1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN HOÀNG NGUYÊN
LIÊN KẾT THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH NHỰA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP
THUỘC HIỆP HỘI NHỰA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
Hà Nội, 2014
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN HOÀNG NGUYÊN
LIÊN KẾT THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ NHẰM
NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NGÀNH NHỰA
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP CÁC DOANH NGHIỆP
THUỘC HIỆP HỘI NHỰA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
MÃ SỐ: 60.34.04.12
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Hải
Hà Nội, 2014
3
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT 5
PHẦN MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu 8
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 12
3.1. Mục tiêu nghiên cứu 12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 12
4. Phạm vi nghiên cứu 12
5. Câu hỏi nghiên cứu 13
6. Giả thuyết nghiên cứu 13
7. Mẫu khảo sát 13
8. Phương pháp nghiên cứu 13
9. Kết cấu của Luận văn 14
CHƯƠNG 1. ……………………………………………………………………….15
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP 15
1.1. Khái niệm khoa học và công nghệ 15
1.1.1. Khái niệm khoa học 15
1.1.2. Khái niệm công nghệ 16
1.2. Thông tin khoa học và công nghệ 20
1.2.1. Khái niệm thông tin khoa học và công nghệ 20
1.2.2. Liên kết thông tin KH&CN 22
1.3. Năng lực cạnh tranh 26
1.3.1. Khái niệm năng lực cạnh tranh 26
1.4. Mối quan hệ giữa thông tin KH&CN với năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp 33
Kết luận chương 1 34
CHƯƠNG 2 35
THỰC TRẠNG LIÊN KẾT THÔNG TIN 35
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP 35
THUỘC HIỆP HỘI NHỰA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 35
2.1. Thực trạng hoạt động của Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh 35
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời 35
2.1.2. Hoạt động của Hiệp hội nhựa thành phố Hồ Chí Minh 35
2.2. Khảo sát thực trạng nhu cầu thông tin KH&CN của các doanh nghiệp 39
2.2.1. Chọn mẫu khảo sát 100 doanh nghiệp 39
2.2.2. Phương pháp khảo sát 41
2.2.3. Loại hình kinh doanh và ngành hàng của các doanh nghiệp 42
2.2.4. Quy mô nhân lực của các doanh nghiệp 44
2.2.5. Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Nhựa
thành phố Hồ Chí Minh. 47
2.3. Khảo sát nhu cầu thông tin KH&CN, liên kết thông tin KH&CN 49
2.3.1. Nhu cầu thông tin KH&CN của các doanh nghiệp 49
4
2.3.2. Sự liên kết thông tin KH&CN giữa các doanh nghiệp 52
2.4. Đánh giá liên kết thông tin KH&CN giữa các doanh nghiệp 55
2.4.1. Điểm đạt được 55
2.4.2. Điểm chưa đạt được 56
Kết luận chương 2 58
CHƯƠNG 3 59
MÔ HÌNH LIÊN KẾT THÔNG TIN KH&CN 59
ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC 59
DOANH NGHIỆP THUỘC HIỆP HỘI NHỰA TP HỒ CHÍ MINH 59
3.1. Sự cần thiết xây dựng mô hình liên kết thông tin KH&CN trong ngành nhựa
59
3.1.1. Sự cần thiết xây dựng mô hình liên kết thông tin KH&CN trong ngành
nhựa Việt Nam 59
3.1.2. Sự cần thiết xây dựng mô hình liên kết thông tin KH&CN trong các
doanh nghiệp nhựa thuộc Hiệp hội Nhựa TP Hồ Chí Minh 66
3.1.3. Đề xuất đổi mới liên kết thông tin KH&CN của các doanh nghiệp 68
3.2. Cấu trúc tổ chức của mô hình liên kết thông tin khoa học và công nghệ 71
3.2.1. Nguyên tắc tổ chức theo mô hình cây mục tiêu 71
3.2.2. Mối quan hệ giữa Trung tâm Thông tin KH&CN với các Chi hội trong việc
liên kết thông tin 73
3.3. Phương thức hoạt động của mô hình liên kết thông tin khoa học và công nghệ 73
3.3.1. Tiếp nhận thông tin khoa học và công nghệ 73
3.3.2. Lưu trữ thông tin khoa học và công nghệ 74
3.3.3. Kiểm nghiệm nguồn thông tin khoa học và công nghệ 76
3.3.4. Xử lý thông tin khoa học và công nghệ 78
3.3.5. Sử dụng thông tin khoa học và công nghệ 79
3.3.6. Kiểm tra phản hồi thông tin khoa học và công nghệ 80
3.4. Đánh giá tác động của mô hình liên kết thông tin khoa học và công nghệ đến
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 82
3.4.1. Đánh giá chung 82
3.4.2. Đánh giá tác động dương tính đến năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp 83
3.4.3. Đánh giá tác động âm tính đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 85
Kết luận Chương 3 86
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC…. 91
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ISO International Organization for Standardization
(Tổ chức Tiêu chuẩn quốc tế)
KH&CN Khoa học và công nghệ
WTO World Trade Organization
(Tổ chức thương mại thế giới)
WEF World Ecomomic Forum
(Diễn đàn kinh tế thế giới)
6
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) từ
2007. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành công nghiệp Nhựa Việt Nam
đã có nhiều tiến bộ đáng ghi nhận và được đánh giá là một trong những ngành
kinh tế năng động nhất. Hiện nay số lượng doanh nghiệp tại thành phố Hồ Chí
Minh và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương và Long An chiếm 80%
tổng số lượng doanh nghiệp nhựa trên cả nước (miền Bắc chiếm 15% và miền
Trung chiếm 5%).
Theo thống kê năm 2011, giá trị tổng sản lượng ngành nhựa Việt Nam
đạt 3.290.000 tấn tương đương 4.593 tỷ USD, tăng 10 lần so với năm 1996.
Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu của ngành nhựa đạt trên 2,2 tỉ USD. Trong
đó, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm từ nhựa đạt trên 1,8 tỷ USD, tăng
13,3% so với năm 2012; kim ngạch xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu đạt hơn
407 triệu USD, tăng 25% về lượng và 57% về kim ngạch so với năm trước
11
.
