Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Tiềm năng phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe máy tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.73 KB, 20 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đề tài : tiềm năng phát triển ngành công nghiệp sản xuất xe máy tại
Việt Nam
Lời mở đầu
Các chuyên gia đánh giá, thị trường Việt Nam có điều kiện để trở thành
trung tâm sản xuất xe máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có
điều kiện tốt để phát triển mạnh. bởi nước ta có nhiều đặc điểm của nền kinh
tế như : mức thu nhập của người dân còn thấp, chỉ mới 600 USD/ người và
đến năm 2010 cũng chỉ hi vọng đạt 950 – 1000 USD/người. Với mức thu
nhập bình quân như vậy, người dân chưa đủ điều kiện để sử dụng ô tô một
cách rộng rãi và phưong tiện giao thông chính vẫn phải là xe máy
Thứ 2 là theo dự báo đến năm 2010 cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe
máy lưu hành và đến 2015 là khoảng 31 triệu xe và 2020 là 35 triệu xe. vậy là
trong khoảng thời gian đó lượng xe sẽ tăng gấp đôi lượng xe hiện nay. Thị
trường này sẽ giúp Việt Nam có điều kiện trở thành trung tâm sản xuất xe
máy lớn tại châu Á và ngành công nghiệp phụ trợ có điều kiện tốt để phát
triển mạnh. Khi thị trường trong nước đã bão hòa, các doanh nghiệp phụ trợ
sẽ chuyển sang sản xuất linh kiện cho công nghiệp ô tô.
Lý do chọn đề tài :
Ta đều nhận thấy rằng các công ty sản xuất xe máy lớn trên thế giới có
kỳ vọng rất lớn vào ngành công nghiệp xe máy Việt Nam và đang đấu tư rất
lớn cho ngành công nghiệp xe máy Việt Nam. Ba hãng xe lớn nhất tại Việt
Nam là hãng honda và yamaha và piagio. Đây là những đại diện tiêu biển cho
các nhà sản xuất xe máy nổi tiếng trên thế giới đang đầu tư tại Việt Nam và
có số lượng xe bán ra nhiều nhất trên thị trường Việt Nam. vậy sự cạnh tranh
và tiềm năng của thị trường việt nam được các nhà đầu tư đánh giá như thế
nào chúng ta sẽ cùng tìm hiểu qua những dự án và sự đấu tư mà 3 công ty này
đang đầu tư tại Việt Nam
Mục đích nghiên cứu : qua đề tài này em có thể phân tích tiềm năng ngành
công nghiệp sản xuất xe máy Việt Nam
1


Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đối tượng nghiên cứu là : các công ty sản xuất xe máy tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu : ngành công nghiệp sản xuất xe máy Việt Nam
Phương pháp nghiên cứu là : tổng hợp và phân tích
Với những lý do trên em lựa chọn đề tài này để có thể tìm hiểu được
thực trạng ngành công nghiệp xe máy Việt Nam, tiềm năng của ngành công
nghiệp xe máy Việt Nam. Và hướng phát triển của ngành công nghiệp xe
máy Việt Nam trong giai đoạn 2005 – 2015. Những định hướng chủ chính
phủ và mục tiêu của các doanh nghiệp sản xuất xe máy . cuối cùng là những
bài học chúng ta cần rút ra để giải quyết những vấn đề cho riêng mình
Kết cấu của đề tài gồm:
Chương 1 : tiềm năng ngành công nghiệp xe máy Việt Nam
Chương 2 : phân tích tiềm năng phát triển ngành công nghiệp xe
máy Việt Nam
Chương 3 : bài học để phát triển ngành công nghiệp xe máy Việt
Nam
Kết luận
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị Thanh Hà đã giúp đỡ
em hoàn thành đề án này!
