Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.95 KB, 39 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM

TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN TRỊ RỦI RO
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN
CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên : HỒ VĂN DŨNG
Lớp học phần : 210705001
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 10 năm 2014
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP HCM

TIỂU LUẬN MÔN: QUẢN TRỊ RỦI RO
THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN
CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
Giảng viên : HỒ VĂN DŨNG
TP.Hồ Chí Minh, Tháng 10 năm 2014
2
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ hội nhập vào nền kinh tế thế giới như hiện nay thì thị trường tài chính giữ một
vai trò vô cùng quan trọng. Hiện nay, thị trường tài chính Việt Nam đang trên đà phát triển
mạnh mẽ, mở ra ngày càng nhiều cơ hội cho các ngân hàng thương mại, song đi cùng nó
cũng kéo theo rất nhiều rủi ro. Trong các loại rủi ro thì rủi ro thanh khoản được xem là rủi
ro nguy hiểm nhất. Thanh khoản và quản lý rủi ro trong thanh khoản là yếu tố quyết định
đến sự an toàn trong hoạt động của bất kỳ ngân hàng thương mại nào.
Thực tế chỉ một hay hai ngân hàng gặp rủi ro về thanh khoản có thể lây lan ngay sang ngân
hàng khác. Trong khi đó, bản thân một ngân hàng thương mại sẽ không đủ sức chống đỡ
được rủi ro hệ thống. Điển hình là hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới lớn nhất
trong một thế kỷ qua đã và đang tiếp tục tác động đến thị trường tài chính Mỹ và gây ảnh
hưởng không nhỏ đến thị trường tài chính của các nước khác trong đó có Việt Nam.
Tại Việt Nam, sau đợt căng thẳng thanh khoản đầu năm 2008, nhờ những can thiệp của


Ngân hàng Nhà nước, tình hình thanh khoản đã cải thiện đáng kể, song khó khăn vẫn còn ở
phía trước. Đặc biệt, 5 tháng đầu năm 2011, tình hình thanh khoản của các ngân hàng
thương mại Việt Nam lại trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Chính vì thế, bên cạnh những
hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước, các Ngân hàng thương mại cần phải quan tâm hơn nữa đến
công tác quản trị rủi ro thanh khoản, không chỉ vì an toàn của chính Ngân hàng mình mà
còn vì an toàn chung của hệ thống tài chính tiền tệ.
Đó là lý do mà nhóm chúng em chọn đề tài: "Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các
NHTM Việt Nam hiện nay".
Ngoài ra, trên cơ sở thực trạng về rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro thanh khoản trong
ngân hàng thương mại nhóm chúng em sẽ đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực
quản trị rủi ro thanh khoản tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam. Rất mong được thầy
tận tình góp ý chỉ bảo thêm để chúng em có thêm kinh nghiệm trong những đề tài sau này!
Xin gửi lời cảm ơn đến thầy!
3
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Chữ viết tắt Ý nghĩa
DN Doanh nghiệp
NH Ngân hàng
NHNN Ngân hàng nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTW Ngân hàng Trung ương
NHXNK Ngân hàng xuất nhập khẩu
QTRR Quản trị rủi ro
QTRRTK Quản trị rủi ro thanh khoản
REPO (Repossess of property) Thị trường mua bán chứng khoán
RRTK Rủi ro thanh khoản
SMBC (Sumitomo Mitsui

Banking Corporation)
Ngân hàng SMBC
SWAP (Spot and forward) Nghiệp vụ hối đoái kép gồm 2 nghiệp
vụ giao ngay (spot) và nghiệp vụ có kỳ
hạn (forward).
TCTD Tổ chức tín dụng
TMCP Thương mại cổ phần
TSC Tài sản Có
TSN Tài sản Nợ
USD Đồng đô la Mỹ
WTO Tổ chức thương mại thế giới
4
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong số những rủi ro mà các ngân hàng phải đối mặt, rủi ro thanh khoản được em là đặc
biệt nguy hiểm, có thể gây ra hàng loạt những tác hại nghiêm trọng cho hoạt động của ngân
hàng. Tác hại lớn nhất có thể kể đến là làm cho ngân hàng bị phá sản, bị quốc hữu hóa hoặc
bị sáp nhập. Như vậy công tác quản trị rủi ro về thanh khoản là không thể không được quan
tâm, thậm chí nó trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhà quản lý ngân hàng ở Việt
Nam và thế giới. Tuy nhiên thực tế đã chứng minh không phải chiến lược quản trị rủi ro
thanh khoản nào cũng hợp lý và thành công. Đặc biệt đối với ngành ngân hàng ở Việt Nam,
công tác quản trị rủi ro thanh khoản còn tỏ ra nhiều yếu kém, bất cập và chưa có hiệu quả.
Do vậy cần có cái nhìn rõ ràng và đúng đắn hơn về công tác này và có biện pháp tổ chức
giám sát thực hiện tốt hơn, tiến bộ hơn trước. Đó chính là lý do chúng em chọn đề tài này.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1) Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về công tác quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM.
2) Phân tích thực trạng thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay và một vài vụ
việc cụ thể.
3) Đưa ra một số bài học kinh nghiệm và một số biện pháp nhằm cải thiện, nâng cao

hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay.
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận này là hoạt động quản lý rủi ro thanh khoản tại các
NHTM Việt Nam hiện nay.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Phạm vi nghiên cứu là hoạt động quản lý thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Bài tiểu luận sử dụng nhiều phương pháp để nghiên cứu trong đó có thể kể đến:
5
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
- Phân tích và tổng hợp
- Thu thập thống kê số liệu
- So sánh
- Mô hình hóa
- Hệ thống hóa
• Kết cấu đề tài
Đề tài này gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản trị rủi ro thanh khoản trong hoạt động của NHTM
Chương 2: Thực trạng quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro thanh khoản trong hệ thống
các NHTM Việt Nam
6
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN TRỊ
RỦI RO THANH KHOẢN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NHTM
1.1 RỦI RO THANH KHOẢN
1.1.1 Khái niệm thanh khoản và rủi ro thanh khoản
Khái niệm thanh khoản:
 Dưới góc độ tài sản: Thanh khoản là khả năng chuyển hoá thành tiền của tài sản và

ngược lại. Một tài sản được xem là thanh khoản khi đáp ứng các tiêu chí sau: Có sẵn
số lượng để mua hoặc bán, có sẵn thị trường để giao dịch, có sẵn thời gian để giao
dịch, giá cả hợp lý. Trong thực tế, các tài khoản có tính thanh khoản cao gồm các
giấy tờ có giá trị như: Trái phiếu kho bạc, thương phiếu, hối phiếu những tài sản có
tính thanh khoản thấp như bất động sản, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị.
 Dưới góc độ ngân hàng: thanh khoản là khả năng ngân hàng đáp ứng đấy đủ và kịp
thời các nghĩa vụ tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động giao dịch như trả tiền
gửi, cho vay, thanh toán và các hoạt động giao dịch tài chính khác.
Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn khả
dụng (nhu cầu thanh khoản). Tình trạng này nhẹ thì gây thua lỗ, hoạt động kinh doanh bị
đình trệ, nặng thì làm mất khả năng thanh toán dẫn đến ngân hàng phá sản.
1.1.2 Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản
Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã chỉ ra 5 nguyên nhân dẫn đến rủi ro
trong tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua.
Thứ nhất: tăng trưởng tín dụng quá nóng. Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng của các ngân
hàng thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động
sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất cân đối
về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn
hạn để cho vay dài hạn. Chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với ngân
hàng thương mại”.
7
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Thứ hai: công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại (NHTM)
Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các NHTM còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà
nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an
toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự phòng
vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động thị trường.
Thứ ba: tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo
sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền
“làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả

năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.
Thứ tư: vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Do sự yếu kém từ quản trị tài
sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu… Ngân hàng
Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn
trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình
Thứ năm: xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến các
ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các
ngân hàng. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa minh bạch, một số khách hàng
(kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và chuyển sang ngân hàng khác, dân cư
rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để tích trữ… đã làm tăng tính bất ổn của thị trường, nội
và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền
tại ngân hàng.
Ngoài những nguyên nhân trên, còn có nhiều nguyên nhân như: do các giao dịch bằng ngoại
tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là USD; những tác động
trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ
tới rủi ro thanh khoản; hiện tượng một số tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước chuyển tiền
hoặc rút tiền với khối lượng lớn; yếu kém trong công tác kế hoạch hóa và quản trị điều
hành…
1.1.3 Tác động của rủi ro thanh khoản đến hoạt động của
NHTM
RRTK là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng.
Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán, tức là phải
8
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại, tương lai và khác nhu cầu thanh toán
đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện không chỉ nó ảnh hưởng đến bản thân NHTM
mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, nếu RRTK xảy ra, tuỳ theo mức độ nghiêm trọng mà ngân hàng có thể phải chịu:
Chuyển hoá các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao; tiếp cận với thị trường
tiền tệ đang tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ, phải có tài sản thế chấp, chịu

mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạ mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên
hoặc bị từ chối cho vay, đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập, mất uy tín dẫn đến mất
khách hàng.
Thứ hai, trong trường hợp đặc biệt, RRTK có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mất khả năng
thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng. Khi một ngân hàng mất đi khả năng
thanh toán thì sẽ gây nên tâm lý lo ngại đối với không chỉ bản thân ngân hàng mà còn đối
với khách hàng của các ngân hàng khác. Họ sợ rằng ngân hàng nơi mình gửi tiền cũng có
thể bị phá sản nên tìm mọi cách để rút tiền khỏi ngân hàng đó. Nếu niềm tin của công chúng
bị lung lay thì có thể dẫn đến hàng loạt ngân hàng mất khả năng thanh toán chỉ trong một
thời gian ngắn và khiến cả hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng hỗn loạn, sự hỗn loạn này
của hệ thống ngân hàng có thể sẽ dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội – chính trị của một
quốc gia.
1.2 NỘI DUNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN TRONG
NHTM
Gồm các vấn đề sau:
1.2.1 Nhận dạng và phân tích nguyên nhân rủi ro thanh
khoản ở NHTM
Điều kiện tiên quyết để quản trị rủi ro là phải nhận dạng được rủi ro. Nhận dạng rủi ro là
quá trình xác định liên tục và có hệ thống các hoạt động kinh doanh của ngân hàng, bao
gồm: Việc theo dõi, xem xét nghiên cứu môi trường hoạt động và toàn bộ hoạt động của
ngân hàng nhằm thống kê được tất cả các loại rủi ro, kể cả dự báo những rủi ro mới có thể
xuất hiện trong tương lai, để từ đó có các biện pháp kiểm soát, tài trợ cho từng rủi ro phù
hợp.
9
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Không một ngân hàng nào có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng dự trữ thanh khoản
của họ là hợp lý và đủ để không bị rơi và tình trạng RRTK nếu chưa vượt quá những thử
thách của thị trường. Những thử thách này được biểu hiện qua những dấu hiệu nhận dạng
sau:
Lòng tin của công chúng: Sự tin tưởng của công chúng là một trong những dấu hiệu quan

trọng để đánh giá khả năng thanh khoản của một ngân hàng tốt hay xấu. Nếu công tác quản
lý thanh khoản của ngân hàng yếu kém, không duy trì đủ lượng tiền mặt hoặc không có khả
năng hoàn trả các khoản tiền mà khách hàng yêu cầu ngay lập tức thì điều này sẽ xói mòn
lòng tin của công chúng vào ngân hàng. Do vậy, ngân hàng sẽ mất dần những khách hàng là
những người gửi tiền. Ngược lại nếu một ngân hàng có được sự tin tường của người gửi tiền
nghĩa là khách hàng đặt niềm tin vào khả năng hoàn trả cả gốc và lãi của ngân hàng hay
đồng thời với việc ngân hàng đó thừa nhận là có khả năng thanh khoản cao.
Sự biến động giá cổ phiếu của ngân hàng: Khi giá cổ phiếu của ngân hàng có xu hướng
giảm, chứng tỏ tính hấp dẫn của chúng đối với nhà đầu tư giảm đi, ảnh hưởng lớn đến tâm
lý của người gửi tiền. Người dân có xu hướng rút tiền khỏi ngân hàng để gửi tiền sang ngân
hàng khác hoặc đầu tư vào những kênh có lợi nhuận cao hơn, trong khi đó các khoản cho
vay đến hạn thanh toán không được thanh toán hoặc không đáp ứng được nhu cầu thanh
khoản, dẫn đến cầu thanh khoản lớn hơn cung thanh khoản khiến cho ngân hàng rơi vào tình
trạng RRTK. Ngược lại, giá cổ phiếu hoặc tăng hoặc giữ nguyên được thì sẽ củng cố lòng
tin và tâm lý nơi công chúng vào khả năng thanh toán của ngân hàng.
Áp dụng mức lãi suất huy động cao hơn thị trường: Tại sao một ngân hàng lại chấp nhận
áp dụng mức lãi suất huy động tiền gửi, kỳ phiếu, trái phiếu và chấp nhận mức lãi suất đi
vay cao hơn mức lãi suất trên thị trường một cách bất thường hoặc phải đi vay với điều kiện
về tài sản đảm bảo chặt chẽ hơn? Nếu xảy ra tình trạng như vậy thì chứng tỏ một dấu hiệu là
ngân hàng đang gặp khó khăn thanh khoản trong hoạt động kinh doanh của mình.
Lỗ từ việc bán tài sản: Khi ngân hàng bán tài sản một cách vội vã và sẵn sàng chịu lỗ lớn
chứng tỏ ngân hàng đang gặp phải một vấn đề nào đó trong vấn đề thanh khoản. Bán tài sản
có nghĩa là ngân hàng sẽ phải chấp nhận mất đi những khoản thu nhập tạo ra từ tài sản trong
tương lai cũng như các chi phí giao dịch trả cho người môi giới liên quan đến việc bán tài
sản.
10
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: Cho vay là một trong những hoạt
động quan trọng hất của ngân hàng vì hoạt động này tạo nhiều lợi nhuận nhất và kéo theo
các nghiệp vụ khác phát triển. Do đó, khi ngân hàng không đáp ứng đầy đủ và kịp thời các