Với tốc độ phát triển 12%/năm, ngành công nghiệp nhựa Việt Nam là ngành
công nghiệp có tốc độ phát triển mạnh và là ngành công nghiệp hỗ trợ quan
trọng cho các ngành công nghiệp khác của Việt Nam như điện, điện tử, điện
tiêu dùng, ôtô, xe máy, chế biến thục phẩm, công nghệ phẩm… Một số
chuyên ngành kỹ thuật mũi nhọn cạnh tranh quốc tế chiếm ưu thế như: cáp
quang, bao bì cao cấp ( màng ghép phức hợp BOPP; chai 4 lớp; chai PET …);
vi mạch điện từ bằng PP dẫn điện; Panel pin mặt trời; nhựa nano …
Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam
trong sản xuất kinh doanh hàng nhựa cao cấp trên bình diện quốc tế đang bị
đánh giá là chưa cao.“Hiện nay, đa số các doanh nghiệp Việt Nam đang sử
dụng công nghệ lạc hậu khoảng từ 2 đến 3 thế hệ so với mức trung bình của
thế giới. Máy móc, thiết bị đang sử dụng ở các doanh nghiệp chỉ có 10% hiện
đại, 38% trung bình, 52% là lạc hậu; tỉ lệ sử dụng công nghệ cao mới chỉ có
1
Nguồn: Bộ Khoa học và Công nghệ
7
2% (tỉ lệ này ở Thái Lan là 31%, Malaysia là 51%, Singapore là 73%). Do
đó, trong thời gian tới các doanh nghiệp cần phải tăng cường ứng dụng
KH&CN vào sản xuất, kinh doanh để đảm bảo phát triển bền vững và phù
hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế”
2
Trong năm 2013, các doanh nghiệp nhựa dù vẫn gặp nhiều khó khăn như
đối mặt với sức mua giảm mạnh nhưng phần lớn vẫn duy trì được sản xuất.
Do những khó khăn của nền kinh tế thế giới nên trong năm 2014 các doanh
nghiệp tiên lượng rằng xuất khẩu của ngành nhựa chỉ đạt mức tăng trưởng
trung bình từ 13,5% - 16,5% so với năm 2013.
Theo các chuyên gia, để đạt mục tiêu phát triển ngành nhựa theo hướng
hiện đại, tăng cường tự động hóa, từng bước loại bỏ công nghệ, thiết bị cũ,
đổi mới công nghệ, sử dụng thiết bị tiên tiến, hiện đại của thế giới là điều kiện
tiên quyết. Theo đó, đầu tư phát triển ngành nhựa đi vào công nghệ tiên tiến,
công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng; tạo ra các sản phẩm có chất lượng và
giá trị gia tăng cao, giá thành hạ, đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong và
ngoài nước.
Các doanh nghiệp nhựa Việt Nam đang thiếu thông tin về KH&CN
chuyên ngành. Đã thế, thông tin KH&CN chuyên ngành cũng hầu như ít được
các nhà quản lý doanh nghiệp quan tâm tìm hiểu và ứng dụng một cách có hệ
thống. Cũng như nhiều ngành sản xuất khác ở Việt Nam, thói quen đi theo lối
mòn của chủ nghĩa kinh nghiệm đã định hình và bén rễ từ lâu trong các doanh
nghiệp nhựa, phần lớn hình thành và phát triển từ những tổ hợp gia đình, hợp
tác xã sản xuất của thời kỳ trước giải phóng và bao cấp trước đây. Thông tin
KH&CN chưa có sự liên kết cần thiết và đa số các nhà quản lý doanh nghiệp
gặp nhiều khó khăn trong việc nắm bắt, vận dụng để tăng cường năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp mình lãnh đạo. Có thể thấy, sự thiếu liên kết
thông tin KH&CN chính là một trong những rào cản kìm hãm năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp nhựa Việt Nam nói chung cũng như tại Hiệp hội
Nhựa thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
8
Bởi vậy đề tài Luận văn chuyên ngành Quản lý KH&CN Liên kết thông
tin KH&CN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngành nhựa (Nghiên cứu trường hợp các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Nhựa
thành phố Hồ Chí Minh) có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Hiệp hội Nhựa thành
phố Hồ Chí Minh là một tổ chức ngành nghề gắn bó chặt chẽ với các quyền
lợi của các doanh nghiệp ngành nhựa hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh.
Với vai trò lãnh đạo, kết nối các doanh nghiệp nhựa trong một tổ chức thống
nhất, Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh phải có trách nhiệm giúp đỡ các
hội viên của mình không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của họ trên
thương trường. Để hoàn thành nhiệm vụ này, việc liên kết thông tin KH&CN
nhất thiết phải sớm được thực hiện và là một tiêu chí quan trọng trong các
hoạt động của Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Điểm lại các công trình nghiên cứu, chuyên luận về KH&CN và năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp và doanh nghiệp nhựa Việt Nam, có thể kể
đến những tác phẩm tiêu biểu sau:
Báo cáo năng lực cạnh tranh của Việt Nam 2010 (Vietnam Competitive
Report 2010), ban hành ngày 30/11/2010, do Viện Quản lý Kinh tế Trung
ương (CIEM) và Học viện Năng lực Cạnh tranh Châu Á của Singapore (ACI)
dưới sự cố vấn của giáo sư Michael E.Porter, phối hợp xây dựng đã đề cập về
nhóm chỉ tiêu thứ ba đánh giá điểm mạnh và yếu của Việt Nam trong một loạt
các yếu tố nền tảng vĩ mô và vi mô của năng lực cạnh tranh, những yếu tố
quyết định nên các kết quả kinh tế. Các chỉ tiêu này bao gồm từ đánh giá chất
lượng điều hành, cung cấp các dịch vụ công, sự bền vững tài khoá cho tới sự
tinh thông của doanh nghiệp, sự năng động của các cụm ngành, chất lượng
của hạ tầng cơ sở hay mức độ cạnh tranh trong nước, v.v.
Đề cập đến việc công nghệ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh,Vũ Cao
Đàm
2
đã xác định: “Có nhiều con đường nâng cao năng lực cạnh tranh của
2
Vũ Cao Đàm (2011): Một số vấn đề quản lý KH&CN ở nước ta, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà
Nội, trang 45.