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1 : Tiềm năng ngành công nghiệp xe máy việt nam
1.1 Bức tranh ngành công nghiệp xe máy Việt Nam :
Theo số liệu của Hiệp hội Xe đạp Xe máy VN, toàn quốc hiện nay có 52
DN sản xuất lắp ráp xe máy. Trong đó, có 22 DN quốc doanh, 7 DN liên
doanh. Tổng số vốn đầu tư đạt khoảng 100 triệu USD. Trong khi đó riêng
hãng Honda, trong 10 năm qua đã đầu tư đến 194 triệu USD cho sản xuất và
kinh doanh xe máy. Các DN sản xuất và lắp ráp xe máy trong nước đã phát
triển ồ ạt, nhất là trong giai đoạn 1
Hiện nay, có 3 dòng công nghệ phổ biến ở các doanh nghiệp, đó là:

Công nghệ Nhật Bản: Đạt trình độ cao, chất lượng tốt, lợi nhuận lớn,
tập trung ở các liên doanh như Honda, Yamaha, Suzuki
Công nghệ Đài Loan: Đạt trình độ tiên tiến, sản phẩm chất lượng tốt, giá
bán thấp hơn so với công nghệ Nhật Bản. Điển hình là CôngtySYM.
Công nghệ Trung Quốc: Công nghệ trung bình, nhiều công đoạn vẫn phải làm
thủ công, nên chất lượng không đồng đều, giá bán thấp nên lợi nhuận không
cao.
Hàng năm, ngành công nghiệp xe máy trong nước tuy non trẻ, nhưng
cũng tạo ra chỗ làm cho khoảng 100 ngàn lao động trong các nhà máy, xưởng
lắp ráp, sửa chữa bảo hành, các đại lý bán xe máy… Đến quý I năm 2005,
theo thống kê của toàn ngành, có 10 doanh nghiệp đã đầu tư dây chuyền lắp
ráp trên 30.000 xe một năm. Có 60% dây chuyền trên 150 công nhân. Các
doanh nghiệp dưới 50 công nhân hầu như không tồn tại do cạnh tranh quyết
liệt. Có tới 45 doanh nghiệp mới nội địa hoá được 40%, hai doanh nghiệp nội
địa hoá đến 60%. Một số doanh nghiệp đã bắt tay với nhau không đầu tư từ A
đến Z, mà có sự phân công chiếm lĩnh thị trường trong nước như vỏ, khung
sườn, moay ơ, bộ điện... hoặc chuyên sản xuất các cụm chi tiết chủ lực, có
doanh nghiệp đã xuất khẩu được sản phẩm ra nước ngoài. Nhưng cho đến
nay, theo nhận định của Bộ Thương mại, thì một số chi tiết khó thuộc cụm
động cơ (như bánh răng ly hợp, vòng bi, ngắt số, bộ khởi động…) trị giá
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 30 USD trong giá thành một chiếc xe vẫn chưa được đầu tư sản xuất
trong nước.
Thị trường trong nước và trên thế giới vẫn có nhu cầu lớn về xe máy, đặc
biệt là ở các nước đang phát triển, cơ sở hạ tầng dành cho ô tô còn yếu kém,
nên phương tiện giao thông chủ yếu vẫn là xe máy. Theo số liệu của Cục
Đăng kiểm Việt Nam, nếu năm 1995 cả nước sản xuất lắp ráp được 62.000
xe, thì đến năm 2004, sản lượng đã tăng gấp 23 lần. Nhiều doanh nghiệp như
Công ty T&T, Công ty Hoa Lâm, Công ty TNHH Đức Phương, Lisohaka đã

xuất khẩu được xe sang thị trường Đông Ti Mo, ăng Gô La, Đôminica, Nam
Phi… còn các công ty liên doanh chủ yếu xuất khẩu sang các thị trường khu
vực châu á. Riêng Honda Việt Nam một năm xuất khẩu đạt kim ngạch gần 25
triệu USD. Bình quân số người dân/xe, năm 1990 là 23,8, đến nay đạt gần 7
người/1xe máy. Thị trường xuất khẩu còn tiềm năng rất lớn, do các nước
thuộc thế giới thứ ba, là bạn hàng với Việt Nam đang có tăng trưởng kinh tế
mạnh, đặc biệt là ở châu á và châu Phi.
