Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Truyện ngắn vi thị kim bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (769.7 KB, 125 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM






NGUYỄN THỊ THU DUYÊN



TRUYỆN NGẮN VI THỊ KIM BÌNH

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC






Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Thị Việt Trung










Thái Nguyên - 2014
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

MỤC LỤC

Mục lục i
Lời cảm ơn ii
Lời cam đoan iii
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 12
5. Phương pháp nghiên cứu 12
6. Đóng góp của luận văn 13
7. Bố cục của luận văn 14
PHẦN NỘI DUNG 14
Chƣơng 1: Vài nét về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại và
nhà văn Vi Thị Kim Bình 14
1.1. Vài nét về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại 14
1.2. Nhà văn nữ Vi Thị Kim Bình - một trong những người mở đầu cho văn
xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại 25

1.2.1. Vài nét về nhà văn nữ dân tộc Tày Vi Thị Kim Bình 25
1.2.2. Vi Thị Kim Bình - một trong những người mở đầu cho văn xuôi dân
tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại 29
Chƣơng 2: Hiện thực cuộc sống và con ngƣời vùng núi cao biên giới
trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình 34
2.1. Bức tranh hiện thực về cuộc sống vùng núi cao biên giới qua những giai
đoạn lịch sử đáng ghi nhớ của dân tộc 35
2.1.1. Hiện thực cuộc sống đầy gian khổ, hi sinh của một vùng núi cao biên
giới những năm tháng chiến tranh 35
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2.1.2. Hiện thực cuộc sống vùng biên chứa đầy sự phong phú, phức tạp thời
mở cửa 41
2.2. Hình tượng con người núi cao biên giới. 52
2.2.1. Hình tượng "những bông huệ trắng" ngát hương giàu đức hi sinh và
lòng nhân ái 52
2.2.2. Con người miền núi trước những cơ hội và thách thức trong thời kì mở
cửa của đất nước 61
Chƣơng 3: Một số phƣơng diện nghệ thuật trong truyện ngắn Vi Thị
Kim Bình. 71
3.1. Nghệ thuật xây dựng cốt truyện. 71
3.1.1. Khái niệm cốt truyện trong tác phẩm tự sự 71
3.1.2. Cốt truyện trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình 73
3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 76
3.2.1. Khái niệm nhân vật văn học 76
3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình 78
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật. 95
3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật 95
3.3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình 96
KẾT LUẬN 110

TÀI LIỆU THAM KHẢO 113
PHỤ LỤC 117
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CẢM ƠN

Bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin chân thành cảm ơn
PGS.TS Trần Thị Việt Trung, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới nhà văn Vi Thị Kim Bình, người
đã nhiệt tình giúp đỡ em về mặt tư liệu để phục vụ cho luận văn.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn, khoa
Sau đại học, cán bộ phòng Quản lí khoa học trường Đại học sư phạm - Đại
học Thái Nguyên đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong cả quá trình học tập
và nghiên cứu tại trường.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã quan tâm,
giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng trong quá trình nghiên cứu, luận
văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của quý
thầy cô và bạn bè, đồng nghiệp quan tâm đến luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thu Duyên








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi. Các
nội dung nêu trong luận văn là kết quả làm việc của tôi và chưa được công bố
trong bất cứ một công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Nguyễn Thị Thu Duyên





Xác nhận của ngƣời hƣớng dẫn khoa học




PGS.TS Trần Thị Việt Trung
Xác nhận của BCN Khoa





Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, văn xuôi các dân tộc thiểu
số chiếm một vị trí khá đặc biệt. Tuy ra đời muộn do nhiều nguyên nhân chủ
quan và khách quan nhưng văn học các dân tộc thiểu số đã có được những
thành tựu đáng tự hào, góp phần làm phong phú, đa dạng và giàu bản sắc cho
nền văn học Việt Nam hiện đại. Với lịch sử phát triển hơn một nửa thế kỉ, văn
xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại có những đặc điểm riêng,
vừa độc đáo trong nội dung phản ánh, vừa đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện.
Nó đã trở thành một bộ phận khăng khít, đặc sắc góp phần vào sự phát triển
đa dạng và phong phú lớn của nền văn học dân tộc. Vì vậy, khi nghiên cứu về
văn học Việt Nam nói chung và văn xuôi Việt Nam hiện đại nói riêng không
thể không nghiên cứu văn xuôi dân tộc thiểu số như là một mảng văn học độc
đáo của nền văn học nước nhà. Tuy nhiên, trong nhiều thập kỉ qua, việc
nghiên cứu văn học các dân tộc thiểu số mặc dù đã được chú ý nhưng thực sự
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu, thưởng thức một cách đầy đủ và sâu
sắc về mảng văn học này. Vì vậy, đẩy mạnh việc nghiên cứu một cách tích
cực và cụ thể mảng văn học thiểu số vẫn là một việc làm cần thiết có ý nghĩa
khoa học và thực tiễn cao.
1.2. Như đã biết, sau khi được hình thành, đội ngũ các nhà văn dân tộc
thiểu số xuất hiện ngày một đông đảo với những tên tuổi đại diện cho nhiều
dân tộc khác nhau, với nhiều tác phẩm văn học đặc sắc được bạn đọc đón
nhận nồng nhiệt. Trong suốt gần bảy mươi năm qua, các nhà văn dân tộc thiểu
số đã đem đến cho nền văn học nước nhà nhiều tác phẩm văn chương mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Nội dung chủ yếu của những tác phẩm văn học
này là đã phản ánh chân thực và sinh động cuộc sống của đồng bào các dân
tộc thiểu số vùng cao trong các giai đoạn lịch sử của đất nước với sự đổi thay
từng ngày, từng giờ của con người và thiên nhiên miền núi. Qua các tác phẩm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