9
một công ty. Một trong những cách đó là đổi mới công nghệ để nâng cao chất
lượng và tính hấp dẫn sản phẩm, tạo ra tính ưu việt và năng lực cạnh tranh
hơn hẳn sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh”.
Trong tác phẩm Lợi thế cạnh tranh (Competitive advantage, The Free
Press, New York, 1990), tác giả Michael E.Porter chỉ rõ “ Lợi thế cạnh tranh
không chỉ nằm ở bản thân mỗi hoạt động, mà còn ở cả mối liên kết giữa các
hoạt động với nhau, với các hoạt động của nhà cung cấp và cả các hoạt động
của khách hàng nữa”.
Trong bảng đánh giá về thị trường nhựa Việt Nam (Vietnam Plastics
Market) năm 2010, bên cạnh những yếu tố tích cực, trang web của Liên đoàn
nhựa Anh quốc (British Plastics Federation) đã nhận định: “Ngành công
nghiệp nhựa tại Việt Nam sử dụng rất nhiều lao động do các nhân viên không
có kỹ năng và thiếu đào tạo chuyên nghiệp. Nó cũng thiếu công nghệ và bí
quyết thể hiện ở việc nhiều nhà sản xuất polymer vẫn còn sử dụng các thiết bị
đã lạc hậu nhập khẩu từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan”
3
.
Tại hội thảo Nghiên cứu ứng dụng giải pháp KH&CN – Giải pháp hữu
hiệu để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ngành nhựa ngày
28/9/2011, các chuyên gia đánh giá:“Ngành nhựa Việt Nam đang ngày càng
phát triển, nằm trong nhóm quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành nhựa tốt
nhất trên thế giới, chiếm lĩnh hầu hết thị trường trong nước và từng bước đẩy
mạnh xuất khẩu. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất đối với ngành nhựa Việt Nam
hiện nay là năng lực thực tế còn thấp so với ngành nhựa của các nước trên
thế giới và trong khu vực. Nguyên liệu nhập khẩu đến 85%, thiết bị, khuôn
mẫu phần lớn phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhân lực kỹ thuật và công nhân
lành nghề còn thiếu. Đặc biệt, việc ứng dụng KH&CN trong sản xuất, kinh
doanh của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế”
4
.
Trong cuốn tổng quan khoa học Nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, (Viện
3
Nguồn:
4
Nguồn
:
10
Quản lý Kinh tế, Chủ nhiệm đề tài: TS Nguyễn Hữu Thắng, NXB Chính trị
Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2006, tr.9), các tác giả nhận định: “Trong điều kiện
phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN theo xu hướng mở cửa kinh tế
và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cạnh tranh trong nước và quốc
tế càng trỏ nên gay gắt, yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế đặt ra rất bức xúc: làm thế nào và
bằng cách nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế?”
5
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới và một số tổ chức quốc tế
có uy tín, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta vẫn còn rất thấp
so với khu vực và thế giới.“Cơ sở để hình thành năng lực cạnh tranh ở Việt
Nam chưa thật vững chắc, chủ yếu vẫn dựa trên các yếu tố bề rộng như lao
động rẻ, tận dụng nguồn tài nguyên sẵn có. Các yếu tố về con người, khoa
học và công nghệ… chưa phát huy hết khả năng vốn có. Năng lực về vốn,
công nghệ và quản lý trong nhiều doanh nghiệp còn hạn chế”
6
.
Đề tài cấp bộ của cơ quan đại diện Bộ KH&CN tại thành phố Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ: “Rất cần đẩy mạnh các hoạt động KH&CN trong doanh
nghiệp nói chung, doanh nghiệp nhỏ và vừa nói riêng bằng nhiều giải pháp
như chính sách nhà nước, khuyến khích hoạt động KH&CN và đổi mới công
nghệ trong doanh nghiệp (uu đãi về thuế, tín dụng, phát triển tài sản sở hữu
trí tuệ, áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng và các công cụ cải tiến năng
suất chất lượng…), bản thân doanh nghiệp đầu tư vào các hoạt động R&D,
đổi mới công nghệ, bảo vệ và phát triển tài sản sở hữu trí tuệ…trong đó giải
pháp hỗ trợ nâng cao năng lực của Hiệp hội ngành nghề để đủ sức giúp đỡ
cho các hội viên nâng cao năng lực cạnh tranh bằng các nội dung khoa học
và công nghệ”
7
.
5
Nguyễn Hữu Thắng - Chủ nhiệm đề tài (2006): Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt
Nam trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Viện Quản lý Kinh tế, NXB Chính trị Hồ Chí Minh, Hà
Nội, tr.9
6
Nguyễn Hữu Thắng (2006): Tài liệu đã dẫn, tr.8
7
Đề tài cấp bộ: Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức hoạt động KH&CN trong các doanh nghiệp thuộc các
lĩnh vực công nghiệp chủ lực tại các tỉnh phía Nam, bản thuyết minh, phát hành tháng 11 năm 2010, tr.9
11
PGS.TS Vũ Văn Khiêm xác định: “Khi doanh nghiệp đã lựa chọn một
chiến lược cạnh tranh để theo đuổi thì toàn bộ các chức năng, các định
hướng và các chính sách của doanh nghiệp phải nhằm mục đích là sử dụng
tối đa nguồn lực để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho nó. Công nghệ đóng một vai
trò rất quan trọng trong việc tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp lựa chọn và sử dụng một công nghệ phù hợp thì nó sẽ là một vũ
khí rất lợi hại và hiệu quả trong cạnh tranh, ngược lại nếu sử dụng một công
nghệ không phù hợp thì nhìn chung doanh nghiệp sẽ thất bại trong cạnh tranh
mặc dầu các hoạt động chức năng khác có thể rất tốt”
8
Các tác giả thuộc Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp,
Bộ Công thương đã đưa ra đề xuất:
”Giải pháp về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ:
- Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp nhựa đầu tư nghiên cứu
khoa học và áp dụng công nghệ tiên tiến của các nước phát triển, nhận
chuyển giao công nghệ của các công ty hàng đầu thế giới. Chi phí nghiên cứu
khoa học tính vào giá thành sản phẩm.
