Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TẠ THỊ THANH NGA
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG DỰ ÁN
ĐƢỜNG YÊN LẠC - VĨNH YÊN, ĐỊA PHẬN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
Ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số: 60 85 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ HÙNG
Thái Nguyên - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
TẠ THỊ THANH NGA
ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BỒI THƢỜNG,
HỖ TRỢ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG DỰ ÁN
ĐƢỜNG YÊN LẠC - VĨNH YÊN, ĐỊA PHẬN
HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
Ngành: QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Mã số: 60 85 01 03
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THẾ HÙNG
Thái Nguyên - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung
thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc./.
TÁC GIẢ
Tạ Thị Thanh Nga
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ,
những ý kiến đóng góp, chỉ bảo quý báu của các thầy cô Khoa Tài nguyên và Môi
trường, Phòng Quản lý đào tạo Sau Đại học, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
Để có được kết quả nghiên cứu này, ngoài sự cố gắng và nỗ lực của bản thân,
tôi nhận được sự hướng dẫn chu đáo, tận tình của PGS.TS Nguyễn Thế Hùng, là
người hướng dẫn trực tiếp tôi trong suốt thời gian nghiên cứu đề tài và viết luận văn.
Tôi cũng nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh Vĩnh Phúc, UBND huyện Yên Lạc, Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Yên Lạc; Ban Bồi thường GPMB và PTQĐ huyện Yên Lạc, các anh chị em
và bạn bè đồng nghiệp, sự động viên, tạo mọi điều kiện về vật chất, tinh thần của
gia đình và người thân.
Với tấm lòng chân thành, tôi xin cảm ơn mọi sự giúp đỡ quý báu đó!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận văn
Tạ Thị Thanh Nga
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iii
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu của đề tài 2
3. Yêu cầu của đề tài 3
4. Ý nghĩa của đề tài 3
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
1.1. Khái quát về công tác bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ 4
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư 4
1.1.2. Đặc điểm của quá trình giải phóng mặt bằng 4
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt
bằng 5
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài 9
1.2.1. Cơ sở lý luận công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 9
1.2.2. Cơ sở thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng 10
1.2.3. Cơ sở pháp lý 18
1.2.4. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của một số nước trên
thế giới và ở Việt Nam 20
1.3. Chính sách bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi
đất của Việt Nam 26
1.3.1. Thời kỳ trước khi có Luật Đất đai năm 1987 26
1.3.2. Từ khi có Luật Đất đai năm 1987 đến trước khi có Luật Đất đai
năm 1993 28
1.3.3. Từ khi có Luật Đất đai năm 1993 đến trước khi có Luật Đất đai
năm 2003 29
1.3.4. Từ sau Luật Đất đai năm 2003 32
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
iv
1.4. Công tác bồi thƣờng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nƣớc
thu hồi đất tại tỉnh Vĩnh Phúc 35
1.4.1. Kết quả thực hiện các dự án bồi thường, giải phóng mặt bằng trên
địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc 35
1.4.2. Sơ lược công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn tỉnh Vĩnh
Phúc 35
1.5. Nhận xét chung rút ra từ tổng quan các vấn đề nghiên cứu 36
Chƣơng 2: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 38
2.1. Đối tƣợng, địa bàn nghiên cứu 38
2.2. Nội dung nghiên cứu 38
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu 38
2.3.1. Phương pháp điều tra thu thập tài liệu, số liệu thông tin 38
2.3.2. Phương pháp thống kê phân tích, xử lý số liệu 39
2.3.3. Phương pháp chuyên gia 39
2.3.4. Phương pháp kế thừa các tài liệu liên quan 39
Chƣơng 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Công tác bồi thƣờng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà nƣớc
thu hồi đất tại huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc 40
3.1.1. Kết quả thực hiện 40
3.1.2. Những vấn đề tồn tại, vướng mắc 41
3.2. Khái quát chung về dự án đƣờng Yên Lạc - Vĩnh Yên 42
3.2.1. Sơ lược về dự án 42
3.2.2. Căn cứ pháp lý về dự án 44
3.3. Đánh giá kết quả công tác bồi thƣờng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
và tái định cƣ của dự án đƣờng Yên Lạc - Vĩnh Yên, địa phận huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc 47
3.3.1. Xác định điều kiện và đối tượng bồi thường, hỗ trợ 47
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
v
3.3.2. Đánh giá kết quả bồi thường, hỗ trợ về đất và các tài sản gắn liền
với đất 50
3.3.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ và chi phí lập, thẩm
định phương án bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư 54
3.3.4. Chính sách về tái định cư 56
3.3.5. Chính sách về đất dịch vụ 59
3.3.6. Đánh giá của những người trực tiếp làm công tác bồi thường, hỗ
trợ giải phóng của dự án 61
3.4. Đánh giá tác động công tác bồi thƣờng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
và tái định cƣ đến đời sống của ngƣời dân khu vực dự án 64
3.4.1. Đánh giá việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư 64
3.4.2. Đánh giá tình hình công việc của người dân sau bồi thường, giải
phóng mặt bằng và tái định cư 65
3.4.3. Đánh giá công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư qua ý kiến
người dân 67
3.5. Những thuận lợi, khó khăn và giải pháp đẩy nhanh tiến độ trong
công tác bồi thƣờng, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án 68
3.5.1. Những thuận lợi, khó khăn trong bồi thường, hỗ trợ giải phóng
mặt bằng 68
3.5.2. Đề xuất một số giải pháp để đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt
bằng 71
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 75
1. Kết luận 75
2. Kiến nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 77
PHỤ LỤC 80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CP
: Chính phủ
GPMB
: Giải phóng mặt bằng
NĐ-CP
: Nghị định - Chính phủ
PTQĐ
: Phát triển quỹ đất
QĐ-CT
: Quyết định - Chủ tịch
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
QĐ-UBND
: Quyết định -Ủy ban nhân dân
TĐC
: Tái định cư
UBND
: Ủy ban nhân dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
vii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Tổng diện tích thu hồi đất của dự án 43
Bảng 3.2. Kết quả xác định số hộ được bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt
bằng 48
Bảng 3.3. Ý kiến của người dân về việc xác định đối tượng được bồi thường,
hỗ trợ 49
Bảng 3.4. Tổng kinh phí bồi thường về đất và các tài sản gắn liền với đất 50
Bảng 3.5. Tổng kinh phí hỗ trợ và chi phí lập, thẩm định phương án bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư của dự án đường
Yên Lạc-Vĩnh Yên, địa phận huyện Yên Lạc 56
Bảng 3.6. Kết quả điều tra một số trở ngại, khó khăn đối với những
người trực tiếp thực hiện công tác bồi thường giải phóng mặt
bằng của dự án 62
Bảng 3.7. Kết quả điều tra về tình hình chỗ ở của hộ gia đình được bố trí tái
định cư 65
Bảng 3.8. Kết quả điều tra tình hình công việc của những người sau 66
Bảng 3.9. Kết quả điều tra ý kiến người dân về công tác bồi thường, hỗ trợ
giải phóng mặt bằng và tái định cư 67
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, là điều kiện tồn tại và
phát triển của con người và các sinh vật khác trên trái đất. Đó là tư liệu sản xuất đặc
biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc phòng.