của họ, bạn đọc cả nước có thể khám phá được vẻ đẹp của thiên nhiên, của thế
giới tâm hồn con người miền núi với những nét riêng không trộn lẫn.
Từ năm 1945, đặc biệt là từ những năm 60 của thế kỉ XX đến nay,
nhiều thế hệ nhà văn dân tộc thiểu số đã xuất hiện và khẳng định được tên
tuổi của mình trong đời sống văn học dân tộc thiểu số nói riêng và văn học
nước nhà nói chung. Ví dụ như các nhà văn, nhà thơ: Nông Quốc Chấn, Nông
Minh Châu, Nông Viết Toại, Hoàng Hạc, Triều Ân, Lâm Ngọc Thụ, Vi Hồng,
Y Điêng, Vi Thị Kim Bình, Mã A Lềnh, Vương Trung, Lò Văn Sĩ, Ma
Trường Nguyên, Lí Lan, Sa Phong Ba, Linh Nga Niê KĐăm, Cao Duy Sơn,
Inrasara, Kim Nhất, Hữu Tiến, La Quán Miên, Hà Thị Cẩm Anh, Hoàng Hữu
Sang, Đoàn Lư, Hà Trung Nghĩa, Kha Thị Thường, Niê Thanh Mai, Bùi Thị
Như Lan, ….
Trong đội ngũ khá đông đảo đó - nhà văn nữ dân tộc Tày - Vi Thị Kim
Bình được coi là một trong những cây bút nữ người dân tộc thiểu số "mở
đầu” cho văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam. Là một trong những nhà
văn thuộc thế hệ đầu tiên đã in đậm dấu ấn trong làng văn xuôi các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại. Nhà văn Vi Thị Kim Bình là một cán bộ ngành Y,
bà tốt nghiệp Y sĩ Trường cán bộ Y tế Trung ương năm 1961 và trở thành
cán bộ của ngành Y tế của Lạng Sơn cho đến khi về hưu - năm 1988. Bên
cạnh nghề y cao quý, Vi Thị Kim Bình đã làm nên tên tuổi của mình trong
nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam ngay từ tác phẩm đầu tay với nhan
đề Đặt tên. Tác phẩm được in trên Tạp chí Văn nghệ Việt Bắc năm 1962 và
được trao giải Khuyến khích. Sự khởi đầu thuận lợi này là nguồn động lực để
một cây bút nữ trẻ người dân tộc thiểu số tiếp bước trên con đường sáng tạo
nghệ thuật của mình. Với truyện ngắn Đặt tên tác giả đã ghi tên mình vào
làng văn học nước nhà và là cây bút nữ là người dân tộc thiểu số đầu tiên đặt
tên mình bên cạnh tên tuổi những nhà văn dân tộc thiểu số khác trong cả
nước. Từ đó đến nay, mặc dù cuộc sống có bao khó khăn, vất vả, nhưng bên

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

cạnh công việc chính là một cán bộ ngành Y, Vi Thị Kim Bình vẫn sáng tác
đều đặn, thầm lặng mà hiệu quả. Với hơn nửa thế kỉ cầm bút, nhà văn đã sáng
tác hơn năm mươi Truyện ngắn và Kí - in trên các loại báo chí ở địa phương
và Trung ương. Sau này, các tác phẩm đó đã được tập hợp in trong bốn tập
truyện ngắn. Trong quá trình sáng tác, nhà văn đã khẳng định vị trí và đóng
góp của mình bằng một loạt giải thưởng: Giải Khuyến khích của tạp chí Văn
nghệ Việt Bắc (1962); Giải Khuyến khích tuần báo Văn nghệ (1968); Giải
thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam cho tác giả viết về đề tài dân tộc thiểu số
miền núi Việt Nam (1970); Giải thưởng của Hội Nhà văn Việt nam cho tác
giả có tác phẩm xuất sắc nhân kỉ niệm bốn mươi năm thành lập nước (1985);
Giải nhì (không có giải nhất) cuộc thi đề tài Lâm nghiệp Lạng Sơn năm
1987; Giải B - Giải thưởng Hoàng Văn Thụ tỉnh Lạng Sơn lần thứ nhất năm
1995 …Và đặc biệt năm 2000, khi nhà văn đã sáu mươi tuổi, bà đã vượt qua
5016 tác phẩm của nhiều tác giả trẻ trong cuộc thi Thư viết cho người yêu do
tạp chí Thế giới trong ta tổ chức để đạt Giải nhất với tác phẩm Những bức
thư nằm trong trang nhật kí
Những giải thưởng xứng đáng đó cho thấy vị trí và tầm vóc của nhà
văn nữ Vi Thị Kim Bình trong sự phát triển của Văn học dân tộc thiểu số tỉnh
Lạng Sơn nói riêng và Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam nói chung. Cái tên
Vi Thị Kim Bình đã trở nên thân thuộc với nhiều thế hệ bạn đọc, đặc biệt là
những bạn đọc trong thời kì chống Mĩ. Chính vì vậy, tác giả Đặng Tiến Huy
đã khẳng định rằng: những nhân vật trong tác phẩm của nhà văn Vi Thị Kim
Bình đã "hấp dẫn, lôi cuốn thế hệ trẻ chúng tôi như những tấm gương hành
động, nhân cách, động viên khích lệ chúng tôi hăng say phấn đấu thực hiện
những ước mơ, hoài bão của mình" [19].
Với những đóng góp đáng trân trọng đó, Vi Thị Kim Bình xứng đáng
được đánh giá là một nữ nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu, là một trong
những cây bút văn xuôi đầu tiên có công xây dựng nền văn xuôi dân tộc thiểu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

số Việt Nam thời kì hiện đại. Cho dù sau Vi Thị Kim Bình còn có một số cây
bút văn xuôi nữ dân tộc thiểu số khác, với những sáng tác mới mẻ hơn, hiện
đại hơn, thậm chí là hấp dẫn hơn - nhưng Vi Thị Kim Bình vẫn là một cây bút
văn xuôi nữ dân tộc thiểu số có nhiều đóng góp và có một vị trí quan trọng
trong sự hình thành và phát triển của văn xuôi dân tộc Việt Nam thời kì hiện
đại. Vì vậy, khi nghiên cứu về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam đặc biệt ở
thể loại văn xuôi không thể không nghiên cứu về cây bút nữ Vi Thị Kim Bình
với tư cách như là một nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu, có nhiều đóng góp
đáng khẳng định.
Tuy nhiên, cho đến nay, theo khảo sát của chúng tôi vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên biệt về nhà văn Vi Thị Kim Bình. Chỉ có một số
bài báo hoặc những ý kiến nhỏ lẻ trong cả một công trình, bài viết về văn học
các dân tộc thiểu số nói chung có đề cập đến tác giả này. Vì vậy, việc tìm hiểu
truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực
tiễn và ý nghĩa khoa học. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ thì vấn
đề xây dựng một nền văn hóa vừa hiện đại, tiên tiến nhưng vẫn đậm đà bản
sắc dân tộc theo sự chỉ đạo của Đảng và Nhà nước thì việc nghiên cứu, khẳng
định những đóng góp của các nhà văn dân tộc thiểu số vào sự phát triển chung
của văn học Việt Nam hiện đại là việc cần thiết và có tính thời sự.
1.3. Bên cạnh đó, Vi Thị Kim Bình là một trong ba nhà văn Lạng Sơn
là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam có tác phẩm được tuyển chọn giảng dạy
trong chương trình nhà trường Phổ thông Trung học cơ sở (phần Văn học địa
phương) nên kết quả nghiên cứu này cũng sẽ là một tài liệu quan trọng phục
vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy văn học địa phương của tỉnh Lạng Sơn
nói riêng, đồng thời là một tài liệu tham khảo cho những người nghiên cứu,
tìm hiểu về văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung trong quá
trình hình thành, vận động và phát triển của bộ phận văn học đặc sắc này.