- Nhà nước khuyến khích các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công
nghệ nhựa chất lượng cao, chất phụ gia cho ngành nhựa, các nguyên liệu
nhựa trong nước còn chưa sản xuất được.”
9
Các tác phẩm khoa học có liên quan đến chủ đề nghiên cứu của Luận
văn trên đã nêu khái quát được cơ sở lý luận và thực tiễn về KH&CN và vấn
đề nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, các tác phẩm trên chưa nêu bật mối quan hệ giữa liên kết
thông tin KH&CN với sự phát triển năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp ngành nhựa. Bởi vậy, nhiệm vụ của luận
văn phải phân tích được “khoảng trống” này và đưa ra được các khuyến nghị
mang tính thiết thực và khả thi mà các nghiên cứu trước chưa đề cập tới.
8
Vũ Văn Khiêm (2013): Giáo trình Quản lý công nghệ, TP. Hồ Chí Minh, tr.18
9
Viện Nghiên cứu chiến lược công nghiệp Bộ Công thương (2011): Đề tài Quy hoạch và phát triển ngành
nhựa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, tr.22
12
Theo Luận văn, tính mới của luận văn ở đây là: Nêu bật được sự cần
thiết và thực hiện hiệu quả mô hình liên kết thông tin KH&CN trong việc
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành nhựa thành phố Hồ
Chí Minh ( nghiên cứu trường hợp Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh ).
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn đề ra mục tiêu nghiên cứu: xây dựng mô hình liên kết thông
tin KH&CN nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành
nhựa thuộc Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu chung đã nêu, Luận văn đặt ra các mục tiêu cụ
thể như sau:
- Phân tích các khái niệm công cụ làm cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu về liên kết thông tin KH&CN, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngành nhựa;
- Khảo sát thực tiễn có liên quan đến liên kết thông tin KH&CN nhằm
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành nhựa thuộc Hiệp
hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh;
- Đề xuất phương hướng chung và các giải pháp cụ thể nhằm hình
thành và củng cố mối liên kết thông tin KH&CN để nâng cao năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh.
4. Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng liên kết thông tin KH&CN của các doanh nghiệp thuộc
Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh
- Phạm vi không gian: Nghiên cứu thực hiện tại các doanh nghiệp
thuộc Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh
- Phạm vi thời gian: 2009-2013
13
5. Câu hỏi nghiên cứu
Cần xây dựng cấu trúc và hoạt động mô hình liên kết thông tin
KH&CN như thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp
ngành nhựa thuộc Hiệp hội Nhựa thành phố Hồ Chí Minh?
6. Giả thuyết nghiên cứu
Xây dựng mô hình liên kết thông tin KH&CN để nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp ngành nhựa thuộc Hiệp hội Nhựa thành phố
Hồ Chí Minh, theo hướng:
- Về cấu trúc tổ chức: theo mô hình cây mục tiêu;
- Về phương thức hoạt động: chia sẻ thông tin KH&CN theo quy trình thu
nhận, lưu trữ, kiểm nghiệm nguồn, xử lý, sử dụng, kiểm tra phản hồi.
7. Mẫu khảo sát
Khảo sát thực trạng tiếp nhận, kiểm nghiệm và sử dụng thông tin
KH&CN của các doanh nghiệp nhựa và vai trò liên kết thông tin KH&CN đối
với việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội
Nhựa thành phố Hồ Chí Minh.
Để khảo sát thực tiễn, tác giả Luận văn đã xây dựng bộ câu hỏi khảo
sát diện rộng và chi tiết với các doanh nghiệp ngành nhựa thuộc Hiệp hội
Nhựa thành phố Hồ Chí Minh, với mẫu khảo sát là 100 phiếu.
8. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp định lượng: tác giả Luận văn phát ra 100 phiếu thu thập
thông tin, thu về được 100 phiếu, đạt tỷ lệ 100%.
- Phương pháp định tính: tác giả Luận văn đã tiến hành phỏng vấn sâu
(bằng cách gửi trước câu hỏi, trực tiếp nghe trả lời) các đối tượng:
+ Nhà quản lý doanh nghiệp,
+ Các đối tượng tiếp nhận công nghệ được chuyển giao tại doanh
nghiệp, các trưởng bộ phận R&D của doanh nghiệp ;
- Phương pháp quan sát: tác giả Luận văn trực tiếp quan sát, thống kê
các thông số phục vụ đề tài Luận văn;
- Phương pháp phân tích:
14
Luận văn sử dụng phương pháp phân tích trước và phân tích sau khi
tiến hành dự án/đề tài công nghệ;
- Kế thừa các nghiên cứu đã công bố: Luận văn sử dụng số liệu từ 3 đề
tài được thực hiện theo kế hoạch KH&CN của Bộ Khoa học và Công nghệ, 1
dự án của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, Bộ Công
thương.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả Luận văn gửi trước câu hỏi đến
người được phỏng vấn, nêu rõ mục đích, yêu cầu của cuộc phỏng vấn, hẹn
ngày trả lời, trực tiếp gặp người được phỏng vấn để trao đổi và nghe trả lời.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, nội
dung của Luận văn được chia thành 3 chương:
- CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA LUẬN VĂN
- CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG LIÊN KẾT THÔNG TIN KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC HIỆP HỘI
NHỰA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
- CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI CƠ CHẾ LIÊN KẾT THÔNG TIN
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP THUỘC HIỆP HỘI NHỰA THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
15
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ,
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm khoa học và công nghệ
1.1.1. Khái niệm khoa học
Khoa học có thể được định nghĩa theo nhiều cách tiếp cận tùy thuộc
mục đích sử dụng. Với tư cách là một đối tượng của quản lý KH&CN, khái
niệm khoa học có thể định nghĩa theo một số cách tiếp cận sau:
- Khoa học là một hệ thống tri thức
Khoa học được hiểu là “hệ thống tri thức về quy luật của vật chất và sự
vận động của vật chất, những quy luật tự nhiên của xã hội, tư duy”
10
. Theo
Vũ Cao Đàm, hệ thống trí thức được nói ở đây là hệ thống tri thức khoa học.
