Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.26 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ QUYÊN

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT
VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VÕ THỊ QUYÊN

HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT
VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật

Mã số

: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH ĐÀO TRÍ ÚC



HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƯỜI CAM ĐOAN

Võ Thị Quyên


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN

KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở
VIỆT NAM
1.1.

8

Vị trí, vai trị của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

8

1.1.1. Khái niệm ngành xây dựng và các ngành trực tiếp có liên quan

8

1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các chủ thể tham gia
vào q trình hình thành cơng trình xây dựng

9

1.1.3. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân

10

1.2.

Khái niệm và cấu trúc của khung pháp luật về Xây dựng cơ bản

12

1.2.1.


Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối
tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản

12

1.2.2. Vai trị và q trình hình thành cơ chế quản lý đầu tư xây dựng

19

1.2.3. Các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về đầu tư xây dựng
cơ bản

23

1.3.

Nội dung của khung pháp luật về xây dựng cơ bản

28

1.4.

Kinh nghiệm quốc tế về đầu tư xây dựng

28

1.4.1. Trung Quốc

28


1.4.2. Malaysia

31

1.4.3. Pháp

31

1.4.4. Hoa Kỳ

32

Chương 2: THỰC TRẠNG KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

36

2.1.

Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động đầu tư xây dựng ở Việt Nam

36

2.2.

Quy định của pháp luật Việt Nam về Xây dựng cơ bản

37



2.2.1. Pháp luật về quy hoạch xây dựng

37

2.2.2. Pháp luật về dự án đầu tư xây dựng

39

2.2.3. Pháp luật về khảo sát, thiết kế xây dựng

43

2.2.4. Pháp luật về xây dựng cơng trình

47

2.2.5. Pháp luật về lựa chọn nhà đầu tư và hợp đồng xây dựng

55

2.2.6. Pháp luật về quản lý Nhà nước về xây dựng

57

2.3.

Những kết quả đạt được trong hoạt động xây dựng khung
pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam


Một số bất cập và hạn chế trong việc xây dựng và thực thi
khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam
2.4.1. Về hệ thống pháp luật
2.4.2. Một số vấn đề khác

60

2.4.

3.1.
3.2.
3.2.1.
3.2.2.
3.3.
3.3.1.
3.3.2.
3.3.3.

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ XÂY DỰNG
CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
Sự cần thiết phải hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ
bản ở Việt Nam
Những yêu cầu và phương hướng hoàn thiện khung pháp luật
về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam
Những yêu cầu hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ
bản ở Việt Nam
Phương hướng hoàn thiện
Các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ
bản ở Việt Nam

Các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật điều chỉnh xây
dựng cơ bản ở Việt Nam
Hoàn thiện, nâng cao tổ chức thực hiện pháp luật về xây dựng
cơ bản
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về xây
dựng cơ bản
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

65
65
77

79
79
83
83
85
86
86
97
100
102
104


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế - xã hội nước ta năm 2013 tiếp tục bị ảnh hưởng bởi sự bất ổn
của kinh tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ cơng ở Châu

Âu chưa được giải quyết triệt để. Hệ quả xấu vẫn đang tiếp diễn từ sự suy
thoái trong khu vực đồng euro với khủng hoảng tín dụng và tình trạng thất
nghiệp gia tăng tại các nước thuộc khu vực này. Thương mại toàn cầu bị tác
động mạnh, giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Các nền kinh tế đầu tàu suy
giảm kéo theo sự giảm sút của các nền kinh tế khác. Một số quốc gia và khối
liên minh lớn có vị trí quan trọng trong quan hệ thương mại song phương với
nước ta như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật bản và EU đối mặt với nhiều thách thức,
khó khăn nên tăng trưởng chậm. Những bất lợi từ sự suy giảm của kinh tế thế
giới ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống dân cư
trong nước. Thị trường tiêu thụ hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao,
sức mua giảm mạnh. Vấn đề nợ xấu ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Nhiều
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ phải thu hẹp sản xuất, dừng
hoạt động hoặc giải thể, phá sản. Trong đó, ngành xây dựng là lĩnh vực chịu
ảnh hưởng trực tiếp, nhiều nhất từ khó khăn chung đó. Hầu hết các doanh
nghiệp thuộc ngành xây dựng đều phải hứng chịu thiệt hại nặng nề từ cơn bão
khủng hoảng kinh tế thế giới, chịu nhiều khó khăn do việc chậm tiêu thụ, tồn
đọng hàng hoá lớn, thất nghiệp tăng cao. Chủ đầu tư các dự án lại chậm thanh
toán, lãi suất cho vay cịn cao, khó tiếp cận nguồn vốn... Đặc biệt như lĩnh vực
xây lắp, nhiều cơng trình không thể triển khai thi công tiếp do chưa thu xếp
được vốn của chủ đầu tư, dẫn đến bị đình trệ hoặc tạm hoãn, khiến nhiều
doanh nghiệp bất động sản phải “gồng mình” gánh chi phí lãi vay và các chi
phí đầu vào liên tục tăng cao. Về nhà ở và hạ tầng, lượng vốn huy động từ xã
hội lại rất thấp do thị trường bất động sản đang đóng băng cùng những khó
khăn, hạn chế trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng đã làm
1


cho nhiều dự án phát triển nhà và đô thị phải dừng đầu tư, hoặc triển khai cầm
chừng. Theo dự tính của các chun gia kinh tế, khủng hoảng ln mang tính
chất chu kỳ của kinh tế thị trường, chính vì vậy phần lớn các quốc gia trên thế

