Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Hợp tác hai hành lang, một vành đai kinh tế tác động đến quan hệ thương mại việt – trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (526.56 KB, 19 trang )


Hợp tác "Hai hành lang, một vành đai kinh
tế": Tác động đến quan hệ thương mại Việt –
Trung


Trịnh Thị Tuyết Mai


Trường Đại học Kinh tế
Luận văn ThS. ngành: Kinh tế thế giới & Quan hệ kinh tế quốc tế
Mã số: 60 31 07
Người hướng dẫn: PGS.TS. Phạm Thái Quốc
Năm bảo vệ: 2012


Abstract. Phân tích cơ sở khoa học của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh
tế Việt -Trung”. Làm rõ nội dung của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế
Việt -Trung”. Đánh giá các tác động của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh
tế ” tới quan hệ thương mại Việt – Trung. Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm
thúc đẩy thương mại Việt – Trung thông qua hợp tác “Hai hành lang, một vành đai
kinh tế”.

Keywords. Quan hệ thương mại; Thương mại quốc tế; Vành đai kinh tế; Việt Nam;
Trung Quốc


Content
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế toàn cầu hoá kinh tế quốc tế hiện nay, hợp tác kinh tế khu vực ngày càng


được coi trọng. Trong những cơ chế hợp tác khu vực, các liên kết tiểu vùng thường gắn với
việc phát triển một khu vực gồm các địa phương gần nhau, có những điều kiện phát triển kinh
tế có thể bổ sung cho nhau nhằm tạo ra vùng tăng trưởng kinh tế cao. Sự liên kết này tuỳ
thuộc vào đặc điểm địa lý và kinh tế - xã hội của từng vùng, có thể tạo thành những hành
lang, vành đai kinh tế làm nòng cốt để thúc đẩy sự phát triển của cả khu vực.
Việt Nam - Trung Quốc có đường biên giới trên đất liền dài 1.643 km và cùng chung
vịnh Bắc Bộ. Hai nước đều có nguồn tài nguyên phong phú, có tiềm năng phát triển rất lớn.
Quan hệ hợp tác kinh tế Việt - Trung trong những năm qua không ngừng phát triển, tuy nhiên
vẫn còn cách xa so với tiềm năng kinh tế của mỗi nước. Nhiều học giả của hai nước cho rằng:
nguyên nhân chính là do hai bên chưa phát huy được hết thế mạnh và lợi thế so sánh trong
hợp tác. Để phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc, sáng
kiến xây dựng “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” được Việt Nam đưa ra tháng 5/2004,
trong chuyến thăm Trung Quốc của nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải. Hợp tác “Hai hành
lang, một vành đai kinh tế” bước đầu được triển khai đã đưa đến những kết quả khả quan
trong thúc đẩy giao thương biên giới Việt – Trung. Tuy nhiên để hợp tác thực sự hoạt động
và phát huy hết giá trị của nó vẫn là câu hỏi lớn đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách

Việt Nam. Do vậy, việc phân tích đầy đủ cơ sở hình thành, lộ trình thực hiện, tác động dự
kiến, qua đó đánh giá tính ưu việt và bất cập, cơ hội cũng như thách thức trong việc ưu tiên
phát triển mối liên kết kinh tế đặc biệt này ở nước ta là hết sức cần thiết, nhằm đưa ra quan
điểm và định hướng đúng đắn trước tình hình mới.
Đó là lý do tác giả chọn đề tài Hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”: Tác
động đến quan hệ thƣơng mại Việt -Trung cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay đã có một số công trình khoa học, sách, bài báo nghiên cứu về vấn
đề hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung” như:
1) Thương mại Việt Nam – Trung Quốc (Sách) do Bộ Công thương biên soạn và
Nhà xuất bản Lao động phát hành quý IV năm 2008. Công trình này phân tích tổng quan về
thị trường Trung Quốc, nêu lên thực trạng và triển vọng phát triển quan hệ thương mại Việt
Nam - Trung Quốc, đưa ra những điều cần biết khi thâm nhập vào thị trường Trung Quốc,

nhưng chưa đề cập sâu đến hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”
2) Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế (Sách) của tác giả PGS.TS
Nguyễn Văn Lịch do Nhà xuất bản Thống kê phát hành năm 2005. Công trình này phân tích
thực trạng phát triển thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải
Phòng. Tuy nhiên do thời gian nghiên cứu ngắn (2004-2005) sách mới tập trung làm rõ
những luận cứ khoa học của việc xây dựng hành lang kinh tế này chứ chưa phân tích sâu tác
động của hành lang kinh tế này đối với quan hệ thương mại Việt Trung.
3) Một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Viện Nghiên cứu Thương mại,
trong đó đáng chú ý là:
- Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực hành lang kinh tế Hải Phòng – Lào
Cai – Côn Minh trong bối cảnh hình thành khu mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, Đề
tài cấp bộ năm 2004 do PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch chủ nhiệm.
- Các giải pháp để Việt Nam khai thác tối đa những lợi ích thương mại từ chương trình
thu hoạch sớm trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc, Đề tài cấp Bộ năm 2005 do
ThS. Trịnh Thị Thanh Thủy chủ nhiệm.
- Định hướng chiến lược phát triển quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc
giai đoạn tới 2015, Đề tài cấp bộ năm 2007 do PGS.TS Nguyễn Văn Lịch chủ nhiệm.
4) Các báo cáo tiêu biểu trong Hội thảo Phát triển Hai hành lang, một vành đai kinh
tế Việt Nam – Trung Quốc trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – Trung Quốc (do Viện Khoa
học xã hội Việt Nam phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hải Phòng tổ chức tại Hải
Phòng tháng 12 năm 2006) ; Hội thảo Hợp tác phát triển hành lang kinh tế Côn Minh – Lào
Cai – Hà Nội – Hải Phòng và vai trò của Lào Cai (do Viện Khoa học xã hội Việt Nam phối
hợp cùng Ủy ban nhân dân tỉnh Lào Cai tổ chức tại Lào Cai tháng 11 năm 2005), Hội thảo
Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai (Hà
Nội, 2005).
5) Một số bài nghiên cứu trên tạp chí
- Hai hành lang và một vành đai kinh tế - từ ý tưởng đến hiện thực của PGS.TS.
Nguyễn Văn Lịch trên Tạp chí Cộng sản số 11 năm 2005.
- Vai trò của hành lang kinh tế Nam Ninh – Hà Nội – Hải Phòng của PGS.TS.
Phạm Thái Quốc thuộc Viện Kinh tế và Chính trị thế giới trên tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái

Bình Dương số 51 năm 2005.
- Quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc: một chặng đường nhìn lại của
ThS. Doãn Bảo - Nguyễn Công Khánh đăng trên Tạp chí Cộng sản số 14 năm 2008.
- Cán cân thương mại trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2001 -
2006: Thực trạng và một số giải pháp điều chỉnh của Phạm Phúc Vĩnh trên Tạp chí Kinh tế
đối ngoại số 34 năm 2009.

- Quan hệ thương mại giữa Việt Nam với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung
Quốc) - Thực trạng và giải pháp của PGS.TS. Nguyễn Văn Lịch trên Tạp chí Khoa học
Thương mại số 14 năm 2006.
Nhìn chung, các công trình trên đây là những tư liệu tham khảo rất có giá trị song do
được triển khai trong thời gian chưa dài so với thời điểm công bố hợp tác “Hai hành lang,
một vành đai kinh tế Việt - Trung” (2004), nên các nghiên cứu trên mới tập trung vào lý giải
cơ sở hình thành cũng như mục tiêu hợp tác, chứ chưa chú trọng phân tích điều kiện cụ thể
của từng địa bàn, từng lĩnh vực chính trong hợp tác để từ đó nhận ra thời cơ và thách thức đối
với việc triển khai. Hầu hết các nghiên cứu trên chưa đánh giá một cách có hệ thống tác động
của hợp tác này đối với quan hệ thương mại Việt – Trung.
Đề tài nghiên cứu này sẽ cố gắng tiếp thu các công trình nghiên cứu đã có và trên cơ
sở đó có những phát triển mới trong bối cảnh hiện tại.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu : Đưa ra một số giải pháp kiến nghị nhằm thúc đẩy thương
mại Việt – Trung thông qua hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”.
- Nhiệm vụ nghiên cứu :
+ Phân tích cơ sở khoa học của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt -
Trung”
+ Làm rõ nội dung của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt -Trung”.
+ Đánh giá các tác động của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế ” tới quan
hệ thương mại Việt – Trung.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác động của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”

tới quan hệ thương mại Việt – Trung.
- Phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: từ năm 2000 tới nay (chủ yếu là từ 2004 – thời điểm hình thành ý tưởng
hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”).
Về không gian: luận văn tập trung vào các lĩnh vực hợp tác cơ bản giữa Việt Nam và
miền Nam Trung Quốc : Xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghiệp, thương mại, du lịch và các địa
phương chủ chốt trong hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt -Trung”: Tỉnh
Quảng Tây, Vân Nam (Trung Quốc) và Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà Nội (Việt
Nam).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài vận dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học như:
- Phương pháp thu thập thông tin từ các nguồn tài liệu thứ cấp phục vụ cho việc nghiên cứu,
phân tích: Thu thập các tài liệu tổng quan về lĩnh vực quan hệ thương mại Việt – Trung và hợp tác
“Hai hành lang, một vành đai kinh tế”; thu thập thông tin về một số hoạt động và dự án đang triển
khai trong khuôn khổ hợp tác; thu thập tài liệu về đề xuất các giải pháp đối với việc thúc đẩy hợp tác
này.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ thống kê số liệu, tác giả đưa ra sự so sánh tương
quan hai quốc gia Việt Nam – Trung Quốc trong quan hệ thương mại, cũng như trong tiến độ
triển khai hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp logic, lịch sử.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đề tài tổng hợp tư liệu, phân tích rõ cơ sở khoa học của hợp tác “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” giữa Việt Nam và Trung Quốc; qua đó góp phần làm rõ hơn sự cần thiết
phải đẩy mạnh triển khai hợp tác này.