Khoa học trong trường hợp này được hiểu như một hệ thống tĩnh tại các tri
thức, xem khoa học như một sản phẩm trí tuệ được tích lũy từ trong hoạt động
tìm tòi, sáng tạo của người nghiên cứu.
Khi nói tri thức khoa học, các nhà nghiên cứu muốn phân biệt với tri
thức kinh nghiệm. Tri thức khoa học và tri thức kinh nghiệm có đặc điểm
chung là đều dựa trên các sự kiện tồn tại khách quan, đều hướng tới nhận thức
chân lý khách quan. Tuy nhiên, giữa tri thức khoa học và tri thức kinh nghiệm
có những đặc điểm khác biệt dẫn tới những đặc trưng cơ bản của hoạt động
khoa học.
- Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
Theo quan điểm của triết học K. Marx, khoa học được hiểu là một hình
thái ý thức xã hội. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, khoa học tồn tại
mang tính độc lập tương đối với các hình thái ý thức xã hội khác. Khoa học
phân biệt với các hình thái ý thức xã hội khác ở đối tượng và hình thức phản
10
Pierre Auger (1960), Tendances actuelles de la recherche scientifique, UNESCO, Paris, tr.17-19.
16
ánh và mang một chức năng xã hội riêng biệt. Đây là một nhận thức có ý
nghĩa quan trọng về phương pháp luận nghiên cứu khoa học trong việc xử lý
mối quan hệ phức tạp giữa khoa học với các hình thái ý thức xã hội khác
nhau.
- Khoa học là một hoạt động xã hội
Khoa học ngày nay đã trở nên một hoạt động nghề nghiệp của một cộng
đồng xã hội. Đó là một dạng hoạt động xã hội đặc biệt, với một đặc điểm khó
tìm thấy trong những lĩnh vực hoạt động xã hội khác. Đó là việc tìm kiếm
những điều chưa biết và phải chịu nhiều rủi ro trong quá trình tìm kiếm.
Với tư cách là một hoạt động, hoạt động khoa học định hướng theo
những mục đích sau:
Phát hiện bản chất các sự vật, phát triển nhận thức về thế giới khách
quan
Sáng tạo các sự vật mới, phát triển các phương tiện cải tạo thế giới
khách quan
Định nghĩa của tác giả Luận văn:
Từ những phân tích vừa nêu về khái niệm khoa học, Luận văn định
nghĩa: Khoa học là một hệ thống những tri thức được tích lũy và bồi đắp qua
suốt quá trình phát triển của nhân loại, phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu và phát
triển thế giới, đồng thời khoa học là một hình thái ý thức xã hội và là một
hoạt động xã hội, để nhấn mạnh hoạt động quản lý khoa học và hoạt động
nghiên cứu khoa học.
1.1.2. Khái niệm công nghệ
Có một số định nghĩa về công nghệ, theo Trần Ngọc Ca sưu tầm
11
như
sau:
Theo quan điểm cổ điển nhất, công nghệ là một trật tự nghiêm ngặt các
thao tác của quá trình chế biến và/hoặc thông tin.
11
Nguyễn Võ Hưng - chủ biên (2003), Công nghệ và Phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, NXB
Khoa học và Kỹ thuật.
17
Baranson, J. và Harrington, A. (1977)
,
xem “Công nghệ là tập hợp các
kiến thức về một quy trình hoặc/và các kỹ thuật chế biến cần thiết để sản xuất
ra các vật liệu, cấu kiện và sản phẩm công nghiệp hoàn chỉnh”.
12
Nawar Sharif đưa ra một định nghĩa khái quát về công nghệ:“Công
nghệ là một hệ thống tri thức về quá trình chế biến vật chất hoặc/và thông tin,
về phương tiện và phương pháp chế biến vật chất và thông tin”. Công nghệ là
một tập hợp phần cứng và phần mềm, bao gồm 4 yếu tố: phần kỹ thuật (vật
thể), phần thông tin, phần con người và phần thiết chế tổ chức.
Đây cũng là 4 yếu tố công nghệ theo quan điểm của Trung tâm chuyển
giao công nghệ Châu Á – Thái Bình Dương (APCTT).
E. M. Graham đưa ra định nghĩa: “Công nghệ là kiến thức không sờ mó
được và không phân chia được, có lợi về mặt kinh tế khi sử dụng để sản xuất
ra các sản phẩm và dịch vụ”.
Một số tổ chức đã đưa ra các định nghĩa về công nghệ khác nhau:
Tổ chức PRODEC, năm 1982, cho rằng: “Công nghệ là một loại kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp được sử dụng trong sản xuất công
nghiệp, chế biến và dịch vụ”.
Trước đó, năm 1972, tổ chức UNCTAD cho rằng: “Công nghệ là một
đầu vào cần thiết cho sản xuất, và như vậy nó được mua bán trên thị trường
như một hàng hóa”.
Ngân hàng thế giới, năm 1985 đưa ra định nghĩa: “Công nghệ là phương
pháp chuyển hóa các nguồn lực thành sản phẩm, gồm ba yếu tố:
- Thông tin về phương pháp
- Phương tiện, công cụ sử dụng phương pháp để thực hiện việc chuyển
hóa.
- Sự hiểu biết phương pháp hoạt động như thế nào và tại sao.”
Tổ chức OECD, gồm các nước phát triển của châu Âu, Nhật Bản, Mỹ và
Canada lại có một định nghĩa chung: “Công nghệ được hiểu là một tập hợp
12
Baranson, J. and Harrington, A. (1977): Western Technology in the Political Economy of Eastern Europe.
World Economy, 1: 81–92
18
các kỹ thuật, mà bản thân chúng được định nghĩa là một tập hợp các hành
động và quy tắc lựa chọn chỉ dẫn việc ứng dụng có trình tự các kỹ thuật đó
mà theo hiểu biết của con người thì sẽ đạt được một kết quả định trước (và
đôi khi được kỳ vọng) trong một hoàn cảnh nhất định”.
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO) cho rằng
“Công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp bằng cách sử dụng
các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống và phương pháp”.