giới đều tính đến vai trị ngành xây dựng trong việc vực dậy nền kinh tế trong
thời gian ngắn hạn cũng như dài hạn. Do đặc thù ngành xây dựng trải rộng
khắp toàn quốc, trải đều trên nhiều vùng, với số lượng công việc đa dạng nên
khả năng kiến tạo và chuyển đổi việc làm nhanh, tiêu thụ nhiều sản phẩm đầu
ra của các ngành khác.
Trước tình hình kinh tế biến động phức tạp như vậy, Đảng, Quốc hội và
Chính phủ thẳng thắn nhìn nhận và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong nội tại
nền kinh tế, đồng thời đi sâu phân tích những cơ hội và thách thức hiện nay,
trên cơ sở đó ban hành nhiều văn bản quan trọng với những định hướng đúng
đắn trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành kinh tế-xã hội. Mà trọng yếu là Xây
dựng cơ bản, một ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn, tạo cơ sở hạ tầng quan
trọng cho sự phát triển đất nước, đồng thời bao trùm phổ rộng các loại quan
hệ xã hội tham gia vào đời sống kinh tế, vì vậy ngành này đứng trước yêu cầu
cấp bách là thay đổi căn bản cách thức quản lý nhà nước thơng qua việc hồn
thiện khung pháp luật về Xây dựng cơ bản, nhằm vượt qua những khó khăn
thách thức to lớn trước mắt của tồn ngành nói riêng cũng như của nền kinh tế
nói chung.
Những bất cập phát sinh trong quá trình thực hiện dự án, làm chậm tiến
độ, lỡ cơ hội đầu tư; việc quy định trách nhiệm của các chủ thể chưa rõ ràng,
các chế tài chưa đủ mạnh, nên tình trạng vi phạm pháp luật xây dựng vẫn còn
tràn lan, tiếp diễn phức tạp nhưng lại thiếu các căn cứ để xử lý. Một trong
những nguyên nhân dẫn đến tồn tại này là hệ thống pháp luật điều chỉnh
những vấn đề về xây dựng cơ bản chưa được thống nhất, chưa được điều
chỉnh kịp thời. Phạm vi, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ
bản cần đầy đủ, toàn diện hơn: điều chỉnh toàn bộ các hoạt động xây dựng,
2


như đầu tư xây dựng, từ việc lập quy hoạch xây dựng đến lập dự án đầu tư
xây dựng công trình, khảo sát, thiết kế, thi cơng xây dựng, quản lý dự án,

giám sát việc xây dựng, nghiệm thu, thanh quyết toán... Tiếp tục tập trung hơn
nữa vào điều chỉnh, quản lý các hoạt động đầu tư xây dựng ở nông thôn - nơi
đang gây bức xúc do tốc độ đơ thị hóa nhanh, như xây dựng lấn chiếm đất
cơng, tranh chấp, khiếu kiện, ô nhiễm môi trường... Công tác quản lý đầu tư
xây dựng cơ bản cịn có những biểu hiện tuỳ tiện không tuân theo pháp luật và
chưa đáp ứng được yêu cầu ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, như tình trạng
xây dựng tự phát không tuân thủ quy hoạch, quy chuẩn, tiêu chuẩn xây dựng,
buông lỏng công tác tiền kiểm của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng
trong giai đoạn hình thành dự án dẫn đến việc chủ đầu tư có thể tùy tiện thay
đổi, chỉnh sửa thiết kế. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch được
duyệt còn yếu kém, chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng
đồng.Vấn đề quy định, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn
mất nhiều thời gian, chưa đáp ứng được thực tế yêu cầu phát triển. Ngoài ra,
việc đầu tư nghiên cứu xây dựng mới hệ thống các quy trình, quy phạm tiêu
chuẩn và quy chuẩn, phương pháp thiết kế quy hoạch xây dựng và quản lý
các loại quy hoạch xây dựng cũng chưa được quan tâm một cách thỏa đáng,
chưa phù hợp với yêu cầu quản lý và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện
nay và tương lai. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu quản lý toàn diện về phát triển xây dựng trong cả
nước, tại các vùng, các khu vực đặc thù, như các loại quy hoạch xây dựng
vùng liên tỉnh, liên huyện; quy hoạch xây dựng các khu kinh tế, khu du lịch
sinh thái, quy hoạch xây dựng nơng thơn ngồi các điểm dân cư nơng
thơn… Các văn bản pháp luật cịn thiếu và khơng đồng bộ như vậy thì việc
tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật đã ban hành gặp nhiều khó khăn,
đã ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức sống và làm việc theo pháp luật của các
3


cá nhân, tổ chức tạo nên rào cản lớn gây trở ngại cho sự phát triển ổn định

kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ những lý do trên, học viên đã lựa chọn đề tài là “Hoàn thiện khung
pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” cho luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, có một số luận án đã nghiên cứu các vấn đề chuyên ngành của
luật xây dựng như: đề tài Phân cấp quản lý nhà nước về xây dựng của Ths.
Đỗ Thị Hồng Mai, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2007; đề tài Pháp luật về
các hình thức huy động vốn đầu tư xây dựng nhà ở tại Việt Nam, của Ths. Hà
Thị Thu Trang, Đại học quốc gia Hà Nội, năm 2014; đề tài Pháp luật về đăng
ký quyền sở hữu nhà ở Việt Nam của Ths. Nguyễn Mạnh Khởi, Đại học quốc
gia Hà Nội, năm 2010; đề tài Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành
chính trong lĩnh vực xây dựng, liên hệ qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội của
Ths. Quân Ngọc Anh năm 2009. Các luận án mới chỉ nghiên cứu, đánh giá
các quy phạm pháp luật xây dựng ở từng lĩnh vực cụ thể mà chưa có cơng
trình đánh giá tổng thể hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam
hiện nay. Ngoài ra, tồn tại một luận án tiến sĩ về hệ thống văn bản pháp luật
về xây dựng cơ bản của Việt Nam là đề tài Hoàn thiện hệ thống văn bản quy
phạm pháp luật của ngành xây dựng của TS. Bùi Sĩ Hiển, Đại học quốc gia
Hà Nội, năm 2004 nhưng luận án đã sử dụng các văn bản pháp luật hiện nay
đã hết hiệu lực, chưa có đánh giá, so sánh với Luật xây dựng năm 2014 mới
được ban hành trong thời gian vừa qua. Chính vì vậy, đề tài “Hồn thiện
khung pháp luật về Xây dựng cơ bản ở Việt Nam” là mới so với các đề tài
nghiên cứu trước đây.