cam kết tín dụng thì chứng tỏ ngân hàng đang thiếu nguồn cung thanh khoản.
Vay vốn từ ngân hàng trung ương: NHTW giữ vai trò là người cho vay cuối chùng đối với
các NHTM. Cho nên, khi một ngân hàng có dấu hiệu buộc phải đi vay NHTW với khối
lượng lớn và thường xuyên thì ngân hàng đó cần phải xem xét lại chính sách quản lý thanh
khoản của mình để lấy lại niềm tin của công chúng.
Nếu như xuất hiện bất cứ một dấu hiệu nào nêu trên đây mà không có các biện pháp cũng cố
khả năng thanh khoản kịp thời thì nguy cơ ngân hàng đó rơi vào tình trạng mất khả năng
thanh khoản là không nhỏ. Các nhà quản trị ngân hàng cần phải tập trung xem xét lại các
chính sách và thực tiễn công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng để giải quyết xem
những thay đổi gì cần phải thực hiện để cải thiện khả năng thanh khoản và lấy lại niềm tin
nơi công chúng.
1.2.2 Các phương pháp đo lường trạng thái thanh khoản của
NH
Trong những năm gần đây, một số phương pháp đo lường yêu cầu thanh khoản đã được
phát triển bao gồm: Phương pháp tiếp cận nguồn vốn vốn, phương pháp tiếp cận cấu trúc
vốn và phương pháp chỉ số thanh khoản. Mỗi phương pháp nêu trên đều được xây dựng dựa
trên một số giả định là ngân hàng chỉ có thể ước lượng gần đúng mức cầu thanh khoản thực
tế tại một thời điểm nhất định. Đó chính là lý do vì sao nhà quản lý thanh khoản phải luôn
sẵn sàng điều chỉnh mức dự tính về yêu cầu thanh khoản mỗi khi ngân hàng được thông tin
mới.
1.2.3 Kiểm soát và phòng ngừa rủi ro thanh khoản
Kiểm soát rủi ro là trọng tâm của quản trị rủi ro. Đó chính là việc sử dụng các biện pháp, ký
thuật, công cụ, chiến lược, các chương trình hoạt động để ngăn ngừa, phòng tránh hoặc
giảm thiểu các tổn thất, những ảnh hưởng không mon muốn có thể xảy ra đối với ngân
hàng. Qua nhiều năm, các nhà quản lý ngân hàng đã phát triển một số chiến lược nhằm giải
11
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
quyết vấn đề thanh khoản của ngân hàng: Chiến lược quản lý tài sản Có, chiến lược quản lý
Tài sản Nợ và chiến lược quản lý phối hợp.
Chiến lược quản lý tài sản Có: Đây là phương pháp tiếp cận cổ điển nhất trong việc đáp

ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, Ở hình thức đơn giản nhất, chiến lược này kêu gọi
ngân hàng tích luỹ thanh khoản bằng cách nắm giữ các tài sản có tình thanh khoản cao, chủ
yếu là tiền mặt và các chứng khoán dễ bán. Do giữa thanh khoản và thu nhập luôn có sự
đánh đổi nên nếu một ngân hàng duy trì một lượng lớn tài sản có tính thanh khoản cao thì
đồng thời giảm một lượng thu nhập mà các tài sản này có thể tạo ra.
Chiến lược này được các ngân hàng áp dụng vì nó mang lại ít rủi ro. Nhưng nó lại không
phải là chiến lược QTRR có chi phí thấp. Vì bán tài sản có nghĩa là ngân hàng chấp nhận
mất đi những lợi nhuận mà tài sản đó tạo ra, bên cạnh đó việc bán tài sản sẽ còn liên quan
đến chi phí giao dịch cho người môi giới. Không những vậy, thường thì để tối thiểu hoá chi
phí cơ hội cho việc không nhận được thu nhập từ tài sảm, ngân hàng trước hết phải bán hết
những tài sản có mức thu nhập tiềm năng thấp nhất. Tuy nhiên việc bán tài sản để tăng
cường thanh khoản sẽ làm hình ảnh của ngân hàng yếu đi thể hiện qua bảng cân đối tài sản.
Bởi tài sản bán đi thường là các chứng khoán ít rủi ro của chính phủ, cái thường tạo cho
công chúng lòng tin rằng ngân hàng lành mạnh về tài chính.
Chiến lược quản lý tài sản Nợ: Chiến lược quản lý tài sản Nợ là chiến lược mà ngân hàng
đáp ứng nhu cầu thanh khoản phát sinh bằng cách vay những nguồn vốn khả dụng tức thời
trên thị trường tiền tệ. Vay thanh khoản có nhiều lợi thế: Ngân hàng có thể lựa chọn vay khi
thực sự cần vốn. Khác với chiến lược trên là ngân hàng luôn phải dự trữ một số tài sản
thanh khoản cao tại bất cứ thời điểm nào làm giảm thu nhập tiềm năng. Chiến lược này
thường được các ngân hàng lớn sử dụng do ngân hàng lớn thường có uy tín và năng lực đi
vay cao trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, vay thanh khoản cũng tiềm ẩn một số rủi ro nhất
định, ví dụ nều lãi suất ngân hàng tăng đột ngột, khi đó phương pháp này tỏ ra kém hiệu quả
bởi chi phí đi vay cũng đồng nghĩa sẽ tăng cao. Thông thường khi đi vay, ngân hàng phải
mua thanh khoản trong điều kiện khó khăn – cả về giá cả và tính sẵn có. Chi phí vay vốn
của ngân hàng thường khó xác định chắc chắn, làm giảm tính ổn định của thu nhập. Hơn
nữa, những ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về tài chính thường có nhu cầu vay thanh
khoản lớn nhất, người gửi tiền dần nhận thức được khó khăn của ngân hàng và bắt đầu thực
hiện rút vốn. Cùng lúc đó, các tổ chức tài chính khác cũng không muốn cho vay đối với
ngân hàng vì sợ rủi ro.
12

Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Chiến lược quản trị thanh khoản phối hợp: Do những rủi ro trong việc hoàn toàn dựa vào
nguồn vốn vay trên thị trường tiền tệ khi sử dụng chiến lược quản trị TSN và mức chi phí
đáng kể khi sử dụng chiến lược thanh khoản TSC, để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản phát
sinh, hầu hết các ngân hàng đã kết hợp sử dụng đồng thời cả chiến lược quản trị thanh
khoản TSC và thanh khoản TSN để có thể phát huy tối đa mọi lợi thế và hạn chế những rủi
ro có thể xảy ra. Theo chiến lược này, một phần nhu cầu thanh khoản dự tính sẽ được đáp
ứng bằng việc dự trữ tài sản thanh khoản (chủ yếu là các giấy tờ có giá và tiền gửi tại các
TCTD khác) trong khi phần còn lại của nhu cầu thanh khoản sẽ được đáp ứng bằng cách
vay vốn trên thị trường tiền tệ. Những nhu cầu thanh khoản bất thường hoặc mang tính thời
vụ thì sẽ được xử lý bằng việc vay vốn trên thị trường tiền tệ, còn những nhu cầu thanh
khoản mang tính chu kỳ thì sẽ được xử lý bằng việc dự trữ các tài sản mang tính thanh
khoản cao.
1.3 VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO THANH KHOẢN ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG THANH KHOẢN CỦA NHTM
Thanh khoản của ngân hàng liên quan trực tiếp đến an toàn và sinh lợi. Duy trì an toàn
thanh khoản – tức khả năng đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh khoản là mục tiêu quan trọng và
xuyên suốt trong hoạt động ngân hàng. Để duy trì nó, ngân hàng phải chấp nhận một khoản
chi phí nhất định. Ngân hàng luôn phải cân nhắc sự đánh đổi giữa mức độ an toàn của thanh
khoản và khả năng sinh lời. Để gia tăng an toàn thanh khoản, chi phí cũng gia tăng. Do vậy,
QTRRTK không phải là nhằm né tránh rủi ro mà là đối diện với nó, phòng ngừa, kiểm soát
và hạn chế được RRTK đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng. Từ đó đề ra các chiến lược
kinh doanh, phát huy lợi thế cạnh tranh, đo lường vốn tối thiểu và khả năng thanh toán, giúp
lãnh đạo ra quyết định, giúp các phòng ban liên quan định giá lại các khoản mục kinh
doanh, báo cáo và kiểm soát rủi ro, quản lý danh mục đầu tư
13
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RỦI RO THANH
KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1 TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

VIỆT NAM
2.1.1 Khái quát chung
Từ năm 1986 đến nay đã diễn ra nhiều sự kiên quan trọng đánh dấu bước chuyển biến lớn
của hệ thống NHTM Việt Nam được thể hiện qua các cột mốc tiêu biểu sau:
Từ năm 1986 đến 1990: thực hiện tách dần chức năng quản lí nhà nước ra khỏi chức năng
kinh doanh tiền tệ, tín dụng, chuyển hoạt động ngân hàng sang hạch toán, kinh doanh xã hội
chủ nghĩa. Cơ chế mới về hoạt động NHTM được hình thành và hoàn thiện dần: tháng
5/1990, hai Pháp lệnh ngân hàng ra đời đã chính thức chuyển cơ chế hoạt động của ngân
hàng Việt Nam từ 1 cấp sang 2 cấp, trong đó: NHNN thực thi nhiệm vụ quản lí nhà nước về
hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán, ngoại hối và ngân hàng; thực thi nhiệm
vụ của ngân hàng trung ương. Cấp NHTM thuộc lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tín dụng, thanh
toán và dịch vụ ngân hàng trong toàn nền kinh tế do các định chế tài chính ngân hàng và phi
ngân hàng thực hiện.
Năm 1991 đến nay, thực hiện chủ trương đường lối chính sách của Đảng trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hện thống NHTM Việt Nam với các mốc thời gian quan trọng sau:
Năm 1993, bình thường hóa các mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ thế giới (IMF,
WB). Năm 1997, Quốc hội khóa X thông qua luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam và Luật
các tổ chức tín dụng thành lập ngân hàng phát triển nhà Đồng bằng sông Cửu Long.
Năm 2001, cơ cấu lại tài chính và hoạt động của các NHTM cũng như ngân hàng thương
mại cổ phần. Mục đích chính của chương trình là cải cách là nâng cao năng lực cạnh tranh
cho từng ngân hàng trong nước và toàn hệ thống để chuẩn bị hội nhập quốc tế. Điểm cốt lõi
của nỗ lực cải cách đối với NHTM là tăng vốn cho các ngân hàng này , bao gồm vốn điều lệ
và tiến tới đạt hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR) theo tiêu chuẩn quốc tế là 8%.
14
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Năm 2006 - 2007 chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống NHTM Việt Nam cả về
số lượng và quy mô. Số lượng ngân hàng năm 2007 là 80 ngân hàng. Về quy mô, đến năm
2007, tổng tài sản toàn hệ thống đã tăng lên hơn 1500 tỷ đồng, bằng hơn 130% GDP 2007.
Năm 2008, thực hiện cam kết gia nhập WTO, NHNN Việt Nam chính thức cấp giấy phép
thành lập 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, bao gồm ngân hàng ANZ Việt Nam, Ngân

hàng Hong Leong Việt Nam, Ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, Ngân hàng HSBC
Việt Nam, Ngân hàng Shinhen Việt Nam.
Năm 2010, chính phủ đồng ý sửa đổi Luật Ngân hàng Nhà nước để phù hợp với tình hình
kinh tế thị trường.
Năm 2012, việc thiết lập lại ổn định vĩ mô và chủ trương hạ lãi suất về mức hợp lý đã có
những tác động tích cực đối với hoạt động đầu vào của hầu hết các NHTM. Tuy nhiên, vấn
đề tâm lý, nợ xấu và những khó khăn thanh khoản ở một số NHTM đã cản trở quá trình
giảm lãi suất huy động. Tính đến cuối tháng 6 năm 2012, huy động tiền gửi KH của các
TCTD đã tăng tới 6,5% so với cuối năm 2011, trong đó một số có mức tăng huy động vốn
rất cao như BIDV tăng 17%, NHXNK tăng 16%, NH MB tăng 12%; một số tăng tương đối
khiêm tốn, như VCB tăng 6%; ACB tăng 2%; Vietinbank giảm 1,8%
Như vậy, quá trình cải cách và mở cửa của ngân hàng trong những năm qua đạt được nhiều
kết quả đáng khích lệ, hệ thống NHTM Việt Nam ngày càng phát triển và năng lực cạnh
tranh của các NHTM ngày một nâng cao.
Tuy nhiên, mặc dù quá trình cải cách đã thu được những thành quả nhất định, nhưng hoạt
động của hệ thống NHTM Việt nam vẫn còn những tồn tại và hạn chế, ảnh hưởng không
nhỏ đến độ an toàn và hiệu quả hoạt động cũng như năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống.
Tồn tại đầu tiên là sự chi phối quá lớn của NHNN. NHNN vẫn còn can thiệp sâu vào hoạt
động của hệ thống NHTM, dẫn đến hiện tượng thiếu tinh thần trách nhiệm và tự chủ trong
công tác quản lí hoạt động kinh doanh. Lộ trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà
nước tỏ ra còn chậm và kém hiệu quả.
Điểm yếu thứ hai là quy mô nhỏ của khu vực ngân hàng thương mại cổ phần và quy mô nhỏ
của từng NHTM. Theo tổng hợp từ báo cáo thừng niên hàng năm, phần lớn các ngân hàng
trong nước chỉ có số vốn điều lệ vào cỡ 1000 đến 7000 tỷ đồng trừ một số ngân hàng lớn
như Agribank, Vietcombank. Tính đến đầu năm 2012, vẫn còn tới hơn chục ngân hàng sẽ
15
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
phải chạy đua về đích trong cuộc tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng vào cuối năm. Để hấp
dẫn nhà đầu tư khi tăng vốn, các ngân hàng phải đảm bảo mức cổ tức cũng phải tăng tương
ứng. Nghĩa là muốn tăng thêm 50% vốn thì lợi nhuận cũng phải tăng thêm 50%. Thế nhưng