Ủy ban kinh tế và xã hội châu Á – Thái Bình Dương (ESCAP) xem
“Công nghệ là hệ thống kiến thức về quy trình và kỹ thuật chế biến vật chất
và thông tin”.
Trần Ngọc Ca đã đưa ra khái niệm về công nghệ như sau: “Công nghệ
có thể được hiểu như mọi loại hình kiến thức, thông tin, bí quyết, phương
pháp (gọi là phần mềm) được lưu giữ dưới các dạng khác nhau (con người,
ghi chép…) và mọi loại hình thiết bị, công cụ, tư liệu sản xuất (gọi là phần
cứng) và một số tiềm năng khác (tổ chức, pháp chế, dịch vụ…) được áp dụng
vào mội trường thực tế để tạo ra các loại sản phẩm và dịch vụ”.
Luật KH&CN của Việt Nam, năm 2013 đã đưa ra định nghĩa “Công
nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ,
phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
Luật chuyển giao công nghệ năm 2006 xác định:“Công nghệ là giải
pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm hoặc không kèm công cụ, phương
tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”.
Vũ Cao Đàm
13
đã đưa ra một số định nghĩa về “Công nghệ”, dựa trên
các cách tiếp cận khác nhau:
Định nghĩa 1:
Công nghệ là một chuỗi các thao tác kỹ thuật, được thực hiện theo một
trình tự nghiêm ngặt có liên hệ logic, của quá trình chế biến vật chất hoặc
thông tin.
13
Vũ Cao Đàm (2011), Một số vấn đề Quản lý KH&CN ở nước ta, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật,
2011, tr.38,
19
Đây có thể xem là một định nghĩa cổ điển nhất về công nghệ, kể từ khi
“Công nghệ” được hiểu như một khái niệm con thuộc phạm trù “Kỹ thuật”.
Định nghĩa 2:
Công nghệ là một phương tiện (device) bao gồm phần cứng của công
nghệ và phần mềm của công nghệ.
Định nghĩa này mô phỏng theo cách phân biệt “phần cứng” và “phần
mềm” của công nghệ thông tin, Khái niệm công nghệ theo ý nghĩa này được
sử dụng phổ biến trong lĩnh vực thương mại: phần cứng của công nghệ
(hardware) được bán với giá cả ấn định trên thị trường còn phần mềm của
công nghệ (software) không có giá cả ấn định. Nó phụ thuộc rất lớn vào
copyright và quan hệ cung cầu.
Định nghĩa 3:
Công nghệ là một hệ thống tri thức về quá trình chế biến vật chất
và/hoặc thông tin.
Định nghĩa “Công nghệ” theo cách này có vẻ hơi giống định nghĩa:
”Khoa học”. Tuy nhiên, chúng ta có thể phân biệt: tri thức khoa học là tri thức
“hiểu”; còn tri thức công nghệ thuộc loại tri thức “làm”. Hai loại tri thức này
được phát triển theo hai hướng ngược chiều nhau:
- Tri thức khoa học là nguồn cung cấp để hình thành các tri thức công
nghệ, đặc biệt là trong nền khoa học hiện đại, khoa học đã vượt lên phía
trước, mang tính dự báo, vạch đường cho công nghệ ra đời và phát triển.
- Tri thức khoa học được tổng kết và khái quát hóa từ tri thức công nghệ.
Đây là chiều hướng quan hệ giữa KH&CN từ nửa đầu thế kỷ XX trở về trước,
trong đó khoa học nhận dạng và giải thích những ứng dụng đã tồn tại trong
công nghệ và phát triển các nguyên lý đó để công nghệ tiến những bước xa
hơn.
- Tri thức khoa học phát triển đi trước tri thức công nghệ, mở đường cho
những ứng dụng mới trong công nghệ, dự báo xu thế phát triển của công
nghệ.
Định nghĩa 4:
20
Trong nhiều bài viết về công nghệ ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu
Việt Nam thích sử dụng khái niệm công nghệ của Nawar Sharif, trong đó xem
“Công nghệ gồm 4 thành tố (components): phần kỹ thuật (technoware), phần
thông tin (infoware), phần con người (humanware) và phần tổ chức
(orgaware).
Phần kỹ thuật bao gồm máy móc, phương tiện, thiết bị, hệ thống hạ tầng
kỹ thuật, như hệ thống cung cấp năng lượng, nguyên liệu, cung cấp nước,
thông gió, chiếu sáng, và các phương tiện dịch vụ kỹ thuật cho sản xuất, v.v…
Phần thông tin bao gồm tri thức kỹ thuật, các bản mô tả quy trình, bí
quyết, kinh nghiệm, kỹ năng, v.v…
Phần con người bao gồm nhân lực, kiến thức, sự thuần thục.
Phần tổ chức bao gồm cách sắp đặt hệ thống thiết bị, sắp xếp cơ cấu
nhân lực, bố trí mạng lưới truyền thông điều hành sản xuất và dịch vụ kỹ
thuật, v.v…
Một số nhà nghiên cứu có ý định sử dụng khái niệm gồm 4 thành tố này
để xây dựng các chỉ tiêu đánh giá công nghệ, nhưng cho đến nay chưa thử
nghiệm nào thành công.
Định nghĩa của tác giả Luận văn:
Công nghệ là một loại hàng hóa đặc biệt bao gồm một hệ thống các kỹ
năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp, áp dụng một cách khoa học vào việc
sáng tạo hoặc đổi mới chất và lượng của sản phẩm công nghiệp, dịch vụ theo
nhu cầu của con người.
1.2. Thông tin khoa học và công nghệ
1.2.1. Khái niệm thông tin khoa học và công nghệ
Thông tin là phổ biến những tin tức đến các cá nhân, nhóm, tổ chức.
Phương tiện phổ biến có thể là sách báo, loa, radio, TV…
Trong thông tin người ta ít hoặc không quan tâm đến mức độ tiếp thu và
phản ứng của người nhận.