4


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn nhằm đánh giá
thực trạng hệ thống pháp luật về xây dựng cơ bản, để xác định phương hướng và

nội dung hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích cơ sở lý luận của sự hình thành và phát triển pháp luật về xây
dựng cơ bản, những đặc điểm, đặc trưng pháp luật về xây dựng cơ bản;
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật về xây dựng cơ bản và
từ thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua, xác
định phương hướng, đề xuất nội dung cụ thể hoàn thiện pháp luật về xây dựng
cơ bản;
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận, thực trạng pháp luật về xây dựng cơ
bản, thực tiễn thi hành pháp luật về xây dựng cơ bản trong thời gian qua và có
tham khảo một cách chọn lọc pháp luật của một số quốc gia khác, đề xuất các
quan điểm, giải pháp hoàn thiện nội dung, hình thức pháp luật về xây dựng cơ
bản ở Việt Nam hiện nay. Trong đó tập trung vào việc hồn thiện các quy định
pháp luật về xây dựng cơ bản tạo khung pháp lý tối ưu cho việc tổ chức và
hoạt đông quản lý xây dựng cơ bản đáp ứng yêu cầu đổi mới hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và hội nhập kinh
tế thế giới.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, học viên vận dụng các phương pháp
khoa học như: phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
phương pháp xã hội học, kết hợp phương pháp thống kê, phương pháp hệ
thống hóa, phương pháp phân tích mô tả, phương pháp so sánh luật học,
phương pháp tiếp cận thu thập thông tin, phương pháp nghiên cứu tài liệu…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống pháp luật hiện hành về
xây dựng cơ bản ở Việt Nam. Qua nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng hệ
5


thống pháp luật về xây dựng cơ bản, luận văn đề xuất hệ thống các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào nghiên cứu công tác xây
dựng pháp luật về xây dựng cơ bản trên cơ sở hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật xây dựng cơ bản và các văn bản quy phạm pháp luật có liên
quan. Luận văn phân tích và khái quát các yêu cầu cụ thể chuyên ngành
liên quan đến xây dựng cơ bản để làm nổi bật vấn đề quan tâm chủ yếu:
hoàn thiện khung pháp luật về xây dựng cơ bản nhằm đáp ứng yêu cầu đổi
mới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay.
6. Những điểm mới và ý nghĩa của đề tài
- Luận văn là cơng trình mới, đầu tiên, khơng trùng lặp với bất kỳ đề tài
khoa học nào đã công bố trước đây và nghiên cứu một cách toàn diện, tập
trung và trực tiếp vấn đề lý luận về pháp luật xây dựng cơ bản nhằm mục đích
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xây dựng cơ bản bao gồm hồn
thiện về hình thức và nội dung, theo hướng ngày càng đồng bộ, thống nhất,
khả thi theo Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ
Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
- Luận văn hướng tới làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về xây
dựng cơ bản, tạo tiền đề quan trọng cho hoàn thiện khung pháp luật về xây
dựng cơ bản góp phần tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật đúng với
định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần hồn
thiện cơ chế, chính sách kinh tế vĩ mơ, tạo hành lang pháp lý an toàn ổn định
thúc đẩy sự phát triển bền vững đưa ngành xây dựng cơ bản nước nhà nhanh
chóng tiến kịp với các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Luận văn hoàn thành sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho các cơ
quan quản lý nhà nước về lĩnh vực xây dựng cơ bản, đặc biệt là các cơ quan

6


ban hành chính sách pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, và các trường cao

đẳng, đại học áp dụng, nghiên cứu ứng dụng trong công tác giảng dạy.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, thì nội
dung Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện khung pháp luật về xây
dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng Khung pháp luật về xây dựng cơ bản ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện khung pháp luật
về xây dựng cơ bản ở Việt Nam hiện nay.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ
XÂY DỰNG CƠ BẢN Ở VIỆT NAM
1.1. Vị trí, vai trị của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1. Khái niệm ngành xây dựng và các ngành trực tiếp có liên quan
Ngành xây dựng là một ngành cơ bản trong nền kinh tế quốc dân của mỗi
quốc gia. Ngành xây dựng còn được gọi là lĩnh vực đầu tư và xây dựng. Theo
nghĩa này thì ngành xây dựng được hiểu là toàn bộ các hoạt động liên quan
đến việc đầu tư và xây dựng các công trình như tư vấn đầu tư và xây dựng
(lập dự án, khảo sát, thiết kế, quản lý thực hiện dự án…), cung ứng vật tư,
thiết bị xây dựng; thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị vào cơng trình, các tổ
chức tài chính ngân hàng phục vụ xây dựng, các tổ chức nghiên cứu và đào
tạo phục vụ xây dựng, các cơ quan Nhà nước trực tiếp liên quan đến hoạt
động xây dựng và các tổ chức dịch vụ khác phục vụ xây dựng… [52, tr.7].
Lĩnh vực đầu tư mà ngành xây dựng quan tâm là lĩnh vực đầu tư được
thực hiện thơng qua việc xây dựng cơng trình để vận hành, sinh lợi và không

bao gồm các lĩnh vực đầu tư khác như đầu tư tài chính, đầu tư khơng kèm
theo các giải pháp xây dựng cơng trình.
Trong nền kinh tế quốc dân, bên cạnh ngành xây dựng thì cịn một số
ngành nghề khác trực tiếp có liên quan và đóng một số vai trị nhất định đối
với ngành xây dựng như ngành công nghiệp xây dựng, ngành cơng nghiệp vật
liệu xây dựng, ngành cơ khí xây dựng. Ngành công nghiệp xây dựng được
hiểu là ngành thực hiện các hoạt động thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị
thuộc cơng trình. Ngành cơng nghiệp xây dựng đóng vai trò là ngành kết thúc
giai đoạn cuối cùng tạo thành cơng trình xây dựng. Ngành cơng nghiệp xây
dựng hiện nay bao gồm tất cả các doanh nghiệp xây dựng và lắp máy thuộc
quyền quản lý của nhiều ngành, bộ, địa phương [50, tr.7].
8