Từ những lí do trên chúng tôi đã lựa chọn đề tài: Truyện ngắn Vi Thị
Kim Bình làm đề tài luận văn Thạc sĩ của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

2. Lịch sử vấn đề
Vi Thị Kim Bình là nhà văn nữ dân tộc thiểu số thuộc thế hệ đầu tiên
nên được khá nhiều người nhắc tới trong các công trình nghiên cứu về văn
học dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, nghiên cứu sâu về sự nghiệp sáng tác của bà
cho tới nay chúng tôi thấy vẫn chưa có một công trình nghiên cứu chuyên biệt
nào. Qua khảo sát có thể nhận thấy, các nhà nghiên cứu, phê bình đề cập đến
trường hợp nhà văn Vi Thị Kim Bình ở hai dạng như sau:
Một là, các bài viết trong các công trình nghiên cứu tổng thể về văn học
dân tộc thiểu số. Có thể kể tên các công trình, bài viết tiêu biểu như: Tập tiểu
luận Chặng đường mới (1985) của Nông Quốc Chấn; Văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam hiện đại (1995), Về một mảng văn học dân tộc (1999),
Văn học và miền núi (2002) của Lâm Tiến; Văn học các dân tộc thiểu số
Việt Nam (1997); Nhà văn các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại (1998);
Cuối thế kỉ XX nhìn lại (2001) của nhiều tác giả; Văn xuôi Việt nam hiện
đại về dân tộc và miền núi (2012) của Phạm Duy Nghĩa;… Trong các công
trình nghiên cứu đó, cái tên Vi Thị Kim Bình đều được nhắc đến cùng với tên
tuổi các nhà văn dân tộc thiểu số thuộc thế hệ đầu tiên. Các tác giả đã chỉ ra vị
trí, những đóng góp cũng như những mặt còn hạn chế của văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam nói chung trong đó có nhà văn Vi Thị Kim Bình.
Bước đầu đánh giá những đóng góp của nhà văn Vi Thị Kim với nền
văn học dân tộc thiểu số ở thời kì đầu, trong tập tiểu luận Chặng đường mới
Nông Quốc Chấn – "cây đại thụ văn học dân tộc thiểu số" đã khẳng định: "Vi
Thị Kim Bình, hầu như là một cây bút duy nhất trong giới nữ ở miền núi viết
thường xuyên về đề tài y tế. Nhân vật chính trong nhiều truyện ngắn của chị
thường là bác sĩ, y sĩ, y tá, hộ lí và những người được các thầy thuốc săn sóc.
Vừa là thầy thuốc, vừa là nhà văn, Vi Thị Kim Bình cùng những bạn đồng

nghiệp đang trấn vùng biên giới Lạng Sơn. Tập truyện ngắn Niềm vui khẳng
định bước đầu vị trí văn học của Vi Thị Kim Bình" [9] Nhận xét trên của nhà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

thơ Nông Quốc Chấn cho thấy đề tài mà nhà văn Vi Thị Kim Bình phản ánh
là đề tài y tế, những nhân vật trong sáng tác của nhà văn gắn bó chặt chẽ với
cuộc sống và công việc của bà.
Trong cuốn "Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại" - một
trong những công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về mảng văn
học dân tộc thiểu số của Lâm Tiến thì Vi Thị Kim Bình là nữ nhà văn người
dân tộc Tày duy nhất trong tổng số 23 nhà văn các dân tộc thiểu số được nhắc
đến lúc bấy giờ (tính đến thời điểm nghiên cứu, năm 1993).
Trong bài "Văn xuôi Lạng Sơn qua một số truyện, ký" in trong Tạp
chí Văn nghệ Xứ Lạng số 140 tháng 06/2005, Lâm Tiến cũng đã đưa ra nhận
xét về ưu điểm và hạn chế trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình: "Truyện (của
Vi Thị Kim Bình) thường diễn ra theo mạch thời gian…thường nặng về kể
các sự kiện, các hành động, nhẹ việc phân tích tâm lí, nội tâm nhân vật nên
truyện…dễ đi thẳng đến với người đọc, nhưng ít để lại ấn tượng sâu sắc về số
phận của các nhân vật…" [49]. Đây là một trong những xét xác đáng về nghệ
thuật văn xuôi của Vi Thị Kim Bình.
Trong công trình nghiên cứu "Văn xuôi Việt nam hiện đại về dân tộc
và miền núi", Tiến sĩ văn học Phạm Duy Nghĩa cũng nhắc tới hình ảnh con
người miền núi trong truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình. Đó là những con
người "đi về phía sáng", họ "có hiểu biết, có trình độ, luôn mong mỏi chứng
minh chân lí của khoa học, giúp cho tầm nhìn của bà con dân tộc mình vượt
thoát khỏi vòng vây chật hẹp của núi rừng" [36, tr. 97]. Bên cạnh đó, tác giả
cũng phát hiện ra rằng: "Các nhân vật nữ trong truyện ngắn của Vi Thị Kim
Bình họ không có cảnh ngộ, tâm lí và tính cách riêng, tất cả đều giống nhau
về ước mơ và hành động. Trong hạt nhân cấu trúc của nhân vật, cái riêng độc
đáo luôn lép vế hoặc là số không bên cạnh cái chung, khái quát" [36, tr. 162].