- Khảo sát một cách có hệ thống những bài học kinh nghiệm về hình thức hợp tác tương tự
ở các quốc gia và khu vực trên thế giới (bao gồm cả những bài học thành công và chưa thành công).
Qua đó rút ra một số bài học có giá trị cho việc phát triển “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt

– Trung”.
- Phân tích có hệ thống nội dung, vai trò và thực trạng triển khai các hoạt động trong
khuôn khổ hợp tác; đưa ra đánh giá về những kết quả đã đạt được, các tác động dự kiến cũng
như những mặt còn tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại, đóng góp một cái nhìn toàn
diện hơn về thực trạng triển khai các mô hình liên kết kinh tế và hợp tác kinh tế quốc tế tại
Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại Việt – Trung thông
qua hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” thời gian tới.
- Các vấn đề lý luận được nghiên cứu dựa trên cơ sở tổng hợp các tư liệu của quá khứ
kết hợp với khái quát hóa và bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu
gồm 4 chương.
Chương 1. Một số vấn đề chung về hình thức hợp tác Hành lang, vành đai kinh tế
Chương 2. Thực trạng hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung”
Chương 3. Tác động của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” tới quan hệ
thương mại Việt – Trung.
Chương 4. Một số gợi ý về giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Trung
thông qua hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”.


Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH THỨC HỢP TÁC HÀNH LANG,
VÀNH ĐAI KINH TẾ

1.1 Các khái niệm
1.1.1 Khái niệm Hành lang kinh tế và Vành đai kinh tế
Hành lang kinh tế là một tuyến liên kết kinh tế dựa vào địa lý giữa các vùng lãnh thổ
của một hoặc nhiều quốc gia bởi các chính sách kinh tế nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế của
vùng liên kết. Hành lang kinh tế vốn xuất phát từ hành lang giao thông, lấy hạ tầng giao

thông làm cơ sở, để kết nối các khu vực địa lý của một hay nhiều quốc gia với nhau nhằm
phát triển kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của các khu vực địa – kinh tế nằm trên
cùng một dải dọc theo trục giao thông nhất định.
Vành đai kinh tế là liên kết kinh tế theo hình vòng cung hoặc vòng tròn bao quanh một
khu vực, một vùng địa lý - lãnh thổ trên cơ sở nối liền các vùng lãnh thổ của một hay nhiều
quốc gia với mục đích liên kết, hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh cúa
các khu vực địa – kinh tế nằm trên cùng một dải tạo thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa và
liên kết kinh tế giữa các vùng bên trong vành đai.
1.1.2 Hành lang kinh tế, vành đai kinh tế và tác động lan tỏa tới phát triển kinh tế
Hành lang kinh tế và vành đai kinh tế là biện pháp hợp tác mới để thúc đẩy hợp tác và
phát triển kinh tế của các quốc gia và lãnh thổ. Có thể hiểu rằng đó là cơ chế nhất thể hóa
kinh tế khu vực nhỏ lấy giao thông làm trục chính. Hành lang kinh tế thể hiện mối quan hệ tỉ
lệ thuận giữa phát triển hệ thống hạ tầng giao thông với tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hệ
thống các tuyến đường giao thông là tiền đề, là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển kinh tế
xã hội ở các vùng miền liền kề của các trục tuyến giao thông đó.
Xây dựng vành đai kinh tế không những phát triển được kinh tế của những vùng nằm
trên vành đai mà còn góp phần phát triển cả những vùng xung quanh qua việc thúc đẩy lưu

thông hàng hóa và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông. Trên cơ sở ưu tiên phát triển hạ tầng
cơ sở như: giao thông, năng lượng, thông tin và du lịch, hành lang kinh tế và vành đai kinh tế
góp phần hình thành một không gian địa lý mở để tối đa hóa các tác động đến phát triển kinh
tế - xã hội và theo đó là tối thiểu hóa về các phí tổn.
Hành lang kinh tế và vành đai kinh tế tháo bỏ sự cách biệt về địa lý lãnh thổ, tạo dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật, tạo sự liên kết bền chặt giữa các đối tác thương mại, góp phần làm
giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh, thúc đẩy và mở rộng thương mại giữa các nước trong khu
vực và với các khu vực khác.
1.2 Một số hành lang kinh tế, vành đai kinh tế của các quốc gia và khu vực trên thế giới
Hành lang phát triển Maputo (MDC):
Hành lang Maputo là một trong các sáng kiến phát triển ở Châu Phi và thế giới. Cốt lõi
của MDC là một loạt các dự án nhằm nâng cấp kết cấu hạ tầng của tuyến đường vận tải từ tỉnh

Wibank của Nam Phi (kề sát Johanesburg) tới Maputo của Mozambich, bao gồm bốn thành
phần chính: tuyến đường cao tốc, tuyến đường xe lửa, cảng biên giới giữa hai nước và cảng
biển Maputo.
Hành lang Tây Bắc Canađa:
Hành lang phát triển Tây Bắc Canađa là một trong những vùng kinh tế lớn nhất ở
Canađa. Trục cơ bản của hành lang này là tuyến đường cao tốc Yellowhead 16. Hành lang
này cung cấp các tuyến đường sắt và đường cao tốc nối liền các cảng Prince Rupert, Stewart
và Kitima, Britist Columbia tới các đầu mối giao thông của Canađa tại Winnipeg, Manitoba.
Những liên kết đường sắt và đường bộ liên tỉnh đó thông qua các cảng biên giới với Mỹ cung
cấp khả năng tiếp cận tới đầu mối giao thông của Mỹ tại Chicago.
Hành lang Đông – Tây (EWEC):
Đây là một trong những nội dung của Chương trình hợp tác phát triển liên kết các
vùng kém phát triển của các nước Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma và vùng Tây Nam
Trung Quốc trong tiểu vùng Mê Kông.
Tác động của các hành lang kinh tế kể trên:
Các hành lang kinh tế trên đã có những đóng góp quan trọng trong quy hoạch, kêu
gọi đầu tư, tài trợ và thúc đẩy nhiều hoạt động có hiệu quả đối với các nước. Các hành lang
kinh tế này cũng góp phần mở rộng kinh tế đối ngoại, phát triển thương mại và du lịch, thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong và ngoài khu vực thông qua việc kết nối với thị trường
khu vực. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai xây dựng, các hành lang kinh tế trên cũng đã bộc
lộ rất nhiều bất cập.


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG HỢP TÁC “HAI HÀNH LANG, MỘT VÀNH ĐAI KINH TẾ VIỆT -
TRUNG”

2.1 Phạm vi địa lý của hai hành lang và một vành đai kinh tế Việt-Trung
Hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh: là tuyến
liên kết kinh tế giữa các tỉnh của Trung Quốc và các tỉnh của Việt Nam nằm dọc theo các trục

đường bộ chính, đường sắt Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh: là tuyến
liên kết kinh tế giữa các tỉnh của Trung Quốc và các tỉnh của Việt Nam nằm dọc theo các trục
đường bộ chính, đường sắt Nam Ninh - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ: là tuyến liên kết kinh tế giữa các tỉnh của Trung Quốc
và các tỉnh của Việt Nam nằm xung quanh vịnh Bắc Bộ.
Các địa phương được coi là nhân tố chủ chốt trong phát triển hợp tác “Hai hành lang,
một vành đai kinh tế”, là những tỉnh biên giới tiếp giáp trực tiếp và các tỉnh, thành phố có vị

trí, vai trò trọng yếu trên tuyến liên kết, cụ thể là 2 tỉnh Quảng Tây, Vân Nam phía Trung
Quốc và 5 tỉnh thành phố: Lạng Sơn, Lào Cai, Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh phía Việt
Nam.
Đặc điểm của các địa phƣơng chủ chốt nằm trong tuyến “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế Việt -Trung
Điều kiện khí hậu giống nhau, thuộc loại hình khí hậu nhiệt đới, á nhiệt đới có tính biển. Các
công trình giao thông hàng hải ở vịnh Bắc Bộ tương đối tốt, việc xây dựng các bến tàu, hải cảng
có quy mô và cơ sở nhất định, thuận tiện cho việc vận chuyển một lượng lớn hàng hoá để xuất
khẩu hoặc nhập khẩu, chuyển hàng ra các nước trên thế giới, là điều kiện để giao lưu, hợp tác trên
các mặt. Vịnh Bắc Bộ có tài nguyên biển phong phú, tiềm năng phát triển lớn. Xét về vị trí địa
lý, các tuyến liên kết này có ưu điểm lớn nhờ nằm ở vùng giao giữa hai khu vực lớn là Trung
Quốc và ASEAN, là cầu nối nối liền hai khu vực lớn này, có thể lợi dụng một cách nhanh
chóng thị trường và nguồn nhân lực của hai khu vực này để sắp xếp hợp lý nguồn lực của
mình, điều chỉnh và ưu hoá kết cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế và xã hội.
2.2 Những nhân tố thúc đẩy hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt -
Trung”
2.2.1 Nhân tố khách quan
2.2.1.1 Bối cảnh lịch sử giữa Việt Nam - Trung Quốc
 Về địa lý và biên giới, lãnh thổ
Việt Nam và Trung Quốc là 2 quốc gia láng giềng với đường biên giới trên đất liền dài
khoảng 1.400km, tiếp giáp giữa 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng,