Ngành công nghiệp vật liệu xây dựng là ngành sản xuất các vật liệu xây
dựng và cấu kiện xây dựng. Về bản chất, đây là ngành công nghiệp sản xuất
vật chất độc lập. Thông thường trong các doanh nghiệp xây dựng vẫn có các
hoạt động sản xuất kinh doạnh vật liệu xây dựng. Ngành cơ khí xây dựng là
ngành sản xuất các máy móc, thiết bị xây dựng để cung cấp cho ngành công
nghiệp xây dựng.
1.1.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng và các chủ thể tham gia vào
quá trình hình thành cơng trình xây dựng
Ngành xây dựng tạo ra sản phẩm cuối cùng được gọi là sản phẩm xây
dựng và sản phẩm xây dựng có những đặc điểm riêng, khác với sản phẩm của
các ngành nghề khác trong nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.1. Khái niệm về sản phẩm xây dựng
Theo nghĩa rộng, sản phẩm xây dựng với tư cách là cơng trình xây dựng
đã hồn chỉnh là tổng hợp và kết tinh sản phẩm của nhiều ngành sản xuất
khác như các ngành chế tạo máy, ngành công nghiệp vật liệu xây dựng, ngành
năng lượng, hóa chất, luyện kim… và cuối cùng là của ngành xây dựng đóng

vai trị tổ chức cấu tạo cơng trình ở khâu cuối cùng để đưa vào hoạt động.
Sản phẩm trực tiếp của ngành công nghiệp xây dựng chỉ bao gồm phần
kiến tạo các kết cấu xây dựng làm chức năng nâng đỡ, bao che và phần lắp đặt
các thiết bị máy móc cần thiết vào cơng trình cât dựng để đưa chúng vào hoạt
động. Các sản phẩm xây dựng thường rất lớn và phải xây dựng trong thời gian
dài nên để phù hợp với cơng việc thanh quyết tốn cần phân biệt sản phẩm
trung gian và sản phẩm cuối cùng của xây dựng. Sản phẩm trung gian có thể
là cơng việc xây dựng, các giai đoạn, các đợt xây dựng đã hoàn thành và bàn
giao. Sản phẩm cuối cùng là các cơng trình hay hạng mục cơng trình xây
dựng đã hồn chỉnh và có thể bàn giao đưa vào sử dụng. [57,tr.12]
1.1.2.2. Đặc điểm của sản phẩm xây dựng
Sản phẩm xây dựng với tư cách là cơng trình xây dựng có rất nhiều đặc
điểm riêng biệt khác với các sản phẩm của ngành sản xuất khác.

9


Sản phẩm xây dựng bao gồm các đặc điểm:
Thứ nhất, sản phẩm xây dựng có tính lưu động và thiếu ổn định. Điều này
có thể được lý giải bởi sản phẩm xây dựng là cơng trình, nhà cửa được xây dựng
và sử dụng tại chỗ nhưng lại phân bố tản mạn khắp các vùng lãnh thổ.
Thứ hai, sản phẩm xây dựng có kích thước lớn, thời gian xây dựng và sử
dụng lâu dài; trong quá trình hình thành nên sản phẩm xây dựng đòi hỏi nhu
cầu về vốn, lao động, vật tư, máy móc, thiết bị thi cơng rất lớn. Do đó, các
chủ thể tham gia vào q trình tạo nên sản phẩm phải tránh những sai sót,
giảm thiểu lãng phí.
Thứ ba, sản phẩm xây dựng đa dạng, phức tạp, có tính cá biệt cao về
cơng dụng, về chế tạo.
Thứ tư, sản phẩm xây dựng có liên quan đến nhiều ngành, nhiều lực
lượng khác nhau cùng hợp thành. Vì vậy, việc quản lý đầu tư xây dựng rất

phức tạp.
Thứ năm, sản phẩm xây dựng ảnh hưởng và tác động lớn đến kiến trúc
cảnh quan, môi trường tự nhiên, môi trường xã hội và do đó liên quan rất
nhiều đến lợi ích của công đồng dân cư địa phương nơi xây dựng cơng trình.
Ví dụ, khi xây dựng một nhà máy thủy điện tại một địa phương, việc xây
dựng, vận hành nhà máy thủy điện sẽ có tác động tới nguồn lợi đất và hệ sinh
thái trên đất; tác động đến thế giới động vật do hồ chứa nước của các cơng
trình thủy điện chiếm dịch tích lớn mất đi hệ quần thể thực vật vốn là thức ăn
nuôi sống động vật; tác động đến người dân sinh sống từ trước ở khu vực hồ
nước như phải di chuyển nơi sinh sống đến khu tái định cư mới…
Thứ sáu, sản phẩm xây dựng mang tính chất tổng hợp về kỹ thuật, kinh
tế, xã hội, văn hóa, nghệ thuật và quốc phịng.
1.1.3. Vai trò của ngành xây dựng trong nền kinh tế quốc dân
Nhìn chung, mỗi ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân đều có một sứ
mệnh cụ thể và đóng góp lợi ích nhất định trong việc hình thành, duy trì và
10