Và tác giả nhận định: "Đây cũng là đặc điểm chung của văn học một thời"
[36, tr. 162].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Có thể nhận ra rằng, các nhận xét về nhà văn Vi Thị Kim Bình trong
các công trình nghiên cứu tổng thể về văn học các dân tộc thiểu số thường là
những nhận xét ngắn, không phân tích lí giải, chỉ có tính chất điểm qua,
khẳng định vị trí và một số đóng góp của Vi Thị Kim Bình trong nền văn học
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Hai là, trong một số bài viết cụ thể, trực tiếp về tác giả Vi Thị Kim
Bình. Ngay từ truyện ngắn đầu tay Đặt tên Vi Thị Kim Bình đã đạt giải
Khuyến khích của tạp chí Văn nghệ Việt Bắc. Nói về sự kiện này, PGS.TS
Nguyễn Duy Bắc đã khẳng định: "Người mở đầu và ghi dấu son đầu tiên cho
văn xuôi hiện đại xứ Lạng, chính là nhà văn Vi Thị Kim Bình" [7, tr. 682].
Nhà văn Đặng Tiến Huy, nguyên Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Bắc
Giang trong bài "Bông huệ trắng ở văn nghệ Việt Bắc" viết: "Cô y sĩ trẻ thức
suốt đêm viết truyện ngắn Đặt tên và gửi dự thi. Tác phẩm đầu tay này được
giải khuyến khích… và đã "Đặt tên" Vi Thị Kim Bình vào làng văn học nước
nhà" [7, tr.674]. Nhà văn Cao Duy Sơn cũng ghi nhận : "Với truyện ngắn Đặt
tên, tác giả Vi Thị Kim Bình đã ghi tên mình vào dòng văn học Việt Nam hiện
đại" [19]. Nhà văn Ngọc Mai (Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lạng
Sơn) cũng khẳng định: "Truyện ngắn Đặt tên là tác phẩm sinh ra để người
Tày có được một nữ văn sĩ đầu tiên, cũng là nữ nhà văn đầu tiên của các dân
tộc ít người" [25, tr. 93].
Nói về truyện ngắn Những bông huệ trắng (đạt giải Khuyến khích
cuộc thi truyện ngắn của tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam 1968),
nhà nghiên cứu phê bình Dương Lộc Vượng nhận xét: "Truyện được thể hiện
bằng một bút pháp giản dị. Một bút pháp với nhiều câu văn ngắn, cô đọng,
nhiều lượng thông tin, giàu tính biểu cảm lời thoại nhân vật ngắn gọn. Giọng
văn cứ "thản nhiên" kể lại sự việc mà không có lời bình của tác giả" [34, tr.

267]. Và sau này, khi viết về nhà văn nữ dân tộc Tày người Lạng Sơn này,
nhà văn Đặng Tiến Huy gọi Vi Thị Kim Bình là "Bông huệ trắng ở văn nghệ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Việt Bắc". Cao Duy Sơn cũng khẳng định, đến truyện ngắn Những bông huệ
trắng, Vi Thị Kim Bình đã có một bước tiến về nghệ thuật "Từ bố cục tác
phẩm đến ngôn ngữ được tiết chế tối đa, từng chi tiết đều được lựa chọn kĩ và
tinh tế" [19].
Có thể nhận ra "thế giới" nhân vật quen thuộc của Vi Thị Kim Bình là
những người phụ nữ. Đặc biệt là những nữ bác sĩ và y sĩ, những nữ y tá và hộ lí
luôn tận tụy với công việc. Đọc truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình, PGS. TS
Tôn Thảo Miên nhận xét: "Là một nhà văn nữ, viết về phụ nữ, Vi Thị Kim Bình
tỏ ra khá am hiểu tâm tư, tình cảm của nhân vật. Sự đồng cảm của tác giả đối
với nhân vật thể hiện qua từng trang viết khiến người đọc cũng phải bùi ngùi,
xúc động" [33, tr. 40]. Chính vì vậy, các nhân vật phụ nữ của Vi Thị Kim Bình
được thể hiện rất chân thật, gần gũi như con người bên ngoài cuộc đời.
Năm 1988, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc cho in cuốn “Nhà văn các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại” do Giáo sư Phong Lê chủ biên gồm các
bài viết về 16 nhà văn nhà thơ các dân tộc thiểu số, trong đó có bài viết của
tác giả Phan Diễm Phương về nhà văn Vi Thị Kim Bình. Tác giả bài viết đã
chỉ ra những nét nổi bật về nội dung và nghệ thuật trong sáng tác của Vi Thị
Kim Bình. Nhận xét về nhân vật là những nữ bác sĩ và y sĩ, những nữ y tá và
hộ lí trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình, tác giả này cho rằng : "Các nhân vật
kiểu này không được tác giả thể hiện như những con người với những cảnh
ngộ, những đặc điểm tính cách riêng… Vi Thị Kim Bình đã dồn sự quan tâm
vào việc thể hiện những phẩm chất chung, đã có hoặc cần có của người thầy
thuốc: tận tụy, hi sinh, giàu lòng yêu thương con người…" [20, tr. 62]. Với
mục tiêu "mở thêm một con đường để đưa ánh sáng văn hóa, văn minh về với
những miền rừng xa xôi, hẻo lánh" [20, tr. 62] nên "các truyện ngắn của Vi
Thị Kim Bình sẽ được viết sao cho thật sáng rõ, giản dị, dễ hiểu để chúng có

khả năng tiếp cận với mọi tầng lớp người đọc vùng cao" [20, tr. 62]. Đồng
thời Phan Diễm Phương cũng ghi nhận rằng cách viết như vậy là phù hợp với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

trình độ chung của đồng bào dân tộc thiểu số khi đó và "Cách viết rõ ràng,
suôn sẻ, "dễ đọc" như vậy một thời đã phát huy được tác dụng tích cực của
nó" [20, tr. 62].
Dương Lộc Vượng trong bài "Đọc truyện ngắn Những bông huệ của
Vi Thị Kim Bình" cũng chỉ ra những ưu điểm cũng như hạn chế về mặt nghệ
thuật của tác phẩm. Về ưu điểm có thể nhận thấy "Truyện được thể hiện bằng
một bút pháp giản dị… với những câu văn ngắn, cô đọng, nhiều lượng thông
tin, giàu tính biểu cảm", "mỗi nhân vật được tác giả soi rọi ở một góc độ khác
nhau để tập trung làm bừng sáng lên cái ý chí, cái nghị lực phi thường phải
chiến thắng bom đạn, phải chiến thắng kẻ thù" [34, tr. 267]. Bên cạnh đó tác
giả cho rằng kết cấu ở cuối tác phẩm có phần thiếu chặt chẽ, nhà văn đã để
cho nhân vật nói toạc cái tư tưởng của mình nên lời thoại của nhân vật có
phần gượng gạo. Nhưng dù sao tác phẩm vẫn "là một trong những truyện
ngắn hay, hấp dẫn của Vi Thị Kim Bình" [34, tr. 268] xứng đáng được nhận
giải thưởng Hoàng Văn Thụ.
Ngày 27/10/2012, Hội Văn học nghệ thuật Lạng Sơn tổ chức hội thảo
“Sự nghiệp sáng tác văn học của các nhà văn: Mã Thế Vinh, Nguyễn
Trường Thanh, Vi Thị Kim Bình”, để khẳng định những đóng góp của ba
nhà văn đối với văn học nghệ thuật Lạng Sơn và văn học nghệ thuật cả nước.
Trong hội thảo có nhiều tham luận khẳng định tài năng nghệ thuật cũng như
những đóng góp của nhà văn Vi Thị Kim Bình đối với nền Văn học nghệ
thuật các dân tộc thiểu số. Những bài tham luận phát biểu trong hội thảo đã
làm nổi bật về con người, sự nghiệp, về giá trị những tác phẩm của Vi Thị
Kim Bình. Có thể kể tên 06 tham luận sau:
- Xứ Lạng có ba nhà văn như thế của tác giả Lộc Bích Kiệm.
- Nữ nhà văn Vi Thị Kim Bình “Ngƣời mở đầu” của văn xuôi hiện

