Mở đầu
------***-------
Tìm hiểu sự phát triển của kinh tế hàng hoá ở Việt Nam dới thời
phong kiến là một trong những vấn đề quan trọng của lịch sử để góp phần
làm rõ quá trình hình thành chủ nghĩa t bản ở Việt Nam. Nền kinh tế hàng
hoá ở Việt Nam đã xuất hiện trớc thế kỉ X có thể từ thời đại Hùng Vơng và
cả thời kì Bắc thuộc và chống Bắc thuộc nhng cho đến nay do hạn về t liệu
hiện có thì nền kinh tế hàng hoá Việt Nam thực sự hình thành với các đặc
trng đầy đủ của nó là vào đầu thế kỉ X - thời kì độc lập. Trải qua thời Lý
Trần nền kinh tế hàng hoá Việt Nam đã phát triển đến một mức độ nhất
định. Đặc biệt ở các thế kỉ XVII - XVIII, trong khi Đại Việt bị chia cắt
thành Nam- Bắc triều rồi Đàng Trong - Đàng Ngoài thì trên thế giới có
nhiều biến động mới. Sự phát triển của công thơng nghiệp ở Tây Âu dẫn
đến sự kiện phát kiến lớn về địa lý, thơng nhân Châu Âu bắt đầu mở rộng
buôn bán với các nớc Phơng Đông. Đồng thời thơng nhân các nớc Đông á
nh Trung Quốc, Nhật bản, Inđônêxia. Cũng hoạt động rầm rộ; vì vậy hình
thành sự giao lu buôn bán quốc tế giữa Đại Việt và các nớc xung quanh.
Nhu cầu hàng hoá tăng lên. Tác động nhiều mặt của nông nghiệp cũng tạo
điều kiện thuận lợi cho sản xuất thủ công và trao đổi buôn bán. Nền kinh tế
công thơng nghiệp đại Việt chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, nền
kinh tế hàng hoá Việt Nam có sự khởi sắc.
Việc tìm hiểu sự phát triển kinh tế hàng hoá Việt Nam là một vấn đè
phức tạp của lịch sử nớc ta. Phạm vi của nó cũng rất rộng. Vì muốn nghiên
cứu vấn hình thành chủ nghỉa t bản ở Việt Nam phải nghiên cứu sự hình
thành và lịch sử phát triển của kinh tế hàng hoá Việt Nam, tìm những đặc
trng của nó, tìm hiểu quy luật của nó. Đồng thời phải giải quyết vấn đề
quan trọng khác là vì sao chủ nghĩa t bản đã chậm xuất hiện ở Việt Nam
Vấn đề phức tạp lại rộng nh vậy cho nên với khả năng có hạn của cá nhân
và phạm vi bài tập điều kiện nên không thể giải quyết hết đợc. Vậy nên
thông qua bài tập điều kiện bản thân chỉ giới hạn trong việc tìm hiểu về sự
phát triển của kinh tế hàng hoá Việt Nam thế kỉ XVII - XVIII và đa ra
những nhận định chủ quan mang tính chất kế thừa thông qua tài liệu tham
khảo.
1
Nội dung
======***======
I. Cơ sở lý luận và những diều kiện phát triển kinh tế hàng
hóa các thế kỷ XVI - XVIII:
Theo quan điểm của nhiều sử gia, thì việc trao đổi có từ rất sớm trong
lịch sử khi trong xã hội đã có sự phân công lao động giữa bộ lạc trồng trọt
và bộ lạc chân nuôi, khi mà chế độ t hữu đã nẩy sinh trong lòng thị tộc, khi
mà chế độ t hữu đã nẩy mầm trong lòng thị tộc. Tuy nhiên phải đến khi có
sự phân công giữa lao động nông nghiệp và thủ công nghiệp, giữa thành thị
và nông thôn thì nền kinh tế hàng hoá mới phát triển và phồn thịnh lên đợc.
Vì rằng chỉ khi nào mà sức sản xuất nông nghiệp phát triển cho phép nghề
phụ có thể tách khỏi nông nghiệp mà phát triển độc lập. Dần dần thợ thủ
công tập trung ở thành thị, thành thị trở thành nơi tập trung của thơng nhân,
nơi chuyên sản xuất các các sản phẩm thủ công còn nông thôn thì chuyên
sản xuất các sản phẩm của nông nghiệp. Giữa nông nghiệp và thủ công
nghiệp, giữa thành thị và nông thôn thờng xuyên có sự trao đổi với nhau.