điều này là không thể trong bối cảnh NHNN siết chặt việc cho vay đối với lĩnh vực phi sản
xuất và yêu cầu các tổ chức tín dụng chỉ được xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng dưới
20%.
Thứ ba, hệ thống dịch vụ NHTM Việt Nam còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định
hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng nề về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân
hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp
tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập.
Như vậy, có thể nói nếu muốn tăng năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt
Nam thì không còn có cách nào khác là phải tiếp tục cải cách hệ thống ngân hàng Việt Nam
ngày một hoàn thiện hơn.
2.1.2 Các rủi ro thường gặp phải
Do quy mô còn nhỏ cộng với hệ thống NHTM Việt Nam ra đời khá muộn, hoạt động vẫn
còn non kém so với khu vực và quốc tế, cho nên các NHTM Việt Nam không thể tránh khỏi
nhiều rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Có thể thấy một số rủi ro thường gặp nhất của các
NHTM Việt Nam như sau:
2.1.2.1 Rủi ro tín dụng
Theo NHNN, đến cuối tháng 9.2013, tỷ lệ nợ xấu của toàn hệ thống chiếm 4,62% trên tổng
dư nợ, giảm so với mức 8% của cuối năm 2012. Hiện tại, công ty Quản lý tài sản của các tổ
chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã tích cực mua nợ xấu, tính đến ngày 20.11 VAMC đã
mua 17.700 tỉ đồng nợ xấu của các ngân hàng.
Tính đến thời điểm hiện tại hầu hết các ngân hàng thương mại đã công bố báo cáo tài chính
2013. Mặc dù theo báo cáo đa số các ngân hàng đều có lãi, tuy nhiên nợ xấu ở nhiều ngân
hàng cũng tăng đáng kể, chất lượng nợ xấu đi. Ngân hàng TMCP Xăng Dầu (PG Bank)
đang là ngân hàng dẫn đầu về tỷ lệ nợ xấu, tính đến hết tháng 9.2013, PGBank có 1.240 tỉ
đồng nợ xấu chiếm 9,5% trên tổng dư nợ 13.057 tỉ đồng
16
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Tuy nhiên, nếu nhìn vào hoạt động ngân hàng, sẽ thấy nợ xấu vẫn là vấn đề gai góc khi tình
trạng “doanh nghiệp không lừa đảo nhưng kinh tế khó khăn, không bán được hàng nên
không trả được nợ” đang xảy ra thường xuyên.

2.1.2.2 Rủi ro lãi suất
Khi huy động vốn của doanh nghiệp và dân cư, ngân hàng phải trả một khoản lãi, khi tài trợ,
ngân hàng thu lãi. Lãi suất của các khoản cho vay , tiền gửi và chứng khoán thường biến
động, có thể làm gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng và ngược lại gây tổn thất cho ngân hàng.
Tiền gửi vào ngân hàng vẫn là kênh đầu tư khá hấp dẫn hiện nay và đặc biệt là hầu như
không có rủi ro trong khi thị trường chứng khoán tụt dốc, thị trường bất động sản trầm lắng
và việc đầu tư vào tiền tệ có thể gặp rủi ro do thị trường tự do bị kiểm soát gắt gao.
Lãi suất cơ bản được NHNN ban hành năm 2010 là 9% và đầu năm 2011vẫn duy trì ở mức
này. Còn trần lãi suất bị khống chế ở mức 14%/năm. Tuy nhiên, trần lãi suất huy động đã bị
khống chế ở mức 14%/năm cũng khiến các NHTM quy mô nhỏ gặp bất lợi so với các ngân
hàng lớn trong việc hút vốn vì các ngân hàng nhỏ đang phải chịu áp lực về tăng trưởng.
Điều này đã buộc các ngân hàng này thường xuyên phải lách luật, châm ngòi cho các cuộc
đua lãi suất. Nhiều ngân hàng vẫn áp dụng chiêu khuyến mại, khách hàng vẫn có thể mặc cả
lãi suất tới 16-17%/năm, thậm chí 18%/năm với các món tiền gửi vài tỉ đồng cho kì hạn 1
hoặc 2 tháng.
Lãi suất huy động bình quân của các ngân hàng thương mại cổ phần năm 2013 khoảng
7,5%, lãi suất cho vay trung và dài hạn bình quân khoảng 12,5%.
2.1.2.3 Rủi ro thanh khoản
Có thể nói, RRTK thực chất là hệ quả của các loại rủi ro nêu trên. Vì những biến động bất
lợi biến động về lãi suất, những thay đổi về tỉ giá, những sự yếu kém trong thẩm định tín
dụng, các NHTM Việt Nam hiện nay vẫn phải thường xuyên đối diện với RRTK.
17
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
2.2 TÌNH HÌNH RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NHTM VIỆT
NAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY
2.2.1 Thực trạng rủi ro thanh khoản
Giai đoạn 1998-2001, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt thấp dưới 7%/năm. Chính
phủ đã thực hiện nhiều giải pháp kích cầu nhằm đưa nền kinh tế thoát khỏi thời kì suy giảm.
Không thể phủ nhận những thành công được mang lại từ chính sách đó. Những nguyên
nhân của mức tăng giá “chóng mặt” năm 2004 là do cầu kéo, có thể được giải thích một

phần từ thực thi chính sách được đề cập trên đây.
2.2.1.1 Giai đoạn 2007-2008
Tuy nhiên năm 2007 lại chứng kiến áp lực tăng giá tương tự năm 2004. Tình hình có vẻ
phức tạp hơn khi nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bước vào sân chơi lớn WTO. Theo Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2007 lên đến 20,3 tỷ USD tăng 69,3% so
với năm 2006. Cùng với vốn đầu tư trực tiếp, đồng vốn gián tiếp cũng đang đổ vào thị
trường chúng khoán, thị trường bất động sản thông qua các quỹ đầu tư nước ngoài.
Cuộc khủng hoảng bắt đầu từ nền kinh tế Mỹ từ cuối năm 2007 và năm 2008 đã khiến hàng
tram tỷ USD đã tiêu tan và lây lan nayc vẫn chưa chấm dứt. Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng
nhất định từ cuộc khủng này, khi nền kinh tế trong nước ngày càng hội nhập đầy đủ và sâu
rộng hơn vào nền kinh tế khu vực và trên thế giới. Chính sách thắt chặt tiền tệ được thực thi
khi lạm phát gia tăng cùng với tác động từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã làm cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nội địa trở nên hết sức khó khan, đặc
biệt doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguy cơ hàng loạt doanh nghiệp bên vực phá sản dần hiện
hữu.
Chính phủ đã nhân ra vấn đề cấp thiết đó, kịp thời ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP
ngày 11/12/2008 về những giái pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì
tăng trưởng kinh tế, bảo đẩm an sinh xã hội. Triển khai Nghị quyết nêu trên của Chính phủ,
Ngân hàng Nhà nước có Chỉ thị số 06/2008/CTNHNN ngày 31/12/2008. Tinh thần chủ đạo
của chỉ thị này là điều hàng chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả, vừa ngăn chặn lạm phát
trở lại vừa ngăn chặn suy giảm kinh tế. Các giải pháp áp dụng trong tình huống này là điều
chỉnh giảm lãi suất cơ bản và tỷ lệ DTBB. Đến cuối năm 2008, lãi suất cơ bản bằng đồng
18
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
Việt Nam từ 14%/năm xuống còn 8,5%/năm: tỷ lệ DTBB giảm hơn một nửa từ mức
11%xuống còn 5%. Với sự điều hành quyết liệt của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, lạm
phát đã được kiểm chế, kinh tế vi mô cơ bản được giữu ổn định, an sinh xã hội được bảo
đảm, tốc độ tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 6,23%tỷ lệ lạm phát ở mức 19,89%.
Với chương trình cải cách được thiết lập toàn diện và những kết quả đạt được tưởng chừng
như hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam vững vàng trước mọi thử thách. Tuy nhiên,