Để cho các dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm phát triển kinh tế được
thực hiện đúng tiến độ, thì công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái
định cư đóng một vai trò hết sức quan trọng và mang tính quyết định. Trong những
năm qua việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư được thực hiện
theo các quy định như: Luật Đất đai 2003, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày
03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định bổ
sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền
sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất và giải quyết khiếu nại về đất đai; Nghị định số 69/2009/NĐ-CP quy định bổ
sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Tuy nhiên công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng là một vấn đề nhạy
cảm, phức tạp, còn nhiều nội dung cần phân tích, đánh giá có cơ sở khoa học thông
qua việc khảo sát thực tế, điều tra xã hội học để bổ sung sửa đổi hoàn thiện chính
sách này đảm bảo lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất, người bị thu hồi đất, duy
trì trật tự kỷ cương pháp luật, hạn chế tối đa những tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về
đất đai của nhân dân trong công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng khi Nhà
nước thu hồi đất.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn huyện Yên Lạc có nhiều dự án thực hiện
thu hồi đất, bồi thường hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư như: Dự án nâng cấp
đê tả sông Hồng kết hợp đường giao thông, cụm công nghiệp làng nghề xã Đồng Văn,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
2
Khu nhà ở dịch vụ xã Đồng Văn, cải tạo nâng cấp kéo dài kênh N
1-1
hệ thống tưới vùng
bãi… trong đó có dự án đường Yên Lạc - Vĩnh Yên, đây là dự án trọng điểm, tuyến
đường giao thông quan trọng giữa huyện Yên Lạc và thành phố Vĩnh Yên. Trong
quá trình thực hiện dự án, bắt đầu từ năm 2009 đến năm 2013, mặc dù được sự quan
tâm của UBND tỉnh Vĩnh Phúc, UBND huyện Yên Lạc, UBND thành phố Vĩnh
Yên, các cấp, các ngành nhưng công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng của dự án
vẫn gặp rất nhiều khó khăn, bất cập làm chậm tiến độ của dự án so với kế hoạch đề
ra. Vì vậy, việc nghiên cứu công tác bồi thường giải phóng mặt bằng của dự án này
để thấy được những thuận lợi, khó khăn và đưa giải pháp góp phần xây dựng các
chính sách về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của tỉnh Vĩnh Phúc. Xuất phát từ
những vấn đề nêu trên và nhận thấy được tầm quan trọng của công tác bồi thường,
hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh giá công tác bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án đường Yên Lạc - Vĩnh Yên, địa phận
huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc”.
2. Mục tiêu của đề tài
t
đườ –
, nhanh chóng và hiệu quả nhất.
- Đánh giá được kết quả công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng dự án
đường Yên Lạc - Vĩnh Yên, địa phận huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Đánh giá được ảnh hưởng của công tác giải phóng mặt bằng đến đời sống của
người dân trong khu vực dự án.
- Đánh giá được những bất cập trong cơ chế chính sách về bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng. Đặc biệt là những tồn tại trong công tác bồi thường, hỗ
trợ giải phóng mặt bằng dự án đường Yên Lạc - Vĩnh Yên, địa phận huyện Yên
Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
3
- Đề xuất được một số giải pháp và kiến nghị đối với cơ quan nhà nước có thẩm
quyền để sửa đổi, bổ sung một số nội dung liên quan đến cơ chế chính sách của Đảng
và Nhà nước trong công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự
án cho phù hợp với thực tế của đất nước và địa phương.
3. Yêu cầu của đề tài
- Nắm vững Luật Đất đai 2003, các nghị định, thông tư có liên quan đến
công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư cho người dân bị
thu hồi đất thực hiện dự án.
- Nắm chắc các quyết định, các văn bản khác có liên quan đến công tác bồi
thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư của Nhà nước, của địa phương.
