Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Văn hóa vùng biển đảo quảng ninh qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (427.74 KB, 28 trang )

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TR
ƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
NGUY
ỄN THỊ PHƯƠNG THẢO
V
ĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
(QUA NGHIÊN C
ỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)
Chuyên ngành: V
ăn hóa học
Mã s
ố: 62310640
TÓM T
ẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC
HÀ N
ỘI - 2015
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
B
ộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trần Đức Ngôn
TS. Nguy
ễn Thị Việt Hương
Ph
ản biện 1: GS.TS. Lê Hồng Lý - Viện Nghiên cứu văn hóa, Viện Hàn
lâm Khoa h
ọc Xã hội Việt Nam
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Chí Bền - Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia
Vi


ệt Nam
Phản biện 3: PGS.TS. Võ Quang Trọng - Bảo tàng Dân tộc học
Luận án sẽ được bảo vệ tại hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại:
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Số 418, đường La Thành, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội
Vào hồi…… ngày……… tháng…… năm 2015.
Có thể tìm hiểu luận án tại:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Trung tâm Thông tin - Th
ư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do ch
ọn đề tài
Nghiên cứu về biển đảo gần đây đã nhận được sự quan tâm của nhiều ngành
nghiên c
ứu như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội… Việt Nam có bờ biển dài hơn
3260 km, t
ừ vùng ven biển đã mở ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế biển.
Trong môi tr
ường biển đảo cộng đồng cư dân sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa có giá
tr
ị cần được bảo tồn và phát huy.
V
ấn đề bảo tồn, phát huy truyền thống văn hoá dân tộc, trong đó có lễ hội
truy
ền thống của mỗi vùng miền, đã và đang đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng để
góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từ trước đến nay, các nhà nghiên
c

ứu đều thống nhất nhận định rằng văn hoá giữ vị trí, vai trò nền tảng cho sự phát
tri
ển của dân tộc. Những dấu ấn sâu đậm của lịch sử, của đời sống kinh tế - xã hội,
tâm lý c
ộng đồng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng đều có thể tìm thấy trong văn
hoá,
đặc biệt là trong các lễ hội truyền thống. Bước vào thế kỷ XXI, trước xu thế
toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định văn hoá truyền thống vẫn sẽ là
m
ột nguồn lực tạo nên động lực để xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền
v
ững. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, văn hoá truyền thống (trong đó có lễ hội truyền thống)
không ph
ải lúc nào cũng được coi trọng đúng mức. Không ít nơi phục cổ một cách
tu
ỳ tiện, thiếu định hướng, làm biến dạng các di sản văn hoá quý giá đó, thậm chí
quay l
ưng lại với các giá trị văn hoá dân tộc, xem đó là cái bảo thủ, lỗi thời. Vì thế
rất cần một thái độ khách quan, khoa học đối với di sản văn hoá, trong đó có lễ hội.
Ngày càng có nhi
ều ý kiến cho rằng, thế kỷ XXI là "Thế kỷ của đại dương".
Ngh
ị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2-2007)
v
ề "Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" cũng ghi nhận ý kiến trên và nêu lên
m
ục tiêu "vươn ra biển lớn". Và như thế, "con mắt cận duyên" phải được thay bằng
"t
ầm nhìn đại dương". Để có "tầm nhìn đại dương" ấy không thể không nghiên cứu

địa hình, khí hậu, môi trường sinh thái, phong tục, tập quán của cư dân biển, là tác
nhân sinh thành và phát tri
ển những vùng văn hoá khác nhau.
2
Quảng Ninh là một vùng đất cổ. Các di chỉ khảo cổ học, các thư tịch cổ sưu tầm
được đã minh chứng rõ điều này. Quảng Ninh tập hợp đầy đủ đặc điểm của hệ sinh thái
n
ước ta, có đồi núi, đồng bằng, đặc biệt là có biển với sự đa dạng sinh học rất đáng chú
ý. Qu
ảng Ninh có hơn 20 tộc người, mỗi tộc người lại có những nét văn hoá riêng, tiêu
bi
ểu, tất cả tạo nên sự phong phú, đa dạng của một vùng văn hoá độc đáo.
Qu
ảng Ninh là một tỉnh ven biển nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc
(Hà N
ội - Hải Phòng - Quảng Ninh), đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch của
Vi
ệt Nam. Điều đó cho thấy vị thế của Quảng Ninh trong chiến lược phát triển kinh tế -
xã h
ội của các tỉnh phía Bắc nói riêng và của cả nước nói chung là rất lớn.
Chính vì v
ậy, từ góc nhìn địa - văn hoá, tác giả chọn đề tài “Văn hóa vùng
bi
ển đảo Quảng Ninh (Qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống)” để nghiên
c
ứu. Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ hơn những nét đặc trưng, tính
ch
ất đa dạng, phong phú của lễ hội truyền thống Quảng Ninh trong lịch sử và hiện
t
ại. Kết quả nghiên cứu của đề tài cũng sẽ là một căn cứ khoa học góp phần định

h
ướng quy hoạch phát triển văn hoá, tạo môi trường xã hội ổn định, bền vững,
trong
đó có việc khai thác lễ hội truyền thống như là một nguồn lực văn hoá để
phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Ninh nói riêng, của cả nước nói chung trong
th
ời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức sâu về các yếu tố cấu thành và đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo
Qu
ảng Ninh.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vùng văn hóa biển đảo
Qu
ảng Ninh.
- Ti
ến hành khảo sát, điền dã vùng biển đảo Quảng Ninh, đặc biệt tham gia
vào các l
ễ hội truyền thống.
- Mô tả các lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh ở cả ba nhóm: nội
đồng, ven biển và hải đảo để làm rõ các yếu tố nội đồng và yếu tố biển.
- Làm rõ nh
ững đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng
3
Ninh thông qua việc so sánh với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các lễ hội truyền thống ở vùng
bi
ển đảo trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả
s
ẽ đề cập đến một số lễ hội tiêu biểu liên quan đến biển của các tỉnh, thành phố vùng
duyên h
ải Bắc Bộ như Hải Phòng, Thái Bình và một số địa phương ở Trung Bộ để
tìm ra nh
ững nét tương đồng và khác biệt với lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Qu
ảng Ninh.
- V
ề thời gian: Luận án khảo sát các lễ hội truyền thống vùng biển đảo hiện nay
ở Quảng Ninh. Tư liệu khảo sát được thực hiện trong 7 năm (từ năm 2007 đến năm
2013). D
ựa vào kết quả nghiên cứu, đối chiếu với các lễ hội truyền thống ven biển
tr
ước năm 1954 thông qua tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước để thấy các yếu tố
truy
ền thống còn được bảo lưu trong các lễ hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp liên ngành: Tiếp cận vấn đề trên các phương diện địa lý, lịch sử,
kinh t
ế, văn hoá, xã hội, của tỉnh Quảng Ninh.
- Ph
ương pháp điền dã dân tộc học: Tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp
điền dã để quan sát, tham dự vào các sinh hoạt văn hoá của cư dân địa phương với
m
ục đích khảo tả một cách chân thực các hiện tượng trong các lễ hội truyền thống
nh

ằm thu thập nguồn tư liệu xác thực, cập nhật nhất. Bên cạnh đó, việc quan sát,
ph
ỏng vấn, trao đổi ý kiến để thu thập thông tin về những vấn đề liên quan đến lễ hội
truy
ền thống vùng biển đảo cũng được thực hiện.
- Ph
ương pháp phân tích - tổng hợp được dùng để nhận thức sâu đối tượng
nghiên c
ứu.
- Ph
ương pháp so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa vùng
bi
ển đảo Quảng Ninh với văn hóa vùng biển đảo khác.
5. Những đóng góp mới của luận án
4
- Phân loại lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh.
- Mô t
ả những yếu tố văn hóa nội đồng và văn hóa biển trong lễ hội truyền
th
ống vùng biển đảo Quảng Ninh.
- Ngoài việc tiếp cận với các tư liệu đã công bố, đề tài cũng sẽ công bố một số
t
ư liệu mới.
- Nêu m
ột số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa vùng biển đảo QN và đối chiếu
v
ới các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên
c
ứu về văn hoá vùng hoặc địa chí văn hóa.