Như vậy, cơ hội cho ngành xe máy Việt Nam phát triển trong những năm
tới là rất lớn. Song, cũng chưa thoát khỏi những thách thức lớn trước sự cạnh
tranh và xu thế phát triển công nghệ như vũ bão trên thế giới
1.2. Tiềm năng của ngành công nghiệp xe máy Việt Nam:
Thị trường xe máy phát triển mạnh mẽ, sức tiêu thụ ngày càng nâng cao
tạo điều kiện thuận lợi phát triển ngành công nghiệp xe máy
Bắt đầu từ tháng 9 cho đến Tết Nguyên đán hàng năm là thời điểm tiêu
thụ xe máy tăng mạnh. Một số doanh nghiệp khẳng định lượng xe bán ra của
họ đã bắt đầu tăng. Ông Mai Huy - Phó giám đốc kinh doanh Công ty cổ phần
xe máy HoaLam - Kymco cho biết so với tháng 7, tháng 8 lượng xe của
HoaLam - Kymco đã tăng lên tuy chưa nhiều. Các doanh nghiệp xe máy
100% vốn trong nước như Sufat, T&T cũng cho biết tiêu thụ xe máy đã hết
thời kỳ ảm đạm, bắt đầu tăng tốc và họ đang chuẩn bị hàng cho thị trường
cuối năm.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Số liệu thống kê của 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) là
Honda Việt Nam, Suzuki Việt Nam, SYM, Yamaha Việt Nam cho thấy nếu
tháng 9/2006 lượng xe tiêu thụ là 107.000 chiếc/tháng thì đến tháng 12/2006
là 127.000 chiếc/tháng, mức tăng gần 20%.
Theo dự tính từ tháng 9/2007 trở đi đến cuối năm, lượng xe tiêu thụ của
4 doanh nghiệp này sẽ ở mức không dưới 150.000 chiếc/tháng.
Đặc biệt xe tay ga có mức tiêu thụ tăng khá mạnh. Công ty Honda Việt

Nam trong 8 tháng năm 2007 đã bán được tổng cộng 74.000 chiếc, trong đó
xe Air Blade mới đưa ra thị trường vào cuối tháng 4/2007 đã tiêu thụ được
36.000 chiếc.
Theo ông Đinh Quang Tuấn - Giám đốc bán hàng và Marketing công ty
Yamaha Việt Nam thì thị trường xe tay ga tại Việt Nam rất tiềm năng. Hiện
nay xe tay ga mới chiếm khoảng 17% thị phần và nó còn phát triển rất mạnh.
Xu hướng chuyển sang sử dụng xe tay ga ngày càng tăng. Chỉ tính riêng
Yamaha Việt Nam nếu tháng 1/2007 các loại xe tay ga bán ra chiếm khoảng
20% tổng số xe thì tới tháng 6/2007 đã chiếm tới 30% trong tổng số xe.
Theo ông Tuấn việc chuyển sang sử dụng xe tay ga đang diễn ra khá
nhanh, nhất là tại các thành phố bởi xe tay ga ngày càng có giá rẻ và mẫu mã
đẹp. Đây cũng chính là cơ hội lớn và không doanh nghiệp nào muốn bị bỏ lỡ.
Thời gian qua các doanh nghiệp luôn đẩy mạnh việc cho ra đời những
sảm phẩm xe tay ga mới. Mới đây, công ty Suzuki Việt Nam cũng đưa ra thị
trường mẫu xe Hayate dòng xe ga dành cho nam giới, mang kiểu dáng thể
thao, động cơ 125cc. Suzuki Hayate có giá bán khá rẻ với loại vành nan hoa là
21.800.000 VNĐ, còn vành đúc là 22.800.000 VNĐ. Suzuki Việt Nam hy
vọng đây sẽ là sản phẩm tạo nên sự đột phá cho họ trên thị trường bởi trong
thời gian qua luợng xe tiêu thụ của doanh nghiệp này giảm sút mạnh.
SYM như nói trên, đã cho ra đời một sản phẩm mới là Attila Elizabeth
125cc hiện đang bán khá chạy. Trên thị trường hiện nay có 2 mẫu xe tay ga là
Honda Air Blade và Attila Elizabeth đang bị cháy hàng. Khách hàng muốn
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
mua 2 mẫu xe này phải đăng ký đặt tiền trước. Còn muốn mua ngay thì giá
cao hơn giá công bố khoảng 2 triệu đồng/chiếc.