- Nguồn số liệu, tài liệu, khảo sát, điều tra phải đảm bảo tính trung thực, chính
xác, phản ánh đúng hiện trạng và tình hình thực tế của dự án đã lựa chọn để nghiên
cứu. Các số liệu điều tra thu thập phải phân tích, đánh giá một cách khách quan
khoa học.
- Đánh giá được những tồn tại, khó khăn do nguyên nhân từ đâu? để đưa ra
những giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn và đẩy nhanh tiến độ thực hiện
công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng, tái định cư áp dụng trên địa bàn
nghiên cứu.
4. Ý nghĩa của đề tài
- Đánh giá việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng có
ý nghĩa rất thiết thực góp phần tìm ra biện pháp nhằm hỗ trợ giải quyết các vấn đề
bất cập của người dân ở trên địa bàn nghiên cứu nói riêng và các địa phương khác
có điều kiện tương tự.
- Kết quả nghiên cứu làm cơ sở thực tiễn góp phần thực hiện tốt hơn chính
sách về bồi thường của Nhà nước, đảm bảo lợi ích của người dân có đất bị thu hồi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
4
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Khái quát về công tác bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ
1.1.1. Khái niệm về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
1.1.1.1. Bồi thường
Tại Điều 27 của Luật Đất đai năm 1993 [16], bồi thường GPMB (hay đền bù
GPMB) là quá trình đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng.
Luật Đất đai năm 2003 [17], bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước trả lại giá trị QSDĐ đối với diện tích đất bị thu hồi cho người bị thu hồi đất.
1.1.1.2. Hỗ trợ
Luật Đất đai 2003 [17] nói rằng: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc Nhà
nước giúp đỡ người bị thu hồi đất thông qua đào tạo nghề mới, bố trí việc làm mới,
cấp kinh phí để di dời đến địa điểm mới.
1.1.1.3. Tái định cư
Tái định cư là việc di chuyển đến một nơi khác với nơi ở trước đây để sinh
sống và làm ăn. TĐC bắt buộc đó là sự di chuyển không thể tránh khỏi khi Nhà
nước thu hồi hoặc trưng thu đất đai để thực hiện các dự án phát triển. Hiện nay ở
nước ta, khi Nhà nước thu hồi đất mà phải di chuyển chỗ ở thì người sử dụng đất
được bố trí TĐC bằng một trong các hình thức sau: Bồi thường bằng nhà ở; Bồi
thường bằng giao đất ở mới; Bồi thường bằng tiền để người dân tự lo chỗ ở [17]
Vì vậy việc TĐC là không thể tách rời và giữ vị trí rất quan trọng trong chính
sách GPMB. Các dự án TĐC cũng được coi là các dự án phát triển và phải được
thực hiện như các dự án phát triển khác.
1.1.2. Đặc điểm của quá trình giải phóng mặt bằng
Giải phóng mặt bằng là quá trình đa dạng và phức tạp. Nó thể hiện khác nhau
đối với mỗi một dự án, nó liên quan trực tiếp đến lợi ích của các bên tham gia và lợi
ích của toàn xã hội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
5
- Tính đa dạng thể hiện: Mỗi dự án được tiến hành trên một vùng đất khác
nhau với điều kiện tự nhiên – kinh tế xã hội trình độ dân trí nhất định. Đối với khu
vực nội thành, mức độ tập trung dân cao, ngành nghề của dân cư đa dạng, giá trị
đất và tài sản trên đất lớn dẫn đến quá trình GPMB có đặc trưng nhất định. Đối
với khu vực ven đô, mức độ tập trung dân cư khá cao ngành nghề dân cư phức tạp,
hoạt động sản xuất đa dạng: Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, buôn
bán nhỏ v.v quá trình GPMB cũng có đặc trưng riêng của nó. Đối với khu vực
ngoại thành, hoạt động sản xuất chủ yếu của dân cư là sản xuất nông nghiệp. Do
đó GPMB cũng được tiến hành với những đặc điểm riêng biệt [15]
- Tính phức tạp thể hiện: Đất đai là tài sản có giá trị cao, có vai trò quan trọng
trong đời sống kinh tế - xã hội, đối với mọi người dân. Ở khu vực nông thôn dân cư
sống chủ yếu nhờ vào hoạt động sản xuất nông nghiệp mà đất đai lại là tư liệu sản
xuất trong khi trình độ sản xuất của nông dân thấp, khả năng chuyển đổi nghề
nghiệp khó khăn, do đó tâm lí dân cư vùng này là giữ được đất để sản xuất, thậm
chí họ cho thuê đất còn thu được lợi nhuận cao hơn là sản xuất nhưng họ vẫn không
cho thuê. Trước tình hình đó đã dẫn đến công tác tuyên truyền vận động dân cư
tham gia di chuyển là rất khó khăn. Việc hỗ trợ nghề nghiệp là điều cần thiết để
đảm bảo đời sống dân cư sau này. Mặt khác cây trồng, vật nuôi trên vùng đất đó
cũng đa dạng không được tập trung một loại cây trồng vật nuôi nhất định nên gây
khó khăn cho công tác định giá bồi thường [15]
1.1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng
1.1.3.1. Việc ban hành các văn bản và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm
pháp luật về đất đai
Ở nước ta, sau khi ban hành Luật Đất đai 1993 ra đời, Chính phủ đã ba lần
trình Quốc hội Luật sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Đất đai năm 1998, 2001
và 2003 nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Theo đó, chính
sách bồi thường, GPMB cũng luôn được Chính phủ không ngừng hoàn thiện, sửa
đổi cho phù hợp với yêu cầu thực tế triển khai. Với những đổi mới về pháp luật đất
đai, đã cơ bản đáp ứng được tính ổn định, thống nhất của pháp luật đất đai qua các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
6
thời kỳ mà công tác bồi thường, GPMB đã gặp khá nhiều khó khăn và cản trở. Thực
tiễn triển khai cho thấy việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất
đai có ảnh hưởng rất lớn đến công tác bồi thường, GPMB [23].