6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án được trình bày trong 4 chương:
Ch
ương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về lễ hội truyền
th
ống vùng biển đảo Quảng Ninh
Ch
ương 2: Yếu tố nội đồng trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện
qua các l
ễ hội truyền thống
Ch
ương 3: Yếu tố biển trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua
các l
ễ hội truyền thống
Ch
ương 4: Đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh
Chương 1
T
ỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT
V
Ề LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
1.1. T
ổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Bắc Bộ
Có thể khẳng định rằng nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển vùng Bắc Bộ
ch
ưa được chú trọng như Trung Bộ và Nam Bộ. Vì vậy, tài liệu viết về vấn đề này
c
ũng không nhiều. Tiêu biểu là các bài viết của các tác giả như: Diệp Trung Bình có

bài “
Vài nét về đời sống của ngư dân vùng biển Đông Bắc Việt Nam”; tác giả
Nguy
ễn Thanh có bài, “Lễ hội trình nghề reo ống của làng Quang Lang”; công trình
c
ủa Đỗ Lan Phương “Văn hóa vùng cửa sông Hồng như một dạng thức của văn hóa
5
biển Việt Nam (Qua nghiên cứu hai xã ở Nam Định và Thái Bình)”; năm 2012 Luận
án ti
ến sĩ của Lê Thanh Tùng “Lễ hội cổ truyền cư dân ven biển Hải Phòng và sự
bi
ến đổi trong giai đoạn hiện nay”
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Trung Bộ
Về mặt địa lý, Trung Bộ là vùng tiếp giáp với biển nhiều nhất trên lãnh thổ Việt
Nam. Chính vì v
ậy, các nghiên cứu về văn hóa biển nói chung và lễ hội ven biển tập
trung ch
ủ yếu ở vùng này. Tiêu biểu là các công trình: Văn hóa cư dân Việt ven biển
Phú Yên
, Tín ngưỡng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, Sinh hoạt văn hoá dân
gian c
ổ truyền làng biển Cảnh Dương, Biển trong lịch sử Việt Nam dưới góc nhìn của
Charles Wheeler…
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Nam Bộ
Nghiên cứu về lễ hội truyền thống ven biển Nam Bộ chủ yếu là các bài báo khoa học
đề cập tới các thành tố của lễ hội truyền thống ven biển. Ngoài ra, trong nhóm tài
li
ệu về vùng biển Nam Bộ còn có rất nhiều các công trình khác. Có thể kể đến
Nguy
ễn Thanh Lợi, năm 2000 với “Tục thờ cá Ông ở Cần Thạch (Cần Giờ) và ven

bi
ển Nam Bộ”; hay tác giả Trần Quốc Vượng năm 2000 với bài “Hát cầu ngư - nét
đẹp văn hóa làng biển”…
1.1.4. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh
Riêng về văn hoá vùng biển đảo Quảng Ninh, các công trình nghiên cứu về
kh
ảo cổ học khá nhiều. Điển hình là các bài nghiên cứu khoa học của tác giả Nguyễn
Kh
ắc Sử. Năm 1986 ông có bài viết “Di chỉ Cái Bèo với tiền sử vùng ven biển Đông
B
ắc Việt Nam”. Năm 1997 tác giả lại công bố công trình "Văn hóa biển tiền sử Việt
Nam: mô hình và gi
ả thiết”… Đây là những công trình không chỉ có giá trị về khảo
c
ổ học mà còn có giá trị về lý luận văn hóa vùng biển đảo.
1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống
1.2.1. Vùng văn hóa
Những biểu hiện của văn hóa vùng vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện trên
t
ất cả các mặt hoạt động của con người như: “lối sống, nếp sống của cư dân, như việc
làm l
ụng, nếp ăn mặc, đi lại giao tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín
ng
ưỡng, lễ hội; các hoạt động văn hóa - nghệ thuật, nhất là văn hóa nghệ thuật dân
6
gian, âm nhạc, dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian, và chừng mực nào đó còn thấy ở
phong cách và tâm lý của con người ”.
Theo Giáo s
ư Ngô Đức Thịnh, hệ thống các cấp bậc vùng văn hóa được phân
chia v

ới mức độ rộng, hẹp như sau: miền (khu vực), tiểu khu vực, vùng, tiểu vùng
Như vậy, trên cơ sở lý thuyết về văn hóa vùng của GS. Ngô Đức Thịnh, tác giả luận
án b
ước đầu đưa ra khái niệm văn hóa vùng biển đảo QN làm cơ sở nghiên cứu:
V
ăn hóa vùng biển đảo QN là văn hóa của một vùng biển đảo có lịch sử lâu
đời, có sự tương đồng về dân cư, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có sự giao lưu
v
ăn hóa. Trải qua quá trình lao động và sáng tạo, cư dân vùng biển đảo QN đã tạo nên
nh
ững đặc điểm văn hóa tiêu biểu (Đó là: đậm yếu tố nội đồng, đậm tính lịch sử, nhạt
y
ếu tố biển…). Những đặc điểm văn hóa này được thể hiện qua sinh hoạt văn hóa vật
ch
ất và tinh thần (đặc biệt qua các lễ hội truyền thống), có thể phân biệt với văn hóa
bi
ển đảo các vùng khác.
1.2.2. Văn hóa biển đảo
Tổng hợp các ý kiến của các nhà nghiên cứu trước, chúng tôi mạnh dạn bước
đầu đưa ra khái niệm văn hóa biển đảo như sau: văn hóa biển đảo là một hiện tượng
v
ăn hóa được bắt nguồn dưới tác động của môi trường biển đảo lên cuộc sống của
con ng
ười. Từ đó, hình thành nên hệ thống những tri thức, các tục lệ, các giá trị, các
bi
ểu tượng văn hóa… về biển đảo. Từ khái niệm, có thể đưa ra những đặc trưng cơ
b
ản của văn hóa biển đảo. Đó là: tính nhân sinh, tính lịch sử, tính tương tác Giống
nh
ư những hiện tượng văn hóa khác, các biểu hiện cơ bản của văn hóa biển đảo (hay

các thành t
ố của văn hóa biển đảo) là: văn hóa ẩm thực, văn hóa mặc, lễ tết và lễ hội,
tôn giáo và tín ng
ưỡng, phong tục, tập quán…
1.2.3. Lễ hội truyền thống
1.2.3.1. Khái niệm chung về lễ hội
Lễ hội dân gian là thuật ngữ dùng để chỉ một loại hình sinh hoạt văn hóa dân
gian t
ổng hợp bao gồm nhiều thành tố tôn giáo tín ngưỡng, phong tục tập quán, văn học
ngh
ệ thuật dân gian , diễn ra tại một địa điểm, một thời gian nhất định mang tính chu
k
ỳ. Lễ hội bao giờ cũng gắn bó với một cộng đồng cư dân nhất định. Lễ hội gắn bó với
7
từng làng quê. Các làng quê khác nhau thì ngày hội làng cũng khác nhau. Mặt khác, lễ
h
ội mang tính tộc người rất rõ. Các tộc người khác nhau sẽ có những lễ hội khác nhau.
1.3. Khái quát về lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh
1.3.1. C
ơ sở tự nhiên, xã hội của vùng biển đảo Quảng Ninh
Địa hình của tỉnh có thể chia thành 3 vùng: Vùng núi, vùng trung du; đồng
b
ằng ven biển; vùng biển và hải đảo. Quảng Ninh có tất cả 30 con sông, suối với
chi
ều dài trên 10 km. Theo qui định của Luật biển Việt Nam thì vùng biển đảo
Qu
ảng Ninh bao gồm: cửa sông, vũng vịnh, cửa biển và vùng nước ở phía trong
đường cơ sở và giáp với bờ biển.
Toàn t
ỉnh Quảng Ninh có 14 huyện thị trong đó có 8 huyện, thị thuộc vùng biển