những gì đã diễn ra cuối năm 2007 và những tháng đầu năm 2008 đã chứng tỏ điều ngược
lịa. Trước các biện pháp mạnh của Ngân hàng Nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát, điểm yếu
thanh khoản của các ngân hàng thương mại dần lộ rõ. Để đảm bảo khả năng thanh khoản,
các ngân hàng đã tăng lãi suất thu hút tiền gửi của khách hàng. Điều này dẫn tới cuộc chạy
đua lãi suất vào giữa tháng 2 năm 2008 và có lẽ không có điểm dừng nếu Ngân hàng Nhà
nước không “tuýt còi” bằng Công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 khống chế trần
lãi suất huy động là 12%/năm. Lãi suất vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có lúc
vượt qua con số 40%/năm, là mức tăng cao nhất chưa từng có trong lịch sử thị trường liên
ngân hàng Việt Nam. Mặc dù, các ngân hàng đều khẳng định khả năng thanh khoản của
ngân hàng mình vẫn đảm bảo. Nhưng cuộc chạy đua lĩa suất không có điểm dừng không thể
chỉ do chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh từ Ngân hàng Nhà nước. Đó là do vấn đề quản trị
rủi ro kinh doanh nói chung, quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng chưa được coi trọng; các
ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng quá nhanh và đàu tư vào các lĩnh vực có rủi ro cao như
chứng khoán, bất động sản. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng bình quân năm 2007 so với năm
2006 của 33 ngân hàng thương mại là 53,22% đã minh chứng cho nhận định trên đây
Ví dụ minh họa
Trường hợp Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là một trong những ngân hàng thương mại nhà
nước. Đến cuối năm 2008, số vốn điều lệ của BIDV hơn 8 ngàn tỷ VND. Với bề dày phát
triển 52 năm, BIDV có mạng lưới rộng khắp cả nước, chỉ xếp sau Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn về số điểm giao dịch. Trong năm 2007, 2008, không nằm ngoài xu
hướng chung của hệ thống ngân hàng Việt Nam, tính thanh khoản tại BIDV cũng .có những
khó khan nhất định.
Những hạn chế về thanh khoản của BIDV có thể xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan:
19
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
- Mặc dù quy định về quản lí thanh khoản đã được ban hành nhưng việc triển khai áp
dụng nhất là tại các chi nhánh chưa được quan tâm đúng mức từ cấp lãnh đạo đến
nhân viên. Hội sở chính chưa có quy định cụ thể về các chỉ số cho toàn hệ thống phải
chăng chưa phù hợp, như tỷ lệ dự trữ tối thiểu chỉ là 8 %.

- Bộ phận hỗ trợ ALCO khi khai báo cung cầu thanh khoản, xây dựng các kịch bản
phải chăng đã kì vọng nhiều vào thị trường nên có những đánh giá khả quan; từ đó
đẩy mạnh cho vay, giảm dự trữ. Ngay cả khi vấn đề khó khan về thanh khoản qua
chưa lâu nhưng dư nợ của BIDV tăng mạnh vào cuối năm 2008.
2.2.1.2 Giai đoạn 2008-2009
Quý I/2008 khi lạm phát có dấu hiệu gia tăng, NHNH sử dụng chính sách tiền tệ thắ chặt
thông qua việc tăng lãi suất cơ bản, tăng dự trữ bắt buộc.
Tháng 3/2008 phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc, LSCB liên tục được điều chỉnh tăng từ
8,25% lần lượt lên 8,75%, 10%,11%, 12% và tới mức 14% vào đầu tháng 6/2008, NHNN
chỉ đạo các NHTM tuân thủ một cách nghiêm ngặt quy định không được áp dụng lãi suất
kinh doanh vượt quá 150% LSCB và không được thu phí đối với hoạt động cho vay.
Thực tế cho thấy, tình trạng khan hiếm đồng tiền, lãi suất tiền gửi VND liên ngân hàng tăng
lên một cahcs chóng mặt đã đẩy các NHTM vào cuộc đua lãi suất làm bằng lãi suất huy
động tăng dần lên từ 12% lên tơi 18,6%/. Mặc dù lãi suất huy động tăng cao như vậy nhưng
thực tế đồng Việt Nam thu hút về ngân hàng lại không được như ý muốn của các nhà quản
lý và tình trạng thanh khoản vẫn rất căng thẳng.
Từ quý IV/2008 đến đầu năm 2009, mặc dù NHNN thực thi CSTT nới lỏng nhưng trước
tình trạng dư nợ tín dụng có dấu hiệu tăng mạnh hơn chỉ tiêu định hướng cho cả năm 2009
là 30%, thì từ tháng 6/2009 đến đầu năm 2010, dù không tuyên bố là đã chuyển sang CSTT
thắt chặt, nhưng những động thái của NHNN rõ rang là có những biểu hiện của việc thắt
chặt tiền tệ dưới dạng định hướng là chủ động ngăn ngừa lạm phát: Đó là việc chỉ đạo các
NHTMNN không được tăng trưởng tín dụng quá 25%, các NHTM phải kiểm soát tốc độ
tăng trưởng. Đồng thời NHNN cũng thông báo là sẽ kiểm soát chặt lượng cung tiền qua
OMO, chỉ đạo không được dung vốn cho vay đầu tư bất động sản và các hoạt động đầu tư
tài chính cũng là một biện pháp để kiềm chế mức tăng trưởng tín dụng.
Những biện pháp này của NHNN đã kiềm chế được mức tăng dư nợ ở mức 37,7% (đã có dự
báo là tăng trên 40%), đồng thời góp phần kiềm chế mức tăng CPI (cả năm tăng 6,88%,
20
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
nhưng tình hình lãi suất và cung ứng cho nền kinh tế lại đang có vấn đề. Lãi suất huy động