Lạng Sơn và Quảng Ninh của Việt Nam với 2 tỉnh Vân Nam và Quảng Tây của Trung Quốc.
Trên biên giới chung của hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp
tỉnh. Đến ngày 31/12/2008. Hai bên đã phân giới xong toàn bộ tuyến biên giới Việt Nam -
Trung Quốc dài khoảng 1.400 km, cắm 1.991 cột mốc.
 Về lịch sử
Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc gắn bó chặt chẽ với nhau trong gần 2200 năm tồn tại từ thế
kỷ 2 trước công nguyên đến nay có thể chia ra bốn thời kỳ cơ bản: thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ
Đại Việt, thời kỳ Pháp thuộc, thời kỳ Việt Nam. Dẫu thế cuộc có lúc đổi thay, hợp tác có lúc
thăng trầm, nhưng quan hệ hữu nghị Việt -Trung đã có chiều sâu lịch sử, có nền tảng bền
chắc, vượt qua được thử thách của thời gian.
 Về quan hệ kinh tế thƣơng mại
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc đã xuất hiện ngay từ những năm đầu thế
kỷ X. Quan hệ kinh tế này có khi thăng, khi trầm, khi thịnh, khi suy còn tùy thuộc vào quan
hệ chính trị giữa hai quốc gia. Từ khi hai nước bình thường hóa quan hệ, quan hệ kinh tế
thương mại song phương phát triển nhanh chóng và thể hiện rõ rệt nhất trong thương mại hàng
hóa. Cùng với kim ngạch thương mại hai nước liên tục tăng, tỉ trọng của thương mại Trung –
Việt trong tổng kim ngạch thương mại của mỗi nước cũng không ngừng tăng.
2.2.1.2 Điều kiện tài nguyên – cơ sở phát triển hợp tác kinh tế của hai quốc gia
 Tài nguyên năng lƣợng
Các địa phương trong hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” có những thế mạnh khác
nhau về những nguồn năng lượng quan trọng. Thủy năng, than đá và dầu mỏ chính là ba trụ
cột chính trong hợp tác năng lượng thuộc hành lang kinh tế.
 Tài nguyên nguyên liệu
Cao su được coi là mặt hàng Việt Nam rất có lợi thế. Năm 2004 kim ngạch xuất khẩu sang
Trung Quốc chiếm khoảng 60% tổng kim ngạch xuất khẩu cao su của Việt Nam.
 Tài nguyên khoáng sản
Việt Nam là một quốc gia giàu tiềm năng khoáng sản với các mỏ phân bố đồng đều khắp cả
nước. Khoáng sản Việt Nam rất đa dạng, đã phát hiện được khoảng 5.000 điểm quặng, khảo
sát thăm dò gần 60 loại khoáng sản.


 Tài nguyên du lịch
Khu vực “hai hành lang, một vành đai” có nguồn tài nguyên du lịch phong phú, có tính bổ
sung cho nhau mạnh, có giá trị hợp tác khai thác phát triển rất lớn.
2.2.1.3 Bối cảnh chung của quốc tế
Hiện nay, toàn cầu hóa và liên kết kinh tế quốc tế là một xu hướng nổi trội. Đặc
trưng chủ yếu của toàn cầu hóa kinh tế và nhất thể hóa kinh tế khu vực là xây dựng các mô
hình hợp tác kinh tế khu vực ở các cấp độ khác nhau trên phạm vi toàn cầu, việc xây dựng
rộng rãi khu mậu dịch tự do hay các hợp tác kinh tế tiểu vùng là những mô hình tiêu biểu và
chủ yếu
2.2.1.4 Các chương trình hợp tác đa phương hai nước cùng tham gia
Các chương trình hợp tác đa phương về thương mại đã có tác động mạnh đến quan hệ hai
nước nói chung và tiến trình hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” nói riêng, đó là:
Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Khu mậu dịch tự do Trung Quốc – ASEAN (ACFTA)
và Hợp tác tiểu vùng sông Mekong mở rộng. Mối quan hệ này giúp hai nước có những khung
hợp tác bình đẳng, cơ bản để từ đó tăng cường giao lưu thuận lợi, minh bạch, an toàn hơn.
2.2.2 Nhân tố chủ quan
2.2.2.1 Quan điểm của Trung Quốc về hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt –
Trung”
Đối với Trung Quốc, việc phát triển kinh tế miền Tây Nam là một trong những chủ trương
lớn của chính phủ Trung Quốc trong 3 thập kỷ gần đây. Mục tiêu của chủ trương là rút ngắn
khoảng cách phát triển của khu vực này với các khu vực khác trên cả nước; khai thông quan
hệ thương mại, đầu tư, du lịch của cả khu vực với Đông Nam Á và các khu vực khác. Chiến
lược hợp tác tiểu vùng trên biển Trung Quốc – ASEAN với mục đích phát triển kinh tế
“hướng ra biển” cũng là một phần trong chiến lược đại khai phát miền Tây của Trung Quốc,
với mục tiêu đưa vùng Đại Tây Nam còn rất lạc hậu tiến ra biển qua con đường hợp tác kinh
tế vịnh Bắc bộ Quảng Tây. Hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” Việt – Trung là
phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nói chung và định hướng mở cửa kinh tế đối
ngoại nói riêng của Trung Quốc với Đông Nam Á, làm lợi cho các tỉnh Trung Quốc vì vừa có
thể tiếp cận tài nguyên, lại vừa có thể sử dụng được đường vận chuyển và hải cảng của Việt
Nam để giao lưu kinh tế với khu vực Đông Nam Á. Bên cạnh đó, hợp tác này được chính phủ

Trung Quốc tích cực triển khai như là một phần quan trọng mang tính khởi đầu của ý tưởng
về mô hình chiến lược “một trục hai cánh”. Thông qua trục chính Nam Ninh – Singapore,
cánh trái xây dựng hợp tác kinh tế Bắc Bộ liên kết với các quốc gia ASEAN ở gần vùng vịnh
Bắc Bộ, cánh phải liên kết các quốc gia của ASEAN trong hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mê
Kông, Trung Quốc tích cực phát triển hợp tác kinh tế hai tiểu vùng Bắc Bộ và sông Mê Kông,
thúc đẩy phát triển toàn diện, cân bằng, hài hòa giữa Trung Quốc và ASEAN.
2.2.2.2 Quan điểm của Việt Nam về hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt –
Trung”
Chính sách phát triển kinh tế - xã hội các vùng núi phía Bắc là một trong những chủ trương
lớn của chính phủ Việt Nam thời kỳ 2001-2010. Việt Nam cho rằng, đây là một khu vực đầy
tiềm năng, song chưa được khai thác hiệu quả, là một khu vực còn nghèo nàn và lạc hậu, cần
được ưu tiên phát triển. Đồng thời, vùng núi phía Bắc đóng vai trò hết sức quan trọng trong
quan hệ thương mại với Trung Quốc – một thị trường rộng lớn đầy tiềm năng. Đây cũng
chính là cửa ngõ trên bộ thông thương với Trung Quốc. Với chủ trương thúc đẩy hoạt động
biên mậu phát triển, tăng cường giao lưu kinh tế thương mại qua các cửa khẩu trên đất liền,
nâng cao đời sống của các dân tộc vùng núi phía Bắc, chính phủ Việt Nam sớm nhận thức được
tầm quan trọng của chính sách mở cửa, dành ưu tiên đặc biệt cho vùng núi phía Bắc, một mặt
nhằm rút ngắn mức chênh lệch về mức sống giữa các vùng núi phía Bắc với các vùng khác
trong cả nước, mặt khác tận dụng tối đa các điều kiện về tự nhiên, vị thế địa lý mà miền Tây

Nam Trung Quốc không có để khai thác các nguồn lợi, đóng góp vào sự nghiệp phát triển
chung của đất nước.
2.3 Nội dung của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt - Trung”
2.3.1 Mục tiêu của hợp tác
Một là, tập trung xây dựng và phát triển hai hành lang và một vành đai trên trở thành
3 tuyến kinh tế mạnh, chủ lực trong việc phát triển quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Hai là, khai thác triệt để nguồn lực tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trên
hành lang và vành đai.
Ba là, thông qua triển khai hợp tác khu vực, thúc đẩy hòa bình, hữu nghị của khu vực biên

giới hai nước và khu vực vịnh Bắc Bộ; đẩy nhanh sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực
này; làm cầu nối thúc đẩy hợp tác Trung Quốc và ASEAN
2.3.2 Các lĩnh vực hợp tác chủ chốt
2.3.2.1 Xây dựng cơ sở hạ tầng
2.3.2.2 Công nghiệp
2.3.2.3 Thương mại
2.3.2.4 Du lịch
2.3.3 Lộ trình
Giai đoạn 1 (từ 2005 đến 2010): bắt đầu từ giao thông vận tải, chế biến, điện lực, tiện
lợi hoá đầu tư thương mại nhằm hình thành một số lãnh thổ động lực; xây dựng một bước cơ
bản hệ thống kết cấu hạ tầng trong vành đai kinh tế; xúc tiến thu hút các dự án đầu tư trong
và ngoài nước vào các công trình trọng điểm, vùng động lực tạo điều kiện để phát triển
nhanh trong giai đoạn sau.
Giai đoạn 2 (từ 2010 đến 2020) triển khai toàn diện, tiếp tục đầu tư phát triển đồng bộ
và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng trong vành đai kinh tế; hoàn tất xây dựng những
hạng mục quan trọng tại các khu kinh tế, khu công nghiệp; các khu du lịch, các trung tâm vui
chơi giải trí cao cấp và các công trình dịch vụ khác để phát triển tăng tốc trong giai đoạn
sau năm 2020, thu hút sự tham gia của nhiều nước ASEAN, đẩy mạnh hợp tác kinh tế Trung
Quốc – ASEAN.
2.4 Các động thái chính thức
2.4.1 Các hoạt động, dự án đã triển khai
Về cơ chế phối hợp giữa hai bên:
Do đặc thù phát triển của mỗi nước về quản lý kinh tế, sự phối hợp của các Bộ ngành
trung ương đóng một vai trò quan trọng. Theo thỏa thuận bước đầu giữa hai bên, mỗi nước đã
hình thành một “Nhóm công tác hai hành lang, một vành đai kinh tế”, bao gồm chuyên viên
các Bộ ngành quan trọng đối với hợp tác này. Phía Việt Nam lấy Bộ Kế hoạch và đầu tư làm
nòng cốt, phía Trung Quốc lấy Bộ Thương mại làm nòng cốt. Nhiệm vụ hiện nay của các
nhóm công tác là chuẩn bị nội dung cho các cuộc gặp cấp Bộ trưởng hai nước. Các tỉnh biên
giới của Việt Nam đã thiết lập được cơ chế hợp tác với hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây từ
cấp tỉnh, đến các ngành chức năng, huyện, thành phố có chung biên giới.