đại Lạng Sơn của Nguyễn Quang Huynh.
- Hương huệ trắng vẫn tỏa thơm của Cao Duy Sơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

- Tìm hiểu việc xây dựng nhân vật trong truyện ngắn và truyện vừa
của nhà văn Vi Thị Kim Bình của Tiến sĩ Hoàng Văn An.
- Bông huệ xứ hoa hồi của Đặng Tiến Huy.
- Cảm nhận về nhân vật phụ nữ trong truyện ngắn của nhà văn Vi
Thị Kim Bình của tác giả Hoàng Thị Kim Vân.
Hầu hết các tham luận đều đánh giá cao vai trò và những đóng góp của
nhà văn Vi Thị Kim Bình đối với nền văn học nghệ thuật tỉnh Lạng Sơn nói
riêng và nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung. Về
mặt nội dung, nhà nghiên cứu Lộc Bích Kiệm cho rằng : "Tác phẩm của chị
đề cập đến nhiều đề tài, nhưng tiêu biểu và tập trung hơn cả là đề tài miền
núi, hình tượng người phụ nữ mới trong lao động đóng góp cho xã hội" [19].
Tác giả Hoàng Thị Kim Vân cũng khẳng định: "Với những câu chuyện đời
thường nhẹ nhàng, giản dị mà sâu sắc, truyện ngắn của Vi Thị Kim Bình luôn
chứa đựng những giá trị ngợi ca, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp của
con người. Đặc biệt chị đã dành những tình cảm tốt đẹp nhất, những nét vẽ
đẹp nhất cho những người phụ nữ với tấm lòng sáng đẹp dù trong bất cứ
hoàn cảnh nào cũng luôn biết vươn lên vượt qua tất cả những khó khăn, thử
thách để hướng tới tương lai. Cũng chính vì vậy, các tác phẩm của chị luôn
neo giữ trong trái tim bạn đọc" [19]. Mỗi tác phẩm của nhà văn Vi Thị Kim
Bình đều mang đến cho độc giả cảm nhận những nhân vật và đời sống của họ
được tác giả thể hiện trên trang viết rất gần gũi như con người bên ngoài cuộc
đời. Vì vậy, "đọc mà như không thấy tác giả, chỉ có nhân vật với những tình
huống truyện khiến cho độc giả như được cùng sống, cùng đau khổ, xót
thương và nhận về mình tình yêu thương và cảm thông" [19].
Về mặt nghệ thuật, Tiến sĩ Hoàng Văn An cũng đã chỉ ra những ưu
điểm cũng như những hạn chế trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Vi Thị

Kim Bình. Thành công trong một số tác phẩm của Vi Thị Kim Bình là "kết
cấu chặt chẽ, nhiều chi tiết, hình ảnh tốt; Kết hợp kể, dẫn dắt, đối thoại và tả,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chú ý cả nội tâm , không dễ dãi diễn biến một chiều" [19]. Tuy nhiên, có một
điểm rất tiếc là "nhân vật trung tâm chưa trở thành nhân vật "nhớ đời", nhân
vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình" [19].
Trong hội thảo, với tham luận của mình nhà văn Cao Duy Sơn cho rằng
"Những tác phẩm của chị dù viết ở thời điểm chiến tranh hay hòa bình vẫn
nguyên giá trị với cuộc sống hôm nay. Giá trị đó là ở trong mỗi trang viết in
đậm dấu ấn lịch sử của đất nước, trong tâm thế của một thế hệ từng sống qua
những giai đoạn sôi động và gian khổ nhất của cuộc kháng chiến chống đế
quốc Mỹ, và những ngày đầu xây đắp hòa bình của cả dân tộc. Tinh thần đó
đã được nhà văn Vi Thị Kim Bình khuôn lại trong những số phận cụ thể, hoàn
cảnh và không gian cụ thể trong những truyện ngắn và bút ký tuy nhỏ bé và
giới hạn nhưng vẫn có sức cuốn hút sự liên tưởng, tạo cảm xúc lãng mạn và
ấm áp" [19] và tác giả đã khẳng định một cách rõ ràng Vi Thị Kim Bình: "Là
cánh chim đầu đàn của làng văn nữ các dân tộc thiểu số Việt Nam, là nhà văn
nữ dân tộc thiểu số đầu tiên viết văn xuôi ở Việt Nam" [19].
Như vậy, sau khi khảo sát chúng tôi thấy rằng, mặc dù xuất hiện khá
sớm và là một trong những cây bút nữ dân tộc thiểu số “mở đầu” của văn
xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại đã có những đóng góp thiết thực
ở mảng đề tài viết về miền núi nhưng tác giả Vi Thị Kim Bình mới chỉ được
một số người quan tâm, viết bài phê bình về tác phẩm của bà, và đó cũng chỉ
là những ý kiến đơn lẻ, chưa có tính hệ thống, đánh giá chưa thật toàn diện,
đầy đủ. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên cứu truyện ngắn của nhà văn Vi Thị Kim
Bình một cách hệ thống và toàn diện nhằm đánh giá một cách công bằng,
khách quan về những đóng góp đáng trân trọng của nhà văn nữ dân tộc Tày
này đối với nền văn xuôi dân tộc thiểu số nói riêng, với văn học dân tộc thiểu
số thời kì hiện đại nói chung là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa khoa học và