đảo. Đó là: thành phố Móng Cái, thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, huyện Yên
H
ưng (có đảo Hà Nam), huyện Hải Hà, huyện Đầm Hà, huyện đảo Vân Đồn, huyện Cô
Tô; 2 huy
ện có một phần giáp biển là: huyện Hoành Bồ và huyện Tiên Yên.
Theo t
ổng điều tra dân số và nhà ở năm 2010 thì dân số Quảng Ninh là
1.159.463 ng
ười trong đó nữ là 566,184 người. Tỉ lệ dân số sống ở thành thị cao thứ 3
Vi
ệt Nam (sau thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng), dân số thành thị là 667.862 người
(chi
ếm tỉ lệ 58,1%). Điểm nổi bật về kinh tế của vùng biển đảo là kinh tế du lịch. Bên
c
ạnh đó kinh tế cảng biển, khai thác nuôi trồng và chế biến hải sản cũng là những ngành
kinh t
ế có vị trí quan trọng của vùng.
1.3.2. Số lượng và sự phân bố lễ hội ở vùng biển đảo Quảng Ninh
Theo sự khảo sát của chúng tôi, hiện nay ở vùng biển đảo Quảng Ninh có 46 lễ
hội truyền thống trên 7 đơn vị hành chính giáp biển và hải đảo.
Tuy nhiên, s
ự phân bố lễ hội giữa các đơn vị hành chính có sự chênh lệch đáng kể.
Nhi
ều nhất là huyện Yên Hưng, sau đó đến thành phố Hạ Long, huyện Vân Đồn,
thành ph
ố Móng Cái và rải rác ở huyện Đầm Hà, huyện Hải Hà, thành phố Cẩm Phả.
1.3.3. Phân loại lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh
1.3.3.1. Căn cứ để phân loại
Căn cứ vào vùng không gian của lễ hội Quảng Ninh chúng tôi tạm chia lễ hội
truy

ền thống vùng biển đảo Quảng Ninh thành 3 nhóm lễ hội tiêu biểu: Nhóm lễ hội hải
đảo, nhóm lễ hội ven biển và nhóm lễ hội nội đồng.
8
Sự phân chia này cũng chỉ mang tính chất tương đối. Vì không gian văn hóa biển
g
ồm cả khu vực đồng bằng ven biển, vùng biển gần bờ, vùng biển xa bờ, các đảo xa đất
li
ền nên việc xác định ranh giới giữa các khu vực trong một vùng biển đảo là rất khó
kh
ăn. Như một số nhà nghiên cứu đã nhận định, cư dân vùng ven biển quay lưng lại với
bi
ển và ngày càng tiến sâu vào đất liền, gần với đồng bằng. Quá trình này cũng phải
m
ất một thời gian dài tương tác giữa con người với tự nhiên và ngược lại. Như vậy,
vi
ệc phân chia thành 3 nhóm lễ hội nêu trên cũng phần nào phản ánh từng bước quá
trình chuy
ển đổi từ ngư nghiệp sang nông nghiệp của cư dân, đồng thời nhằm mục đích
nh
ận diện đặc điểm văn hóa của của vùng biển đảo Quảng Ninh.
1.3.3.2. Các loại lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh
+ Nhóm l
ễ hội hải đảo: Nhóm lễ hội hải đảo chiếm tổng số 20 lễ hội (43%)
trong t
ổng số 46 lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh.
+ Nhóm lễ hội ven biển: Trong tổng số 46 lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng
Ninh có 17 l
ễ hội trực tiếp ven biển, chiếm 37%, ít hơn so với nhóm lễ hội ở hải đảo.
+ Nhóm lễ hội nội đồng: Nhóm này có 9 lễ hội, chiếm 20%, chủ yếu tập trung
ở huyện Yên Hưng, huyện Đầm Hà và thành phố Móng Cái.

Tiểu kết: Lý thuyết về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống là
c
ơ sở lý luận để nghiên cứu các vấn đề liên quan đến lễ hội truyền thống nói chung và
l
ễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh nói riêng. Các nhân tố của vùng văn hóa
(môi tr
ường tự nhiên, trình độ kinh tế, xã hội, nhân tố tạo hệ thống ) sẽ tác động tạo
nên
đặc trưng văn hóa riêng của mỗi vùng. Trong vùng văn hóa có tiểu vùng văn hóa,
trung tâm v
ăn hóa Lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh khá phong phú và
đa dạng. Bước đầu để nhận diện lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh, căn cứ vào
ph
ạm vi, không gian của lễ hội, chúng tôi phân loại thành các nhóm: nhóm lễ hội hải
đảo, nhóm lễ hội ven biển và nhóm lễ hội nội đồng.
Chương 2
Y
ẾU TỐ NỘI ĐỒNG TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH THỂ
HI
ỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
2.1. C
ộng đồng cư dân và cơ cấu tổ chức các làng nông nghiệp
2.1.1. Cộng đồng cư dân
9
Thành phần cư dân vùng biển đảo ở Quảng Ninh cũng khá phức tạp. Các dòng
thiên di c
ủa cư dân từ nhiều nơi và qua nhiều thời kỳ lịch sử với những nguyên nhân,
hoàn c
ảnh khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là cư dân gốc nông nghiệp. Họ có thể là
nh

ững người tìm kế sinh nhai, tìm vùng đất mới để sinh sống; là những di dân do chính
sách khai hoang, m
ở rộng của các triều đại phong kiến; là những người tìm chốn nương
thân, tránh s
ự áp bức bóc lột, truy lùng, săn đuổi của các vương triều phong kiến, vùng
đất cũ khi có sự biến động về chính trị, những cuộc phản kháng, xung đột mà họ bị thất
b
ại; là những binh lính, quan cai trị được điều động của chính quyền đến xây dựng và
cai qu
ản vùng đất mới. Nhưng mỗi khi tổ chức lễ hội, họ quên đi nguồn gốc thân phận
mình và hòa chung không khí ngày h
ội với những nghi thức của cư dân nông nghiệp.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của các làng nông nghiệp
Nhiều làng của vùng biển đảo Quảng Ninh vẫn có cơ cấu tổ chức giống các
làng nông nghi
ệp (trong đồng bằng). Vì vậy, lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng
Ninh nh
ưng lại vẫn giữ khá nhiều đặc trưng lễ hội của những cư dân nông nghiệp như
l
ễ hội Xuống đồng, lễ Đảo Vũ trên đảo Hà Nam, lễ hội Trà Cổ ở Móng Cái….
Đại diện cho làng ven biển đậm chất nội đồng nhất là làng Trà Cổ. Ngoài hội
đồng kỳ mục như các làng khác, làng Trà Cổ còn có các chức danh sau: thứ nhất là
thôn tr
ưởng, thứ hai là thủ khán hay thôn khán, thứ ba là văn thuộc. Tại các thôn của
làng Trà C
ổ, bên cạnh các ông đám còn có các ông mo hay sư mo; ban văn và ban
võ; h
ội đồng kỳ mục; hội đồng lý dịch. Việc quản lý, tổ chức lễ hội Trà Cổ hầu như
gi
ống các làng nông nghiệp truyền thống. Trong lễ hội Trà Cổ cũng còn duy trì khá

nhi
ều nghi thức và trò chơi của cư dân nông nghiệp như: tục thi ông Voi (nuôi lợn -
v
ật nuôi của cư dân nông nghiệp) hay trò chơi bịt mắt chém cá chình…
2.2. Sự thể hiện yếu tố nội đồng trong lễ hội truyền thống
2.2.1. Yếu tố nội đồng thể hiện qua các vị thần chủ được thờ
2.2.1.1. Thần Nông
Các lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh thường thờ Thần Nông là thần chủ
nh
ư: lễ hội Xuống đồng, lễ hội đình Cốc. Còn ở các lễ hội khác Thần Nông được phối
th
ờ cùng thần Thành hoàng ở đình như: lễ hội đình Phong Hải, lễ hội đình Cẩm La, lễ
h
ội đình Yên Đông, lễ hội đình Trung Bản. Tất cả các lễ hội trên đều ở huyện Yên
10
Hưng, là một huyện giáp biển. Hàng năm, các đình làng thường diễn ra các lễ tế liên
quan
đến tín ngưỡng thờ Thần Nông như: lễ Khai ương (gieo mạ), lễ Hạ điền (Xuống
đồng), lễ Thượng điền (cấy xong), lễ Thường tân (cơm mới - gặt lúa).
2.2.1.2. Thành hoàng
Ở nhiều lễ hội truyền thống ven biển Quảng Ninh, Thành hoàng được tôn làm
th
ần chủ và có vị trí quan trọng đối với những ngư dân ven biển và trên biển (như lễ
hội Vân Đồn, lễ hội Trà Cổ, lễ hội làng Yên Đông, lễ hội làng Giang Võng, lễ hội
đền Bụt Đày, lễ hội đền Cậu Vàng, lễ hội đình Cốc, lễ hội đình Hải Yến). Ngoài ra,
ở các lễ hội khác, Thành hoàng được coi là vị thần phối thờ như: lễ hội làng Hiệp
Hòa, h
ội miếu Tiên Công, lễ hội đình Trung Bản
2.2.1.3. Tiên Công
Ở Quảng Ninh, tín ngưỡng thờ Tiên Công tiêu biểu nhất là trên đảo Hà Nam. Tổng