Về xây dựng cơ sở hạ tầng:
Phía Trung Quốc, về đường bộ, từ năm 2004 đã thực hiện tuyến đường cao tốc 4 làn
xe từ Côn Minh – Cô Đầu và tuyến đường 8 làn xe Côn Minh – Thạch Lâm – Mông Tự.
Tuyến Mông Tự - Hà Khẩu với 6 làn xe được khởi công từ tháng 8/2004. Hai tỉnh Vân Nam
và Quảng Tây đã hầu như hoàn thành hai tuyến đường cao tốc chính (Côn Minh – Hà Khẩu
và Nam Ninh – Bằng Tường). Đường cao tốc từ Bắc Hải đến Trạm Giang hoàn thành vào
năm 2005. Đoạn đường từ Nam Ninh đến Đông Hưng dài 180 km trong đó có 150 km đường
cao tốc. Ngoài ra, phía Trung Quốc còn tích cực tham gia triển khai các dự án giao thông
khác trong khuôn khổ hợp tác GMS (chương trình hớp tác tiểu vùng sông Mê Kông) và đã
tạo đà thúc đẩy các tuyến hành lang khác phát triển nhanh hơn.

Phía Việt Nam, các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng được triển khai khá chậm và chưa
đem lại hiệu quả rõ nét. Việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong phạm vi “Hai hành lang một vành
đai kinh tế” chủ yếu là nâng cấp đường bộ và đường sắt, nạo vét đường sông sông Hồng, xây
dựng các cảng sông, xây dựng cụm cảng ven biển vịnh Bắc bộ, xây dựng cửa khẩu biên giới
chưa đạt tiêu chuẩn của hạ tầng quốc tế.
Nhìn chung, việc triển khai xây dựng cơ sở hạ tầng trong hợp tác "Hai hành lang, một vành
đai kinh tế" đã có một số bước khởi đầu đáng ghi nhận. Tuy nhiên những kết quả này vẫn còn
ở mức hạn chế, cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, đặc biệt là tuyến giao thông đường bộ và đường sắt
vẫn là một trong những trở lực đối với việc mở rộng thông thương giữa các tỉnh biên giới
Việt Nam – Trung Quốc.
Về đầu tƣ:
Các địa phương trên tuyến hành lang kinh tế phía Việt Nam khá quan tâm và triển khai tốt
việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến hết năm 2010, trên địa bàn tỉnh Lào
Cai có 21 dự án FDI của Trung Quốc/30 dự án FDI còn hiệu lực, với tổng vốn đầu tư cam kết
đạt 408 triệu USD chiếm 83.77% tổng vốn đầu tư FDI trên toàn địa bàn tỉnh; thành phố Hà
Nội có 166 dự án FDI của các nhà đầu tư đến từ Trung Quốc với tổng vốn đăng ký đạt 105
triệu USD; Quảng Ninh có 54 dự án FDI của Trung Quốc/100 dự án FDI còn hiệu lực với
tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 370/3.730 triệu USD; con số này ở thành phố Hải Phòng lần lượt
là 42/294 dự án FDI còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt 348/4.440 triệu USD,

chiếm 14.3% tổng vốn FDI trên địa bàn thành phố.
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc cũng đã hướng đến một số tỉnh biên giới tiếp giáp với
Trung Quốc của Việt Nam, trong đó có một số tỉnh có cơ sở hạ tầng kém, trình độ phát triển
thấp, khó thu hút vốn đầu tư nước ngoài như Lào Cai (26 dự án), Lạng Sơn (20 dự án), Cao
Bằng (7 dự án), Lai Châu (2 dự án). Điều này phản ánh kết quả của việc tăng cường hợp tác
giữa các địa phương hai nước, đặc biệt là sự đẩy mạnh hợp tác với Việt Nam của các tỉnh như
Quảng Đông, Vân Nam, Quảng Tây. Tuy nhiên, sự thu hút đầu tư, phát triển các ngành kinh
tế, đầu tư hạ tầng kinh tế chưa có định hướng, qui hoạch nhằm khai thác và nắm bắt lợi thế do
cơ hội phát triển do hành lang kinh tế mang lại.
2.4.2 Điều chỉnh chính sách
Hai chính phủ đã ra Tuyên bố thành lập tổ chuyên gia vào tháng 10/2004, dưới sự chỉ đạo của
Ủy ban Hợp tác Kinh tế Thương mại hai nước nhằm tích cực thảo luận về tính khả thi của
việc xây dựng hợp tác xây dựng hành lang, vành đai kinh tế này. Để tạo đà cho việc xây dựng
hành lang, vành đai kinh tế, lãnh đạo các tỉnh có liên quan trong hợp tác đã ký kết các văn
bản hợp tác, phát triển kinh tế, du lịch, xúc tiến thương mại và công nghệ thông tin. Chính
phủ hai nước Việt Nam và Trung Quốc đã thống nhất sửa đổi Hiệp định vận tải đường bộ
giữa hai nước đã ký vào năm 1994. Gần đây, hai nước đang đẩy mạnh việc nghiên cứu, xây
dựng 3 khu hợp tác kinh tế biên giới: khu vực hợp tác kinh tế xuyên quốc gia Đồng Đăng –
Bằng Tường, khu hợp tác xuyên quốc gia Hà Khẩu – Lào Cai; khu hợp tác xuyên quốc gia
Đông Hưng – Móng Cái.
Một số bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương của hai nước cũng đã ký nhiều
văn bản hợp tác kinh tế mậu dịch song phương. Chính sách quản lý và cơ chế điều hành hiện
nay đã phân định rõ giữa xuất nhập khẩu chính ngạch và hoạt động buôn bán qua biên giới
với các văn bản pháp quy. Trong lĩnh vực ngân hàng, hầu hết các ngân hàng thương mại Việt
Nam đã tích cực xúc tiến và triển khai ký kết các Hiệp định hợp tác với các ngân hàng thương
mại của Trung Quốc nhằm triển khai có hiệu quả các điều khoản của Hiệp định thanh toán và
hợp tác đã được ký kết giữa Ngân hàng Trung ương hai nước, thiết lập và mở rộng quan hệ
đại lý thanh toán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hai nước thực hiện thanh toán qua hệ
thống ngân hàng. Về phía Trung Quốc, từ lâu, nước bạn đã thực thi chính sách biên mậu với
nhiều ưu đãi quan trọng dành cho doanh nhân bản xứ với một cơ chế hết sức linh hoạt. Chính

sách biên mậu Trung Quốc khuyến khích và tài trợ mạnh mẽ cho các hoạt động xúc tiến

thương mại như tổ chức hội chợ, triển lãm và giao lưu giữa địa phương và các nước có đường
biên.
Tại các địa phương vùng biên của Việt Nam nằm trực tiếp trong quy hoạch “Hai hành lang,
một vành đai kinh tế”, chính quyền các cấp cũng ban hành và thực hiện một số chính sách,
giải pháp thương mại nhằm cụ thể hóa các quy định của Trung ương. Tuy nhiên, chính sách
hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp Việt Nam còn nghèo nàn, chất lượng hạn chế.