Thành thị cần bán các sản phẩm của thủ công cho nông thôn, mua của
nông thôn thòng xuyên thực phẩm và các nguyên vật liệu thủ công và ngợc
lại nông thôn cũng có những cái cần bán cho thành thị và mua của thành
thị. Có trao đổi giữa thành thị và nông thôn thì nông phẩm trở thành hàng
hoá thờng xuyên trao đổi trên thị trờng nh sản phẩm thủ công. Khi nông
phẩm trở thành hàng hoá, khi nông thôn bị cuốn vào quan hệ trao đổi thì
quy luật giá trị cũng bắt đầu tác động trong nông nghiệp. Trong nông thôn
bắt đầu có sự phân hoá tài sản, giàu nghèo, do đó có hiện tợng mua bán
ruộng đất. Vấn đề này đợc Angghen nêu lên trong cuốn Nguồn gốc gia
đình, chế độ t hữu tài sản và nhà nớc nh sau:
Thứ nhất: Tiền bằng kim khí xuất hiện và theo đó t bản tiền tệ cho
vay lãi và tín dụng cùng xuất hiện.
Thứ hai: Xuất hiện giai cấp thơng nhân môi giới giữa những ngời sản
xuất.
Thứ ba: Có chế độ t hữu về ruộng đất và cầm cố ruộng đất.
2
Thứ t: Lao động của nô lệ trở thành chính thức chi phối nền kinh tế.
ở đây Angghen nói đến sự xuất hiện kinh tế hàng hoá trong xã hội
nô lệ khi mà chế độ công xã nguyên thuỷ tan rã. Tuy nhiên trừ điểm thứ t ra
thì các điểm trên là đặc trng chung của nền kinh tế hàng hoá dù nó xuất
hiện trong bất cứ hoàn cảnh nao? Chắc chắn là kinh tế hàng hóa Việt Nam
đã xuất hiện từ rất sớm, từ thời Bắc thuộc và có thể còn xa hơn nữa, từ thời
Hùng Vơng. Các th tịch cổ cho biết từ thời Bắc thuộc, việc trao đổi buôn
bán trong nớc và với nớc ngoài, nhất là với Trung Quốc khá phát triển.
Hàng hóa bán ra nớc ngoài chủ yếu là hơng liệu, lâm sản quý, vải, gấm,
giấy bản, đờng. Hàng hóa nhập vào gồm nhiều chủng loại nhng đa số là
hàng xa xỉ phẩm, phục vụ bọn quan lại đô hộ và tầng lớp quý tộc giàu có.
Nhng một nền kinh tế hàng hóa với những đặc trng đầy đủ của nó
thực sự hình thành vào thời kỳ độc lập, từ thế kỷ X trở đi. Các vơng triều
đều rất quan tâm và có nhiều chính sách phát triển nông nghiệp, nh chú
trọng công tác trị thủy, cấm giết trâu, thực hiện chính sách quân điền,
khuyến khích khai khẩn đất hoang Tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp
phát triển. Đặc biệt dới thời Lý -Trần đã có chế độ t hữu về ruộng đất, có
việc mua bán, cầm cố ruộng đất do đó tầng lớp địa chủ đã xuất hiện. Trên
cơ sở quyền sở hữu ruộng đất của mình họ có thể tự do sử dụng sản phẩm
mình kiếm đợc hoặc bóc lột đợc, sau khi đã nộp thuế cho nhà nớc. Do đó
các tầng lớp này tích lũy đợc nhiều tiền của, có khả năng tiêu thụ hàng hóa
trên thị trờng. Chính vì thế nền kinh tế hàng hóa có thể phát triển sớm dới
thời Lý - Trần.