s
ố các vị Tiên Công có công lập nên đảo Hà Nam là 24 vị. Để ghi nhớ công ơn, nhân dân
đã lập đền thờ 24 vị như sau: xã Phong Cốc có 11 vị (Vũ Song, Vũ Hồng Tiệm, Bùi Huy
Ngo
ạn, Vũ Tam Tỉnh, Lê Mở, Vũ Giai, Lê Khép, Ngô Bách Đoan, Nguyễn Phúc Cốc,
Nguy
ễn Phúc Thắng, Nguyễn Phúc Vinh), xã Yên Đông có 3 vị (Nguyễn Thực, Nguyễn
Ngh
ệ, Bùi Bách Niên), xã Cẩm La có 3 vị (Phạm Việt, Dương Quang Tấn, Dương Quang
Tín), xã V
ị Dương có 2 vị (Hoàng Kim Bảng, Hồng Đức Hấn), xã Bản Động có 2 vị
(Hoàng Nông, Hoàng Nênh), xã Lương Quy (Đỗ Độ, Đào Bá Lệ, Phạm Nhữ Lãm).
2.2.2. Yếu tố nội đồng thể hiện qua nghi lễ
2.2.2.1. Lễ rước nước
Tiêu biểu trong lễ hội vùng biển đảo ở Quảng Ninh là lễ rước nước trong lễ hội
ở đình Giang Võng. Nếu lễ rước nước của cư dân nông nghiệp thường được tổ chức
trên sông thì l
ễ Rước nước trong các lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh
l
ại lấy nước trên biển. Tuy nhiên, bản chất của buổi lễ vẫn không thay đổi là cầu cho
m
ưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi và mang ý nghĩa “uống nước nhớ nguồn”.
2.2.2.2. Lễ Đảo vũ
Lễ Đảo vũ ở huyện Yên Hưng có đặc điểm không chỉ diễn ra trong qui mô của
m
ột làng, một xã mà có qui mô liên làng, liên xã, khá tiêu biểu của huyện Yên
H
ưng. Những năm hạn hán lâu, các làng Vị Khê, Vị Dương, Lưu Khê, Quỳnh Biểu,
11
Trung Bản, Cẩm La, Yên Đông, Hải Yến, Hương Học đều rước Thành hoàng làng

mình v
ề đình Cốc làm lễ Đảo vũ. Có thể thấy nhiều điểm khác nhau giữa lễ Đảo vũ
v
ới các lễ hội thuộc các nhóm hải đảo và ven biển. Nét đặc thù ở đây là người nông
dân ph
ải sống ven biển, cạnh biển, cải tạo biển để làm nông nghiệp.
2.2.2.3. Lễ xuống đồng
Cư dân trên đảo Hà Nam quai đê lấn biển để làm nông nghiệp nên lễ xuống
đồng và lễ thượng điền có vai trò quan trọng trong việc cầu cho mùa màng tốt tươi.
Vào d
ịp tháng 6 âm lịch, trước khi toàn dân vào dịp cấy mùa, tại đình Cốc, người
dân làm l
ễ tế Thần Nông và nghi lễ Cấy xứng đồng (cấy đầu tiên) hay còn gọi là lễ
H
ạ điền (lễ xuống đồng). Lễ hội xuống đồng ở Hà Nam là một lễ hội độc đáo vào
cu
ối mùa hạ. Phần lễ ngoài tín ngưỡng thờ Thần Nông, thần Thành hoàng làng, Tiên
Công còn là m
ột nghi lễ quy định lịch thời vụ nông nghiệp. Đây còn là một lễ hội
mang
đậm bản sắc văn hóa của cư dân lúa nước vùng cửa biển.
2.2.2.4. Lễ Tiên Công
Tín ngưỡng thờ Tiên Công được thể hiện qua những sinh hoạt tín ngưỡng như
ch
ạp tổ, lễ ra cỗ họ, nghi lễ chúc thọ, rước thọ, cúng, tế Tiên Công và nghi lễ đắp đê,
đấu vật. Lễ hội Tiên Công là sự cúng tế các vị tiền hiền khai khẩn, một hình thức sinh
ho
ạt văn hóa cộng đồng của người Việt.
Đi đôi với lễ hội Tiên Công còn có một sinh hoạt văn hóa gia đình rất đặc biệt, đó
là l

ễ Thượng thọ được dòng họ tổ chức cho những người đạt tuổi 80, 90, 100. Sinh hoạt
này nh
ằm nhắc nhở mọi người về sự tôn kính những người lớn tuổi (trọng xỉ), trân trọng
nh
ững kinh nghiệm mà họ đã có để truyền lại cho con cháu. Đây cũng là sinh hoạt văn
hóa c
ộng đồng (huyết thống) của những cư dân nội đồng nói chung đồng thời gắn liền
v
ới lễ hội Tiên Công - tín ngưỡng thờ Tiên Công ở vùng đảo Hà Nam nói riêng.
2.2.2.5. Lễ đóng cây cai đám và gọi sổ bìa xanh trong lễ hội Trà Cổ
Trước đây, lễ đóng cây cai đám được tổ chức từ chiều 30 tháng 5 âm lịch, nhưng
hi
ện nay, lễ này được tiến hành vào khoảng 20 giờ ngày 1 tháng 6 âm lịch. Lễ do ông mo
và 12 ông cai
đám thực hiện, trước khi đóng cai đám, ông mo đọc những lời chúc phúc
có n
ội dung mời các vị thần về dự hội và phù hộ cho dân làng mùa màng tốt tươi… Sau
nghi l
ễ đóng cây cai đám là đến tục gọi sổ bìa xanh. Thành phần là dân đinh trên địa bàn
12
với mục đích là kiểm tra lại đinh cũ, bổ sung dân đinh mới. Sổ bìa xanh ghi tên nam giới
trong làng t
ừ 15 tuổi trở lên. Sổ này là căn cứ phân bổ việc làng và làm nhiệm vụ cai đám
trong n
ăm. Sổ bìa xanh được gọi từ người cao tuổi xuống người ít tuổi và cắt cử ông đám
m
ới, ông đám mới vừa là nhiệm vụ của dân đinh, vừa là vinh dự của gia đình, những
ng
ười có cùng độ tuổi, có kinh tế khá hơn thì được làm cai đám trước.
2.2.3. Yếu tố nội đồng thể hiện qua các hoạt động hội