phát triển nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong đó, ngành xây dựng được coi
là một ngành có vai trò đặc biệt quan trọng, điều này được thể hiện ở một số
điểm sau đây:
Thứ nhất, ngành xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn (ngành cấp
1) của nền kinh tế, đóng vai trị chủ chốt ở khâu cuối cùng tạo nên cơ sở vật chất,
kỹ thuật và tài sản cố định cho mọi lĩnh vực hoạt động của xã hội dưới mọi hình
thức. Nhìn vào diện mạo đơ thị Việt Nam ngày nay thì có thể thấy phần nào vị trí
quan trọng và sức lớn mạnh của ngành xây dựng để khẳng định vị trí của một
ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất
nước. Theo sự đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì ngành xây dựng ở nước ta
là một ngành có khả năng dẫn dắt nền kinh tế và đem lại nguồn thu nhập quốc
dân rất lớn. Ngoài ra, với sự phát triển của ngành xây dựng thì mạng lưới đơ thị

quốc gia được sắp xếp lại, mở rộng và phát triển trên cả nước, góp phần quan
trọng tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu
vực nông thôn và đô thị. Ngành xây dựng cũng huy động mọi nguồn vốn đầu tư,
phát triển để xây dựng nhà ở… đáp ứng nhu cầu của xã hội. [50, tr.10]
Thứ hai, ngành xây dựng trực tiếp góp phần thay đổi các mối quan hệ
phát triển giữa các ngành kinh tế như: quan hệ giữa phát triển công nghiệp với
nông nghiệp, quan hệ giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa giáo dục
và các mối quan hệ khác. Về mặt kinh tế các cơng trình được xây dựng lên là
thể hiện cụ thể đường lối phát triển kinh tế của nền kinh tế quốc dân, góp
phần tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước, làm thay đổi cơ cấu của
nền kinh tế quốc dân, đẩy mạnh tốc độ và nhịp điệu tăng năng xuất lao động
xã hội và phát triển của nền kinh tế quốc dân. Về mặt chính trị và xã hội các
cơng trình được xây dựng lên sẽ góp phần mở rộng các vùng công nghiệp và
các khu đô thị mới. Về mặt văn hóa và nghệ thuật các cơng trình được xây
dựng lên ngồi việc góp phần mở mang đời sống cho nhân dân, đồng thời còn
làm phong phú thêm cho nền nghệ thuật của đất nước.
11


1.2. Khái niệm và cấu trúc của khung pháp luật về Xây dựng cơ bản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động đầu tư xây dựng - đối
tượng điều chỉnh của pháp luật về xây dựng cơ bản
a) Khái niệm đầu tư xây dựng
Xét về nghĩa chung nhất, đầu tư được hiểu là sự sử dụng các nguồn lực
hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định
trong tương lai. Nguồn lực được sử dụng có thể là tiền, tài nguyên thiên
nhiên, sức lao động và trí tuệ và thu được các kết quả có thể là sự tăng thêm
các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực.
Căn cứ vào bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, đầu tư được
phân biệt thành các loại như sau:

Thứ nhất, đầu tư tài chính. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất trước (gửi
tiết kiệm, mua trái phiếu...). Đầu tư tài chính khơng tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế, chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
Thứ hai, đầu tư thương mại. Đây là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ
tiền ra để mua hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận
cho chênh lệch giá khi mua và bán. Giống như đầu tư tài chính, đầu tư thương
mại không tạo ra tài sản mới cho nên kinh tế mà chỉ tăng tài chính của người
đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa
giữa người bán với người đầu tư, giữa người đầu tư với khách hàng.
Thứ ba, đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển là việc chỉ dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà máy, thiết bị, cơng trình...) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng...), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát
triển. Tùy theo nội dung tiếp cận mà hoạt động này sẽ bao gồm nhiều nội
dung khác nhau. Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, nội dung đầu tư phát
triển bao gồm: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng- kỹ
12


thuật chung của nền kinh tế, đầu tư phát triển văn hoá giáo dục, y tế và dịch
vụ xã hội khác, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật và những nội dung khác.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát triển
những tài sản vật chất, đầu tư phát triển những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển
tài sản vật chất bao gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng) và đầu tư vào
hàng tồn trữ. Đầu tư phát triển tài sản vơ hình bao gồm: đầu tư nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu các hoạt động khoa học, kỹ thuật...
Như vậy, có thể thấy đầu tư xây dựng là một nội dung của đầu tư phát
triển, là hoạt động nhằm tái tạo tài sản cố định.
Từ những phân tích nêu trên, có thể rút ra khái niệm về đầu tư xây dựng

như sau: Đầu tư xây dựng được hiểu là việc bỏ vốn để xây dựng mới, mở rộng
hoặc cải tạo những cơng trình xây dựng nhằm mục đích phát triển, duy trì,
nâng cao chất lượng cơng trình hoặc sản phẩm, dịch vụ trong một thời hạn
nhất định.
b) Đặc điểm của đầu tư xây dựng
Có thể dễ nhận thấy đầu tư xây dựng tạo ra những sản phẩm như nhà ở,
đường, trường học, bệnh viện, trụ sở cơ quan... nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản
của xã hội nên việc tạo ra những sản phẩm có hiệu quả có ý nghĩa về mặt kinh
tế và mặt xã hội. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với nước ta, một nước đang
phát triển. Đầu tư xây dựng mang nhiều đặc tính của cả cơng nghiệp sản xuất
và công nghiệp dịch vụ. Giống với các ngành sản xuất khác, nó cũng có các
sản phẩm vật chất, các sản phẩm này có kích thước, giá thành và sự phức tạp
đa dạng. Mặt khác, đầu tư xây dựng lại mang đặc điểm của một ngành công
nghiệp dịch vụ vì đầu tư xây dựng khơng tích luỹ một lượng vốn đáng kể so
với các ngành công nghiệp sản xuất khác như thép, dầu khí...; sự thành cơng
hay thất bại của một doanh nghiệp xây dựng phụ thuộc vào phẩm chất, năng
lực của con người nhiều hơn là vào kỹ thuật.
Một số đặc điểm chủ yếu của đầu tư xây dựng:
13