Chƣơng 3
TÁC ĐỘNG CỦA HỢP TÁC “HAI HÀNH LANG, MỘT VÀNH ĐAI KINH TẾ” TỚI
QUAN HỆ THƢƠNG MẠI VIỆT –TRUNG

3.1 Tổng quan quan hệ thƣơng mại Việt – Trung
Quy mô và tốc độ tăng trƣởng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá thời kỳ
2000-2010: Từ kim ngạch gần 3 tỷ USD vào năm 2000, hai nước đã đưa kim ngạch buôn
bán hai chiều lên tới 4,87 tỷ USD năm 2003 và 8,739 tỷ USD năm 2005. Năm 2006, 2007,
2008, 2009 các con số tương ứng là 10,421 tỷ; 15,8 tỷ; 20,5 tỷ; 21,9 tỷ USD. Năm 2010, kim
ngạch hai chiều hai nước đạt 27,3 tỷ USD, vượt mục tiêu 25 tỷ USD mà lãnh đạo cấp cao hai
nước đã xác lập.
Về cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trƣờng Trung Quốc: Trong
những năm gần đây, nhìn chung cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đã
không ngừng được mở rộng, chia ra làm 4 nhóm hàng chính:
- Hàng nguyên nhiên liệu (cao su, than, quặng kim loại, dầu thô, )
- Hàng nông sản (lương thực, rau củ quả nhiệt đới, chè, hạt điều, hạt tiêu)
- Hàng thủy sản
- Hàng tiêu dùng (thủ công mỹ nghệ, giày dép, đồ gỗ cao cấp, ).
Về cơ cấu hàng hoá nhập khẩu của Việt Nam từ thị trƣờng Trung Quốc: Việt
Nam nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 200 mặt hàng, gồm 5 nhóm mặt hàng chính:

- Thiết bị toàn bộ (dây chuyền sản xuất xi măng lò đứng, dây chuyền sản xuất đường
mía);
- Máy móc, phương tiện vận tải, thiết bị y tế, thiết bị đo lường;
- Nguyên, nhiên, vật liệu: xăng dầu, phân bón, xi măng, sắt thép, kính xây dựng, vật
liệu xây dựng, sản phẩm hóa chất, nguyên phụ liệu dệt may;
- Hàng nông sản: hạt giống, hoa quả ôn đới, dầu thực vật, bột mỳ, đường;
- Hàng tiêu dùng và dược phẩm: xe máy, phụ tùng xe máy, sản phẩm điện, điện tử,
đồng hồ, quần áo, đồ chơi trẻ em, thuốc chữa bệnh và nguyên liệu dược phẩm.
Về cán cân thƣơng mại giữa Việt Nam với Trung Quốc: Bắt đầu từ 2000, nhịp độ
tăng nhập siêu của nước ta từ thị trường Trung Quốc gia tăng khá nhanh. Từ xuất phát điểm
xuất siêu 110,8 triệu USD, bằng 7,79% kim ngạch nhập khẩu năm 2000, Việt Nam đã chuyển
sang nhập siêu gần gấp đôi trong năm 2001 (211 triệu USD), bằng 14,8% kim ngạch xuất
khẩu và đến nay vẫn hầu như liên tục tăng “phi mã”. Lý do dẫn đến nhập siêu bất bình
thường như vậy từ Trung Quốc đến từ cả xuất khẩu và nhập khẩu.
Bên cạnh những con số thống kê được, một số đặc điểm chính trong quan hệ thương
mại Việt - Trung giai đoạn này là :
- Khuôn khổ pháp lý cho trao đổi thương mại đã được cải thiện đáng kể nhưng vẫn
còn một số vấn đề vướng mắc.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu vẫn chiếm tỷ trọng thấp trong tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu của mỗi nước.
- Việt Nam chưa khai thác tốt cơ hội thâm nhập thị trường Trung Quốc.

- Thương mại chưa thật sự gắn với đầu tư và chuyển giao công nghệ.
- Xét về phương thức giao dịch, thương mại Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn từ
1991-2000 chủ yếu thực hiện qua đường tiểu ngạch. Tuy nhiên, từ 2001 đến nay, mậu dịch
chính ngạch đã ngày càng chiếm vị trí lớn trong tổng giá trị thương mại hai nước
3.2 Tác động của hợp tác “Hai hành lang, một vành đai” đến quan hệ thƣơng mại Việt
Trung
3.2.1 Tác động tích cực
3.2.1.1 Gia tăng quy mô và khối lượng thương mại Việt Trung

Hành lang và vành đai kinh tế tạo điều kiện để các địa phương trong vùng mở rộng thị trường
xuất nhập khẩu, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch
vụ trao đổi, thúc đẩy nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tạo ra sự phát triển ở các vùng để hình
thành nên một khu vực thị trường rộng lớn có khả năng thu hút và thâm nhập với các khu vực
thị trường khác.
Bảng 3.1 Biểu thống kê tình hình thƣơng mại Việt Nam – Trung Quốc từ năm 2007 đến
tháng 7 – 2012.
Đơn vị: triệu USD
Năm
Chỉ tiêu
2007
2008
2009
2010
2011
7 tháng 2012
Xuất khẩu
3.356
4.536
4.781
7.309
11.126
7.209
Nhập khẩu
12.502
17.123
15.970
20.019
24.593
15.658

Tổng kim ngạch
thƣơng mại
15.858
21.659
20.751
27.328
35.719
22.867
(Nguồn: Tự lập theo số liệu của Bộ Công thương, Tổng cục hải quan)
Hai tuyến hành lang và vành đai kinh tế này dù chưa được hình thành theo đúng cấp độ của
chiến lược đề ra nhưng đã được hai nước sử dụng như là tuyến chính trong trao đổi thương
mại hàng hóa giữa hai bên. Tổng kim ngạch thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong năm
2011 là 35,7 tỉ USD và chính phủ hai nước đã thông qua mục tiêu “60 tỉ USD vào năm
2015”. Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc đạt 11,1 tỷ, nhưng lại nhập trên 24,5 tỷ USD từ
Trung Quốc. Buôn bán với Trung Quốc chiếm khoảng 18,4% tổng kim ngạch ngoại thương
của Việt Nam, trong khi Việt Nam chỉ chiếm 0,98% tổng kim ngạch ngoại thương của Trung
Quốc. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba của Việt Nam (chiếm 11,3% tổng giá trị
xuất khẩu) nhưng lại là thị trường nhập khẩu lớn nhất (23,2% tổng giá trị nhập khẩu). Vượt
qua khối ASEAN, Hàn Quốc, Nhật Bản, EU , 8 tháng đầu năm 2012, Trung Quốc là thị
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 18,2 tỷ USD, tăng 17,9% so với
cùng kỳ năm 2011.
Nhìn chung, quan hệ thương mại Việt Nam - Trung Quốc vẫn còn nhiều tiềm năng phát triển.
Việt Nam hiện đang gặp bất lợi do nhập siêu từ Trung Quốc cao nên sẽ gặp khó khăn trong
việc cân đối ngoại tệ nhập khẩu, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn yếu trong cạnh
tranh nên gặp khó khăn trong việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Trung
Quốc.
Việc trao đổi hàng hóa giữa các tỉnh nằm trong hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế
Việt – Trung” cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Kim ngạch xuất khẩu biên mậu Việt Nam
– Trung Quốc qua khu vực điểm đầu mối phía Trung Quốc là Vân Nam và Quảng Tây của
Trung Quốc đã gia tăng liên tục trong thời kỳ từ năm 2005 – 2010.

Việc khai thông các tuyến hành lang có tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu của
các tỉnh vùng biên và các tỉnh trên tuyến hành lang tăng lên, song tỷ trọng của chúng trong
tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam – Trung Quốc lại có xu hướng giảm. Vì vậy, tác động

của sự phát triển hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung” chưa mang lại
lợi ích đáng kể cho Việt Nam.
3.2.1.2 Khắc phục những tồn tại trong hoạt động mậu dịch biên giới
Với Việt Nam, mua bán tiểu ngạch với Trung Quốc không thuộc phạm vi điều chỉnh của
ACFTA, lại chiếm một tỷ trọng lớn trong quan hệ thương mại song phương. Biên mậu có vai
trò quan trọng trong việc tăng cường xuất khẩu nhiều mặt hàng, tháo gỡ khó khăn cho những
mặt hàng mà Việt Nam xuất khẩu nhưng chất lượng chưa cao. Tuy nhiên việc phát triển quá
nhanh chóng, đặc biệt là các cặp chợ đường biên, lối mòn, sự bất cập về cơ sở hạ tầng,
phương tiện và biện pháp quản lý làm nảy sinh vấn đề buôn lậu và gian lận thương mại ngày
càng phức tạp và tinh vi. Phía Việt Nam đưa ra và bước đầu triển khai nhiều biện pháp: Thoả
thuận với phía Trung Quốc để từng bước áp dụng các quy định, tiêu chuẩn thống nhất cho
hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới của hai nước nhằm đưa hoạt động biên mậu vào nền
nếp và ổn định, xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng thương mại tại các tỉnh giáp biên giới Việt –
Trung, xây dựng cơ chế điều tiết, quản lý biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ trung ương đến địa
phương. Chính quyền các cấp địa phương hai bên cũng đưa ra các chủ trương nhằm đưa hoạt
động buôn bán tại vùng biên giới hai nước đi vào nề nếp, ổn định và phát triển lành mạnh như
quan tâm chấn chỉnh cũng cố các lực lượng kiểm tra kiểm soát trên địa bản mỗi tỉnh, làm
trong sạch đội ngũ chống buôn lậu và gian lận thương mại, đề ra các giải pháp tích cực, sự
phối hợp đồng bộ giữa các tỉnh biên giới với các tỉnh nội địa kế cận để chống các đường dây
buôn lậu có tổ chức liên tỉnh.
3.2.1.3 Cải thiện kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của các địa phương trong tuyến
hành lang và vành đai kinh tế
Trao đổi kinh tế thương mại trên tuyến hai hành lang, một vành đai kinh tế góp phần quan
trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các tỉnh theo hướng phát triển công nghiệp –
xây dựng và thương mại – dịch vụ, khơi dậy tiềm năng, thế mạnh tiềm ẩn của các tỉnh nằm
trên hành lang, tạo điều kiện giảm bớt những khó khăn trong sản xuất kinh doanh, giúp các

