toán.
Bộ máy kế toán của xí nghiệp được tổ chức theo hình thức tập trung. Toàn bộ
công việc hạch toán kế toán được tập trung ở phòng Tài chính - Kế toán của xí
nghiệp và đặc biệt có sự phân công công việc đối với từng nhân viên trong phòng
kế toán nên tránh được những sự chồng chéo trong công việc giữa các nhân viên
trong phòng kế toán.
Phòng kế toán có nhiệm vụ thực hiện ghi chép và phản ánh toàn bộ các nghiệp
vụ kinh tế phát sinh tại xí nghiệp, tổ chức hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện toàn
bộ công tác thu thập và xử lý thông tin kế toán ban đầu, thực hiện đầy đủ các chế độ
ghi chép ban đầu. Đồng thời có nhiệm vụ lập các báo cáo kế toán theo yêu cầu phục
vụ cho công tác quản trị nội bộ tại xí nghiệp và các báo cáo tài chính vào cuối quý,
cuối năm theo quy định của Bộ Tài Chính, lên báo cáo thuế và thực hiện nghĩa vụ
nộp thuế đầy đủ theo yêu cầu của cơ quan Thuế. Cuối tháng, quý và cuối năm
phòng kế toán phải có nhiệm vụ tổng hợp các số liệu phát sinh và lên báo cáo kế
toán cần thiết để báo cáo và nộp số liệu lên phòng Kế toán trên công ty chế biến
Ván nhân tạo. Mặt khác, xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn là một doanh nghiệp

nhà nước, vốn sản xuất kinh doanh do công ty cấp do đó phòng Tài chính - Kế toán
còn có nhiệm vụ chi tiêu số kinh phí được cấp hàng năm một cách hợp lý và hiệu
quả.
Phòng Tài chính - Kế toán của xí nghiệp chịu sự quản lý trực tiếp của giám đốc
của xí nghiệp và có nhiệm vụ cung cấp số liệu cho kế toán trên công ty. Công tác kế
toán tại xí nghiệp được thực hiện bởi 5 người với tổ chức bộ máy kế toán như sau:
Sơ đồ 4: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY KẾ TOÁN XÍ NGHIỆP
II.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong bộ máy kế toán xí nghiệp
Mỗi bộ phận trong bộ máy kế toán của xí nghiệp có những chức năng và nhiệm
vụ riêng với sự phân công lao động kế toán trong bộ máy kế toán. Căn cứ vào sơ đồ
kế toán ở trên ta có thể khái quát chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận kế toán
như sau:
- Kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp: Là người quản lý cao nhất trong phòng
kế toán, có nhiệm vụ tổ chức công tác kế toán theo quy định của Bộ Tài Chính và
quản lý, điều hành các hoạt động trong phòng kế toán. Tổng hợp số liệu phát sinh,
lập các báo cáo kế toán phản ánh một cách chính xác, trung thực kịp thời số liệu,
trích nộp đầy đủ các khoản phải nộp cấp trên và công ty, thanh toán đúng hạn các
khoản tiền vay, các khoản công nợ phải thu, phải trả theo quy định của công ty, của
nhà nước. Đồng thời phải lập các báo cáo kế toán, thống kê và quyết toán xí nghiệp
về công ty theo quy định, và theo yêu cầu, lập các báo cáo cung cấp số liệu phục vụ
cho công tác quản lý và quản trị nội bộ trong xí nghiệp. Kế toán trưởng phải chịu
KẾ TOÁN TRƯỞNG
Kế toán
tập hợp
chi phí,
tính giá
thành sản
phẩm
Kế toán
NVL,