Phần hội trong lễ hội của cư dân vùng biển đảo Quảng Ninh có nhiều trò chơi
khá quen thu
ộc mà các lễ hội dân gian vùng Bắc Bộ hay các vùng văn hóa khác cũng
có nh
ư: chơi cờ, đánh đu, bịt mắt bắt dê, chơi tổ tôm điếm Tuy nhiên, những phong
t
ục, những cuộc thi của cư dân nông nghiệp được tiến hành trên nền cảnh của cư dân
ng
ư nghiệp, lại trong bối cảnh ven biển nên dấu ấn nông nghiệp lại càng thấy rõ ràng
h
ơn. Tiêu biểu cho các trò chơi là: tục nuôi và thi ông Voi trong lễ hội Trà Cổ; hội thi
c
ấy, thi bơi thuyền trong lễ hội xuống đồng ở Hưng Yên, thi bơi trải
Tiểu kết: Các yếu tố nội đồng trong lễ hội ven biển ở Quảng Ninh cũng khá
đậm nét và có những đặc trưng riêng. Lễ rước nước trong lễ hội đình Giang Võng của
c
ư dân vạn chài Hạ Long, lễ Đảo vũ của cư dân Hà Nam, lễ xuống đồng, lễ Tiên
Công,… là nh
ững nghi lễ của cư dân nông nghiệp từ đời xa xưa vẫn được duy trì. Hội
đua thuyền trải, hội thi cấy, hội thi ông Voi (nuôi lợn, chơi đu, tổ tôm điếm, đánh vật,
ch
ọi gà…) cũng là những công việc quen thuộc trong lao động sản xuất hàng ngày
c
ủa những người làm nông nghiệp đã được đưa vào lễ hội một cách tự nhiên, thỏa
mãn nhu c
ầu “cộng mệnh, cộng cảm” của các chủ nhân văn hóa.
Chương 3
Y
ẾU TỐ BIỂN TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO
QU

ẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
3.1. C
ộng đồng ngư dân và cơ cấu tổ chức các làng biển đảo
3.1.1. Cộng đồng ngư dân
Qua các phát hiện khảo cổ học ở Hạ Long, Tràng Kênh, Việt Khê đã chứng
minh m
ột phần cư dân bản địa ở Quảng Ninh đã từng là chủ nhân của các nền văn
hóa
đá mới và sơ kỳ kim khí. Ngoài ra, có những nhóm dân cư từ vùng trung du và
đồng bằng ra khai khẩn vùng biển Hải Đông mà nhân chứng ngày nay là các vị Tiên
13
Công, các vị Thành Hoàng làng được thờ phụng trong các lễ hội truyền thống. Bên
c
ạnh đó các nhóm nhỏ dân cư vượt biển từ phía bắc xuống hay từ phía nam lên cũng
định cư ở vùng biển này, nay đã đồng hóa với cư dân địa phương được thể hiện qua
các truy
ền thuyết, câu chuyện dân gian. Có những bộ phận dân cư chuyên nghề chài
l
ưới, tiêu biểu là dòng họ Trần, họ Mạc, vốn là những cư dân ven biển, sau định cư ở
Thái Bình, Nam
Định và một phần ở vùng biển đảo Quảng Ninh.
3.1.2. Cơ cấu tổ chức của các làng biển đảo
Ở Quảng Ninh, ngoài những xã ven biển vừa làm nông nghiệp vừa làm ngư
nghi
ệp thì cũng có những làng tụ cư khá đông đúc như các làng chài trên vịnh Hạ Long.
Các làng này ch
ỉ làm ngư nghiệp, làm các nghề buôn bán, chế biến thủy hải sản, nghề
đan lưới Đây chính là các vạn hoặc vạn chài. Cũng có người gọi là làng “thủy sinh”
(làng s
ống trên nước). Đó là một tổ chức mang tính cộng đồng của ngư dân chuyên đánh

b
ắt trên biển. Ngày nay, dọc ven biển Quảng Ninh còn nhiều địa danh mang kèm chữ vạn
nh
ư: Cửa Vạn, Vạn Ninh, Vạn Giã
3.2. Sự thể hiện yếu tố biển trong lễ hội truyền thống
3.2.1. Yếu tố biển thể hiện qua các vị thần chủ được thờ
3.2.1.1. Các vị thần biển
Vùng bi
ển đảo Quảng Ninh chủ yếu thờ các vị thần biển như: Tứ vị Thánh
n
ương, Bạch Điểm Tước Đại Vương, Thần Không Lộ (Khổng Lộ Giác Hải Đại
V
ương), Nam Hải tôn thần… Tục thờ thần biển, thần sông trong các lễ hội ven biển ở
Quảng Ninh có nhiều nét khác biệt với tục thờ thần biển ở Trung Bộ và Nam Bộ. Ngoài
các v
ị thần biển mà nhiều nơi thờ như Thủy cung Thánh mẫu, thần Biển, thần Nam Hải,
Đại Hải chi thần, Thủy thần Hà Bá, ở Quảng Ninh còn có nét rất riêng là tục thờ thần
Long mã trong các l
ễ mừng thọ; tục thờ những người chết đuối hiển linh ở các cống kéo
thuy
ền qua đê ra sông biển của các làng. Nơi thờ thần biển thường ở các đình làng, ở
các đền miếu nơi bến sông hoặc ở đầu sông cửa biển, đặc biệt ở các cống kéo thuyền
qua
đê của các làng.
3.2.1.2. Sự phụng thờ các vị thần được đồng hóa vào biển
Cư dân vùng biển đảo Quảng Ninh ngoài thờ các vị thần biển còn thờ các vị
thần được đồng hóa vào biển. Những vị thần này vốn không có nguồn gốc là thần biển
14
nhưng trải qua các lớp văn hóa đã mang một ý nghĩa mới là giống hoặc gần giống với
th

ần biển như: Phạm Tử Nghi, Đức Thánh Trần Hưng Đạo, hai anh em Trần Quốc
Nghi
ễn và Trần Quốc Tảng, Cô Bé Cửa Suốt (lễ hội đền Cặp Tiên), bà Đức Chúa hải
ngo
ại (lễ hội đền Bà Men), Vua Bà…
3.2.2. Yếu tố biển thể hiện qua nghi lễ
3.2.2.1. Lễ hóa mã và giã hội
Hầu hết các lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh đều có lễ hóa mã và
giã h
ội. Điểm khác biệt với các nơi khác là trong lễ hóa mã và giã hội bao giờ cũng
chu
ẩn bị một chiếc thuyền giấy to. Trong lễ hội Vân Đồn, lễ hội đền Cửa Ông, lễ hội
Trà C
ổ, lễ hội đình Giang Võng… khi kết thúc hội ông chủ tế, đoàn rước mã long
tr
ọng tổ chức lễ. Sau lễ hóa mã là lễ giã hội hay còn gọi là lễ Xa giá hoàn cung.
3.2.2.2. Lễ tế thủy thần
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, ngư dân trên vịnh Hạ Long còn làm lễ tế Thủy
th
ần vào các ngày sóc vọng của tháng một và tháng hai âm lịch. Họ chuẩn bị các lễ vật
nh
ư: cháo, trứng, thịt, vàng hương, chuối, gà… Sau khi cúng xong, cháo, vàng hương đã
đốt được đổ xuống biển. Vào chiều 30 tết âm lịch, ngư dân cũng tổ chức cúng để cảm ơn
s
ự phù hộ độ trì của thủy thần trong cả năm. Khi gặp các sự cố, tai nạn như đắm thuyền,
ốm đau, chết người, cả những rủi ro như đánh không được cá, vỡ đăng, kẹt lưới…. người
dân chài c
ũng cầu khấn thủy thần một cách thành tâm, mong tai qua nạn khỏi.
3.2.3. Yếu tố biển thể hiện qua các hoạt động hội
- Hội đua thuyền trong lễ hội đền Bà Men

- H
ội bơi thuyền trong lễ hội đình Giang Võng
- Trò ch
ơi bịt mắt chém cá chình
Tiểu kết: Trong lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh, yếu tố biển
được thể hiện không chỉ trong đối tượng thờ cúng phong phú, trong lễ nghi, trong
h
ội đua thuyền mà còn trong các trò chơi, trò diễn xướng dân gian Hội đua thuyền
c
ủa ngư dân vùng biển đảo Quảng Ninh cũng có nhiều nét chung, và cũng không ít
nét riêng so v
ới hội đua thuyền cả nước.
15
Chương 4
ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
4.1. V
ăn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng và
nh
ạt yếu tố biển
4.1.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng
Tục rước nước, cầu mưa của cư dân nông nghiệp vẫn được tái hiện với lớp văn
hóa m
ới trong các lễ hội ven biển như: lễ hội đình Giang Võng, lễ hội đình Trà Cổ, lễ
hội đình Cẩm Hải, lễ hội đền Bà Men, đền Bụt Đày, lễ cầu Đảo Vũ (Yên Hưng)…
Trong các v
ị thần được thờ ven biển Quảng Ninh cũng có không ít các vị thần là thần
nông nghi
ệp. Điển hình là vị thần Nông (lễ hội xuống đồng, đền Cốc, Hà Nam). Lễ
xuống đồng là nghi thức trong lễ cầu mùa nghề nông. Phần hội còn có tục nuôi và thi
ông Voi trong l