VND liên tục trong xu thế bung hết trần.
Từ 1.12.2009, LSCB đã lên 8% và trần lãi suất huy động là dưới 10,5%/năm thì lãi suất huy
động cao nhất đã lên tới 10,499%/năm, lãi suất các kỳ hạn ngắn, trung và dài hạn đang xích
lại gần nhau và hướng đến mức lãi suất trần tối đa được phép, lãi suất liên ngân hàng lên
12%/năm. Đó là những con số công bố chính thức, còn trong thực tế thì khoản tiền gửi lớn
của tổ chức và dân cư, bằng cách này hay cách khác, đang được nhiều NHTM lôi kéo, níu
giữ bằng các hình thức thường đã khiến cho lãi suất thực lớn hơn lãi suất danh nghĩa ghi
trên biểu lãi suất mà các NHTM niêm yết từ 1-2%/năm.
2.2.2 Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản đến kết quả hoạt
động kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam
2.2.2.1 Đối với ngân hàng thương mại
Thứ nhất, thanh khoản của một số NHTM nhỏ bị giảm sút nghiêm trọng. Cuộc chạy đua lãi
suất của các NHTM đã làm mặt bằng lãi suất huy động tăng dần lên từ 12% lên tới
18,6%/năm. Dù lãi suất huy động tăng cao nhưng khả năng thu hút vốn của các NHTM Việt
Nam xem ra không khả thi.
Thứ hai, các NHTM Việt Nam đứng trước mối nguy về pháp luật. Khi mà NHNN đã ra
quyết định lãi suất huy động tiền gửi là không vượt quá 14%, các NHTM tiếp tục huy động
lãi suất chui bằng những chiêu khuyến mại dành cho khách hàng gửi tiền trên 12 tháng và là
khách hàng quen của NHTM. Một số chiêu lách luật được các NHTM sử dụng như thông
qua hình thức khuyến mại “cào là trúng”, đặc biệt là sản phẩm huy động VND đảm bảo
bằng USD. Ngoài việc tăng lãi suất tiết kiệm lên kịch trần ở hầu hết các kì hạn như Ngân
hàng cổ phần Kiên Long còn tặng thêm ba lô du lịch, va li kéo, bộ chén, quạt hơi nước
cho khách hàng gửi tiền; ngân hàng Đông Á cũng làm tương tự với quà khuyến mại là áo
mưa, túi du lịch Ngân hàng này còn bổ sung thêm ưu đãi về mua ngoại tệ để đi nước ngoài
với các khách hàng gửi tiền có số dư ở mức nhất định. Điều này không chỉ khiến các ngân
hàng vướng phải các vấn đề liên quan đến pháp luật mà còn khiến các ngân hàng này gặp
các rủi ro với các sản phẩm huy động linh hoạt. Đó là các dạng sản phẩm: tiền gửi có kì hạn
“được rút gốc linh hoạt” và khi rút gốc trước hạn “được hưởng lãi suất theo thời gian thực
21
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng

gửi”; tiết kiệm lãi suất thả nổi” với đặc tính “cho phép ngân hàng được rút trước hạn mà vẫn
được hưởng lãi suất thực nhận rất hấp dẫnvào nguy cơ rủi ro thanh khoản.
Thứ ba, hoạt động kinh doanh của hầu hết các NHTM bị ảnh hưởng nghiêm trọng, thậm chí
một vài ngành hàng nhỏ bị tê liệt. Việc cho vay đối với khách hàng tại các ngân hàng hầu
như bị đình chỉ, hầu hết các ngân hàng chỉ ưu đãi cấp tín dụng thoe hạn mức đối với những
khách hàng truyền thống, trong khi đó lãi suất cho vay cũng bị đẩy lên rất cao, ở mức
18%/năm, rồi 21%/năm. Kết quả kinh doanh của các ngân hàng bị giảm sút một cách
nghiêm trọng, nhiều ngân hàng bị lỗ hàng trăm tỉ và hầu hết các ngân hàng đều phải điều
chỉnh giảm kế hoạch lợi nhuận năm khoảng 30-40%.
2.2.2.2 Đối với nền kinh tế - xã hội
Thứ nhất, rủi ro thanh khoản (RRTK) gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc sản
xuất và kinh doanh. Các giải pháp rút tiền từ lưu thông về tuy được coi là cần thiết nhưng
đối với liều lượng lớn và nhanh một cách gấp gáp đã khiến đãn đến cuộc đua lãi suất giữa
các NHTM bùng nổ, đẩy lãi suất huy động và cho vay liên tiếp kịch trần, lãi suất liên ngân
hàng liên tục gia tăng kỉ lục, buộc các NHTM phải siết chặt các khoản cho vay ảnh hưởng
đến hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Chi phí vốn cao cản trở các
DN tiếp cận nguồn vốn tín dụng. Thêm vào đó, chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng mạnh
khiến môt số DN sản xuất kinh doanh thua lỗ, đình đốn, nợ xấu gia tăng.
Thứ hai, niềm tin của công chúng đối với độ an toàn của các NHTM đã giảm sút nghiêm
trọng. Hiện nay, tuy các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức huy động vố nhưng theo đánh
giá của các chuyên gia, số vốn huy động được không mấy khả thi. Trong bối cảnh nền kinh
tế lạm phát cao như hiện nay, người dân vẫn có xu hướng gửi tiền ngắn hạn để tìm kiếm
những cơ hội đầu tư khác mang lại lợi nhuận cao hơn.
Tình hình đó đã gây ảnh hưởng nặng nề tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Đánh giá ở góc độ vĩ mô của toàn bộ nền kinh tế thì những diễn biến như trên đã
gây ảnh hưởng tiêu cực lớn đến mục tiêu giảm lạm phát, tăng trưởng kinh tế và ổn định đời
sống xã hội.
22
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
2.2.3 Nguyên nhân gây RRTK của các NHTM Việt Nam trong

mấy năm gần đây
2.2.3.1 Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Về phía các NHTM, điều kiện
kinh doanh thuận lợi trong những năm gần đây đã làm nảy sinh tư tưởng chủ quan, tăng
trưởng tín dụng quá nóng trong khi lại buông lỏng chính sách quản trị rủi ro làm mất cân đối
tương quan cơ bản trong cơ cấu tài sản, không đảm bảo đúng các tỷ lệ an toàn theo tiêu
chuẩn của NHTM Việt Nam. Ngân hàng chủ yếu tập trung tín dụng vào một số khách hàng
lớn hoặc tỉ trọng tín dụng cho một ngành. Trong bối cảnh đó, khi thị trường có biến động
bất ngờ, khách hàng lũ lượt kéo đến rút tiền thì ngân hàng khó có thể xoay chuyển kịp thời,
dẫn đến bị mất thanh khoản do cơ cấu đầu tư.
Thứ hai, không cân xứng về kì hạn của Tài sản có và Tài sản nợ. Trong điều kiện thị trường
biến động nhanh, người gửi tiền thường chọn kì ngắn hạn. Do vậy, tỉ trọng huy động vốn kì
ngắn hạn trong tổng số vốn huy động cao, trong khi nhu cầu vay vốn thường dài hơn, nên
nhiều NHTM đã dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung, dài hạn vượt quá tỉ lệ quy
định (Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN quy định về tỉ lệ đảm bảo an toàn trong
hoạt động của Tổ chức tín dụng (TCTD), tỉ lệ vốn ngắn hạn tài trợ cho vay trung dài hạn là
40% đối với NHTM và 30% đối với các TCTD khác ). Do vậy, mất cân đối cơ cấu kì hạn
cũng tiềm ẩn RRTK. Thực tế, tình hình huy động vốn trung và dài hạn của các TCTD còn
gặp nhiều khó khăn, dẫn đến các rủi ro tiềm ẩn do chênh lệch về kì hạn giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn. Vì thế, ngày 10/8/2009, NHNN đã ban hành Thông tư số 15/2009/TT-NHNN
quy định tỉ lệ đối với các TCTD hoạt động tại Việt Nam là 30%.
Thứ ba, quy mô vốn điều lệ của NHTM Việt Nam còn ít, tiềm lực tài chính còn chưa đủ
mạnh, điều này khiến cho hoạt động của các NHTM trở nên khó khăn, khả năng đảm bảo tỉ
lệ CAR cũng gặp nhiều trở ngại. Sau đây là bảng tổng hợp vốn điều lệ của một số NHTM
trong mấy năm gần đây.
Bảng 2.1: Vốn điều lệ của một số NHTM Việt Nam từ 2010 – 2011
(Đơn vị: Tỷ đồng)
STT Ngân hàng
Vốn tự có
STT Ngân hàng