CCDC,
thành
phẩm và
tiêu thụ
thành
phẩm
Kế toán
tiền lương.
TSCĐ,
thanh toán
Thủ quỹ
trách nhiệm trước giám đốc xí nghiệp, công ty và nhà nước về công tác hạch toán
kế toán của xí nghiệp.
- Kế toán nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ và tiêu thụ sản phẩm: Có nhiệm vụ
theo dõi và ghi chép việc nhập xuất vật tư, công cụ, dụng cụ, theo dõi việc nhập
kho, xuất kho và tiêu thụ thành phẩm, lập các báo cáo liên quan đến vật tư như bảng
tổng hợp nhập - xuất - tồn, …Đồng thời có nhiệm vụ cung cấp và chuyển số liệu
theo yêu cầu của kế toán tổng hợp.
- Kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành sản phẩm: Có nhiệm vụ theo dõi các chi
phí sản xuất chính, sản xuất phụ và tính giá thành của từng loại sản phẩm hoàn
thành trong xí nghiệp. Đồng thời có nhiệm vụ ghi chép và tập hợp các chi phí ngoài
sản xuất phát sinh để chuyển số liệu cho kế toán tổng hợp xác định kết quả kinh
doanh của xí nghiệp.
- Kế toán tiền lương, tài sản cố định (TSCĐ), thanh toán: Có nhiệm vụ theo dõi và
tính ra tiền lương và các khoản trích theo lương của từng cán bộ công nhân viên,
theo dõi tình hình biến động tăng, giảm của TSCĐ và trích khấu hao TSCĐ theo
quy định. Đồng thời theo dõi và phản ánh tình hình thu chi tiền mặt, tiền gửi, tiền
vay và công nợ phải thu, phải trả đối với từng khách hàng của xí nghiệp, tổng hơp
số liệu chuyển cho kế toán tổng hợp.
- Thủ kho kiêm thủ quỹ: Là người thực hiện các công việc liên quan đến thu chi

tiền mặt và chịu trách nhiệm về quỹ tiền mặt của xí nghiệp. Đồng thời theo dõi và
quản lý các khoản nhập, xuất vật tư trong kho. Cuối kì phải thực hiện kiểm kê quỹ
tiền mặt và kiểm kê vật tư trong kho từ đó lập biên bản kiểm kê quỹ, biên bản kiểm
kê kho vật tư để chuyển số liệu cho kế toán tổng hợp
II.1.3. Mối quan hệ giữa các bộ phận kế toán
Trong bộ máy kế toán có sự phân công công việc kế toán đối với từng nhân viên
trong phòng kế toán và kế toán của từng bộ phận phải có trách nhiệm hoàn thành tốt
công việc được giao. Mỗi bộ phận kế toán đảm nhiệm phần hành kế toán khác nhau
nhưng các bộ phận kế toán trong xí nghiệp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và
quan hệ giữa các bộ phận này là quan hệ cung cấp số liệu. Mỗi bộ phận có chức
năng và nhiệm vụ khác nhau nhưng các số liệu kế toán có liên quan đến nhau do đó
kế toán của mỗi bộ phận có nhiệm vụ chuyển số liệu hỗ trợ cho bộ phận kế toán
khác hoàn thành nhiệm vụ được giao. Kế toán trưởng kiêm kế toán tổng hợp có
nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và đôn đốc kế toán của từng bộ phận hoàn thành công
việc của mình và kế toán của mỗi bộ phận có nhiệm vụ chuyển số liệu cho kế toán
tổng hợp giúp kế toán tổng hợp thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ của mình.
II.1.4. Liên hệ giữa tổ chức bộ máy kế toán với bộ máy quản lý chung của xí
nghiệp
Bộ máy quản lý của xí nghiệp trang trí bề mặt Trung Văn được tổ chức theo
hình thức tập trung gồm nhiều phòng ban khác nhau. Các phòng ban trong xí nghiệp
đảm nhiệm chức năng, nhiệm vụ riêng biệt và cùng chịu sự quản lý trực tiếp của
giám đốc xí nghiệp, mỗi phòng ban phải chịu trách nhiệm trước giám đốc về hoạt
động của mình do đó không có sự chồng chéo về nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi
phòng ban. Bộ máy kế toán của xí nghiệp cũng được tổ chức theo hình thức tập
trung bao gồm nhiều bộ phận và có sự phân công thực hiện công tác kế toán giữa
các bộ phận kế toán của xí nghiệp. Các bộ phận này có quan hệ chặt chẽ với nhau
và cung cấp số liệu cho nhau, hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện công việc kế
toán của bộ phận nhau đồng thời chịu sự quản lý thống nhất của kế toán trưởng.
Như vậy tổ chức bộ máy kế toán của xí nghiệp gần giống với tổ chức bộ máy quản
lý chung của xí nghiệp nhưng do các số liệu kế toán có liên quan chặt chẽ với nhau