Việc ban hành các văn bản quy phạm về quản lý, sử dụng đất đai, việc tổ chức
thực hiện các văn bản đó cũng có vai trò rất quan trọng. Kết quả kiểm tra thi hành
Luật Đất đai năm 2003 của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy: Nhận thức của
người dân và kể cả một bộ phận không nhỏ cán bộ quản lý đất đai ở địa phương về
chính sách pháp luật nhìn chung còn hạn chế; trong khi đó việc tuyên truyền, phổ
biến của các cơ quan có trách nhiệm chưa tốt. Nhận thức pháp luật chưa đến nơi đến
chốn, thậm chí lệch lạc của một số cán bộ quản lý đất đai cùng với việc áp dụng
pháp luật còn thiếu dân chủ, không công khai, công bằng ở các địa phương chính là
nguyên nhân làm giảm hiệu lực thi hành pháp luật, gây mất lòng tin trong nhân dân
cũng như các nhà đầu tư và ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ GPMB [3] [24].
1.1.3.2. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất được xem là một giải pháp tổng thể định hướng cho
quá trình phát triển và quyết định tương lai của nền kinh tế [23]. Thông qua quy
hoạch sử dụng đất, Nhà nước can thiệp vào các quan hệ đất đai, khắc phục những
nhược điểm do lịch sử để lại hay giải quyết những vấn đề mà quá trình phát triển
đang đặt ra.
Thông qua việc lập, xét duyệt và điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất để tổ chức
việc bồi thường, GPMB thực sự trở thành sự nghiệp của cộng đồng mà Nhà nước
đóng vai trò tổ chức. Bất kỳ một phương án bồi thường GPMB nào đều dựa trên
một quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất nhằm đạt được các yêu cầu như là phương
án có hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất. Quy hoạch sử dụng đất không chỉ là công
cụ cho thị trường mà còn là phương tiện quan trọng nhất thực hiện các mục tiêu
chính trị - xã hội hoá về công bằng, dân chủ, văn minh trong bồi thường GPMB và
cũng là công việc mà hoạt động quản lý Nhà nước có ảnh hưởng nhiều nhất, hiệu
quả nhất, đúng chức năng nhất [13] [23].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
7
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất có tác động tới chính sách bồi thường
GPMB trên hai phương diện:
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những căn cứ quan trọng nhất
để thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, mà theo quy
định của Luật Đất đai năm 2003, việc giao đất, cho thuê đất chỉ được thực hiện khi
có quyết định thu hồi đất đó của người đang sử dụng [11] [8].
- Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới
giá chuyển nhượng QSDĐ, từ đó tác động tới giá đất tính bồi thường [11] [8].
1.1.3.3. Công tác đăng ký đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Theo quy định của các nước, đất đai là một trong các tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu, quyền sử dụng. Ở nước ta, theo quy định của Luật đất đai, người sử
dụng đất phải đăng ký QSDĐ tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được xét
duyệt lập hồ sơ địa chính, cấp giấy chứng nhận QSDĐ. Hệ thống hồ sơ địa chính và
giấy chứng nhận QSDĐ có liên quan mật thiết với công tác bồi thường, hỗ trợ, TĐC
và là một trong những yếu tố quyết định khi xác định nguồn gốc sử dụng đất, đối
tượng, mức bồi thường hỗ trợ.
Hiện nay, công tác đăng ký đất đai ở nước ta vẫn còn yếu kém, đặc biệt công
tác đăng ký biến động về sử dụng đất; việc cấp giấy chứng nhận QSDĐ vẫn chưa
hoàn tất. Chính vì vậy mà công tác bồi thường GPMB đã gặp rất nhiều khó khăn.
Đến nay, cả nước đã đo đạc, lập bản đồ địa chính đạt 74,9% tổng diện tích tự
nhiên và đã cấp giấy chứng nhận QDSĐ nông nghiệp đạt 85% tổng diện tích, đất ở
nông thôn đạt 82,1% diện tích, đất ở đô thị đạt 63,5%[4].
1.1.3.4. Công tác giao đất, cho thuê đất
Nhiệm vụ giao đất, cho thuê đất có tác động rất lớn đến công tác bồi thường
GPMB và TĐC. Nguyên tắc giao đất, cho thuê đất, phải căn cứ vào quy hoạch, kế hoạch
là điều kiện bắt buộc, nhưng nhiều địa phương chưa thực hiện tốt nguyên tắc này; tình
trạng quản lý đất đai thiếu chặt chẽ dẫn đến khó khăn cho công tác bồi thường [4].
1.1.3.5. Yếu tố giá đất và định giá đất
Một trong những vấn đề đang gây ách tắc cho công tác bồi thường, GPMB
hiện nay đó là giá bồi thường cho người có đất bị thu hồi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
8
Giá đất là số tiền tính trên một đơn vị diện tích đất do Nhà nước quy định hoặc
được hình thành trong giao dịch về QSDĐ. Theo quy định của pháp luật về đất đai thì
giá đất được hình thành trong các trường hợp sau đây:
- Do UBND các tỉnh, thành phố Trung ương (gọi chung là UBND cấp tỉnh)
quy định (căn cứ vào nguyên tắc, phương pháp xác định giá đất và khung giá đất do
Chính phủ quy định) và được thực hiện vào ngày 01 tháng 01 hàng năm.