HoaLam Kymco cũng đang đẩy mạnh việc sản xuất xe tay ga và coi đây
là những sản phẩm chủ chốt để chiếm lĩnh thị trường và phát triển doanh
nghiệp.
Thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là còn tiềm năng rất lớn.

Theo dự báo của Viện chiến lược và chính sách công nghiệp, thì đến 2010 cả
nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 khoảng 31 triệu xe
và đến 2020 là 35 triệu xe. Tức là trong vòng 15 năm nữa lượng xe máy sẽ
tăng gấp đôi hiện nay.
Thị trường xe máy Việt Nam được đánh giá là còn tiềm năng rất
lớn.Theo dự báo của Viện chiến lược và chính sách công nghiệp, thì đến 2010
cả nước sẽ có khoảng 25 triệu xe máy lưu hành và đến 2015 khoảng 31 triệu
xe và đến 2020 là 35 triệu xe. Tức là trong vòng 15 năm nữa lượng xe máy sẽ
tăng gấp đôi hiện nay.
Hiện nay riêng tại 2 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh đã đạt tỷ lệ bình
quân là 2 người có 1 xe máy, các tỉnh thành khác như Đồng Nai, Bà Rịa-
Vũng Tàu, Bình Dương... là 3 người có 1 xe máy, còn các địa phương khác là
6 người có một xe máy.
1.3 Ngành công nghiệp xe máy đang thu hút các nhà đầu tư lớn
Điển hình là các công ty sản xuất xe máy hàng đầu trên thế giời đang
đầu tư tại Việt Nam
Ngày 18/7, Honda Việt Nam thông báo xây dựng nhà máy xe máy thứ
hai tại Việt Nam với diện tích 28 ha, tổng mức đầu tư khoảng 65 triệu USD.
Nhà máy mới đặt cạnh nhà máy hiện có ở tỉnh Vĩnh Phúc và dự kiến sẽ đi vào
hoạt động vào nửa cuối 2008. Honda Việt Nam cho biết, sản phẩm chủ yếu
của nhà máy thứ hai sẽ là dòng xe tay ga như Air Blade, Click, Future Neo,
sản lượng ước tính vào khoảng 500.000 chiếc mỗi năm. Từ cuối năm sau,
năng lực sản xuất xe máy của Honda sẽ đạt mức 1,5 triệu chiếc/năm, chiếm
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
khoảng 50% khả năng tiêu thụ của thị trường. Trước đó, ngày 29/6 Yamaha
Việt Nam lặng lẽ khánh thành nhà máy mới tại Khu công nghiệp Nội Bài với
diện tích nhỏ hơn, 15 ha, vốn đầu tư 43 triệu USD và cũng sẽ đi vào hoạt
động từ cuối 2008. Tuy nhiên, sản lượng dự kiến của nhà máy Yamaha mới
lên tới 1 triệu chiếc/năm, nâng tổng công suất của cả hai lên mức 1,5 triệu

chiếc. Như vậy đến cuối 2008, Yamaha có năng lực sản xuất không thua kém
Honda và thị trường hứa hẹn sẽ có những cuộc cạnh tranh khốc liệt về sản
phẩm và giá bán giữa hai "ông lớn" này. Tuy nhiên, sự bành trướng sẽ khiến
không ít doanh nghiệp gặp khó khăn, nhất là các công ty trong nước, bởi
Yamaha và Honda đã chiếm gần hết sản lượng 3 triệu xe mỗi năm, nếu cả hai
đạt công suất thiết kế. Cuộc chiến ở xe tay ga Việc Yamaha và Honda cùng
đầu tư nâng sản lượng cho thấy hai nhà sản xuất này nhận định thị trường xe
máy Việt Nam còn nhiều tiềm năng, đặc biệt là dòng xe số tự động. Trả lời
báo chí ngày 18/7, ông Koji Onishi, Tổng Giám đốc Honda Việt Nam cho
biết mặc dù nhà máy thứ hai chủ yếu sản xuất xe tay ga hiện có như Air Blade
hay Click nhưng không loại trừ khả năng có thêm các sản phẩm mới như
SCR, thậm chí SH. Tất cả đều phụ thuộc vào thị trường. Dù tham gia vào thị