nên quan hệ cung cấp số liệu giữa các bộ phận kế toán là không thể thiếu.
II.2. Tổ chức công tác kế toán tại xí nghiệp
II.2.1. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán tại xí nghiệp
Công tác hạch toán kế toán tại xí nghiệp được thực hiện bằng máy đồng thời
áp dụng kế toán thủ công. Việc lập các chứng từ phản ánh các nghiệp vụ kinh tế
phát sinh được kế toán thực hiện bằng thủ công sau đó trên cơ sở các chứng từ được
lập một cách hợp lệ kế toán tiến hành nhập số liệu vào phần mềm kế toán trên máy
vi tính tương ứng với từng phân hệ kế toán cụ thể theo quan hệ đối ứng tài khoản.
Máy tính được lập trình sẽ tự động chuyển số liệu kế toán vào các Sổ chi tiết và sổ
Cái các tài khoản có liên quan. Cuối mỗi kỳ kế toán chương trình sẽ tự động tổng
hợp số liệu trên các sổ Cái và lập bảng cân đối số phát sinh và căn cứ vào số liệu
trên các sổ chi tiết để lập bảng tổng hợp chi tiết từ đó lập các Báo cáo tài chính theo
yêu cầu với chu trình đã được lập trình sẵn đối với phần mềm kế toán.
Doanh nghiệp bắt đầu áp dụng kế toán máy trong công tác hạch toán kế toán từ
năm 2001, tên của phần mềm kế toán này là Hệ chương trình Tài chính kế toán
TCKT 2001 của ACS Software. Đây là phần mềm kế toán áp dụng cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ nhằm mục đích giúp các doanh nghiệp thực hiện chức năng
quản lý tài chính của mình một cách tổng thể trên tất cả các phương diện của hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Sơ đồ áp dụng kế toán máy trong công tác hạch toán kế toán như sau:
Sơ đồ 5: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán trên máy vi tính
Đối với phần mềm kế toán này có đặc điểm là được xây dựng để sử dụng trên
môi trường mạng đa người dùng và cho phép số người truy nhập gần như không
hạn chế. đồng thời được xây dựng trên một cơ sở bảo mật và an toàn thông tin tuyêt
đối. Người sử dụng được phép truy cập hệ thống với những quyền truy cập khác
nhau và chỉ được phép khai thác và cập nhật thông tin theo đúng quyền hạn được
cấp của mình. Phần mềm này có giao diện đồ hoạ với phông chữ tiếng việt chuẩn
Chứng từ kế toán
Bảng tổng hợp
chứng từ kế toán