địa phương cải thiện cơ bản tình hình kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự ra đời trong tương lai một
số trung tâm kinh tế quan trọng.
Hai hành lang kinh tế tạo dựng kết cấu hạ tầng cho việc phát triển các khu kinh tế tập trung,
góp phần hiện đại hóa nông thôn và thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Thông qua hoạt động
của hành lang, các sản phẩm nông nghiệp có thị trường tiêu thụ, hạ giá thành và nâng cao
chất lượng.
Hai hành lang kinh tế tạo môi trường thuận lợi để các địa phương trong vùng thu hút đầu tư,
chuyển giao công nghệ, khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên và nhân lực để phát triển các
ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao .
Góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống vật chất, tinh thần cho nhân dân các tỉnh
trên hành lang kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp và dịch vụ gắn liền với quá
trình đô thị hoá sẽ tạo thêm nhiều việc làm, mở ra cho những người dân ở các vùng nông thôn
cơ hội kinh doanh, việc làm và tăng thu nhập.
3.2.1.4 Thúc đẩy tăng thu hút đầu tư quốc tế vào Việt Nam và Nam Trung Quốc
Hành lang và vành đai kinh tế thúc đẩy cơ sở hạ tầng phát triển, thu hút sự quan tâm của các
nhà đầu tư quốc tế đầu tư ở các vùng hành lang kinh tế. Việc xây dựng các tuyến hành lang
kinh tế và xây dựng khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc có chung một mục tiêu là
đẩy mạnh hợp tác khu vực. Hành lang tạo điều kiện liên kết về mặt địa lý, ACFTA tạo điều
kiện cho thuận lợi hóa thương mại, mang lại lợi ích to lớn cho Việt Nam và Trung Quốc cũng
như các nước trong toàn khu vực, phù hợp với xu thế hội nhập hiện nay. Xây dựng hành lang
kinh tế hình thành ưu thế mang tính khu vực, thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, mở ra các
tiềm năng và cơ hội, đặc biệt là khả năng thúc đẩy mởi cửa đối ngoại và thu hút tập trung đầu
tư.
3.2.2 Các mặt tồn tại

Hợp tác “hai hành lang, một vành đai kinh tế” hiện nay diễn ra chưa toàn diện và phát huy hiệu
quả đúng mức, đưa đến nguy cơ làm sâu sắc một số tồn tại trong thương mại Việt Trung nói riêng
và quan hệ Việt Trung nói chung.
3.2.2.1 Các dự án triển khai chậm và chưa đồng bộ
Việc triển khai hợp tác diễn ra chậm chạp và chưa đồng bộ, đặc biệt về phía Việt Nam. Đến

cuối năm 2011, cả Việt Nam và Trung Quốc vẫn chưa cụ thể hóa hợp tác này thành các kế
hoạch phát triển trong từng giai đoạn cụ thể. Trung Quốc rất tích cực và lồng ghép chương
trình hợp tác này với chiến lược phát triển vùng và chiến lược phát triển quốc gia trở thành
một thể thống nhất khá chặt chẽ và nhất quán. Trong khi đó, Việt Nam mặc dù cũng đã cố
gắng xây dựng các dự án về phát triển cơ sở hạ tầng và các chính sách buôn bán biên mậu,
song việc xây dựng còn chưa được đồng bộ hóa và gắn kết với kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội của Việt Nam cũng như kế hoạch phát triển của các tỉnh thuộc khu vực hai hành lang,
một vành đai kinh tế. Sự hợp tác vẫn mang tính chất nhỏ lẻ giữa từng tỉnh của Trung Quốc
với từng tỉnh của Việt Nam, chủ yếu chỉ là sự kết nối mang tính cục bộ địa phương.
3.2.2.2 Thâm hụt cán cân thương mại ngày càng rõ nét
- Nhập siêu từ thị trường Trung Quốc ngày càng lớn cả về giá trị và tỷ lệ tương đối.
- Tỷ lệ nhập siêu từ Trung Quốc luôn lớn hơn tỷ lệ nhập siêu của cả nước.
- Nhập siêu từ Trung Quốc chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt Nam.
- Nhập siêu từ Trung Quốc rất khó thu hẹp.
3.2.2.3 Khó khăn trong công tác phòng chống buôn lậu và gian lận thương mại biên mậu
Địa bàn biên giới Việt - Trung rộng trong khi lực lượng các ngành chức năng còn mỏng nên
vẫn còn nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng được nhu cầu vận chuyển hàng hóa xuất
nhập khẩu, thường xuyên bị ách tắc hàng hóa gây khó khăn và thiệt hại lớn về kinh tế cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Về quản lý, hiện tượng “lách luật”, lợi dụng quy định cho chọn nơi
thông quan để khai man về chủng loại, số lượng hàng hóa khi nhập vào Việt Nam vẫn xẩy ra
mà chưa biện pháp ngăn chặn triệt để; một số đối tượng lợi dụng chính sách tạm nhập - tái
xuất để trà trộn hàng hóa xuất nhập khẩu “chui” trốn thuế.
3.2.2.4 Sự thay đổi trong chính sách thương mại vùng biên của Trung Quốc
Trong nhiều năm qua, sức hút của việc thay đổi các chính sách thương mại, miễn, giảm thuế
xuất nhập khẩu do ACFTA mang lại, với Việt Nam nói riêng có thể chưa tác động lớn bằng
việc thay đổi các chính sách buôn bán biên mậu, mà phía Trung Quốc thường chủ động thay
đổi liên tục. Xuất khẩu theo con đường biên mậu, hàng hóa chất lượng thế nào cũng thường bị
đánh đồng, bị ép giá, thậm chí bán lỗ. Trung Quốc thường xuyên áp dụng các chính sách linh
hoạt để điều chỉnh lượng hàng cũng như giá hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường này
sao cho có lợi nhất cho phía Trung Quốc. Hiện Việt Nam chưa có một chiến lược tổng thể cho

việc phát triển giao lưu thương mại đối với tuyến biên giới Việt – Trung; thiếu các chính sách
cụ thể để phát triển mặt hàng xuất khẩu sang Trung Quốc; chính sách tiền tệ ngân hàng còn yếu
kém, lạc hậu.
3.2.2.5 Về vấn đề biên giới lãnh thổ và an ninh quốc phòng:
Trong thời gian qua, hai nước đã giải quyết được một số vấn đề còn tồn tại về mặt lãnh thổ
giữa hai bên. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất tế nhị và nhạy cảm. Nếu xử lý không khéo sẽ gây
dư luận xấu, giảm sự tin cậy lẫn nhau, ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của quan hệ
hai nước. Các cuộc xâm nhập, tiến công từ bên ngoài bằng các thủ đoạn thông tin kinh tế,
chính trị, tư tưởng văn hóa và các “cuộc chiến” trên mạng Internet diễn ra ngày càng phức
tạp.
3.3 Nguyên nhân hợp tác chậm phát huy hiệu quả
Việt Nam chƣa đánh giá đúng tầm quan trọng và tác động của “Hai hành lang,
một vành đai kinh tế” đến sự phát triển của đất nƣớc:
Trung Quốc là một nước lớn, luôn có tư tưởng bành trướng không chỉ sang các nước lân cận
mà cả trên phạm vi thế giới. Là một quốc gia láng giềng, phải chịu tác động trực tiếp đối với

các động thái của Trung Quốc về tranh chấp lãnh thổ trên đất liền và trên biển, hay các động
thái can thiệp kinh tế từ các hoạt động buôn bán qua biên giới, khiến Việt Nam cũng không
thể không có những e ngại nhất định trong việc triển khai chiến lược “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế”. Tuy nhiên, Việt Nam có thể lấy chính chiến lược “Hai hành lang, một vành
đai kinh tế” này làm bàn đạp để tạo một xung lực mới cho phát triển kinh tế ở Việt Nam, đặc
biệt là ở các vùng biên giới còn chậm phát triển. Hơn nữa, khi tuyến “Hai hành lang, một
vành đai kinh tế” này đi vào hoạt động, Trung Quốc sẽ nhận thấy rằng đây là một khâu không
thể thiếu trong vận hành các hoạt động kinh tế liên vùng nội địa của Trung Quốc cũng như
cầu nối Trung Quốc với ASEAN, từ đó nâng cao được vị thế đàm phán của Việt Nam trên
mọi lĩnh vực trong quan hệ Việt Nam – Trung Quốc cũng như trên trường quốc tế.
Thiếu chiến lƣợc thu hút đầu tƣ tầm quốc gia và vùng, tính liên kết vùng yếu:
“Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ” chưa hoạt động và phát huy hiệu quả đúng nghĩa là “đầu
tàu tăng trưởng” của toàn bộ vùng phía Bắc. Ngoại trừ việc tạo lập thêm một số tuyến giao
thông có tác dụng kết nối phát triển một số tỉnh khá tốt (nhưng chưa có đoạn đường nào thực