trường tay ga sau nhưng Honda gặt hái những thành công đáng kể. Trong 9
tháng có mặt trên thị trường, đã có gần 47.000 chiếc Honda Click (đối thủ của
Yamaha Mio) tới tay người tiêu dùng. Riêng với Air Blade, cạnh tranh trực
tiếp cùng Nouvo, Honda bán được 19.500 chiếc sau 3 tháng ra mắt và tại các
đại lý, người mua phải đợi vài tháng mới có thể nhận xe. Với Yamaha, ông
Đinh Quang Tuấn, phụ trách tiếp thị cho biết nhà máy mới sẽ có phân xưởng
sản xuất xe số tự động. Hiện tại, thị phần của xe tay ga ở Yamaha đang tăng
đáng kể. Nếu đầu năm 2007, dòng xe này chiếm 20% tổng số xe bán ra thì
đến tháng 6, tỷ lệ đó tăng lên thành 30% và đến hết năm sẽ chiếm khoảng 40-
50%. Trong 6 tháng đầu năm, Yamaha bán 250.000 xe, tăng mạnh so với
170.000 chiếc cùng kỳ năm ngoái. Theo nhận định của các chuyên gia, thời
gian tới với ưu điểm về vận hành và thời trang, xe tay ga sẽ là một trong
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
những phân khúc mang lại nhiều doanh số và lợi nhuận nhất cho các hãng,
đặc biệt là các liên doanh lớn. Thị phần dòng xe này sẽ tiếp tục nâng cao, đạt
khoảng 25% vào cuối 2008, tăng đáng kể so với tỷ lệ 11% hiện nay. Với
doanh số ước chừng trên 3 triệu xe thì mỗi năm có khoảng 750.000 chiếc tay

ga được tiêu thụ, một con số hấp dẫn nếu tính trên khoảng 10 mẫu xe hiện có.
Ngoài hai đối thủ cạnh tranh trực tiếp với nhau là Yamaha và Honda, phân
khúc này còn có sự tham gia của những liên doanh như Suzuki, SYM, các
đơn vị trong nước và một nhân tố mới là Piaggio. Dù có mức đầu tư khiêm
tốn 15 triệu USD vào nhà máy có diện tích 3 ha nhưng Piaggio vẫn là đối thủ
đáng gờm. Với sản phẩm chính là Vespa, Piaggio là hãng đầu tiên lắp ráp xe
tay ga cao cấp tại Việt Nam, tạo lợi thế về giá và hệ thống bảo hành trước các
mẫu xe nhập khẩu của Honda và Yamaha. Chưa thể là đối trọng của hai liên
doanh trên nhưng bước đi của Piaggio nằm trong kế hoạch nâng cao sản
lượng toàn cầu. Rất có thể trong tương lai, nhà máy tại Việt Nam là điểm
trung chuyển sang các nước khác và khi đó, Piaggio sẽ trở thành một thế lực
đáng kể. Trọng Nghiệp VNE
1.4. Định hướng của chính phủ ngành xe máy Việt Nam :
Theo bản quy hoạch, giai đoạn đến năm 2015, đáp ứng được 100% nhu
cầu xe thông dụng ở khu vực nông thôn, 90% xe ở khu vực thành thị, phấn
đấu đạt tỷ lệ sản xuất trong nước dùng xe tay ga trên 60%, dùng xe thông
dụng trên 90%, sản phẩm xe máy đật tiêu chuẩn chất khí thải theo lộ trình
được Việt Nam cam kết thực hiện theo các quy định hiện hành, sản xuất được
các loại xe phân phối lớn hơn 125cm³, xe tay ga cao cấp, xe thể thao, xe máy
3-4 bánh cho người tàn tật, xe địa hình phục vụ du lịch, ce vận chuyển nông
sản ... phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu, phấn đấu xuất khẩu xe máy
và phụ tùng xe máy đạt khoảng 400 triệu USD
Giai đoạn 2006, các doanh nghiệp (DN) phải quý trọng đến việc nghiên
cứu sản xuất các loại đọng cơ xe máy sử dụng nhiên liệu “sạch” phục vụ thị
trường trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2020 ngành công nghiệp xe máy
8

×