Thứ nhất, đầu tư xây dựng gắn liền với đất đai và phải phù hợp với quy
hoạch xây dựng
Theo Khoản 2 Điều 3 Luật xây dựng năm 2003, “Cơng trình xây dựng là
sản phẩm được tạo thành bởi sức lao động của con người, vật liệu xây dựng,
thiết bị lắp đặt vào cơng trình, được liên kết định vị với đất….” nên sản phẩm
xây dựng là yếu tố luôn gắn liền với đất đai và muốn đầu tư xây dựng thì
trước tiên phải có đất đai.
Đối với cơng trình xây dựng, điều cốt yếu là lựa chọn vị trí khu đất xây
dựng cơng trình, rồi sau mới đến việc thiết kế phương án kiến trúc, thiết kế

xây dựng cho phù hợp với vị trí và cảnh quan khu vực xung quanh khu đất.
Bên cạnh đó, trong các nội dung của đầu tư phát triển, chỉ có đầu tư xây
dựng là gắn với quy hoạch xây dựng, quy hoạch xây dựng phải đi trước một
bước, là tiền đề cho đầu tư xây dựng. Việc đầu tư xây dựng phải phù hợp với
quy hoạch xây dựng đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Mặt
khác, hiệu quả hoạt động đầu tư xây dựng phụ thuộc vào chất lượng công tác
quy hoạch.
Quy hoạch xây dựng là cơ sở cho việc triển khai các hoạt động đầu tư
xây dựng, kiểm soát q trình phát triển đơ thị và các khu chức năng, bảo đảm
trật tự, kỷ cương trong hoạt động xây dựng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh, quốc phịng, bảo vệ mơi trường. Quy hoạch xây dựng là
căn cứ cho việc hình thành các dự án và là cơ sở để quản lý đầu tư xây dựng
và quản lý trật tự xây dựng.
Nếu không có quy hoạch xây dựng thì việc đầu tư xây dựng sẽ khơng có
trọng tâm, trọng điểm hoặc gây ảnh hưởng lẫn nhau và ảnh hưởng xấu đến
mơi trường nói chung, dẫn đến mất cân bằng sinh thái, thiếu sự hài hồ trong
việc tổ chức khơng gian và sự đồng bộ trong việc kết nối các cơng trình hạ
tầng kỹ thuật ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Quy hoạch xây
dựng tạo ra động lực phát triển bền vững của vùng, miền; kiểm soát được quá
14


trình đầu tư xây dựng cơng trình; là căn cứ để xử lý, giải quyết tranh chấp
trong hoạt động xây dựng; kiểm sốt sự phát triển đơ thị, xã hội, môi trường,
hạ tầng kỹ thuật đồng bộ.
Trong trường hợp dự án khơng có trong quy hoạch ngành được cấp có
thẩm quyền phê duyệt thì nhà đầu tư phải báo cáo Bộ quản lý ngành hoặc địa
phương theo phân cấp để xem xét, chấp thuận bổ sung quy hoạch theo thẩm
quyền hoặc trình Thủ tướng chính phủ chấp thuận bổ sung quy hoạch trước
khi lập dự án đầu tư xây dựng cơng trình. Vị trí, quy mơ xây dựng cơng trình

parhi phù hợp với quy hoạch xây dựng được cấp có thẩm quyền phê duyệt.
Trường hợp dự án chưa có trong quy hoặc xây dựng thì vị trí, quy mơ xây
dựng phải được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận bằng văn bản đối với
các dự án nhóm A hoặc có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của cơ quan có
thẩm quyền phê duyệt về quy hoạch đối với những dự án nhóm B, C. Thời
gian xem xét, chấp thuận về quy hoạch ngành hoặc quy hoạch xây dựng
không quá 15 ngày làm việc.
Thứ hai, kết quả của hoạt động đầu tư xây dựng được hình thành trong
tương lai và phụ thuộc rất nhiều vào nhà thầu tham gia q trình đầu tư xây dựng
Có thể khẳng định rằng, việc tìm ra người làm ra sản phẩm xây dựng là
mối quan tâm đầu tiên của chủ đầu tư mà khơng phải là sản phẩm xây dựng.
Điều này được lí giải vì khơng phải tất cả các chủ đầu tư đều am hiểu về sản
phẩm xây dựng để đưa ra yêu cầu cho nhà thầu thực hiện. Vì thế, chủ thể
tham gia vào lĩnh vực đầu tư xây dựng bao gồm rất nhiều bên như các công ty
tư vấn thực hiện các cơng việc thăm dị, khảo sát địa chất, quy hoạch, thiết kế,
giám sát, quản lý dự án...; các nhà thầu thi công xây dựng nhằm giúp chủ đầu
tư hồn thành sản phẩm xây dựng trong khn khổ vốn đầu tư và thời gian đã
được xác định trước theo tiến độ thực hiện dự án.
Tuỳ thuộc vào mức độ chuyên ngành và quy mô tổ chức của đơn vị xây
dựng, q trình xây dựng có thể được chia thành các công đoạn khác nhau
15


mang tính chun mơn hố. Do vậy, tham gia vào quá trình đầu tư xây dựng
là một tổ hợp các đơn vị chuyên ngành khác nhau, bao gồm các công ty là nhà
thầu chính, nhà thầu phụ, các tổ chức cung cấp nguyên vật liệu, máy móc,
thiết bị và phương pháp quản lý. Kết quả của các hoạt động sản xuất phối hợp
này chính là thành phẩm xây dựng các ngơi nhà, các cơng trình...
Thứ ba, quy mơ tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư
xây dựng thường rất lớn