cùng loại
PHẦN MỀM
KẾ TOÁN
Sổ kế toán
Sổ tổng hợp
Sổ chi tiết
- Báo cáo tài chính
- Báo cáo kế toán
quản trị
Ghi chú:
Nhập số liệu hàng ngày
In sổ, báo cáo cuối tháng, cuối năm
Đối chiếu, kiểm tra
ABC tạo điều kiện thuận lợi cho người sử dụng trong việc cập nhật và khai thác
thông tin.
Hệ thống được chia thành 3 module với các chức năng cơ bản sau:
- Tài chính: Khai báo khởi tạo và cập nhật hệ thống; quản lý thu chi tiền măt, tiền
gửi; lập các báo cáo tổng hợp.
- Vật tư: Quản lý mua hàng, bán hàng; quản lý kho vật tư; quản lý kho thành
phẩm; quản lý kho hàng hóa; bán hàng online; quản lý bao bì vận chuyển.
- Tài sản cố định: Quản lý tài sản cố định.
II.2.2.Về chế độ kế toán áp dụng
I.2.2.1. Chế độ kế toán chung
Chế độ kế toán áp dụng trên máy vi tính theo chế độ kế toán Việt Nam ban
hành theo quyết định số 1141/TC/QĐ-CĐKT ngày 01/01/1995, các chuẩn mực kế
toán Việt Nam và các văn bản sửa đổi, thông tư hướng dẫn của Bộ tài chính ban
hành kèm theo. Niên độ kế toán áp dụng là theo một năm tài chính, kỳ kế toán theo
quý.
Về chế độ chứng từ và sổ sách kế toán: Các chứng từ và sổ sách kế toán sử dụng
trong quá trình hạch toán được đăng kí và theo quy định của Bộ tài chính.

Các chứng từ hợp lệ đã được đăng ký và theo mẫu chung mà Bộ Tài chính ban
hành. Bao gồm:
- Chứng từ tiền lương: Bảng chấm công, bảng thanh toán tiền lương, Bảng thanh
toán tiền thưởng, Phiếu báo nghỉ hưởng BHXH, Hợp đồng giao khoán, Phiếu xác
nhận công việc hoàn thành, Bảng phân bổ tiền lương và BHXH, Bảng kê các khoản
trích nộp theo lương.
- Chứng từ Hàng tồn kho: Phiếu xuất kho, Phiếu nhập kho, Biên bản kiểm
nghiệm, Thẻ kho, Biên bản kiểm kê sản phẩm, vật tư, hàng hóa, Bảng kê mua hàng,
Bảng phân bổ NVL, CCDC.
- Chứng từ Tiền tệ: Phiếu thu, Phiếu chi, Giấy đề nghị tạm ứng, Giấy thanh toán
tiền tạm ứng, Bảng kiểm kê quỹ.
- Chứng từ Tài sản cố định: Biên bản giao nhận TSCĐ, Thẻ TSCĐ, Biên bản
thanh lý TSCĐ, Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ, Biên bản đánh giá lại
TSCĐ, Biên bản kiểm kê TSCĐ, Biên bản bàn giao TSCĐ sửa chữa lớn hoàn thành.
- Chứng từ bán hàng: Hoá đơn GTGT, Thẻ quầy hàng, Phiếu xuất kho kiêm vận
chuyển nội bộ.
Đơn vị mở đầy đủ các sổ kế toán bao gồm sổ chi tiết và các sổ tổng hợp theo yêu
cầu của công tác hạch toán kế toán và mẫu sổ theo mẫu chung mà Bộ tài chính ban
hành và thống nhất cho kỳ kế toán năm. Bao gồm:
- Sổ chi tiết: sổ và thẻ kế toán chi tiết như sổ chi tiết tiền mặt, sổ chi tiết bán
hàng, sổ chi tiết giá vốn, thẻ kho, thẻ TSCĐ,…
- Sổ tổng hợp: Sổ nhật ký và sổ Cái các TK như Sổ Nhật ký chung, Sổ Cái TK
111, TK 511, TK 632, TK 152,…
Các chứng từ được kế toán viên lập bằng tay có đầy đủ các yếu tố đảm bảo chứng
từ hợp lệ và được nhập vào máy theo từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh cụ thể và
máy tính sẽ tự động theo chu trình đã được lập trình sẵn chuyển số liệu vào các sổ
kế toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp.
Về chế độ tài khoản kế toán áp dụng: Xí nghiệp áp dụng hệ thống tài khoản kế
toán theo quy định của Bộ tài chính bao gồm các TK trong bảng cân đối kế toán và
các tài khoản ngoài bảng cân đối kế toán và đảm bảo việc hạch toán vào các tài