Nông nghiệp phát triển đã tạo khả năng cho một số nghề thủ công
thoát ly một phần khỏi nông nghiệp để phát triển độc lập, mặt khác do đời
sống đã đựoc cải thiện phần nào nên nhu cầu hàng hóa của nông dân cũng
tăng lên. Đến thế kỷ XIV, XV các tài liệu đã nói đến các làng chuyên môn
về thủ công và các sản phẩm thủ công trao đổi trên thị trờng, đặc biệt là
gốm, dệt, rèn sắt, đúc đồng, làm giấy và khắc bản in, nghề mộc, khai
khoáng
Việc buôn bán trong nớc và với nớc ngoài ngày càng phát triển. Hình
thành hệ thống chợ ở đồng bằng sông Hồng, có lẽ mỗi huyện cũng có vài
chợ phục vụ việc buôn bán trong vùng. Sứ nhà Nguyên là Trần Phu có viết:
3
"Trong các xóm làng thờng có chợ, cứ hai ngày họp một phiên, hàng hóa
trăm thứ bày la liệt. Hễ cứ năm dặm thì dựng một ngôi nhà ba gian, bốn
phía đặt chõng để làm nơi họp chợ". Các thành thị, thơng cảng khá phát
triển nh thành Thăng Long là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa lớn
nhất Đại Việt lúc bấy giờ, thơng cảng Vân Đồn là thơng cảng lớn nhất, là
trung tâm buôn bán lớn với ngời nớc ngoài. Các hoàng đế Đại Việt thời Lý -
Trần đều có đúc tiền để thuận tiện cho việc lu thông hàng hóa.
Những biểu hiện trên cho thấy vào thời Lý - Trần, đặc biệt là thời
Trần, vào khoảng thế kỷ XIII - XIV nền kinh tế hàng hóa đã phát triển tới
một mức độ nhất định. Kinh tế hàng hoá phát triển khiến cho chế đọ t hữu
ruộng đất phát triển, và chế đọ t hữu ngày càng phát triển thì càng thúc đẩy
nền kinh tế hàng hoá phát triển theo. Đến thời Lê Sơ điểm nổi bật là sự phát
triển của chế độ t hữu về ruộng đất.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Minh, nhà Lê lập tức bắt
tay vào phục hồi nền kinh tế bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng. Các chính
sách về ruộng đất, các biện pháp bảo vệ và khuyến khích nông nghiệp Mà
chính sách đầu tiên phải kể đến về kinh tế mà nhà Lê thực hiện là chính
sách quân điền. Đó là một chính sách nhằm phát triển về chế độ t hữu về
ruộng đất. Chính sách quân điền có tác dụng làm cho quan lại các cấp đợc
một số ruộng đất sở hữu vĩnh viễn của mình, do đó hàng ngũ địa chủ lại
đông đảo thêm, đồng thời nông dân cũng đợc thêm nhiều ruộng đất, làm
cho hàng ngũ nông dân t hữu cũng tăng lên. Tình hình này cộng với chế độ
t hữu về ruộng đất do nền kinh tế hàng hoá phát triển dới thời Trần đã làm
cho chế độ ruộng đất nửa thế kỉ XV phát triển hơn trớc.
Cùng với chế độ t hữu về ruộng đất nửa đầu thế kỉ XV là sự tăng tiến
về diện tích trồng trọt, hàng nông phẩm lu thông trên thị trờng ngày càng
nhiều hơn trớc, tạo điều kiện cho thủ công nghiệp hoàn toàn thoát ly khỏi
nông nghiệp và phát triển mạnh. Số lợng phờng thủ công tăng lên, các trung
tâm buôn bán nhỏ trong nớc cũng tăng nhiều hơn trớc. Nhà nớc cũng rất
chú trọng tới việc đúc tiền và thống nhất đơn vị đo lờng, ban hành những
quy định về thống nhất tiền tệ. 1475, vua Lê Thánh Tông ban hành các mẫu
cân, thớc, thủng, đấu theo thể thức của nhà nớc và còn trừng trị nghiêm
khắc những ngời không tuân theo. Năm 1427 Thánh Tông cũng quy định
mẫu, sào, thớc. Tất nhiên những quy định thống nhất đo lờng trên đây trớc
4
hết vì nhu cầu thu thuế của nhà nớc, nhng nó cũng phản ánh nhu cầu phát
triển của nền kinh tế hàng hóa lúc đó.