Nguồn phát
Người nhận
Thông điệp
21
Thông tin (inform) có nghĩa là thông báo tin tức. Ngày nay, thuật ngữ
thu thập tin tức được sử dụng khá phổ biến. Tin tức chính là tất cả những gì
mang lại hiểu biết cho con người. Con người luôn có nhu cầu thu thập tin tức
bằng nhiều cách khác nhau: đọc sách báo, nghe đài, xem truyền hình, giao
tiếp với người khác Thông tin giúp làm tăng hiểu biết của con người, là
nguồn gốc của nhận thức và là cơ sở của quyết định
Với những tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật trong cuối thế kỷ XX
và đầu thé kỷ XXI này, thông tin đang ngày càng được truyền tải nhanh hơn,
đa dạng hơn. Nếu biết nắm bắt, sử dụng tốt đặc điểm này, thông tin sẽ là ưu
thế rất lớn cho con người trong cuộc sống, lao động và các hoạt động cạnh
tranh đang ngày càng trở nên khốc liệt trên mọi bình diện.
Những thông tin liên quan và hàm chứa những chi tiết, khía cạnh
KH&CN được gọi chung là thông tin KH&CN. Sau khi tiếp nhận thông tin
KH&CN, nhà quản lý có các biện pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp thông
tin ( qua bộ phận R&D ). Nhà quản lý đưa ra quyết định áp dụng thành tựu
KH&CN ( được truyền tải qua nguồn thông tin ) đã được xử lý một cách có
chọn lọc vào doanh nghiệp để góp phần cải thiện năng suất, tối đa hóa chất
lượng sản phẩm và qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
mình.
Tại Việt Nam, các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà quản lý
KH&CN đánh giá cao thông tin KH&CN với vai trò quan trọng của nó trong
việc hỗ trợ, định hướng đầu tư, nâng cấp hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
như tăng cường năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nước nhà. Nhiều
chính sách, ưu đãi, kế hoạch thiết thực được các nhà quản lý vĩ mô đưa ra
nhằm mục đích này. Gần đây nhất, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 11/2014/NĐ-CP, ngày 18 tháng 2 năm 2014, về hoạt động thông tin
KH&CN với các nội dung về hoạt động, hạ tầng thông tin và cơ sở dữ liệu
quốc gia về KH&CN, các biện pháp đảm bảo phát triển, tổ chức và quản lý
nhà nước về hoạt động thông tin KH&CN.
22
Đối tượng áp dụng của Nghị định này là tổ chức, cá nhân hoạt động
thông tin KH&CN tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có
liên quan.
Các loại hình hoạt động thông tin KH&CN bao gồm: Thu thập, cập nhật
và xử lý các dữ liệu, số liệu, dữ kiện, thông tin nhằm tạo lập và phát triển
nguồn tin KH&CN; nghiên cứu và phân tích tổng hợp thông tin KH&CN
phục vụ cho dự báo, hoạch định chính sách, lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu
khoa học và phát triển công nghệ, sản xuất kinh doanh và các hoạt động kinh
tế - xã hội khác; phát triển hạ tầng thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu, các trang
thông tin và cổng thông tin điện tử về KH&CN, thiết lập, triển khai các mạng
thông tin KH&CN; ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông, phương
tiện kỹ thuật tiên tiến trong hoạt động thông tin KH&CN; xây dựng thư viện
điện tử, thư viện số.
Mạng thông tin nghiên cứu và đào tạo quốc gia là mạng viễn thông dùng
riêng phi lợi nhuận kết nối cộng đồng nghiên cứu trong nước với nhau, với
cộng đồng nghiên cứu và đào tạo khu vực và quốc tế; ưu tiên kết nối các khu
vực tập trung nhiều tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, cơ
sở giáo dục đại học.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/4/2014 và thay thế
Nghị định số 159/2004/NĐ-CP ngày 31/8/2004 của Chính phủ quy định về
hoạt động thông tin KH&CN.
1.2.2. Liên kết thông tin KH&CN
Theo Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa học
xã hội, 1988), liên kết là: “Kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức
riêng rẽ”
Liên kết thông tin KH&CN là sự kết nối, trao đổi thông tin KH&CN
trong cùng một nhóm, một cộng đồng khoa học hoặc các nhà quản lý trong
cùng một tổ chức, giữa các tổ chức trong một hoặc giữa các tổ chức từ các
quốc gia khác nhau.
23
Khái niệm liên kết thông tin KH&CN khá mới mẻ tại Việt Nam cũng
như trên thế giới. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển tại Việt
Nam, mọi nguồn thông tin, trong đó có thông tin KH&CN rất dồi dào nhưng
còn thiếu sự kiểm nghiệm, tư vấn của những cơ quan chuyên môn và phần
nhiều còn mang tính manh mún, lẻ tẻ, thiếu tập trung. Việc liên kết thông tin
KH&CN, vì vậy, rất cần thiết cho các doanh nghiệp. Thông tin KH&CN phải
được liên kết từ nhiều nguồn tổ chức, cá nhân hoạt động thông tin KH&CN
tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân có liên quan và thông
qua những tổ chức có uy tín khoa học xác minh và chấp thuận.
Theo khái niệm về thông tin đã nêu trên, quan điểm của Luận văn là:
“Liên kết thông tin KH&CN là sự kết nối thông tin KH&CN từ nhiều nguồn
được tổ chức KH&CN xác minh, chấp thuận và được chia sẻ với các tổ chức,
cá nhân có cùng chung mực đích, tiêu chí hoạt động KH&CN”
Khái niệm liên kết thông tin KH&CN giữa các doanh nghiệp còn mới
mẻ. Những người đa nghi sẽ đặt câu hỏi: “Trong nền kinh tế thị trường đầy
tính cạnh tranh, liệu các doanh nghiệp có sẵn sàng liên kết, chia sẻ thông tin
KH&CN cho các đối thủ cạnh tranh của mình như một cách nâng cao năng
lực cạnh tranh của đối thủ hay không?”. Câu trả lời ở đây là: “Xét trên bình
diện cạnh tranh quốc gia, bản thân các doanh nghiệp ngoài việc tăng cường
năng lực cạnh tranh cho bản thân doanh nghiệp mình còn phải có ý thức giúp
đỡ các doanh nghiệp cùng quốc tịch và ngành nghề nâng cao năng lực cạnh
tranh của nhóm doanh nghiệp mà mình tham gia với tư cách thành viên, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia trên thị trường quốc tế”.