ễ hội Trà Cổ thể hiện đậm chất nông nghiệp, chất đồng bằng.
4.1.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh nhạt yếu tố biển
Trong các lễ hội, yếu tố biển được thể hiện rõ nhất qua việc thờ phụng các vị
th
ần biển. Nhưng ở Quảng Ninh các vị thần biển chủ yếu là phối thờ chứ không
được là thần chủ như thần Tứ vị Thánh nương, thần Không Lộ, thần Bạch Điểm
T
ước, thần Long mã, thần Phạm Tử Nghi, bà chúa Thoải Nếu có thì lại là đồng
hóa các nhân v
ật lịch sử thành các vị thần như Trần Hưng Đạo, Trần Quốc Nghiễn,
Tr
ần Quốc Tảng
Các di tích
để thờ các vị thần biển không có qui mô lớn như ở vùng biển
Trung B
ộ và Nam Bộ. Trên đảo Quan Lạn miếu Bà vẫn còn là tranh tre vách đất, ở
Yên Hưng miếu thờ các bà chúa Cua, chúa Ốc… cũng chỉ trong các miếu nhỏ ở trên
đê, ven biển… Phần nghi lễ của cư dân biển đảo chỉ cho lễ hóa mã là có hình ảnh
con thuy
ền, lễ giở mũi thuyền của cư dân làng chài Cửa Vạn trên vịnh Hạ Long hay
l
ễ tế thủy thần. Nhưng lễ vật dâng tế chủ yếu vẫn là sản vật nông nghiệp như cháo,
gà, xôi… không th
ấy các sản vật của biển khơi như cá, tôm…
4.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm tính lịch sử
4.2.1. Quá trình lịch sử
Quảng Ninh là vùng đất có ý nghĩa chiến lược trong xây dựng và bảo vệ tổ
quốc từ xưa tới nay. Có thể coi đây là vùng phên giậu cực Bắc của đất nước (mũi Sa
16
Vĩ). Thời phong kiến, Quảng Ninh là vùng đất thiêng liêng để các triều đại chiến đấu

v
ới quân xâm lược phương Bắc. Vì vậy, có biết bao vị tướng tài và quân lính đã hi
sinh n
ơi đây. Hệ thống thủy thần được hình thành và phát triển trên cơ sở nhân hóa
các v
ị tướng lĩnh vào dạng thức thờ thủy thần để chấn yểm những nơi trọng yếu của
vùng bi
ển Đông Bắc (Trần Quốc Tảng trấn giữ vùng Cửa Suốt, Trần Quốc Nghiễn
tr
ấn giữ vùng biển Cửa Lục, Trần Hưng Đạo trấn giữ vùng cửa sông Bạch Đằng,
Tr
ần Khánh Dư trấn giữ cửa sông Mang, Vân Đồn ). Trong lễ hội, các vị thần này
được tôn thờ và có sự ảnh hưởng tới cả một vùng rộng lớn. Đây có thể coi là một nét
riêng bi
ệt mà các tỉnh ven biển khác chưa có được.
4.2.2. Các sự kiện và nhân vật lịch sử là tiền đề trực tiếp của lễ hội lịch sử
vùng bi
ển đảo Quảng Ninh
4.2.2.1. Sự kiện Trần Khánh Dư đánh giặc trên sông Mang
Nhắc đến lễ hội Vân Đồn khiến chúng ta nhớ đến sự kiện Trần Khánh Dư
đánh giặc trên dòng sông Mang. Chiến thắng này đã tạo tiền đề quan trọng cho đại
th
ắng của quân ta trên sông Bạch Đằng vào tháng 4 năm 1288, quét sạch bóng quân
thù trên b
ờ cõi, chấm dứt ý đồ xâm lược nước ta lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng
c
ủa triều đại Nguyên Mông, giữ vững nền độc lập tự chủ của dân tộc.
Điều đặc biệt ở hội đua thuyền Quan Lạn là cả hai bên, dù thắng dù thua đều
có gi
ải. Giải của cuộc đua chỉ là vấn đề rất phụ, theo hương ước làng qui định có hai

đồng (thời xưa), cuộc đua chủ yếu mang tính chất nghi lễ. Trong ý nghĩa sâu xa của
cu
ộc đua thuyền, tất cả đều diễn lại chiến thắng Vân Đồn - Cửa Lục năm 1288 do
t
ướng Trần Khánh Dư chỉ huy.
4.2.2.2. Sự kiện Trần Hưng Đạo đánh giặc trên sông Bạch Đằng
Sự kiện chiến thắng Bạch Đằng gắn với vị tướng quân tài ba Trần Hưng Đạo
không ch
ỉ là dấu ấn của mảnh đất phên dậu ven biển Quảng Ninh mà còn là mốc son
l
ịch sử của nhà Trần và của cả dân tộc. Vì vậy, các vùng biển đảo Quảng Ninh đều tôn
th
ờ ông và tôn thờ cả các cộng sự của ông, những người đã góp phần tạo nên chiến
th
ắng oai hùng đó. Không chỉ là những vị tướng của ông như Trần Khánh Dư, Trần
Qu
ốc Nghiễn, Trần Quốc Tảng, Phạm Ngũ Lão được tôn thờ mà cả những người dân
17
thường có công cũng được ông cho lập đền, miếu để thờ như: Bà hàng nước, bà Men,
Cô bé C
ửa Suốt
Hi
ện nay, trong các lễ hội vùng biển đảo Quảng Ninh tôn thờ tướng quân
Tr
ần Hưng Đạo rất nhiều như: lễ hội Bạch Đằng, lễ hội đình Đền Công phối thờ
cùng 4 vị đại tướng quân: Cao Sơn Quý Minh, Nam Hải tôn thần, Phi Bồng tướng
quân, B
ạch thạch tướng quân. Ngoài ra Trần Hưng Đạo và Phạm Ngũ Lão còn
được thờ trong lễ hội đình Trung Cốc, xã Nam Hà, huyện Yên Hưng tưởng nhớ
sự kiện hai ông đi thị sát trận địa để cắm cọc gỗ xuống lòng sông Bạch Đằng

chống quân Nguyên (1287 - 1288). Lễ hội Bạch Đằng còn được gọi là ngày giỗ
trận, hằng năm được tổ chức vào ngày mùng 6 đến ngày mùng 8 tháng 3 âm lịch
hàng năm, có năm kéo dài tới bốn ngày đêm.
4.2.2.3. Sự kiện Trần Quốc Tảng đánh thắng quân Nguyên Mông lần thứ hai
Gần bến Cửa Suốt còn có lễ hội đền Cửa Ông tôn thờ vị thần chủ là Trần
Qu
ốc Tảng. Ông còn được thờ trong lễ hội đền Xã Tắc, phường Ka Long, thành phố
Móng Cái; Ở Cửa Lục có lễ hội đền Đức Ông Trần Quốc Nghiễn là anh trai của Đức
Ông Tr
ần Quốc Tảng. Để giúp triều đình đuổi giặc xâm lăng hai anh em Trần Quốc
Nghi
ễn và Trần Quốc Tảng đã cùng nhau ra mảnh đất biên cương chiến đấu và sau
này
được nhân dân thần thánh hóa thành những vị thần của biển khơi.
Hàng năm, nhân dân vùng biển Cửa Suốt tổ chức lễ hội để tôn vinh ông. Mặc dù
những sự kiện gắn với cuộc đời Trần Quốc Tảng có hư, có thực nhưng qui mô hoành
tráng của lễ hội đền Cửa Ông đã chứng tỏ niềm tin mãnh liệt, sự sùng bái, ngưỡng mộ
của người dân vùng ven biển về một vị tướng tài ba vùng Đông Bắc của tổ quốc.
4.2.2.4. Sự kiện Lý Thường Kiệt đánh quân Tống
Lễ hội đình Vạn Ninh tại thôn Trung, xã Vạn Ninh, thành phố Móng Cái được
t
ổ chức vào ngày 10, 11 tháng Giêng. Là nơi Lý Thường Kiệt tập kết thủy quân
trong tr
ận chiến chống quân Tống xâm lược. Vì vậy, người dân nơi đây tôn Lý
Th
ường Kiệt làm thành hoàng làng đồng thời tôn thờ ông làm Thành Hoàng làng
cùng các v
ị thần khác là: Lý Thường Kiệt, Không Lộ thiền sư, Giác Hải thiền sư,
Tr
ần Hưng Đạo, Trần Thánh Tông, Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Lê Lợi.