- Do đấu giá QSDĐ hoặc đấu thầu dự án có sử dụng đất.
- Do người sử dụng đất thỏa thuận về giá đất với những người có liên
quan khi thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại QSDĐ;
góp vốn bằng QSDĐ.
Để xác định được giá đất chính xác và đúng đắn chúng ta cần phải có những
hiểu biết về định giá đất. Định giá đất đó là những phương pháp kinh tế nhằm tính
toán lượng giá trị của đất bằng hình thái tiền tệ tại một thời điểm khi chúng tham
gia trong một thị trường nhất định. Hay nói cách khác, định giá đất được hiểu là sự
ước tính về giá trị QSDĐ bằng hình thái tiền tệ cho một mục đích cụ thể đã được
xác định tại một thời điểm xác định.
Khi định giá đất người định giá phải căn cứ vào mục đích sử dụng của từng
loại đất tại thời điểm định giá để áp dụng phương pháp định giá đất cho phù hợp với
thực tế. Hiện nay, việc định giá đất chủ yếu sử dụng một số phương pháp truyền
thống như các nước trên thế giới thực hiện, đó là phương pháp so sánh trực tiếp và
phương pháp thu thập số liệu.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, nguyên tắc định giá đất là phải sát với
giá thị trường trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, tình hình phổ biến hiện nay là
giá đất cho các địa phương quy định và công bố đều không theo đúng nguyên tắc đó,
dẫn tới nhiều trường hợp ách tắc về bồi thường đất đai và phát sinh khiếu kiện. Kết quả
kiểm tra thi hành Luật Đất đai năm 2003 của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy
trong 17.480 đơn tranh chấp khiếu nại, tố cáo về đất đai thì có tới 12.348 trường hợp là
khiếu nại về bồi thường GPMB chiếm 70,64%. Trong các trường hợp khiếu nại về bồi
thường, GPMB thì có tới 70% là khiếu nại về giá đất nông nghiệp bồi thường quá thấp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
9
so với giá đất chuyển nhượng thực tế trên thị trường hoặc giá đất ở được giao tại nơi
TĐC lại quá cao so với giá đất ở đã được bồi thường tại nơi bị thu hồi [14]
Như vậy, nếu công tác định giá đất để bồi thường GPMB không được làm tốt
sẽ làm cho công tác GPMB ách tắc, dẫn tới không có mặt bằng đầu tư, làm chậm
tiến độ triển khai dự án hoặc làm lỡ cơ hội đầu tư.
1.1.3.6. Thị trường bất động sản
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế nước ta, thị trường bất động sản
ngày càng được hình thành và phát triển. Việc hình thành và phát triển thị trường
bất động sản góp phần giảm thiểu việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư
(do người đầu tư có thể đáp ứng nhu cầu về đất đai thông qua các giao dịch trên
thị trường); đồng thời người bị thu hồi đất có thể tự mua hoặc cho thuê đất đai,
nhà cửa mà không nhất thiết phải thông qua Nhà nước thực hiện chính sách TĐC
và bồi thường.
1.2. Cơ sở khoa học của đề tài
1.2.1. Cơ sở lý luận công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
Công tác GPMB góp phần cải thiện môi trường đầu tư, khai thác các nguồn
lực từ đất đai cho đầu tư phát triển. Cơ sở hạ tầng, kinh tế xã hội ở nước ta thời gian
qua đã được Đảng và Nhà nước quan tâm đầu tư khắp các vùng, miền trên cả nước,
đặc biệt tại các thành phố lớn đã đóng góp vào sự thành công bước đầu của công
cuộc “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”, thúc đẩy kinh tế phát triển, đáp ứng
nhu cầu vật chất, tinh thần của nhân dân. Đạt được kết quả nêu trên công tác bồi
thường GPMB đóng vai trò không nhỏ để các dự án phát huy hiệu quả.
Giải phóng mặt bằng đúng tiến độ sẽ tiết kiệm được thời gian, chi phí và sớm
thực hiện dự án và đưa vào sử dụng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Ngược lại, làm
chậm tiến độ thực hiện dự án, lãng phí thời gian, tăng chi phí, giảm hiệu quả dự án.
Thực hiện GPMB tốt sẽ giảm chi phí, có điều kiện tập trung vốn cho mở rộng
đầu tư. Ngược lại, chi phí bồi thường lớn, không kịp hoàn thành tiến độ dự án dẫn
đến quay vòng vốn chậm gây khó khăn cho các nhà đầu tư.
Đối với các dự án đầu tư sản xuất kinh doanh nếu không đáp ứng được tiến độ
đầu tư thì mất cơ hội kinh doanh, hiệu quả kinh doanh thấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
10
Đối với dự án đầu tư không kinh doanh, thời gian thi công kéo dài, tiến độ thi
công bị ngắt quãng gây ra lãng phí và ảnh hưởng tới chất lượng công trình.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn công tác bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
1.2.2.1. Thực trạng bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng và tái định cư
Việc thu hồi đất để thực hiện các dự án đã góp phần rất quan trọng trong phát triển
kinh tế - xã hội. Vấn đề bồi thường GPMB ở Việt Nam đã được đặt ra từ rất sớm, Nghị
định số 151/TTg ngày 14/4/1959 đã ban hành quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng đất;
Thông tư số 1972/TTg ngày 11/01/1970 của Chính Phủ quy định một số điểm tạm thời
về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lâu niên, các hoa màu cho nhân dân ở những
vùng xây dựng kinh tế mới. Sau khi Luật Đất đai ra đời và bước vào thời kỳ đổi mới thì
bồi thường GPMB đã được chú trọng xử lý đồng bộ phù hợp với giai đoạn mới. Quyết
định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 về đền bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi
chuyển sang sử dụng mục đích khác cùng với hàng loạt các văn bản pháp quy mới về
những vấn đề có liên quan như giá đất, quy hoạch đã hình thành một hệ thống chính sách
và tổ chức cho công tác bồi thường GPMB. Sự ra đời Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03/12/2004 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ Quy định bổ sung về việc
cấp Giấy chứng nhận QSDĐ, thu hồi đất, thực hiện QSDĐ, trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, TĐC khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai và Nghị định số
69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng
đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và TĐC đã giúp thực hiện tốt hơn công tác bồi
thường, GPMB và TĐC khi thực hiện các công trình, dự án.