có tính thực tiễn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu truyện ngắn Vi Thị Kim Bình
trên cả hai phương diện: nội dung và nghệ thuật.
- Phạm vi nghiên cứu: toàn bộ truyện ngắn của nhà văn dân tộc thiểu
số Vi Thị Kim Bình, bao gồm bốn tập truyện ngắn với 51 tác phẩm:
1. Đƣờng qua mùa hoa đào - NXB Hội nhà văn. 1978
2. Niềm vui - NXB Văn hóa dân tộc. 1979.
3. Những bông huệ - NXB Hội nhà văn. 1997.
4. Văn tuyển tập - NXB hội nhà văn. 2010.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ đặc điểm nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Vi Thị
Kim Bình.
- Trên cơ sở đó khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà
văn Vi Thị Kim Bình với văn xuôi các dân tộc thiểu số thời kì hiện đại nói
riêng và văn xuôi Việt Nam nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu tác gia, tác phẩm văn học.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp nghiên cứu liên ngành.
6. Đóng góp của luận văn
Nghiên cứu truyện ngắn Vi Thị Kim Bình, chúng tôi nhằm mục đích
chỉ rõ những đặc điểm riêng về nội dung và nghệ thuật trong truyện ngắn Vi
Thị Kim Bình. Từ đó, khẳng định những đóng góp đáng trân trọng của nhà
văn với sự phát triển của văn xuôi dân tộc thiểu số Việt Nam thời kì hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Nếu đề tài thành công, chúng tôi hy vọng đây sẽ là một tư liệu tham
khảo bổ ích cho việc giảng dạy phần Văn học địa phương cho các trường
Trung học cơ sở trên địa bàn Lạng Sơn và sẽ là một tài liệu tham khảo phục
vụ cho việc học tập, giảng dạy về văn học dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
nói chung trong các cấp học.
7. Bố cục của luận văn
Luận văn bao gồm ba phần: Mở đầu; Nội dung; Kết luận.
Trong phần Nội dung bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Vài nét về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
và nhà văn Vi Thị Kim Bình.
Chƣơng 2: Hiện thực cuộc sống và con người miền núi vùng cao biên
giới trong truyện ngắn Vi Thị Kim Bình.
Chƣơng 3: Một số phương diện nghệ thuật trong truyện ngắn Vi Thị
Kim Bình.






Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
VÀI NÉT VỀ VĂN XUÔI CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
VIỆT NAM HIỆN ĐẠI VÀ NHÀ VĂN VI THỊ KIM BÌNH


1.1. Vài nét về văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại.
Văn học các dân tộc thiểu số là một bộ phận cấu thành của nền Văn học
Việt Nam. Đó là một bộ phận văn học độc đáo, đặc sắc, góp phần tạo nên "một
vườn hoa nhiều hương sắc" cho dân tộc Việt Nam. Trong các thể loại văn học
(văn xuôi, thơ, kịch, lí luận phê bình ), văn xuôi dân tộc thiểu số chính là thể
loại đã truyền tải được một cách đầy đủ, phong phú và cụ thể nhất những nét
đẹp về con người và thiên nhiên miền núi, về cuộc sống với bao sự đổi thay,
phát triển của miền núi. Hơn nửa thế kỉ tồn tại và phát triển, văn xuôi các dân
tộc thiểu số đã có những đóng góp quan trọng đối với nền văn học nước nhà.
Đây là mảng văn học có một sức hấp dẫn riêng, vừa độc đáo trong nội dung
phản ánh, vừa đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện. Cái làm nên nét riêng và sức
lôi cuốn cho văn học dân tộc thiểu số là ở thiên nhiên, con người và văn hóa
các dân tộc miền núi. Chính điều đó đã khiến "văn xuôi miền núi chiếm lĩnh
được một vẻ đẹp riêng, không thay thế được" [20]. Do đó, nghiên cứu văn xuôi
các dân tộc thiểu số qua hơn nửa thế kỉ phát triển sẽ góp một tiếng nói quan
trọng vào việc khẳng định những giá trị và thành tựu của văn xuôi nói riêng và
toàn bộ nền văn học thiểu số Việt Nam hiện đại nói chung.
Như đã biết, văn xuôi các dân tộc thiểu số được hình thành và phát
triển từ sau Cách mạng tháng Tám. Trước năm 1945, hầu như chưa có tác
phẩm văn xuôi nào của tác giả là người dân tộc thiểu số xuất hiện. Độc giả chỉ
biết về hình ảnh cuộc sống và con người vùng cao qua một số truyện đường
rừng của những nhà văn người dân tộc Kinh như Vàng và máu (1934) của
Thế Lữ, Truyện đường rừng (1940) của Lan Khai, Kon Trô (1942) của Lí
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

văn Sâm, Cô Dó (1943) của Nguyễn Tuân, Ngậm ngải tìm trầm (1943) của
Thanh Tịnh, Người sơn nhân của Lưu Trọng Lư Những tác phẩm viết về
miền núi giai đoạn này thu hút sự chú ý của người đọc bởi sự mới lạ, bí hiểm,
hoang đường, kì ảo của thiên nhiên xa xôi hoang dã với những hủ tục mông
muội, những phong tục tập quán kì lạ bí hiểm của những con người miền núi

còn chìm đắm trong u mê, lạc hậu. Trong nhận thức của các nhà văn thời đó
con người miền núi không tách rời với thế giới tự nhiên hoang sơ, kì bí. Nhà
nghiên cứu Lâm Tiến cho rằng trong truyện đường rừng của Thế Lữ và Lan
Khai người miền núi "chỉ được xuất hiện với hình dáng méo mó, xa lạ, bí
hiểm và kì quái, ngô nghê và man dại". Còn Nguyễn Long thì cho rằng con
người miền núi trong các tác phẩm của những nhà văn này "thường chỉ được
sống theo bản năng. Hành động của họ thường được mô tả là táo bạo, rùng
rợn. Ngay cả những phong tục tập quán của người dân tộc cũng được mô tả
như một cái gì hết sức kì quái hoặc là khủng khiếp, hoặc là mông muội". Viết
về con người miền núi, các nhà văn đó thường chỉ quan tâm đến miêu tả hành
động mà ít chú ý đến nội tâm nhân nhân vật. Theo họ, người miền núi sống sơ
giản nên tính cách, ngoại hình và hành động thống nhất với nhau, ít có nét
tâm lí phức tạp. Điều đó chưa thực sự chính xác nhưng dẫu sao những nhà
văn đó cũng là những người có công khai phá, mở đường cho văn xuôi viết về
đề tài dân tộc và miền núi đúng như nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Thiện từng
nhận xét: đó là "những đường cày đầu tiên xới lật một trong những nguồn
mạch phong phú của đời sống hiện thực, chứa đựng những nét đặc sắc của
văn học dân tộc".
Những năm đầu sau Cách mạng, văn xuôi viết về miền núi đã phát triển
mạnh và có một số tác phẩm đã đạt đến đỉnh cao. Có thể nói sự phát triển của
văn học viết miền núi giai đoạn này là một bước phát triển mới và kết tinh ở
một số cây bút xuất sắc người Kinh như: Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Ngọc
Với Nhật kí ở rừng Nam Cao giúp người đọc nhận ra rằng : "Người Mán họ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

chẳng có gì đáng sợ Họ chẳng giết ai, và cũng chẳng có gì là quái gở" [8].
Nhà văn đã phần nào thay đổi cái nhìn đối với miền núi trong tâm thức người
đọc. Người Mán cũng là những người tốt và tràn đầy tinh thần cách mạng.
Nhà phê bình Lâm Tiến nhận xét: "Với Nhật kí ở rừng, Nam Cao đã vẽ nên
một bức tranh tuy còn đơn giản nhưng rất chân thực, mới mẻ về con người,