Thăng Long vẫn là nơi tập trung buôn bán lớn nhất cả nớc, dân các
nơi về đây tụ tập làm ăn ngày càng đông đến nỗi chức quan cai quản phủ
Phụng Thiên sợ, lệnh đuổi hết họ về nguyên quán. Năm 1481, tả trung doãn
Quách Đình Bảo phải dâng sơ tâu xin vua bỏ lệnh đó và đã đợc Lê Thánh
Tông chấp nhận. Ngoại thơng cũng phát triển hơn trớc.
Sự phát triển của kinh tế hàng hóa lại tác động trở lại đến sản xuất
nông nghiệp, làm cho quá trình phân hóa ruộng đất hết sức mau chóng, chế
độ t hữu về ruộng đất đặc biệt phát triển vào thế kỷ XV. Tình trạng cớp
đoạt, tranh tụng, mua bán ruộng đất vào nửa sau thế kỷ XV dới triều Lê
Thánh Tông là rất phổ biến. Bộ luật Hồng Đức đã dành một phần quan
trọng để quy định về việc này.
Nh vậy là những điều kiện cần thiết cho nền kinh tế hàng hóa có thể
phát triển đợc đã xuất hiện đầy đủ vào thế kỷ XV. Trải qua các thế kỷ XVI -
XVII - XVIII do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt, dới sự kích thích của ngoại th-
ơng, kinh tế hàng hóa lại phát triển mạnh hơn trớc.
Trớc thế kỉ XVI từng có thơng nhân Trung Quốc hoạt động trên đất
nớc ta. Đầu thế kỉ thứ XVI Số lợng thơng nhân Trung Quốc ngày càng
nhiều thêm. Cùng với thơng nhân Trung Quốc còn có thơng nhân Nhật Bản,
Bồ Đào Nha, Anh, Pháp, Hà Lan...Hàng năm thuyền buôn ngoại quốc ra vào
kẻ chợ Phố Hiến hay Hội An rất nhiều, tiền thu đợc từ các thuyền buôn
ngoại quốc là rất lớn.
Với sự kích thích của ngoại thơng, trên cơ sở có sẵn của nền sản xuất
hàng hoá thế kỉ XV dới thời Lê Mạt nhất là vào đầu thế kỉ XVII kinh tế
hàng hoá Việt Nam đặc biệt phồn thịnh.
II. Những biểu hiện của sự phát triển của kinh tế hàng hóa
trong các thế kỷ XVI - XVII - XVIII:
5
1 - Số lợng nghề thủ công, thợ thủ công chuyên môn hóa và các
làng chuyên môn xuất hiện ngày càng nhiều.
Kế tục truyền thống của các triều đại trớc, nhà Lê- Trịnh và chúa
Nguyễn đều thành lập các công xởng thủ công phục vụ nhu cầu của nhà n-
ớc. Chúa Trịnh Lập nhiều xởng thủ công lớn ở Đàng Ngoài nh đúc tiền
riêng, đóng thuyền các loại ở Đàng Trong chúa Nguyễn lập nhiều xởng
đóng thuyền ở các nơi, làm đồ trang sức...Hoàn cảnh mới của đất nớc đã
làm tăng nhu cầu về hàng thủ công. Khắp các làng xã, đâu đâu cũng hình
thành những nghề thủ công, những thợ thủ công chuyên làm các nghề rèn,
mộc, nề, dệt Sử cũ cho ta biết hồi đó các nghề thủ công rất đa dạng nh :
Nghề làm các đồ kim khí nh nghề rèn, chế tạo công cụ hay đúc súng; thợ
khóa; thợ thiếc làm chóp nón, quai ấm; thợ bạc làm các đồ trang sức nh
khuyên, dây sà tích, vòng, nhẫn Nghề làm gốm, nghề đúc sành phát triển
với nhiều sản phẩm nh nồi, chum, vại, bát đĩa, gạch tráng men, bình hao,
chân đèn Nghề dệt vải lụa, kéo tơ với các sản phẩm phong phú, đa dạng
nh lụa trắng, lụa vàng, the, lĩnh, lợt, luạ hoa, sồi, nhiễu, đoạn, vải nhỏ, vải
trắng, vải hoa, vải thô, vải sợi đôi, vải sợi ba Nghề làm đồ gỗ, nghề làm
giấy và khắc bản in, nghề làm chiếu, nghề thuộc da, nghề làm đờng, nghề
làm quạt, lọng, nghề sơn, nghề làm hơng, nghề nhuộm, làm nón,nghề đúc
đồng, khảm trai, chạm vàng bạc Cũng tăng c ờng hoạt động, sản xuất ra
nhiều mặt hàng khác nhau, phục vụ cuộc sống.