Nghiên cứu kỹ nội dung các văn bản pháp quy trên đây thấy rõ một điều là các
chính sách bồi thường GPMB đều xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và được điều chỉnh
tích cực để phù hợp với các biến động của tình hình quản lý sử dụng đất đai. Trên
thực tế đã có tác dụng tích cực trong việc đảm bảo sự cân đối và ổn định trong phát
triển, khuyến khích được đầu tư và cơ bản giữ được nguyên tắc công bằng. Tuy vậy,
nếu so với những yêu cầu mới thì vẫn còn một số vấn đề bất cập đó là:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
11
- Việc bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất vẫn mang phong cách "Huy
động thời chiến" phải đặt lợi ích xã hội, lợi ích công cộng lên trên hết, sẵn sàng hi
sinh lợi ích cá nhân nên việc bồi thường là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể, chưa có
tiêu chuẩn định mức rõ ràng và người bị ảnh hưởng sẵn sàng chịu đựng, còn Nhà
quản lý cũng xem là chuyện đương nhiên và đơn giản, trong nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung thì việc xử lý có điều kiện dễ dàng thực hiện hơn ngày nay trong nền kinh tế
thị trường yêu cầu rất cụ thể về công bằng xã hội, lợi ích chính đáng của cá nhân
được tôn trọng và khuyến khích phát huy đồng thời với lợi ích xã hội và lợi ích cộng
đồng, con người cụ thể vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Nên những
quy định đã có là chưa đầy đủ, xét về mặt xã hội là chưa đảm bảo được sự cân bằng
giữa lợi ích chung (Nhà nước, xã hội, cộng đồng) và lợi ích riêng (cá nhân, hộ gia
đình, tổ chức bị ảnh hưởng). Nghị định số 97/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004 của
Chính Phủ đã có những quy định cụ thể để khắc phục nhược điểm này.
- Vấn đề cần được nhận thức lại cho thật đầy đủ là việc bồi thường GPMB là
một phần không thể xem nhẹ của nội dung phát triển, các hoạt động nhằm khôi
phục mức sống của những người bị ảnh hưởng cũng có ý nghĩa quan trọng như việc
xây dựng các công trình trên đất được giải phóng đồng thời còn được đảm bảo các
hiệu quả kinh tế xã hội là hơn hẳn so với trước khi GPMB, không thể chấp nhận
một tình trạng là trong khi các công trình xây dựng mang lại lợi ích cho số đông thì
lại phải đẩy một số người vốn đang sử dụng đất đó đang gặp khó khăn thậm chí còn
không được như trước khi xây dựng công trình.
- Trong giai đoạn hiện nay thì các chính sách của Nhà nước cần phải được
thực hiện đồng bộ và minh bạch trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ của nhà đầu
tư cũng như người chịu ảnh hưởng được thực hiện một cách thông suốt vì lợi ích
phát triển chung.
Do chưa hoàn toàn thoát khỏi cơ chế bao cấp nên kinh phí dùng để bồi thường
GPMB đều lấy từ nguồn ngân sách Nhà nước trong khi lợi ích do phát triển chưa trở
thành nguồn thu đầy đủ ổn định và hợp pháp của nhà đầu tư. Thông thường các
công trình hạ tầng kỹ thuật xã hội được xây dựng mới đều làm cho giá đất các vùng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
12
lân cận tăng lên, sau khi công trình hoàn thành người đang sử dụng đất đó đương
nhiên được hưởng mà không phải làm bất kỳ nghĩa vụ nào. Chính điều này, không
chỉ hạn chế năng lực giải quyết nhiệm vụ GPMB mà còn làm phát sinh quan hệ bất
bình đẳng kinh tế trong xã hội.
- Trong bối cảnh hệ thống pháp luật chưa đồng bộ và đang trong quá trình
hoàn thiện thậm chí có trường hợp còn gây xung đột pháp lý thì việc chỉ dựa vào
chứng cứ pháp lý để giải quyết bồi thường là chưa đầy đủ, trong rất nhiều trường
hợp phải coi trọng hiện trạng và tôn trọng những vấn đề có tính lịch sử, tập quán có
tính xã hội được cộng đồng chấp nhận.
- Hầu hết các dự án xây dựng nước ta đều ách tắc trong việc bồi thường
GPMB làm cho tiến độ thi công các công trình không đạt kế hoạch và thời gian.
Điều đó đã gây ra thiệt hại không nhỏ cho các nhà đầu tư xây dựng.
- Nhiều dự án chưa có khu TĐC đã thực hiện thu hồi đất ở. Nhìn chung các địa
phương chưa coi trọng việc lập khu TĐC chung cho các dự án tại địa bàn, một số khu
TĐC đã được lập nhưng không bảo đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
- Nhiều nơi mặc dù việc bồi thường GPMB được thực hiện bằng các biện pháp
hành chính đã dẫn tới sự khiếu kiện của nhân dân kéo dài không thể giải quyết
được. Trong sự khiếu kiện đó cái chính vẫn là người dân không thoả mãn với sự bồi
thường của các chủ dự án hoặc sự định giá bồi thường thiếu công bằng, không sát
với giá thị trường ở thời điểm đó.
Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua các quy định của pháp luật về bồi thường,
hỗ trợ GPMB và TĐC khi Nhà nước thu hồi đất đã ngày càng phù hợp hơn với yêu
cầu của thực tế cũng như yêu cầu của các quy luật kinh tế. Quan tâm tới lợi ích của
những người bị thu hồi đất Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009 bãi bỏ
một số Điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP đã thể hiện được tính khả thi và vai
trò tích cực của các văn bản pháp luật trong công tác bồi thường GPMB. Qua đó tạo
điều kiện cho các dự án đầu tư thực hiện tốt công tác GPMB, góp phần không nhỏ
vào việc thu hút nguồn vốn đầu tư, tạo nguồn lực sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác quản lý hành chính Nhà nước về đất đai, chuyển đổi cơ cấu sản xuất,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
13
phát triển đô thị, đời sống của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao tạo
bước đà lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Theo báo cáo chưa đầy đủ của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, sau
gần 7 năm triển khai thực hiện Luật Đất đai, tổng diện tích đất đã thu hồi là 728 nghìn
ha (trong đó có 536 nghìn ha đất nông nghiệp) của 826.012 hộ gia đình, cá nhân để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát
triển kinh tế.
Các tỉnh, thành phố thu hồi diện tích đất lớn là Đắk Lăk (114.524 ha), Điện
Biên (66.944 ha), Sơn La (61.334 ha), Nghệ An (33.357 ha), Bình Phước (27.109 ha),
Quảng Nam (24.541 ha), Quảng Ninh (13.529 ha), Gia Lai (12.301 ha). Tỉnh thu hồi
diện tích đất ít là Vĩnh Long (325 ha), Tiền Giang (448 ha), Hậu Giang (974 ha).
Nhìn chung, diện tích đất được thu hồi đã đáp ứng được mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của địa phương; các quy định về bồi
thường, hỗ trợ, TĐC từng bước được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với cơ chế quản lý
kinh tế thị trường, đảm bảo tốt hơn quyền lợi hợp pháp của người bị thu hồi đất. Việc
tổ chức thực hiện thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, TĐC của Trung tâm PTQĐ bước
đầu đã phát huy hiệu quả tốt, góp phần đáp ứng nhu cầu "đất sạch" để thực hiện các
dự án đầu tư nhất là các dự án đầu tư nhằm mục đích công cộng [4]
1.2.2.2. Những ưu, nhược điểm về tình hình giải phóng mặt bằng trong thời gian qua
a) Những mặt đạt được
- Đối với trường hợp thu hồi đất để sử dụng vào mục đích lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng, quốc phòng, an ninh; việc triển khai bồi thường, hỗ trợ, TĐC khá
thuận lợi và ít gặp trở ngại từ phía người có đất bị thu hồi.
- Các quy định về thu hồi đất, bồi thường, TĐC ngày càng phù hợp hơn với
quy luật kinh tế, quan tâm nhiều hơn đến lợi ích của người có đất bị thu hồi; trình
tự, thủ tục thu hồi đất ngày càng rõ ràng hơn.
- Nhiều địa phương đã vận dụng chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC thỏa
đáng nên việc thu hồi đất tiến hành bình thường hầu như không có hoặc có rất ít
khiếu nại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
14
- Việc bổ sung quy định về tự thỏa thuận giữa nhà đầu tư cần đất với người sử
dụng đất đã giảm sức ép từ các cơ quan hành chính trong việc thu hồi đất [34].
b) Những mặt thiếu sót, yếu kém và vướng mắc
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền của Nhà nước với tư cách là đại
diện sở hữu toàn dân về đất đai và quyền của người sử dụng đất được pháp luật
công nhận. Đặc biệt là trong việc định giá đất bồi thường, xử lý mối tương quan
giữa giá đất thu hồi với giá đất TĐC.
- Chưa giải quyết tốt việc làm cho người có đất bị thu hồi, nhất là đối với nông
dân không còn hoặc còn ít đất sản xuất hoặc những người không còn việc làm như
nơi ở cũ.
- Chưa giải quyết tốt mối quan hệ về lợi ích giữa nhà đầu tư cần sử dụng đất
với người có đất bị thu hồi. Việc quy định giá đất quá thấp so với giá chuyển
nhượng QSDĐ thực tế trên thị trường tuy có tác động tích cực tới việc khuyến
khích nhà đầu tư nhưng lại gây ra những phản ánh gay gắt của những người có đất
bị thu hồi.
- Giá đất bồi thường, hỗ trợ nhìn chung chưa sát giá thị trường trong điều kiện
bình thường, trong nhiều trường hợp quá thấp so với giá đất cùng loại chuyển
nhượng thực tế, đặc biệt là đối với đất nông nghiệp trong khu vực đô thị và liền kề
với khu dân cư. Tại vùng giáp ranh giữa các tỉnh và vùng giáp ranh giữa đô thị và
nông thôn còn chênh lệch quá lớn về giá đất bồi thường, hỗ trợ.
- Tiền bồi thường đất nông nghiệp thường không đủ để chuyển sang làm
ngành nghề khác. Những trường hợp bị thu hồi đất ở thì tiền bồi thường trong nhiều
trường hợp không đủ để nhận chuyển nhượng lại đất ở tương đương hoặc nhà ở mới
tại khu TĐC.