Vốn đầu tư cho hoạt động đầu tư xây dựng lớn nằm khê đọng lâu trong
suốt q trình thực hiện dự án. Ví dụ như một công ty A cần một số vốn
khoảng 250 - 300 triệu USD để xây dựng nhà máy xi măng mới, thời gian xây
dựng dự kiến 5 năm. Quy mô vốn đầu tư lớn nên đòi hỏi chủ đầu tư phải có
giải pháp huy động vốn hợp lý, xây dựng kế hoạch đầu tư đúng đắn, quản lý
tổng vốn đầu tư, bố trí vốn theo tiến độ thực hiện dự án. Lao động cần sử dụng
cho các dự án rất lớn, đặc biệt là đối với những dự án quan trọng quốc gia. Vì
vậy, việc tuyển dụng, đào tạo, sử dụng lao động cần có kế hoạch trước để thực
hiện sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng loại nhân lực theo tiến độ thực hiện
dự án, đồng thời hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng tiêu cực sau khi dự
án hồn thành như: việc bố trí lại lao động, giải quyết lao động dôi dư...
Thứ tư, thời kỳ đầu tư và thời gian vận hành kết quả đầu tư xây dựng kéo dài
Thời kỳ đầu tư được tính từ khi dự án được phê duyệt đến khi dự án hoàn
thành, đưa vào khai thác, sử dụng. Mỗi dự án đều có điểm khởi đầu và điểm
kết thúc rõ ràng và thường có một tiến độ thực hiện cụ thể. Ngày hoàn thành
dự án trở thành điểm đánh giá bằng khả năng có đạt được đúng thời điểm kết
thúc đã được định trước (tức ngày hoàn thành) hay khơng? Nhiều cơng trình xây
dựng có thời gian đầu tư kéo dài hàng chục năm. Do vậy, để nâng cao hiệu quả
vốn đầu tư, cần tiến hành phân kỳ đầu tư, bố trí vốn và các nguồn lực tập trung
hồn thành dứt điểm từng cơng trình, quản lý chặt chẽ tiến độ thực hiện dự án,
khắc phục tình trạng thiếu vốn, nợ đọng vốn đầu tư xây dựng.
16


Một dự án có thể tiến hành phân kỳ đầu tư cho các giai đoạn khác nhau
của dự án. Vì mỗi giai đoạn là một khoảng thời gian không quá dài, đủ để cho
người ta có thể tiên liệu được những diễn biến bất trắc có thể xảy ra, từ đó sẽ
đưa ra những phương án dự phịng đối phó cho mỗi tình huống cần thiết. Nếu
ở một giai đoạn nào đó, thời gian hồn thành phải kéo dài vượt quá số ngày
đã dự định, thì quỹ thời gian dự phịng của dự án vẫn có thể khắc phục để duy

trì sự quản lý những thay đổi cần thiết nhằm đạt được hạn định của giai đoạn
tiếp theo. Những trường hợp đặc biệt này thường được áp dụng cho các dự án
lớn, thời gian kéo dài.
Việc phân bố các công việc hay nhóm các cơng việc theo kỳ hạn (giai
đoạn) xuyên suốt dự án cho phép chủ đầu tư có thể tập trung vào giải quyết
các vấn đề ở mỗi kỳ hạn, chứ không phải tập trung vào giải quyết các vấn đề
ở cuối cùng của dự án. Vì mỗi một giai đoạn là một mắt xích khơng thể tách
rời của dự án và liên quan chặt chẽ với nhau để dẫn tới thời điểm ngày hoàn
thành đúng hạn của dự án.
Thời gian vận hành kết quả đầu tư xây dựng tính từ khi đưa cơng trình
vào khai thác, sử dụng cho đến khi hết thời hạn sử dụng và đào thải cơng
trình. Nhiều thành quả đầu tư phát huy tác dụng lâu dài như: Các Kim Tự
Tháp Ai Cập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc...
Trong suốt quá trình vận hành, các thành quả đầu tư xây dựng chịu sự tác
động cả hai mặt, tích cực và tiêu cực, của nhiều yếu tố tự nhiên, xã hội... Để
thích ứng với đặc điểm này, công tác quản lý hoạt động đầu tư xây dựng cần
chú ý một số vấn đề như: i) cơ chế và phương pháp dự báo, dự báo khoa học
về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm đầu tư tương lai, dự kiến khả năng
cung từng năm và toàn bộ vòng đời dự án ; ii) quản lý tốt quá trình vận hành,
nhanh chóng đưa cơng trình xây dựng vào khai thác, sử dụng, hoạt động tối
đa công suất để nhanh chóng thu hồi vốn, tránh hao mịn vơ hình, iii) chú ý
đúng mức đến độ trễ thời gian trong đầu tư. Đầu tư trong năm nhưng thành
17


quả đầu tư chưa chắc đã phát huy tác dụng ngay trong năm đó mà từ những năm
sau và kéo dài trong nhiều năm. Đây là đặc điểm rất riêng của lĩnh vực đầu tư
xây dựng, ảnh hưởng lớn đến công tác quản lý hoạt động đầu tư xây dựng.
Thứ năm, các thành quả của hoạt động đầu tư xây dựng là các cơng
trình xây dựng, là sản phẩm đơn chiếc, thường phát huy tác dụng ở ngay tại

nơi nó được xây dựng nên, do đó q trình thực hiện đầu tư cũng như thời kỳ
vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của các nhân tố về tự nhiên,
kinh tế, xã hội
Tính chất của sản phẩm xây dựng có tính đặc thù đơn chiếc, mỗi cơng
trình chỉ được hình thành duy nhất một lần, tại một thời điểm nhất định, với
một kinh phí riêng, mặc dù có cùng một kiểu dáng thiết kế, có thể coi sản
phẩm xây dựng là một kiểu “hàng thửa”. Mỗi công trình được xây dựng trong
những điều kiện khác biệt nhau cả về địa điểm, không gian, thời gian..., đồng
thời, môi trường ln thay đổi đã tạo nên tính duy nhất cho mỗi sản phẩm xây
dựng. Có thể có hai tồ nhà giống hệt nhau về thiết kế, kiến trúc, màu sắc...
nhưng không thể coi hai sản phẩm này như một và có cùng giá trị. Sản phẩm
xây dựng khơng giống với những sản phẩm hàng hoá được sản xuất hàng loạt
khác như: điều hồ, tủ lạnh, ti vi... chính bởi những yếu tố làm nên sự khác
biệt của nó.
Cơng trình xây dựng được liên kết định vị với đất, có tác động lâu dài
đến môi trường, cảnh quan và xã hội, do vậy, không thể dễ dàng thay thế cũng
như di chuyển từ nơi này đến nơi khác, nên công tác quản lý đầu tư xây dựng
cần chú ý đến 2 vấn đề bao gồm: i) chủ trương đầu tư và quyết định; ii) lựa
chọn địa điểm đầu tư hợp lý.
Thứ sáu, đầu tư xây dựng có độ rủi ro cao
Do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kỳ đầu tư kéo dài, thời gian vận hành kết
quả đầu tư xây dựng cũng kéo dài... nên mức độ rủi ro của hoạt động đầu tư
xây dựng thường cao. Rủi ro đầu tư xây dựng do nhiều nguyên nhân, nguyên
18


nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Về nguyên nhân chủ quan là các
nguyên nhân xuất phát từ phía nhà đầu tư như: quản lý kém, chất lượng sản
phẩm không đạt yêu cầu... Nguyên nhân khách quan như giá nguyên vật liệu
đầu vào tăng, nhà nước ban hành những chính sách mới làm thay đổi mặt

bằng giá đầu tư xây dựng, xuất hiện những yếu tố bất khả kháng như (hỏa
hoạn, lũ, lốc...), quy hoạch xây dựng thay đổi, giá bán sản phẩm giảm... Như
vậy, để quản lý hoạt động đầu tư xây dựng hiệu quả, cần thực hiện tốt các
biện pháp quản lý rủi ro bao gồm: nhận diện rủi ro, đánh giá mức độ rủi ro,
xây dựng các biện pháp phòng, chống rủi ro. [57,tr.21]
1.2.2. Vai trò và quá trình hình thành cơ chế quản lý đầu tư xây dựng
1.2.2.1. Vai trò của cơ chế quản lý đầu tư xây dựng
Ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, mỗi quốc gia đều phải xây dựng
cơ chế quản lý đầu tư xây dựng để đảm bảo hoạt động đầu tư xây dựng hiệu
quả, chất lượng, tiến bộ. Điều này xuất phát từ vai trò rất lớn của cơ chế quản
lý đầu tư xây dựng đối với hoạt động này. Vai trò của cơ chế quản lý đầu tư
xây dựng được thể hiện ở một số nội dung sau:
Thứ nhất, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần quan trọng để hoạt
động đầu tư xây dựng đúng hướng, có hiệu quả
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết trong một lá thư gửi các đại biểu
tham dự Hội nghị Kiến trúc sư họp tại chiến khu Việt Bắc trong thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp (tháng 4/1948) như sau: “Trong bốn điều quan
trọng cho dân sinh: ở và đi lại cũng cần thiết như ăn và mặc”. Có thể thấy
trong tư tưởng của Người, cuộc sống hạnh phúc của mỗi con người gắn với
nhu cầu phát triển của công cuộc xây dựng. Một mái nhà, một ngôi làng hay
một đô thị, sức mạnh của một quốc gia... đều thể hiện bằng những thành tựu
của công cuộc đầu tư xây dựng cơ bản.
Hoạt động đầu tư xây dựng có vai trị rất quan trọng và có tính chủ đạo
trong việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội của đất nước nhằm thúc đẩy
19


sự phát triển, thực hiện cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước mà Đảng và Nhà
nước đặt ra.
Ngồi ra, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của các ngành kinh

tế khác gắn liền với sự hình thành, tồn tại, phát triển của hoạt động đầu tư xây
dựng. Khởi đầu của mỗi một ngành kinh tế là sự đầu tư vào cơ sở hạ tầng, xây
dựng trụ sở, nhà xưởng, kho, cảng, bến bãi... Các ngành kinh tế muốn tồn tại
và phát triển được cũng phải gắn với việc đầu tư sửa chữa, bảo hành, bảo trì,
xây dựng mới các cơng trình xây dựng là cơ sở vật chất bảo đảm cho hoạt
động của các ngành kinh tế.
Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần tạo ra những thành tựu trong
hoạt động đầu tư xây dựng. Cơ chế quản lý đầu tư xây dựng có vị trí đặc biệt
quan trọng trong quản lý nhà nước, mà nếu khơng có nó thì nhà nước khơng
thể quản lý được hoạt động đầu tư xây dựng có hiệu quả. Do vậy, quản lý đầu tư
xây dựng phải dựa trên cơ chế quản lý đầu tư xây dựng. Cơ chế quản lý đầu tư
xây dựng góp phần quan trọng để hoạt động đầu tư xây dựng đúng hướng và có
hiệu quả, bảo đảm ổn định, trật tự trong lĩnh vực đầu tư xây dựng.
Thứ hai, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng góp phần quan trọng trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, lành mạnh hố mơi trường đầu tư
Cùng với xu thế chung của thời đại, lĩnh vực đầu tư xây dựng đã đi vào
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế ở cả phạm vi khu vực và thế giới trên nhiều
mặt công nghệ, thể chế và con người từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ
20. Hội nhập công nghệ trong lĩnh vực đầu tư xây dựng bao gồm việc tiếp thu và
sử dụng kỹ thuật, vật liệu và máy móc hiện đại. Hội nhập thể chế trong lĩnh vực
đầu tư xây dựng tập trung vào việc quản lý các dự án đầu tư xây dựng thuộc mọi
thành phần kinh tế phù hợp với cơ chế thị trường. Hội nhập về con người là
nhằm đào tạo nguồn nhân lực có đủ trình độ, năng lực làm chủ cơng nghệ mới,
cơng nghệ hiện đại.
Việc tăng cường hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực đầu tư xây dựng được
coi trọng. Trong những năm 1991-1996 đã mở rộng được quan hệ với nhiều nước,
20



×