khoản theo đúng nội dung kinh tế phát sinh và theo quan hệ đối ứng tài khoản. Xí
nghiệp sử dụng các tài khoản cấp một và mở các tài khoản cấp hai để theo dõi chi
tiết theo từng đối tượng theo yêu cầu của công tác hạch toán kế toán. Đặc biệt là
một doanh nghiệp sản xuất tổ chức sản xuất theo hai phân xưởng nên việc mở các
TK cấp hai hoặc TK theo dõi chi tiết theo từng đối tượng như TK 627_PXE, TK
627_PXM để theo dõi, tập hợp chi phí, tính giá thành được dễ dàng thuận lợi hơn.
Về chế độ báo cáo tài chính tại xí nghiệp: Các báo cáo tài chính được lập bằng
phần mềm kế toán áp dụng trên máy vi tính theo đúng quy định của Bộ tài chính.
Các báo cáo tài chính bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động
kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ và Thuyết minh báo cáo tài chính.
II.2.2.2. Các chính sách kế toán áp dụng cụ thể
Xí nghiệp áp dụng các chính sách kế toán theo quy định chung của Bộ tài chính
đối với việc hạch toán kế toán bao gồm một số nội dung chủ yếu sau:
- Đối với việc hạch toán các khoản tiền mặt, tiền gửi, tiền vay: Đơn vị tiền tệ sử
dụng trong ghi chép kế toán và nguyên tắc, phương pháp chuyển đổi các đồng tiền
khác là Việt Nam đồng (VNĐ). Các đồng tiền khác ngoài đồng tiền ghi sổ kế toán
khi hạch toán đều phải quy đổi ra tiền Việt Nam theo tỷ giá thực tế tại thời điểm
phát sinh do Ngân hàng nhà nước Việt Nam công bố trên thị trường liên ngân hàng
và phải mở sổ chi tiết theo dõi đối với từng ngoại tệ. Cuối kỳ, niên độ kế toán thì
các khoản mục có gốc ngoại tệ đều phải tổng hợp và được đánh giá lại theo tỷ giá
thực tế tại thời điểm đánh giá lại đó, khoản chênh lệch tỷ giá được hạch toán tương
ứng vào TK 413- Chênh lệch tỷ giá hối đoái.
- Đối với hàng tồn kho: Xí nghiệp áp dụng phương pháp giá trị hàng tồn kho theo
giá trị thực tế của hoá đơn thu mua và chi phí thu mua hoặc sản xuất. Cuối kỳ máy
tính tự động tính ra giá của hàng tồn kho là giá bình quân cả kỳ dự trữ theo phần
mềm kế toán đã được lập trình sẵn. Việc hạch toán hàng tồn kho được tiến hành
theo phương pháp kê khai thường xuyên và cuối mỗi niên độ kế toán kế toán tiến
hành lập dự phòng giảm giá cho hàng tồn kho.
- Đối với TSCĐ: Nguyên giá TSCĐ hữu hình và TSCĐ vô hình được ghi nhận
theo quy định và thực tế mua sắm. Tiến hành trích khấu hao TSCĐ hữu hình và

TSCĐ vô hình theo phương pháp đường thẳng.
- Đối với các khoản phải thu, phải trả: Ghi nhận theo giá trị thực tế ghi trên hoá
đơn, hợp đồng kinh tế. Thời hạn thanh toán theo quy định từng hợp đồng và cuối
mỗi niên độ kế toán lập dự phòng nợ phải thu khó đòi.
- Đối với khoản doanh thu: Ghi nhận doanh thu bán hàng và doanh thu hoạt động
tài chính khi thoả mãn đồng thời các điều kiện ghi nhận doanh thu theo quy định
chung của Bộ tài chính.
- Đối với hạch toán các khoản thuế: Tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ,
các loại thuế còn lại hạch toán theo quy định chung. Lập báo cáo thuế GTGT hàng
tháng gửi cho cơ quan thuế theo quy định.