Nghề làm gốm: Vốn là một nghề truyền thống, phát triển ở nhiều nơi
trong nớc và nổi lên các làng gốm danh tiếng nh Bát Tràng, Thổ Hà, Hơng
Canh, Vân Đình, Đình Trung, Hàm Rồng, Phù Lãng, Mỹ Thiện, Phú Khang,
Biên Hòa Số l ợng và chất lợng các sản phẩm gốn tăng lên rất nhiều, hình
ảnh trang trí trên các dồ gốm ngày càng tinh xảo, đẹp mắt, men có nhiều
màu, nhiều loại. Bát đĩa sứ, gốm tráng men của ngời Việt trở thành một
hàng hóa rất đợc thơng nhân nớc ngoài a chuộng, thậm chí dùng làm mẫu
cho nghề gốm nớc mình.
Nghề kéo tơ dệt lụa: Hầu hết các làng đều có nghề kéo tơ dệt lụa.
Giáo sĩ A. đơ Rốt nhận xét "Đàng Trong rất nhiều tơ, nhân dân dùng cả tơ
để làm lới đánh cá", thơng nhân Bori cũng viết, ở Đàng Trong "có rất nhiều
tơ lụa, đến nỗi những ngời lao động và hạ lu dùng thờng xuyên, hàng ngày".
6
ở Đàng Ngoài, nổi tiếngcác làng La, "Hà Tây quê lụa", các xã Hạ Hội,
Thiên Mỗ, Y La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt lụa, trìu, lĩnh, là.
Thăng Long và Phú Xuân là hai trung tâm dệt truyền thống với các phờng
Yên Thái, Bởi, Trích Sài,Trúc Bạch, Nghi Tàm, Thành Công và Sơn Điền,
Dơng Xuân, Vạn Xuân "Thăng Hoa, Điện Bàn biết dệt vải lụa, vóc,
đoạn, lĩnh, là hoa, màu khéo đẹp không kém Quảng Đông". Khối lợng
sản xuất lớn, mặt hàng vải lụa gồm nhiều loại: Lụa trắng lụa vàng the, lĩn,
lụa hoa, sồi, nhiễu...
Nghề làm đờng: Phát triển rộng ở các thế kỉ XVII- XVIII, mía đợc
trồng ở nhiều nơi, nhân dân dùng trâu bò kéo máy ép và lò nấu đ ờng, nấu
mật àm đờng hay làm mật.Đặc biệt phát triển ở Đàng Trong nh châu Xuân
Đài, xã Đông Phiên (Quảng Nam), Quảng Ngãi. Hàng năm nhà chúa đẫ thu
15.922 cân đờng phên, 7690 cân đờng cát thuế của Xuân Đài..
Nghề rèn: Phổ biến ở nhiều nơi, chủ yếu để phục vụ nhu cầu chế tạo
công cụ sản xuất hay vật dụng gia đình của nhân dân. Các làng nổi tiếng có
Lỗ Xá, Cẩm Đờng (Hải Dơng), Dị Sử, Bạch Sam (Mỹ Văn - Hng Yên), đa
Hội (Đông Anh - Hà Nội), Vân Chàng (Nam Hà), Nho Lâm (Nghệ An),
Trung Lơng (Hà Tĩnh), Hiền Lơng, Phú Bài (Thừa Thiên) Một số thợ rèn
đã phát triển nghề mình lên thành nghề đúc súng và đợc nhà nớc trng dụng.