Vốn tự có
2010 2011 2010 2011
1 Agribank 21.000 29.605 6 Sacombank 9.179 10.740
23
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
2 BIDV 14.903 23.012 7 SHB 3.680 8.866
3 Vietcombank 17.587 25.140 8 ACB 7.705 9.377
4 Vietinbank 16.858 26.217 9 Kienlongbank 2.000 3.000
5 Techcombank 6.932 8.848 10 NamAbank 2.000 3.000
Ngày 22/11/2006, Chính phủ ban hành nghị định số 141/2006/NĐ-CP quy định mức vốn
pháp định đối với NHTMNN đến năm 2008 là 3000 tỷ đồng, còn NHTMCP đến năm 2008
là 1000 tỷ đồng, đến năm 2010 là 3000 tỷ đồng. TCTD được cấp giấy phép thành lập và
hoạt động phải có biện pháp đảm bảo có số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu
tương đương vốn pháp định.
Kết quả tổng hợp cho thấy, sau khi Nghị định số 141/2006/NĐ-CP được ban hành thì các
NHTM Việt Nam đang dần tăng vốn điều lệ lên theo từng năm. So sánh với các ngân hàng
các nước trong khu vực cho thấy mức vốn điều lệ của NHTM Việt Nam còn khá nhỏ bé,
phần lớn các ngân hàng trong nước chỉ có số vốn điều lệ vào cỡ 1000 đến 7000 tỷ VND. Cá
biệt một số ngân hàng có vốn điều lệ tương đối lớn như: Agribank hơn 29 nghìn tỷ VND
năm 2011, Vietinbank là 26 nghìn tỷ VND tính đến cuối năm 2011, nhưng vẫn chưa bằng
một ngân hàng hạng trung bình trong khu vực là khoảng 1 tỷ USD tương đương hơn 20
nghìn tỷ VND (Tỷ giá theo NHNN công bố ngày 3/4/2011).
Vốn điều lệ thấp, năng lực tài chính còn hạn chế, khiến các NHTM Việt Nam khó khăn
trong việc đáp ứng hệ số CAR như quy định. Điều này cũng là một trong những nguyên
nhân dẫn đến RRTK của các NHTM Việt Nam trong mấy năm trở lại đây.
2.2.3.2 Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, chính sách kinh tế vĩ mô. Để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, NHNN
đã thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt bằng công cụ lãi suất: Lãi suất huy động vốn bằng
đồng Việt Nam của các tổ chức (trừ tổ chức tín dụng) và cá nhân gồm cả khoản chi khuyến
mại dưới mọi hình thức không vượt quá 14%/năm. Khi lãi suất huy động được ấn định ở

mức như vậy thì khả năng thu hút từ dân cư đối với các NHTM đặc biệt là các NHTM quy
mô nhỏ là vô cùng khó khăn. Chưa kể, khả năng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với NHTM cũng
là một trong những nhân tố gây nên RRTK cho NHTM Việt Nam.
Thứ hai, việc huy động vốn gặp nhiều khó khăn, bởi lãi suất huy động thấp hơn tỷ suất lợi
nhuận của một số kênh đầu tư khác. Trong khi lãi suất tiết kiệm tiền đồng trong năm 2009
chỉ khoảng 8%/năm, thì giá nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,2%, giá vàng tăng 35,1%,
24
Quản trị rủi ro thanh khoản tại NTHM GVHD: Hồ Văn Dũng
VN-Index tăng 86,02%. Mặc dù mức lãi suất tiết kiệm như trên không thấp, nhưng các ngân
hàng vẫn khó thu hút lượng tiền tiết kiệm mới. Trong khi đó, một phần tiền gửi tiết kiệm với
lãi suất cao trong năm trước nay đáo hạn đã không được gửi lại tiết kiệm, mặc dù các
NHTM đã tăng lãi suất huy động.
2.3 VÀI VỤ VIỆC TIÊU BIỂU VỀ RỦI RO THANH KHOẢN CỦA
NHTM
2.3.1 Rủi ro thanh khoản của Ngân hàng thương mại cổ phần
Á Châu (ACB) năm 2003
Đầu năm 2003, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) vẫn đang kinh doanh hiệu
quả. Lợi nhuận 9 tháng đầu năm 2003 của ngân hàng này tăng 20% so với cùng kì năm
2002 (đạt xấp xỉ 170 tỷ đồng). Chính vì vậy, khi có tin đồn “Tổng giám đốc của ACB Phạm
Văn Thiệt bỏ trốn” đã gây nên một cú sốc trong dư luận người dân TP.HCM, đặc biệt là
những người có tiền gửi ở ACB.
Sau đây là một số diễn biến chính của sự việc:
 Đầu tháng 10/2013, bắt đầu có những lời xì xào, bàn tán đầu tiên rằng tổng giám đốc
(TGĐ) ACB tham lam công quỹ, “thụt két” hết số tiền trong Ngân hàng rồi bỏ trốn.
Thậm chí một số khách hàng còn nhận được tin cho hay ngân hàng đã “phá sản”.
 Khoảng một tuần sau, vào ngày chủ nhật (12/10) và thứ 2 (13/10), tin đồn lan rộng
trong dư luận TP.HCM.
 Ngày 14/10/2013, tình trạng căng thẳng lên đến đỉnh điểm khi hàng ngàn người dân
đổ xô đi rút tiền ở trụ sở chính của ACB trên đường Nguyễn Thị Minh Khai và chi
nhánh tại số 30 Mạc Đĩnh Chi ( Quận 1 – TP.HCM). Tại hai địa điểm này dân chúng

tập trung đông đến nỗi tràn xuống cả lòng đường gây ùn tắc giao thông nhiều giờ.
Chính điều này đã đẩy tâm lí người dân đến chỗ hoang mang, lo sợ thực sự. Rất may,
xuất hiện kịp thời trước đông đảo người dân của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam Lê Đức Thúy bên cạnh ông TGĐ Phạm Văn thiệt cùng đại diện chính
quyền Thành phố đã là lời bác bỏ tin đồn hùng hồn nhất.
 Ngày hôm sau, 15/10, mặc dù người dân vẫn kéo đến rút tiền rất nhiều, nhưng cùng
với cá nhân và các cơ quan có trách nhiệm, các cơ quan báo chí đồng loạt có những
tin, bài quan trọng bác bỏ thông tin sai sự thật trên. Vì thế, đến cuối ngày, tình hình
đã dịu xuống. Khách hàng đã bắt đầu đem tiền gửi trở lại ACB.
25

×