sự là đường cao tốc), quá trình phát triển vùng vẫn theo kế hoạch phát triển quốc gia truyền
thống, là tổng số “cộng” các chương trình, dự án phát triển của các tỉnh chứ không phải là sự
liên kết phát triển vùng thực sự. Cơ cấu kinh tế và cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư của nhiều
địa phương còn chưa thể hiện và chưa tạo nên sự phân công lao động rõ rệt để làm cơ sở cho
việc liên kết phát triển. Xét dưới góc độ về chuỗi giá trị gia tăng của hàng hóa thì sản phẩm
công nghiệp và dịch vụ của hầu hết các địa phương đều nằm ở khâu giá trị thấp, chủ yếu là
gia công hoặc sơ chế. Điều này cũng hạn chế sự hợp tác, liên kết trong phát triển giữa các địa
phương trong không gian kinh tế hai hành lang một vành đai kinh tế phía Việt Nam.
Sự chênh lệch trình độ phát triển, điều kiện hạ tầng giữa các địa phƣơng nằm trên
tuyến hai hành lang, một vành đai kinh tế:
Trong không gian kinh tế của hai hành lang, một vành đai kinh tế, phía Việt Nam chỉ có 3
tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh) có trình độ và quy mô phát triển tương
đối khá, có khoảng cách tương đối lớn về trình độ phát triển kinh tế, điều kiện hạ tầng so với
các tỉnh còn lại. Quy mô và độ mở của nền kinh tế các tỉnh, thành phố thuộc không gian kinh
tế này còn nhỏ và không đồng đều với nhau. Chính do sự chênh lệch về trình độ phát triển mà
mức độ quan tâm đến sự hình thành “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” của các địa
phương nằm trên tuyến này cũng khác nhau. Những địa phương chậm phát triển còn phải ưu
tiên nguồn lực cho các dự án ngắn hạn phục vụ cho kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của tỉnh
và đời sống mưu sinh của nhân dân, trong điều kiện nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà
nước có hạn, việc xã hội hóa thu hút đầu tư chưa được phát huy, nên việc phân bổ đầu tư cho
những công trình, dự án liên quan đến hành lang kinh tế chưa được các địa phương chú trọng
đúng mức.
Cơ sở hạ tầng yếu kém:
Hệ thống giao thông, nhất là đường bộ, đường sắt, đường sông ở khu vực biên giới chưa
được cải tạo, nâng cấp đồng bộ giữa hai bên về tiêu chuẩn kỹ thuật. Mạng lưới giao thông
vận tải của Việt Nam vẫn còn yếu kém làm hạn chế khả năng liên kết, phối hợp hoạt động
phát triển. Điều đó làm cho ưu thế gần gũi về đia lý giữa hai nước chưa được phát huy triệt
để. Trang thiết bị ở một số cửa khẩu trên biên giới đất liền hai nước chưa được cải thiện. Thủ
tục xuất cảnh người, xuất nhập khẩu hàng hóa và các thủ tục khác như kiểm dịch, lệ phí…
còn chưa thật thông thoáng.

Chất lƣợng nguồn nhân lực thấp:
Chất lượng nguồn nhân lực so với yêu cầu phát triển công nghệ cao, còn yếu và thiếu. Đặc
biệt, nguồn nhân lực cho các ngành du lịch, dịch vụ cao cấp còn thiếu nghiêm trọng. Các tiêu
chuẩn chất lượng lao động hiện đại như tay nghề, chuyên môn, tri thức tin học, trình độ ngoại
ngữ và kiến thức văn hóa – lịch sử của lực lượng lao động nhìn chung còn thấp xa so với yêu

cầu. Thêm vào đó, một số doanh nghiệp Trung Quốc không giữ chữ tín, ý thức thương hiệu,
dịch vụ hậu mãi kém nên đã ảnh hưởng đến hình ảnh của nhà đầu tư Trung Quốc ở Việt Nam.


Chƣơng 4
MỘT SỐ GỢI Ý VỀ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY QUAN HỆ THƢƠNG MẠI
VIỆT – TRUNG THÔNG QUA HỢP TÁC “HAI HÀNH LANG, MỘT VÀNH ĐAI
KINH TẾ”

4.1 Cơ hội và thách thức đối với phát triển quan hệ thƣơng mại Việt - Trung trong hợp
tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”
4.1.1 Cơ hội
- Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có mối quan hệ nhiều mặt về lịch
sử, văn hóa. Nhân dân hai nước có truyền thống hữu nghị lâu đời, hiện đang có nhiều điểm
tương đồng về chính trị, kinh tế và xã hội.
- Bối cảnh khu vực và quốc tế có nhiều thuận lợi để hai nước tiến hành xây dựng hai
hành lang, một vành đai kinh tế.
- Hai nước đều đặt trọng tâm vào phát triển kinh tế, vì vậy đều cần môi trường xung
quanh hòa bình, ổn định để có điều kiện tập trung mọi nguồn lực cho việc thực hiện nhiệm vụ
trọng tâm.
- Hệ thống kết cấu hạ tầng của “hai hành lang, một vành đai kinh tế” về cơ bản đã
được hình thành. Tiềm năng phát triển các khu vực trên hành lang tương đối dồi dào và có
thể bổ sung cho nhau về tất cả các lĩnh vực, từ đó tạo tiền đề cho sự vận hành tuyến hành lang
và vành đai kinh tế.

4.1.2 Thách thức
- Huy động vốn cho xây dựng và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, đặc biệt quan
trọng là hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt gặp khó khăn.
- Vùng hành lang đi qua nhiều địa phương miền núi của hai nước mà trình độ phát
triển còn thấp
- Trong những trường hợp nhất định, mục đích khai thác hành lang chưa thực sự thống
nhất giữa hai nước sẽ dễ làm nảy sinh bất đồng về lợi ích.
- Hoạt động của hành lang kinh tế ngoài việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội trong
vùng còn kéo theo nhiều vấn đề phức tạp khác: tình trạng tội phạm, buôn lậu, ma túy, dịch
bệnh, ô nhiễm môi trường, an ninh quốc phòng.
4.2 Các bài học cho hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế”
Từ những kinh nghiệm phát triển Hành lang kinh tế chúng ta có thể rút ra bài học cho
“Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam –Trung Quốc”:
- Việc xây dựng hành lang kinh tế gắn với lợi ích quốc gia, vì vậy về quan điểm nhận
thức, xây dựng hành lang kinh tế phải là vấn đề chiến lược.
- Phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thông suốt, đồng bộ là điều kiện tiên quyết để
phát triển hành lang kinh tế.
- Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là yêu cầu hết sức quan trọng để vận
hành tuyến hành lang kinh tế đạt hiệu quả cao.
- Các địa phương ở hành lang kinh tế cần phải chủ động nắm bắt cơ hội, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
- Phải nhanh chóng nghiên cứu, kiện toàn các chính sách về pháp luật và cơ chế chính
sách.
- Phát triển hành lang kinh tế phải gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc
phòng.

4.3 Các giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thƣơng mại Việt - Trung
4.3.1 Giải pháp vĩ mô:
Một là, cần tăng cường trao đổi, bàn bạc ở cấp lãnh đạo cao nhất của hai quốc gia để
nâng cao hiểu biết lẫn nhau, thúc đẩy hợp tác sâu hơn, kịp thời xử lý những vướng mắc, hướng

tới mục tiêu chung là cùng nhau phát triển.
Hai là, cần hoàn thiện thể chế kinh tế, tiến tới đồng nhất hóa thể chế thương mại, đầu
tư dọc tuyến hành lang và vành đai kinh tế.
Ba là, tập trung thu hút đầu tư hạ tầng giao thông và các hạ tầng kỹ thuật cho tuyến
hành lang và vành đai kinh tế, coi đó là mục tiêu ưu tiên cao nhất để chiến lược hai hành
lang, một vành đai kinh tế sớm đi vào thực tế.
Bốn là, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư vào các hoạt động kinh tế
dọc tuyến hành lang và vành đai kinh tế, phục vụ cho chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Năm là, xây dựng chiến lược cải cách cơ cấu xuất nhập khẩu, hạn chế nhập siêu trong
quan hệ thương mại Việt – Trung.
Sáu là, xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu
phát triển của hành lang và vành đai kinh tế.
Bảy là, xây dựng chiến lược gắn kết phát triển kinh tế với nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc phòng.
Tám là, gắn kết chặt chẽ hơn hợp tác phát triển kinh tế giữa Việt Nam-Trung Quốc,
Việt Nam-ASEAN trong mối quan hệ ASEAN-Trung Quốc.
4.3.2 Giải pháp vi mô
Đối với chính quyền các địa phƣơng nằm trên hai tuyến hành lang và vành đai
kinh tế:
Từng địa phương căn cứ vào tình hình thực tế để xây dựng những cơ chế chính sách
ưu đãi riêng ở từng khu vực biên giới, các khu kinh tế cửa khẩu, ở từng cửa khẩu quốc tế hay
cửa khẩu quốc gia; nhằm tạo ra một môi trường thu hút mạnh mẽ các doanh nghiệp và tổ
chức kinh tế của cả nước tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, hoạt động dịch vụ du lịch, đầu
tư đối với địa phương. Tổ chức tốt việc tuyên truyền giáo dục nhân dân địa phương về mục
đích ý nghĩa trong việc cũng cố phát triển quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là quy luật tất yếu
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Tích cực chủ động thu hút đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng nhằm đáp ứng được yêu cầu phát
triển của hành lang và vành đai kinh tế, xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư của
mọi thành phần kinh tế vào các lĩnh vực dựa trên phát huy lợi thế so sánh tĩnh và động do sự
hình thành và phát triển hành lang và vành đai kinh tế đem lại, từng bước chuyển dịch cơ cấu

kinh tế theo hướng hiện đại, chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiếp nhận sự lan tỏa của
phát triển hành lang và vành đai kinh tế. Việc qui hoạch, thu hút đầu tư phát triển ở các địa
phương dọc tuyến hành lang và vành đai kinh tế phải có tính liên kết vùng cao, phục vụ cho
lợi ích chung của cả tuyến hành lang và vành đai kinh tế trên nguyên tắc phân công lao động
quốc tế.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam:
Doanh nghiệp Việt Nam cần phát triển mạnh loại hình buôn bán chính ngạch. Tích
cực gặp gỡ tiếp xúc để nghiên cứu đàm phán nhằm chuyển từ thương mại đơn thuần sang hợp
tác sản xuất những mặt hàng mà hai bên có tiềm năng và có nhu cầu bổ sung lẫn nhau. Phấn
đấu thu hẹp chênh lệch trong cán cân buôn bán để tạo thuận lợi phát triển thương mại. Đề
xuất kiến nghị với các doanh nghiệp Trung Quốc đề nghị phía nhà nước Trung Quốc tăng
nhập khẩu từ Việt Nam một số mặt hàng đang duy trì hạn ngạch như cao su, than đá, dầu
thực vật, đường cũng như các mặt hàng không có hạn ngạch mà Trung Quốc có nhu cầu
nhập khẩu. Thoả thuận với các doanh nghiệp phía bạn cùng nghiên cứu và có các giải pháp
giải quyết những vướng mắc trong quan hệ biên mậu, trước hết là những phương thức thanh
toán tiền hàng trong buôn bán để hạn chế đến mức thấp nhất rủi ro cho doanh nghiệp cả hai

bên bằng cách tăng cường vai trò của ngân hàng để phục vụ cho các hoạt động buôn bán, đưa
việc thanh toán qua ngân hàng đi vào nề nếp và ổn định lâu dài.
Các doanh nghiệp cần tăng cường công tác xúc tiến thương mại thông qua việc
thường xuyên tổ chức và tham gia các hội chợ triển lãm của cả hai nước, tăng cường các đoàn
qua lại để gặp gỡ, trao đổi đàm phán, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của Trung ương
cũng như địa phương thường xuyên trao đổi đoàn với nhau, giới thiệu cho nhau các đối tác
kinh doanh có thực lực, có uy tín để các doanh nghiệp trao đổi buôn bán; Tổ chức các cuộc
hội thảo, các tuần lễ giao lưu thương mại Việt – Trung.