18
4.3. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt
v
ới các vùng biển đảo khác
4.3.1. V
ăn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt
v
ới các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ
4.3.1.1. Sự tương đồng và khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng
Tín ngưỡng dân gian của người Việt trong các lễ hội truyền thống vùng
bi
ển đảo Quảng Ninh cơ bản giống như các tỉnh đồng bằng: thờ bách thần, thờ
M
ẫu, thờ Thành hoàng “Tín ngưỡng dân gian ở Quảng Ninh ghi đậm công sức
c
ủa những người tiên phong mở đất rất lớn. Họ đã bằng ý chí và mồ hôi nước mắt
để quai đê lấn biển, san đồi, bạt núi, khai đất, lập làng, để đời sau con cháu tiếp
t
ục một cách thuận lợi và không quên tri ân với các vị tiền bối”.
4.3.1.2. Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội
Thông thường, nghi lễ đầu tiên của lễ hội vùng biển đảo (chủ yếu là lễ hội đua
thuy
ền) là nghi lễ mang tính chất tâm linh của lễ hội. Thông thường, mỗi làng khi tổ
ch
ức lễ hội chỉ trình báo với một hay hai thần (hoặc thánh) như hội chùa Keo Thái
Bình, h
ội đền Hét và thi vật cầu, hội miếu Ba thôn… nhưng trong các lễ hội ven biển
Qu
ảng Ninh cũng là trình thần, hầu thần, nhưng không phải một hay hai thần mà là đa
th

ần (lễ hội Tiên Công - 17 vị Tiên Công, lễ hội Quan Lạn - 6 vị)…
C
ũng qua tính chất diễn xướng tâm linh, thì ngoài ý nghĩa diễn hầu thần với
l
ớp nghĩa đầu tiên là cầu nước, cầu mùa, lễ hội vùng biển đảo Quảng Ninh còn có
ý ngh
ĩa là một trò diễn vì các bậc tiền nhân của họ, những người khai phá và xây
d
ựng nên hòn đảo (lễ hội Tiên Công với trò đấu vật, đắp đê tượng trương).
Nhi
ều nhà nghiên cứu còn cho rằng đua thuyền là lễ hội nước phổ biến của cư
dân nông nghi
ệp khu vực Đông Nam Á, mang nhiều ý nghĩa gắn với việc thờ thần
n
ước, tục cầu nước và tín ngưỡng phồn thực”. Tuy nhiên vùng duyên hải Bắc Bộ
trong
đó có Quảng Ninh có tục đua thuyền không mang ý nghĩa như trên mà tái hiện
l
ại các sự kiện lịch sử của dân tộc như hội đua thuyền “Giang chiến” tưởng nhớ
t
ướng quân Đặng Dung đã cùng đồng đội, nghĩa sĩ làng Ngọc Chấn chặn đánh quân
Minh (Nam
Định); lễ hội Bạch Đằng (Quảng Ninh) tái hiện lại chiến thắng Bạch
19
Đằng, lễ hội Quan Lạn (lễ hội Vân Đồn) diễn tả lại 3 lần đánh thắng quân Nguyên
Mông c
ủa tướng Trần Khánh Dư…
Điều hết sức đặc biệt trong các hội bơi trải ở duyên hải Bắc Bộ có cả 3 hình
th
ức bơi trải: bơi trải cạn, bơi trải đứng ở lễ hội chùa Keo (xã Xuân Hồng, huyện

Xuân Tr
ường, Nam Định), bơi trải ngồi ở hội chùa Cổ Lễ (thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực
Ninh, Nam
Định). Có thể nói đây là điều khác biệt nhất của vùng duyên hải Bắc Bộ so
v
ới các vùng văn hóa ven biển khác. Khác với Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng,
ph
ần hội trong các lễ hội vùng biển đảo Quảng Ninh lại trình diễn những phong tục,
trò ch
ơi không nơi nào có được như: lễ động thổ, đấu vật tượng trưng cho quá trình
quai
đê lấn biển của các vị Tiên Công (trong lễ hội Tiên Công); trò chơi “bịt mắt
chém cá chình”, h
ội thi và nuôi ông Voi, múa cây bông (lễ hội Trà Cổ); tục múa long
đao (lễ hội Quan Lạn) thể hiện sự khéo léo, oai hùng của quân sĩ nhà Trần…
Trong l
ễ hội Tiên Công có phong tục rước kiệu người sống (các cụ Thượng
th
ọ trên đảo Hà Nam) lên miếu Tiên Công để tỏ lòng thành kính và cũng là niềm
vinh d
ự của dòng tộc khi có người thượng thọ. Đây là một phong tục đẹp mà
hi
ếm có nơi nào có được.
V
ề nghệ thuật trình diễn trong các lê hội duyên hải Bắc Bộ, theo chúng tôi
có l
ẽ đây là vùng văn hóa đặc sắc, phong phú nhất. Nếu ở Thái Bình, Nam Định
trong nh
ững ngày mở lễ “sáng rối, tối chèo” vang cả một vùng thì ở Hải Phòng,
Qu

ảng Ninh lại là hát đúm. Hát đúm trong lễ hội ở Hải Phòng là hát trên cạn nhưng
hát
đúm ở Quảng Ninh có cả hát trên cạn và dưới thuyền.
4.3.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt với
các vùng bi
ển đảo khác ở Trung Bộ
4.3.2.1. Sự tương đồng và khác biệt trong tín ngưỡng thờ cúng
Đối với ngư dân miền Trung tín ngưỡng thờ cá Voi là tín ngưỡng thiêng liêng,
b
ền chặt nhất trong đời sống tinh thần của họ. Việc cư dân Bắc Bộ không thờ cá Voi
long tr
ọng như người dân Trung Bộ, đặc biệt là Quảng Ninh, không hẳn vì họ ở gần
Trung Qu
ốc, nơi dân chuyên đánh bắt cá voi mà rất có thể vì cá voi không là phúc
th
ần trên biển đối với ngư dân vùng ít chịu bão lớn. Trong thực tế, với tấm thân khổng
20
lồ, lại sống tập trung thành đàn, cá voi không ưa vào vùng biển dày đặc những đảo đá
n
ổi, đá chìm như vịnh Hạ Long.
Là vùng
đất phên giậu của tổ quốc nên các tín ngưỡng thờ Mẫu ở vùng biển
đảo Quảng Ninh thường gắn với sứ mệnh lịch sử là đấu tranh và bảo vệ quê hương.
Tín ng
ưỡng thờ Mẫu ở miền Trung có sự giao thoa văn hóa với người Chăm nhưng
tín ng
ưỡng thờ Mẫu ở Quảng Ninh lại giữ được nhiều nét sơ khai, nguyên thủy.
4.3.2.2. Sự tương đồng và khác biệt trong lễ hội
Nếu vùng biển đảo QN nổi tiếng với lễ hội đua thuyền Vân Đồn, lễ hội Bạch
Đằng, lễ hội đền Bà Men thì lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội cầu ngư đã tạo nên