Có thể nói đây là sự đoàn kết của các doanh nghiệp cùng một quốc gia,
rộng ra là hoạt động phục vụ thương mại mang tinh thần dân tộc, nâng cao
năng lực cạnh tranh không chỉ của một doanh nghiệp riêng rẽ mà của cả một
hệ thống doanh nghiệp cùng ngành nghề và của cả quốc gia trong khu vực
ngành nghề đó. Có thể thấy những hành động tương tự trước đây ở những
quốc gia có nền kinh tế phát triển vượt bậc từ tro tàn của chiến tranh thành
những quốc gia có nền kinh tế phát triển hàng đầu thế giới như Nhật Bản, Hàn
24
Quốc…hay những quốc gia đã phát triển ở châu Âu và Bắc Mỹ. Sự đoàn kết
nhất trí trên mọi lĩnh vực của cả dân tộc cũng như các tổ chức doanh nghiệp
của họ đã đem về nhiều thành tựu xuất sắc cho nền kinh tế, KH&CN của các
quốc gia này. Tại các quốc gia này, các hiệp hội doanh nghiệp hoạt động rất
hiệu quả, kết nối các doanh nghiệp thành viên, liên kết thông tin KH&CN,
chia sẻ những cơ hội để các doanh nghiệp thành viên nắm bắt, nâng cao năng
lực cạnh tranh, năng lực hoạt động của các thành viên.
Có thể thấy, tại các quốc gia phát triển, hoạt động cạnh tranh giữa các
doanh nghiệp trong cùng quốc gia luôn luôn tồn tại một cách mạnh mẽ. Các
doanh nghiệp dù cùng hay khác tổ chức nghiệp đoàn, hội đoàn vẫn luôn có ý
thức cạnh tranh quyết liệt bằng các biện pháp trong khuôn khổ luật pháp.
Đánh giá về các yêu tố cấu thành và đo lường năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp, các chuyên gia đã nhận định về khả năng liên kết cạnh tranh
của doanh nghiệp: “Cạnh tranh trong hoàn cảnh hiện nay không hoàn toàn
đồng nghĩa với việc tiêu diệt lẫn nhau mà đặt trong sự liên kết và hợp tác để
cạnh tranh cao hơn. Do vậy, khả năng liên kết hợp tác được coi là tiền đề cho
hoạt động kinh doanh hiệu quả, đồng thời đây cũng là một tiêu chí định tính
cho năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Trong điều kiện của Việt Nam,
các doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ thì việc liên kết, hợp tác có ý
nghĩa lớn để tồn tại, phát triển kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp. Tiêu chí này thể hiện qua số lượng, chất lượng các mối
quan hệ với các đối tác, các liên doanh, hệ thống mạng lưới kinh doanh theo
lãnh thổ”
14
.
Thực tế chứng minh thông tin KH&CN đóng vai trò to lớn cho việc
định hướng, phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh cho một doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường. Năng lực cạnh tranh đủ mạnh sẽ duy trì một vị
thế khả quan cho doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp bước đi vững chắc trong
nền kinh tế thị trường đòi hỏi nhiều ở khả năng thích nghi cũng như tính năng
động, sáng tạo của bất kỳ doanh nghiệp nào. Thông tin KH&CN mang lại
14
Nguyễn Hữu Thắng (2011), Tài liệu đã dẫn, tr.30
25
những kiến thức KH&CN kèm theo những ứng dụng hiệu quả thành tựu
KH&CN vào quá trình quản trị sản xuất và kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Trong cùng một định hướng ngành nghề, với cùng một hội đoàn, các doanh
nghiệp có thể có những liên kết chặt chẽ với nhau trong việc trao đổi, truyền
bá những thông tin KH&CN bổ ích, có tính thiết thực cho các doanh nghiệp
bạn. Trên cơ sở đó có những áp dụng hiệu quả để cùng nâng cao năng lực
cạnh tranh của mình trên thương trường, đặc biệt trong cạnh tranh quốc tế.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của một vài doanh nghiệp của quốc gia trong
nền kinh tế thị trường là chưa đủ. Liên kết thông tin KH&CN trong một nhóm
doanh nghiệp (cùng ngành nghề) sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của cả
nhóm doanh nghiệp lên một cách đáng kể, qua đó góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của cả quốc gia trong nhóm ngành nghề sản xuất, dịch vụ đó.
Xét trên bình diện ngành nhựa nói chung cũng như Hiệp hội Nhựa
thành phố Hồ Chí Minh nói riêng, mối liên kết thông thường giữa các doanh
nghiệp vốn vẫn gắn bó một cách hữu cơ với nhau. Ví dụ: Doanh nghiệp A sản
xuất nguyên liệu Polyethylene (PE), doanh nghiệp B mua sản phẩm đầu ra
(hạt nhựa PE) của doanh nghiệp A để sản xuất bao bì, cả hai doanh nghiệp A
và B đều sử dụng khuôn mẫu và máy móc được sản xuất và cung cấp bởi
doanh nghiệp C. Máy móc, khuôn mẫu của doanh nghiệp C phải sử dụng bao
bì đóng gói của doanh nghiệp B… Sản phẩm đầu ra của doanh nghiệp này
chính là nguyên liệu đầu vào của doanh nghiệp kia. Những mối quan hệ như
thế được hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở quyền lợi chính đáng của
các doanh nghiệp và tồn tại rất phổ biến trong ngành nhựa như một sự liên kết
tự nhiên. Sự liên kết này nếu được quan tâm, thúc đẩy sẽ biến hoạt động đơn
lẻ của các doanh nghiệp thành một sự vận hành trơn tru của các bộ phận cấu
thành trong cỗ máy lớn – ngành nhựa. Trong mối liên kết này, thông tin, đặc
biệt là thông tin KH&CN đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh, đồng
bộ hóa các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, góp phần
tạo nên một năng lực cạnh tranh đáng kể cho không chỉ các bộ phận cấu thành
mà cả cỗ máy lớn – ngành nhựa. Có thể nói, sự liên kết thông tin KH&CN đó