II.2.3. Hình thức ghi sổ kế toán vận dụng trong xí nghiệp
Công tác hạch toán kế toán của đơn vị được tiến hành thống nhất với công ty về
các chính sách kế toán áp dụng và hình thức ghi sổ kế toán. Hình thức ghi sổ kế
toán là Nhật Ký Chung với trình tự ghi sổ như sau:
Sơ đồ 6: Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức sổ Nhật ký chung
Chứng từ gốc

Sổ nhật ký chung

Sổ chi tiết

Sổ Cái
Bảng cân đối số phát sinh
BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Sổ nhật ký
đặc biệt
Bảng tổng hợp
số liệu chi tiết
Ghi chú:

: Ghi cuối tháng
: Quan hệ đối chiếu
: Ghi hàng ngày
Theo hình thức ghi sổ này các sổ kế toán phải mở bao gồm:
- Sổ kế toán chi tiết bao gồm: Thẻ kho, thẻ TSCĐ; Sổ chi tiết vật tư, công cụ,
dụng cụ, sản phẩm. hàng hoá; Sổ chi tiết thanh toán cho người mua, người bán; Sổ
chi tiết tiền gửi, tiền vay; Sổ chi tiết bán hàng, TSCĐ, giá vốn,…
- Sổ kế toán tổng hợp bao gồm: Nhật ký chung; Sổ Cái các tài khoản, mỗi Sổ Cái
tương đương với một tài khoản kế toán cấp một. Đơn vị không mở sổ Nhật ký đặc
biệt trong quá trình hạch toán kế toán mà phản ánh tất cả nghiệp vụ kinh tế phát
sinh vào sổ Nhật ký chung.
Các sổ kế toán chi tiết và sổ kế toán tổng hợp được mở theo hình thức Nhật Ký
Chung được lập trình sẵn trong phần mềm kế toán trên máy vi tính.
II.3. Thực trạng tổ chức hạch toán kế toán một số phần hành kế toán chủ
yếu tại xí nghiệp
Việc tổ chức hạch toán kế toán các phần hành kế toán được phân chia theo
chức năng, nhiệm vụ của mỗi kế toán viên trong phòng kế toán, mỗi kế toán đảm
nhiệm những phần hành kế toán riêng biệt tuy nhiên có quan hệ mật thiết cung cấp
số liệu cho nhau và có trách nhiệm hoàn thành công việc được giao. Trong giai
đoạn đến thực tập tại xí nghiệp, qua tìm hiểu, quan sát và thu thập thông tin em thấy
công tác hạch toán kế toán các phần hành kế toán được thực hiện như sau:
II.3.1. Kế toán tiền mặt, tiền gửi, tiền vay
Công tác kế toán tiền mặt, tiền gửi, tiền vay được thực hiện bởi kế toán tiền
lương, TSCĐ, thanh toán. Khi có các nghiệp vụ kinh tế phát sinh liên quan đến thu,
chi tiền mặt, tiền gửi kế toán tiến hành lập phiếu thu, phiếu chi theo các yếu tố ghi
trên chứng từ. Trên cơ sở các phiếu thu, phiếu chi tiền mặt, tiền gửi kế toán tiến
hành nhập phiếu thu, phiếu chi vào máy theo phần mềm kế toán đã cài đặt sẵn đồng
thời ghi vào sổ quỹ Tiền mặt, tiền gửi. Khi nhập các số liệu trên phiếu thu, phiếu chi
vào máy thì máy tính sẽ tự động theo chu trình chuyển số liệu vào các Sổ chi tiết
tiền mặt, tiền gửi, tiền vay và Sổ Cái TK 111, TK 112, TK 113, TK 311, TK 341.