b
ản sắc văn hóa của vùng biển miền Trung. Có thể nói hội đua thuyền vùng ven biển
Trung B
ộ có tầm vóc, quy mô lớn. Ý nghĩa của hội đua thuyền trên phạm vi cả nước là
c
ầu cho mưa thuận, gió hòa thì ở miền Trung cũng mang ý nghĩa truyền thống như vậy,
tuy nhiên có chút thay
đổi: Với nông dân thì có thể là cầu mưa, nhưng nông dân đã
thành ng
ư dân thì có thể là cầu nắng. Vì chỉ có nắng lên mới mong đánh được nhiều cá.
L
ễ hội đua thuyền ở miền Trung chủ yếu là lễ hội nghề nghiệp. Ở Quảng Ninh
đua thuyền lại mang tính chất tái hiện các sự kiện lịch sử (lễ hội Vân Đồn, lễ hội Bạch
Đằng, lễ hội đền Cửa Ông ). Ngoài ra, còn có một số lễ hội truyền thống ngày nay
được phục dựng lại như lễ hội đình Giang Võng (nay thuộc phường Hà Khánh, thành
ph
ố Hạ Long) là lễ hội cổ truyền của làng chài thủy cư có tục rước nước.
Di
ễn xướng dân gian cũng là một trong những nhân tố tạo nên đặc sắc của lễ hội
vùng bi
ển miền Trung và vùng biển đảo Quảng Ninh. Trong các lễ hội vùng biển miền
Trung th
ường có hát sắc bùa còn các lễ hội vùng biển đảo Quảng Ninh lại có hát đúm.
4.4. Sự dung hợp văn hóa trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh
4.4.1. Dung hợp giữa văn hóa biển với văn hóa miền núi
Ven biển Quảng Ninh nhưng lại thờ sơn thần. Điều này hoàn toàn khác biệt so
v
ới các vùng biển khác. Tục thờ sơn thần ở các làng ven biển Quảng Ninh khá phổ biến
nh
ư: thần Cao Sơn, thần Quý Minh, thần Đông Phong Chi thần, Đương cảnh Chủ Sơn

Đại Vương đều được thờ ở xã Khoái Lạc, riêng thần Cao Sơn còn được thờ ở xã La
Khê (huy
ện Yên Hưng). Việc thần Núi và thần biển đóng vai trò quan trọng trong đời
s
ống của cư dân ven biển Quảng Ninh có lẽ là điểm khác biệt lớn nhất của văn hóa
21
biển Quảng Ninh mà không nơi nào có được. Yếu tố địa văn hóa, môi sinh đã làm
cho con ng
ười tự tái tạo, sáng tạo ra văn hóa cho riêng mình. Đây là một điển hình
c
ủa sự tái sinh, là đặc trưng của vùng văn hóa biển đảo Quảng Ninh qua các lễ hội.
4.4.2. Dung hợp giữa văn hóa biển đảo Quảng Ninh với văn hóa các vùng khác
So sánh lễ hội đình Trà Cổ và đình Vạn Vĩ (Đông Hưng - Trung Quốc) có
nhi
ều sự tương đồng và khác biệt. Đặc biệt hơn, trong lễ hội của người Dao ở Móng
Cái có bài v
ăn tế “Quá hải”, thuật lại chuyến vượt biển đi tìm vùng đất mới làm ăn
sinh s
ống của những cư dân người Dao ở Giang Tô (Trung Quốc).
Trong các l
ễ hội vùng biển đảo Quảng Ninh có sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ
v
ới cư dân Hải Phòng. Lễ hội Trà Cổ có tục chèo thuyền sang Đồ Sơn để rước chân
nhang m
ỗi khi vào hội. Còn lễ hội đền Bà Men là sự đoàn kết của ngư dân 2 làng:
làng chài Hà Nam (trên v
ịnh Hạ Long) và làng chài Cao Minh, Cát Bà (Hải Phòng).
Cu
ộc thi bơi thuyền trong lễ hội đền Bà Men bao giờ cũng có sự tham gia của các
làng chài: C

ống Đầm - Vung Viêng, Cửa Vạn, Hà Nam (hồ Ba Hầm) và làng chài
Cao Minh (Cát Bà, H
ải Phòng). Hội bơi thuyền trên sông Bạch Đằng cũng có sự
tham gia c
ủa các đội đua ở huyện Thủy Nguyên (Hải Phòng).
Tuy nhiên nh
ững cư dân ven biển không dừng lại ở khía cạnh tạo ra sự dung
h
ợp, giao lưu với các vùng văn hóa khác mà còn tiếp nhận sự ảnh hưởng văn hóa
c
ủa các vùng xung quanh. Việc ảnh hưởng mạnh mẽ văn hóa biển của vùng biển Hải
Phòng nh
ư tục thờ thần Độc Cước, thờ cùng các vị thành hoàng (những người khai
phá
đầu tiên), lễ cầu Đảo vũ…cũng thể hiện sự giao lưu và tiếp biến trong văn hóa
luôn luôn di
ễn ra giữa các vùng văn hóa.
Tiểu kết: Trong mỗi hiện tượng văn hóa tín ngưỡng và lễ hội đó, có thể thấy,
đều tích hợp nhiều lớp văn hóa: Lớp văn hóa của cư dân nội đồng, lớp văn hóa biển,
l
ớp văn hóa của cư dân nông nghiệp từ đồng bằng đan xen với lớp văn hóa biển; lớp
v
ăn hóa Việt đan xen với văn hóa Hoa… Vì vậy, muốn nghiên cứu, giải mã một hiện
t
ượng văn hóa của một vùng đất, người nghiên cứu phải phân tích, so sánh để bóc tách
các l
ớp văn hóa trong hiện tượng văn hóa đó, bởi nó vốn đa giá trị và đa biểu tượng.
22
KẾT LUẬN
1. Căn cứ vào Luật biển Việt Nam năm 2012, vùng biển đảo Quảng Ninh bao

g
ồm: cửa sông, vũng vịnh, cửa biển và vùng nước ở phía trong đường cơ sở và giáp
v
ới bờ biển.
V
ăn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh là văn hóa của một vùng biển đảo có lịch
s
ử lâu đời, có sự tương đồng về dân cư, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có sự
giao l
ưu văn hóa. Trải qua quá trình lao động và sáng tạo, cư dân vùng biển đảo
Qu
ảng Ninh đã tạo nên những đặc điểm văn hóa tiêu biểu (đó là: đậm yếu tố nội đồng,
đậm tính lịch sử, nhạt yếu tố biển…). Những đặc điểm văn hóa này được thể hiện qua
sinh ho
ạt văn hóa vật chất và tinh thần (đặc biệt qua các lễ hội truyền thống), có thể
phân bi
ệt với văn hóa biển đảo các vùng khác.
2. Qu
ảng Ninh là tỉnh có nhiều lễ hội truyền thống: phong phú về số lượng, đa
d
ạng về loại hình và hình thức tổ chức. Riêng vùng biển đảo có 46 lễ hội truyền thống
th
ường niên được tổ chức ở miếu, nghè, đình, đền, chùa.
L
ễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh được phân loại theo tiêu chí
vùng không gian. K
ết quả phân loại được chia làm ba nhóm lễ hội: Nhóm lễ hội hải
đảo chiếm 43%, nhóm lễ hội ven biển chiếm 17%, nhóm lễ hội nội đồng chiếm 20%.
K
ết quả này cũng chỉ mang tính chất tương đối.

3. Các y
ếu tố nội đồng được thể hiện trong lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Qu
ảng Ninh thông qua các vị thần chủ được thờ, các nghi lễ và các hoạt động hội.
Các v
ị thần chủ tiêu biểu được cư dân nông nghiệp vùng biển đảo QN tôn thờ là: thần
Nông, Thành hoàng làng và các v
ị Tiên Công. Các nghi lễ nông nghiệp cũng được tái
hi
ện trong lễ hội như: lễ rước nước, lễ Đảo vũ, lễ xuống đồng, lễ Tiên Công, lễ đóng
cây cai
đám và gọi sổ bìa xanh trong lễ hội Trà Cổ. Các hoạt động hội trong lễ hội
vùng bi
ển đảo QN bao giờ cũng thu hút số lượng người tham gia đông nhất. Các hoạt
động này chủ yếu là các cuộc thi như: tục thi ông Voi trong lễ hội Trà Cổ, thi cấy và
thi b
ơi trải trong lễ hội xuống đồng.
4. Gi
ống như yếu tố nội đồng, các yếu tố biển được thể hiện trong lễ hội
vùng bi
ển đảo Quảng Ninh thông qua các vị thần chủ được thờ, các nghi lễ và các
ho
ạt động hội.

×