cuộc sống của các dân tộc miền núi" [27, tr. 8].
Bên cạnh Nam Cao thì nhà văn Tô Hoài cũng là người mở đường xuất
sắc của văn xuôi cách mạng về miền núi. Tác phẩm của Tô Hoài phản ánh
ngày càng gần gũi hơn, chân thực hơn về cuộc sống và con người miền núi.
Đó là một miền núi đời thường, bình dị với những gam trầm. Với Truyện Tây
Bắc sự cảm nhận và khám phá con người, thiên nhiên miền núi có chiều sâu
hơn và Tô Hoài được đánh giá là "người đầu tiên có ý thức rõ ràng trong việc
tìm tòi hình thức diễn đạt con người, cuộc sống miền núi bằng những hình
tượng, ngôn ngữ mang dáng dấp của người dân tộc" [27, tr. 8].
Còn với nhà văn Nguyên Ngọc, ông đắm say và nhạy cảm cao độ trước
thiên nhiên và con người miền núi. Nguyên Ngọc nhận thấy giữa người miền
núi và thiên nhiên có một sợi dây rung cảm nối liền: "Khi một thứ hoa trắng
bắt đầu nở trên đỉnh núi Chư Krao lan dần xuống các sườn núi xanh biếc, và
các chị con gái tự nhiên nghe rạo rực trong ngực, thì biết đúng là mùa xuân
đã đến rồi" [35]. Với tiểu thuyết Đất nước đứng lên (1956) và truyện ngắn
Rừng xà nu (1965) có thể nhận thấy thiên nhiên và con người miền núi trong
sáng tác của Nguyên Ngọc thường mang tính chất phi thường, lí tưởng. Cảm
hứng về cái phi thường thấm vào nhiều phương diện, yếu tố - từ nhân vật đến
ngôn ngữ, từ cách miêu tả con người đến thiên nhiên miền núi
Có thể nói, những sáng tác của ba nhà văn trên đã thực sự mở ra một
thời kì mới cho “giai đoạn văn chương rừng núi” (Thế Phong) và góp phần
không nhỏ tới nhu cầu và cảm hứng sáng tác văn xuôi của các tác giả dân tộc
thiểu số, đánh dấu một bước tiến mới cho mảng văn học độc đáo và mới lạ này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Cách mạng tháng Tám đã mở ra con đường mới cho văn học các dân
tộc thiểu số. Trong khoảng mười năm đầu sau cách mạng, văn xuôi các dân
tộc thiểu số mới tồn tại ở dạng các mẩu chuyện, bản tin, tường thuật, phóng
sự, điều tra phục vụ cho sự nghiệp tuyên truyền cách mạng. Năm 1950, tác
phẩm văn xuôi đầu tiên có tính tự truyện: Cuộc đời của Đoàn của Bàn Tài

Đoàn ra đời. Đây là câu chuyện kể rất thực của Bàn Tài Đoàn, nhưng do lúc
đó, trình độ văn học còn hạn chế, tác giả nghĩ thế nào viết thế ấy nên ít có sự
chau chốt, chọn lọc về ngôn ngữ nên không thể coi đây là một tác phẩm văn
xuôi nghệ thuật đích thực.
Từ khi miền Bắc được giải phóng, các cây bút văn xuôi là người dân
tộc thiểu số dần xuất hiện nhiều hơn. Họ là những trí thức dân tộc được
trưởng thành dưới chế độ mới, họ yêu mến và tự hào về mảnh đất và con
người miền núi, muốn đóng góp tiếng nói tình cảm và tâm hồn mình vào nền
văn học nước nhà. Các tác phẩm văn xuôi viết về miền núi thời kì này xuất
hiện khá nhiều và bước đầu tạo được dấu ấn riêng. Có thể kể đến các tên tuổi
các nhà văn như: Nông Viết Toại (Tày), Nông Minh Châu (Tày), Triều Ân
(Tày), Vi Hồng (Tày), Hoàng Hạc (Tày), Lâm Ngọc Thụ (Tày), Vi Thị Kim
Bình (Tày), Y Điêng (Ê Đê), Vương Trung (Thái), Lò Văn Sĩ (Thái) Họ là
những nhà văn dân tộc thiểu số giàu tâm huyết và tài năng đồng thời họ có lợi
thế là có hiểu biết sâu sắc về dân tộc mình, về các phong tục tập quán, tư
tưởng, tình cảm, cách nghĩ, cách nói của người dân tộc thiểu số nên tạo
được thế mạnh trong cách miêu tả thế giới nhân vật, thế giới thiên nhiên cùng
cách diễn đạt bằng ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm. Sáng tác của họ luôn
bám sát công cuộc cách mạng của dân tộc, thể hiện sâu sắc tình cảm, ý chí
của người dân miền núi trong những ngày gian khổ, hi sinh nhưng cũng đầy
oanh liệt, oai hùng của dân tộc.
Sau năm 1954, các nhà văn người dân tộc thiểu số đã rất chú ý xây
dựng hình tượng con người dân tộc thiểu số mới làm chủ cuộc sống. Với
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

truyện ngắn Ché Mèn đi họp (1958) Nông Minh Châu - nhà văn dân tộc Tày
ở Bắc Kạn, đã xây dựng thành công hình ảnh con người dân tộc thiểu số mới
có tri thức, có ý thức vươn lên hướng tới khoa học, tiến bộ. Tác phẩm được
viết bằng tiếng Tày, sau dịch ra Tiếng Việt, được nhận giải Khuyến khích
cuộc thi Truyện ngắn của Tạp chí Văn nghệ, năm 1958. Đây được coi là tác