Nghề làm giấy: Cũng phát truển rộng khắp vào các thế kỷ XVII -
XVIII. Các làng Phù Định, Yên Thái (Hà Nội), Đốc Sở (Thừa Thiên), Châu
Khê (Bắc Ninh), Đại Phú (Quảng Bình) Ng ời ta sản xuất đợc các loại giấy
khác nhau: giấy bổi, giấy lệnh, giấy trung, giấy vàng, giấy lục lộ, giấy
thanh dơng, giấy moi
Công việc khai thác hầm mỏ thời kỳ này phát triển nhanh chóng, đặc
biệt ở Đàng Ngoài nh mỏ đồng ở Tụ Long (Tuyên Quang), Tống Tinh, Vụ
Nông, Sảng Mộc, Liêm Tuyền (Thái Nguyên), Trình Lạn, Ngọc Uyển (Hng
Hóa), Hoài Viễn (Lạng Sơn) Mỏ bạc ở Nam X ởng, Long Sinh (Hà
Giang), Mỏ vàng ở Kim Mã, Tam Lộng (Thái Nguyên), rải rác ở một số
tỉnh Đàng Trong nh Thừa Thiên, Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam. Mỏ kẽm
ở Côn Minh (Thái Nguyên), Mỏ thiếc ở Vụ Nông (Thái Nguyên), mỏ sắt ở
Phú Bài (Thừa Thiên), Bố Chính (Quảng Bình) Kim lọại khai thác đ ợc trở
thành một nguồn lợi cho thơng nhân, phục vụ cho việc phát triển một số
7
ngành thủ công nghiệp nh đúc tiền, đúc súng đạn, làm đồ trang sức và các
vật dụng hàng ngày của nhân dân. Mặt khác, do tính chất công việc, ở
những nơi khai mỏ đã hình thành một phơng thức sản xuất tập trung, thuê
mớn có tính t nhân.
Nhìn chung, thủ công nghiệp nhân dân ở các thế kỷ XVI - XVIII vừa
mở rộng, vừa phát triển, đáp ứng ở một mức độ nhất định nhu cầu của nhân
dân trong nớc và nhu cầu của thơng nhân nớc ngoài, đi sâu hơn vào nền
kinh tế thị trờng có tính quốc tế.
2 - Trung tâm trao đổi hàng hoá nhiều hơn trớc. Hàng hoá lu
thông cũng tăng lên.
Thế kỷ XVI - XVIII chứng kiến một thời kỳ phát triển khá rầm rộ của
thơng nghiệp . Một mặt do nhu cầu thoát thỏi sự gò bó của nông nghiệp
cũng nh do sự phát triển t thân của nó, do điều kiện dao thông đi lại thuận
lợi hơn trớc, do nhu cầu của cuộc sống hàng ngày tăng lên nên s chao đổi
hàng hóa ngày càng cần thiết .
Mặt khác sự hình thành của luồng dao lu buôn bán quốc tế tác động
mạnh mẻ đến các vùng lâu nay xa cách dóng kín, và làm cho nhu cầu hàng
hóa đặc sản địa phơng tăng lên không ngừng. Bên cạnh đó một thời nhà
thanh thực hiện bế quan tỏa cảng buộc các thơng nhân Trung Quốc cung
nh thơng nhân nơc ngoài khác phải dồn sang Việt Nam Tất cả nh ng điều
đó vừa làm cho việc buôn bán với nớc ngoài phát triển vừa làm cho nội th-
ơng thêm nhộn nhịp .
* Buôn bán trong nớc: Các chợ ở địa phơng mọc lên khắp nơi, hầu nh
mỗi làng đều có chợ hoặc các cụm làng chia phiên trong tuần để họp chợ. Mỗi
huyện có khoảng 14- 22 chợ làng, chợ chùa, chợ huyện, các làng thủ công
chuyên nghiệp thờng có chợ riêng. Nhiều chợ lớn nổi tiếng trong vùng nh chợ
Lim, chợ Nành, Châu Cầu, Bình Vọng, Phơng Đình, Bí Giang, Lâm Xá, Trạo
Hà, An Lâm là nơi ngời và hàng hóa tụ họp đông đú ', phố Kỳ Lừa buôn
bán đông đúc , chợ Gia Hội, chợ An Cựu, Đại Lộc, Diên Sinh , Trà Quang, An
Thái, Vĩnh Thế, Phú Thịnh, Yên Lơng, chợ Phủ Thiên Trờng, chợ Côi Sơn, chợ
Kỳ Bố, Hội Xuyên, Đông Am, Hàm Giang, Đại Phúc, Phú Xá, Ba Đồn, chợ
Nghèn, chợ Cày, chợ Vực, chợ Nài, chợ Vĩnh, Đô Lơng, Sóc, Bảo Lân, Dơng
8