Cuối tháng, cuối quý thủ quỹ và kế toán tiến hành kiểm kê quỹ tiền mặt, tiền gửi tại
ngân hàng lập Biên bản kiểm kê quỹ đồng thời đối chiếu với sổ chi tiết và sổ Cái
các tài khoản liên quan.
Công việc theo dõi và quản lý quỹ được tiến hành đồng thời bởi thủ quỹ và kế
toán phụ trách phần hành kế toán tiền lương, TSCĐ, thanh toán. Nhìn chung công
tác kế toán này được thực hiện khá tốt, hầu hết các nghiệp vụ phát sinh đều liên
quan đến tiền Việt Nam nên dễ hạch toán và quản lý, các nghiệp vụ liên quan đến
ngoại tệ là rất ít khi xảy ra. Do ở phạm vi xí nghiệp nên không thể phân công riêng
một kế toán đảm nhiệm phần hành kế toán tiền mặt, tiền gửi, tiền vay mà kế toán
tiền lương và TSCĐ, thanh toán kiêm luôn công tác hạch toán các nghiệp vụ liên
quan đến thu, chi tiền, nhìn chung sự phân công sắp xếp lao động này là hợp lý.
II.3.2. Kế toán vật tư, thành phẩm, hàng hoá
Phần hành kế toán này được giao cho kế toán NVL, CCDC, thành phẩm và tiêu
thụ thành phẩm đảm nhiệm gọi là kế toán hàng tồn kho. Nhiệm vụ của kế toán này
là theo dõi tình hình nhập xuất nguyên vật liệu như ván dăm, gỗ dổi,… và công cụ
dụng cụ như keo dán, ốc, đinh, băng dán,…mua ngoài nhâp kho phục vụ cho sản
xuất, theo dõi tình hình xuất kho NVL, CCDC để sản xuất sản phẩm ở từng phân
xưởng, đồng thời theo dõi tình hình nhập kho thành phẩm sản xuất ra từ mỗi phân
xưởng và xuất thành phẩm bán cho khách hàng. Về hạch toán chi tiết hàng tồn kho
tại xí nghiệp, kế toán sử dụng phương pháp thẻ song song theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 7: Hạch toán chi tiết hàng tồn kho theo phương pháp thẻ song song
Ghi hàng ngày
Ghi cuối tháng hoặc định kỳ
Quan hệ đối chiếu
Về hạch toán tổng hợp hàng tồn kho, kế toán sử dụng phương pháp kê khai
thường xuyên do đó tình hình biến động của hàng tồn kho được phản ánh một cách
thường xuyên và liên tục trên các sổ sách kế toán.
Hạch toán hàng tồn kho sử dụng các tài khoản kế toán sau:
- TK 152: NVL mở chi tiết cho từng loại
- TK 153: CCDC mở chi tiết cho từng đối tượng

- TK 151: Hàng mua đang đi đường để phản ánh các vật tư đang trên đường về
nhập kho
- TK 155: Thành phẩm, được mở chi tiết thành TK 1551 “Thành phẩm hàng
mộc” và TK 1552 “Thành phẩm hàng trang trí bề mặt”
- TK 511: Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
- TK 632: Giá vốn hàng bán
- Các TK liên quan khác như TK 111, TK 112, TK 131, TK 133, TK 331, TK
141, TK 621, TK 627,…
Đối với kế toán NVL, CCDC, nhập kho thành phẩm, trên cơ sở các hoá đơn mua
hàng, phiếu nhập kho, xuất kho kế toán tiến hành nhập số liệu vào các chứng từ liên
Thẻ kho
Phiếu nhập
Phiếu xuất
Sổ kế toán
chi tiết
Bảng tổng
hợp nhập,
xuất, tồn
Sổ kế toán
tổng hợp

×