- Tại nhiều dự án, các cơ quan có trách nhiệm thực hiện bồi thường, hỗ trợ,
TĐC để GPMB chưa thực hiện đúng trình tự, thủ tục từ khi công khai quy hoạch,
thông báo kế hoạch, quyết định thu hồi, v.v…
- Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế hoặc xây dựng công
trình công cộng nhưng một thời gian sau lại quyết định sử dụng vào mục đích xây
dựng nhà ở hoặc phân lô bán nền.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
15
- Nhiều dự án chưa có khu TĐC đã thực hiện thu hồi đất ở. Nhìn chung các địa
phương chưa coi trọng việc lập khu TĐC chung cho các dự án tại địa bàn, một số
khu TĐC đã lập nhưng không bảo đảm điều kiện tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ.
- Chính sách bồi thường, hỗ trợ và TĐC ngày càng được Nhà nước quan tâm
giải quyết thoả đáng hơn, tuy nhiên, việc thay đổi chính sách cùng với việc thiếu sự
vận dụng cụ thể, linh hoạt tại các dự án mức bồi thường khác nhau do sự thay đổi
chính sách đã dẫn tới sự so bì và khiếu kiện kéo dài của người có đất bị thu hồi. Vì
vậy việc GPMB để thực hiện một số dự án không bảo đảm tiến độ.
- Một số địa phương thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, chưa
làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, giải thích cho nhân dân hiểu rõ quy định
của pháp luật, hoặc né tránh, thiếu cương quyết, không giải quyết dứt điểm, làm cho
việc GPMB bị dây dưa kéo dài nhiều năm.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác bồi thường, GPMB gồm các thành viên được
trưng tập từ các ngành khác nhau, thiếu kinh nghiệm, chưa am hiểu sâu chính sách,
pháp luật về đất đai, lúng túng trong việc giải thích chính sách pháp luật cho nhân
dân, thậm chí làm trái quy định của pháp luật, dẫn tới khiếu nại và phải tạm dừng
việc GPMB.
- Nhiều nhà đầu tư không đủ khả năng về tài chính để bồi thường, hỗ trợ cho
người có đất bị thu hồi.
- Trong nhiều trường hợp, việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ, TĐC đã
được giải quyết đúng pháp luật, thoả đáng nhưng người sử dụng đất hoặc do không
hiểu pháp luật, cố ý trì hoãn để được bồi thường hỗ trợ thêm nên không chấp hành
quyết định thu hồi đất, thậm chí liên kết khiếu nại đông người, gây áp lực với cơ quan
nhà nước. Trong khi đó, cơ chế về giải quyết đơn thư khiếu nại còn nhiều bất cập đã
làm cho việc giải quyết khiếu nại kéo dài, gây ách tắc việc GPMB [34].
c) Việc áp dụng, thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng
và tái định cư:
Chính sách bồi thường GPMB cho các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích
quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế được Luật Đất đai 2003 quy định, cụ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu
16
thể hóa các quy định đó bằng các Nghị định của Chính phủ Theo các quy định mới
của hệ thống pháp luật, vấn đề con người được đặt lên trước hết khi Nhà nước thực
hiện thu hồi đất. Người sử dụng đất hợp pháp luôn được pháp luật bảo hộ kèm với
những chính sách cụ thể giúp người có đất bị thu hồi (đặc biệt là người nông dân)
có đủ khả năng tái tạo lại tư liệu sản xuất tương đương với giá trị QSDĐ bị thu hồi,
tài sản bị thiệt hại để phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên cũng còn
nhiều bất cập từ phía các chủ thể, là một trong những nguyên nhân chính của tình
trạng khiếu kiện gia tăng trong lĩnh vực đất đai hiện nay. Hậu quả thu hồi đất thấp,
nhiều dự án bị chậm tiến độ do không giải phóng được mặt bằng là áp lực kìm hãm
phát triển kinh tế - xã hội ở nhiều địa phương trong cả nước [34].
d) Tình hình đời sống việc làm của các hộ dân có đất bị thu hồi
Tình hình chung
Vấn đề đời sống, việc làm của người có đất bị thu hồi đang được khá nhiều cơ
quan, đơn vị quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Do tốc độ đô thị hoá nhanh cùng với
việc tăng cường đầu tư phát triển công nghiệp và đô thị ở các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương trong những năm gần đây nên một diện tích lớn đất nông nghiệp đã
phải chuyển sang để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị mới và các công trình
kết cấu hạ tầng kỹ thuật…Việc chuyển mục đích đối với đất nông nghiệp nêu trên đã
ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống, việc làm của người dân bị thu hồi.
Những tồn tại về lao động, việc làm do bị thu hồi đất sản xuất. Những năm gần
đây, trong tổng số lao động bị mất đất sản xuất khu vực nông thôn, cả nước có
khoảng 280.000 người di cư từ nông thôn đến các đô thị để tìm kiếm việc làm. Tuy
nhiên, so với ít nhất 7 triệu lao động ở nông thôn hiện có đất canh tác do bị thu hồi
đất phục vụ cho các công trình, dự án đầu tư trong và ngoài nước trong tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện họ đang rất cần công ăn việc làm. Con số này
chưa tính đến 85 vạn người bổ sung cho lực lượng lao động sản xuất nông nghiệp
hàng năm. Trong khi đó, mỗi năm Việt Nam mất khoảng 73.300 ha đất nông nghiệp,
chủ yếu cho công nghiệp, giao thông, xây dựng khu đô thị, xây dựng khu dân cư
nông thôn, tuy chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng quỹ đất và lao động hiện có nhưng kéo