KẾT LUẬN

Hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” hiện trong giai đoạn đầu triển khai đã

nhận được sự quan tâm, chú trọng của chính phủ, các ban, ngành và địa phương của hai nước.
Lĩnh vực hợp tác trong khu vực “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” đa dạng, giàu tiềm
năng và có triển vọng phát triển tốt. Tuy nhiên, hợp tác này được đánh giá là triển khai tương
đối chậm, chưa phát huy được thế mạnh như kỳ vọng của cả hai quốc gia. Vẫn còn những
khó khăn và thách thức để có thể hiện thực hóa những nội dung đã thỏa thuận trong Bản ghi
nhớ được ký kết giữa hai chính phủ Việt Nam và Trung Quốc. Đó là: hệ thống hạ tầng, đặc
biệt là hạ tầng giao thông cả trên đường sắt, đường bộ, đường biển, đường sông và đường
hàng không đều chưa được đầu tư thỏa đáng và đúng tiến độ, làm chậm triển khai chiến lược
hai hành lang, một vành đai kinh tế, chưa đáp ứng được yêu cầu lưu thông hàng hóa và phát
triển kinh tế; vẫn còn những e ngại về lợi ích cũng như nguy hại do hành lang và vành đai
kinh tế đem lại cho mỗi quốc gia, cùng những động thái về phá hoại kinh tế và tranh chấp
lãnh thổ khiến khó tạo được sự tin tưởng tuyệt đối lẫn nhau giữa hai đảng cầm quyền; sự phát
triển không đồng đều giữa các địa phương dọc tuyến hành lang và vành đai kinh tế; thiếu
chiến lược thu hút đầu tư tầm vùng, tính liên kết vùng yếu; chất lượng nguồn nhân lực thấp.
Hợp tác “Hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt – Trung” có tác động đẩy mạnh
quan hệ thương mại Việt – Trung theo hướng góp phần mở rộng hợp tác kinh tế Việt Nam –
Trung Quốc và Trung Quốc – ASEAN; tăng cường thông thương giao lưu hàng hóa và
thương mại quốc tế giữa các nước ASEAN qua đầu mối Việt Nam với Trung Quốc và ngược
lại, cũng như giữa các vùng nội địa Trung Quốc; thúc đẩy sự lan tỏa phát triển đến những
vùng chậm phát triển, nâng cấp điều kiện hạ tầng, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng hiện đại, nâng cao điều kiện sống cho người dân; mang lại cơ hội phát triển cho doanh
nghiệp trong nhiều ngành nghề mới dựa trên phát huy lợi thế so sánh của hành lang và vành
đai kinh tế, mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động. Hành lang và vành đai kinh tế làm
giảm chi phí vận tải hàng hóa, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa và quốc gia, tạo nên sự
lớn mạnh và phụ thuộc lẫn nhau về phát triển kinh tế ở tầm quốc gia, từ đó nâng vị thế đàm
phán của Việt Nam trên trường quốc tế, là tiền đề quan trọng để đảm bảo an ninh quốc
phòng. Đồng thời, việc mở rộng hợp tác cũng làm gia tăng nhiều bất cập cần tính đến trong
quá trình triển khai.
Trong bối cảnh quốc tế mới, với xu thế hội nhập quốc tế ngày càng phát triển sâu rộng, việc
nhanh chóng đưa hai hành lang, một vành đai kinh tế Việt Nam – Trung Quốc vào vận hành

toàn diện là một nhiệm vụ cấp thiết tầm chiến lược, ảnh hưởng to lớn đến lợi ích và vị thế
quốc gia. Chính vì vậy, cần có những giải pháp đồng bộ và khả thi ở cấp độ quốc gia, cấp độ
địa phương và cả đối với các doanh nghiệp Việt Nam đang tham gia thông thương trên thị
trường tiềm năng này.




References
Tiếng Việt
1. Nguyễn Minh Hằng (2001), Buôn bán qua biên giới Việt – Trung, lịch sử - hiện
trạng – triển vọng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Doãn Công Khánh (2008), “Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc: thực
tiễn và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 4(83).
3. Nguyễn Văn Lịch (2007), Định hướng chiến lược phát triển quan hệ thương mại
Việt Nam – Trung Quốc giai đoạn tới 2015, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Thương
mại.
4. Nguyễn Văn Lịch (2004), Nghiên cứu phát triển thương mại khu vực hành lang
kinh tế Hải phòng – Lào Cai – Côn Minh trong bối cảnh hình thành khu vực mậu dịch tự do
ASEAN – Trung Quốc, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Bộ Thương mại.
5. Nguyễn Văn Lịch (2005), Phát triển hành lang thương mại trên hành lang kinh tế,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
6. Phạm Thái Quốc (2005), “Vai trò của hành lang kinh tế Nam Ninh – Hà Nội – Hải
Phòng”, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, (51).
7. Trịnh Thị Thanh Thủy (2005), Các giải pháp để Việt Nam khai thác tối đa những lợi ích
thương mại từ chương trình thu hoạch sớm trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc,
Viện Nghiên cứu Thương mại
8. Cổ Tiểu Tùng (2005) “Ý tưởng về xây dựng hai hành lang một vành đai kinh tế”,
Tạp chí Thương mại, (36).
9. UNDP (2002), Thúc đẩy kế hoạch 5 năm hợp tác kinh tế sông Lan Thương - tiểu

vùng sông Mekong, Báo cáo nghiên cứu dự án năm 2002.
10. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2006), Kỷ yếu hội thảo “Phát triển hai hành
lang, một vành đai kinh tế Việt Nam Trung Quốc trong khuôn khổ hợp tác ASEAN – Trung
Quốc”, Hải Phòng.
11. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2005), Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Hợp tác phát
triển hành lang kinh tế Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng, Vai trò của tỉnh Lào
Cai”, Lào Cai.
12. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2000), Kỷ yếu Hội thảo quan hệ kinh tế - văn hóa
Việt Nam – Trung Quốc, Hà Nội.

Tiếng Anh
13. He Jiang Chuan – Yang Fang (2008), Social Economic Value and countermeasure
study on Resource Integration of National Sports Leisure Tourism between Guangxi and
Vietnam within the frame of "Two Corridors one ring", Journal of Physical Education
Institute of Shanxi Normal University, (11).
14. Liao Yang – Meng Li (2005), “On the construction of “Two corridors one ring”
and its impact on the relationship between China and Vietnam, With Special Reference to
Guangxi”, Philosophy and Social Sciences Edition, (05).
15. Liu Zhi (2006), “China-Vietnam “Two corridors one ring" Cooperation under
Economic Globalization and Regional Integration”, Contemporary Asia – Pacific studies,
(10).
16. Sun Jincheng (2007), On the Relationship between China-Vietnam's Two
Corridors One ring and China-ASEAN's One Pole Two Wings, Around Southeast Asia. (02)

Website:
17. Dương Quốc Anh (2008), “Vịnh Bắc Bộ: cửa khẩu nối tiếp mới của khu vực hợp
tác kinh tế”, Ngân hàng dữ liệu Lạng Sơn – Quảng Tây
www.langson.gov.vn/langsonqt/?q=node/41221.

18. Cổng thông tin điện tử của các tỉnh Lạng Sơn, Lào Cai, www.langson.gov.vn,

.
19. Dữ liệu về thị trường Tây Nam Trung Quốc (2011) “Chính sách kinh tế với khu
vực biên mậu”, www.dltntq.laocai.gov.vn/content/1020003_001.htm.
20. Nguyễn Trọng Hùng (2012), “Thương mại Việt Nam – Trung Quốc Quí I/2012
tăng so với cùng kỳ”, www.thuongmai.vn.
21. Nguyễn Thị Hồng Minh (2011), “Những kết quả bước đầu về Hợp tác kinh tế trên
tuyến hành lang Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh”, website Đảng
Cộng sản Việt Nam, www.dangcongsan.vn.
22. Phan Kim Nga (2010), “Đặc trưng của thương mại Trung - Việt và phân tích
nguyên nhân của nó”, Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác, Viện KHXH Trung Quốc,
www.vnics.org.vn/Default.aspx?ctl=Article&aID=201.
23. Đức Tuân (2008) “Quy hoạch Hai hành lang, một vành đai kinh tế”, Cổng thông
tin điện tử chính phủ, www.chinhphu.vn.
24. Josef T. Yap (2008), “Pan-Beibu Gulf Economic Cooperation Against the
Backdrop of An Unbalancedand Uncertain World Economy”,
www.bbw.gov.cn/article.php?id=23






×