phẩm mở đầu, là mốc đánh dấu sự có mặt của văn xuôi các dân tộc thiểu số
như một thể tài, một mảng sáng tác độc đáo và mới lạ trong đời sống văn học
nước nhà. Trong Ché Mèn đi họp tác giả đã thể hiện rõ nét sự thay đổi sâu
sắc cách sống, cách nghĩ, cách làm của đồng bào các dân tộc thiểu số để phá
bỏ những tập tục cổ hủ, lạc hậu, mê tín dị đoan vươn lên xây dựng cuộc sống
mới, con người mới. Nhân vật Mèn là một cô gái Tày 18 tuổi đã tích cực học
chữ, dám nghĩ, dám làm để thay đổi những thói quen lạc hậu của đồng bào
mình để có ngày cô được bước ra khỏi làng – điều mà nhiều người phụ nữ
dân tộc thiểu số trong đó có cả mẹ cô chưa bao giờ có được, làm được. Ché
Mèn có thể coi là hình tượng người phụ nữ mới đầu tiên trong văn xuôi dân
tộc thiểu số. Ché Mèn đi họp dẫu còn chút vụng về trong ngôn ngữ nhưng đã
mang dáng dấp của một truyện ngắn hiện đại. Sau tác phẩm này, hàng loạt
cây bút là người dân tộc đã tự tin lao động và sáng tạo, cày xới trên chính
mảnh đất văn chương quê mình, cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị như: Bên
bờ suối tiên của Triều Ân, Cuộn chỉ màu hạt đỗ của Lâm Ngọc Thụ, Đặt tên
của Vi Thị Kim Bình, Ké Nàm của Hoàng Hạc, Đoạn đường ngoặt của Nông
Viết Toại, Đặc biệt là sự đóng góp của nhà văn, nhà giáo người dân tộc Tày
- Vi Hồng với hàng loạt các tác phẩm tiêu biểu như các truyện ngắn Ngôi sao
trên đỉnh núi Phja Hoàng, Cây su su noọng Ỷ, Nước suối tiên đào Các tác
phẩm của ông đều gắn với hiện thực của cuộc sống kháng chiến và con người
vùng núi cao với tình cảm trừu mến, ngợi ca, với niềm tin vào sức sống tiềm
tàng, âm thầm mà mãnh liệt trong tâm hồn những con người vùng núi cao.
Nhà văn dân tộc Tày - Triều Ân cũng góp cho mảng văn học này một nét
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

riêng khi ông tập trung cho người đọc thấy được nỗi thống khổ của người dân
bị những hủ tục, mê tín dị đoan bao đời đè nặng qua các tác phẩm như Bên bờ
suối tiên, Chặt cổ rồng, Đường qua đèo mây
Với nhận thức văn học phản ánh hiện thực cuộc sống và phục vụ cho
các nhiệm vụ văn hóa, chính trị, xã hội của vùng đồng bào dân tộc miền núi,

văn học dân tộc thiểu số thời kì này luôn bám sát chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể. Truyện ngắn và kí ra đời trong
thời kì này đã phản ánh những biến đổi kì diệu trong đời sống các dân tộc
thiểu số, nếu như trước đây họ bị kìm hãm, chia rẽ, đầy đọa thì nay họ đã
đoàn kết lại trong đại gia đình Việt Nam để cùng nhau xây dựng đất nước,
xây dựng cuộc sống mới, với từng công việc cụ thể như: xây dựng hợp tác xã
nông nghiệp, xây dựng công trình thủy điện, làm thủy lợi, chống mê tín, dị
đoan, chống bảo thủ, lạc hậu, chống tham ô Có thể nhận thấy đây là thời kì
phát triển nở rộ của thể loại này. Từ cuối những năm 60 trở đi, hàng loạt
tuyển tập truyện ngắn và kí của các tác giả dân tộc thiểu số liên tiếp ra đời
góp phần khẳng định vị trí của văn xuôi dân tộc thiểu số trong nền văn học
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện
đại nói chung. Có thể kể đến những tuyển tập như: Ké Nàm của nhiều tác giả
(1965); Tiếng hát rừng xa của Hoàng Hạc, Triều Ân (1969); Mây tan của
nhiều tác giả (1973); Tiếng chim gô của Nông Minh Châu (1979); Niềm vui
của Vi Thị Kim Bình (1979); Tiếng khèn A Pá của Triều Ân (1980); Cột mốc
giữa lòng sông của Mã A Lềnh (1981); Những bông ban tím của Sa Phong
Ba (1982); Hạt giống mới của Hoàng Hạc (1983); Chiếc vòng bạc của Lò
ngân Sủn (1987); Người tạc tượng nhà mồ của nhiều tác giả (1988), Đƣờng
qua đèo mây của Triều Ân (1988), Đuông Thang của Vi Hồng (1988); Xứ
lạ Mường trên của Hoàng Hạc (1989) Có thể thấy rằng chưa bao giờ
truyện ngắn và kí được xuất bản nhiều như trong thời kì này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu

Từ khoảng những năm 60 trở đi, bên cạnh thể loại truyện ngắn và kí đã
xuất hiện thể loại tiểu thuyết. Muối lên rừng của Nông Minh Châu được coi
là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn học dân tộc thiểu số. Và phảỉ đến 14 năm
sau, cuốn tiểu thuyết thứ hai của văn học dân tộc thiểu số mới ra đời. Đó là
tác phẩm Hơ Giang của Y Điêng (dân tộc Ê Đê). Tiếp đó là những tiểu thuyết
của nhà văn người dân tộc Tày - Vi Hồng. Trong khoảng năm năm, Vi Hồng

đã cho ra đời ba cuốn tiểu thuyết, đó là: Đất bằng (1980); Núi cỏ yêu thương
(1984); Thung lũng đá rơi (1985).
Từ sau năm 1975, văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển một bước mới.
Đội ngũ các tác giả là người dân tộc thiểu số đông đảo hơn và thành tựu sáng
tác cũng rực rỡ hơn. Thời kì này văn xuôi dân tộc thiểu số phát triển mạnh về
số lượng cũng như chất lượng ngày càng khẳng định được vai trò, vị trí cũng
như tầm vóc của mình trong nền văn học dân tộc. Ở giai đoạn này, có thể
nhận diện nền văn xuôi các dân tộc thiểu số một cách rõ ràng và khẳng định
nó như một bộ phận riêng, độc đáo trong đời sống văn học Việt Nam hiện đại.
Đội ngũ các nhà văn người dân tộc thiểu số tăng lên đáng kể. Đặc biệt là các
nhà văn người dân tộc Tày. Bên cạnh những cây bút đã có đóng góp từ thời
kháng chiến chống Mĩ như: Ma Trường Nguyên, Triều Ân, Vi Hồng, Hà Lâm
Kì, Vi Thị Kim Bình, Mã A Lềnh, Hà Lí, Kim Nhất, Hà Thị Cẩm Anh, Kha
Thị Thường còn có những cây bút trẻ như: Hữu Tiến, Đoàn Lư, Cao Duy
Sơn, Hoàng Hữu Sang, Sa Phong Ba, H'Linh Niê, Niê Thanh Mai,
Hầu hết các sáng tác của các nhà văn dân tộc thiểu số trong những năm
đầu đất nước hòa bình đều phản ánh công cuộc xây dựng đời sống mới ở vùng
cao. Nổi bật hơn cả là nhà văn Vi Hồng với hàng loạt những tác phẩm có giá
trị. Với sự hiểu biết sâu sắc về con người, thiên nhiên miền núi, phong tục tập
quán của người dân tộc Tày nhà văn Vi Hồng muốn gửi thông điệp kêu gọi
con người yêu thương cái đẹp, cái thiện, xóa bỏ tàn dư, diệt trừ cái ác, cái lạc
hậu, cái lỗi thời. Với tập truyện Niềm vui (1979) nhà văn Vi Thị Kim Bình

×