Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến xuất khẩu hàng hóa của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.39 KB, 83 trang )

ĐỀ TÀI: “Đánh giá tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới đến xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam”
MỤC LỤC
1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
APEC
ASEAN
BOE
CIF
CHLB
CN
ECB
EU
FDI
FED
FOB
FTA
GDP
G20
IMF
ILO
OECD
USD
UTZ
VND
WTO
XTTM
4C
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Ngân hàng Trung ương Anh


Phương thức vận tải CIF( giá thành, bảo hiểm và cước)
Cộng hòa liên bang
Công nghiệp
Ngân hàng Trung ương châu Âu
Liên minh châu Âu
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Cục dự trữ Liên Bang Mỹ
Phương thức vận tải giao hàng lên tàu
Khu vực mậu dịch tự do
Tổng sản phẩm quốc nội
Nhóm các nền kinh tế lớn
Quỹ tiền tệ quốc tế
Tổ chức lao động thế giới
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
Đô la Mỹ
Chương trình chứng nhận cà phê toàn cầu
Đồng Việt Nam
Tổ chức thương mại thế giới
Xúc tiến thương mại
Hiệp hội cộng đồng cà phê lợi ích chung
2
DANH MỤC CÁC BẢNG
Other Authorities
Bảng 1.1 Giá cả và thương mại thế giới 21
Bảng 2.1 Giá trị xuất khẩu hàng hóa từ năm 2000 đến năm 2007 26
Bảng 2.10 Xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN giai đoạn 2007 - 2010 47
Bảng 2.2 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu từ năm 2005 – 2007 ( %) 28
Bảng 2.3 Cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2005 – 2007(%) 30
Bảng 2.4 Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam giai đoạn 2008 - 2010.32
Bảng 2.5 Cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu từ năm 2008 – 2010 (%) 35

Bảng 2.6 Tỷ trọng các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam 37
Bảng 2.7 Thống kê kim ngạch, tốc độ tăng/giảm kim ngạch xuất khẩu, nhập
khẩu và cán cân thương mại hàng hóa giữa Việt Nam – Hoa Kỳ giai đoạn
2005 - 2009 39
Bảng 2.8 Xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ 2008 - 2010 40
Bảng 2.9 Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản từ năm 2005 đến 2010 42
Bảng 3.1 Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản 62
DANH MỤC CÁC HÌNH VÀ SƠ ĐỒ
Cases
Hình 1.1 Diễn biến tỉ lệ lạm phát tại các quốc gia có thu nhập thấp, trung bình và
cao 24
Hình 2.1: Thương mại với Trung Quốc giai đoạn 2007 -2010 45
Hình 2.2: Chỉ số tiêu dùng của người dân Mỹ từ 7/2007 đến 7/2010 49
Hình 3.1: Dự báo tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu một số nước trên thế giới
giai đoạn 2010 – 2015 60
3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế và tự do hóa thương mại đòi
hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và
khu vực. Hội nhập vào nền kinh tế thế giới cho phép Việt Nam tận dụng được thị
trường thế giới to lớn, thu hút được vốn, nắm bắt được công nghệ kĩ thuật và
quản lý tiên tiến, từng bước tạo một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp với
nhu cầu phát triển công nghiệp hiện đại. Trong những năm gần đây, mức độ hội
nhập của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế thế giới ngày càng sâu sắc. Đặc
biệt, năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới
WTO, cùng với việc hội nhập đa phương, Việt Nam đã đàm phán và kí kết các
hiệp định thương mại tự do song phương với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
trong khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, xuất khẩu hàng hóa của

Việt Nam đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Theo
số liệu thống kê, tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu trên GDP đã tăng liên tục từ mức
khoảng 30% vào đầu những năm 1990 lên đến 70% vào năm 2010.
Hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng đồng nghĩa với việc nền
kinh tế Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào nền kinh tế thế giới. Khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 mà xuất phát điểm là khủng hoảng tài chính Mỹ đã có
những tác động không nhỏ đến nền kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là đối với khu
vực xuất khẩu. Bên cạnh những thành tựu ấn tượng đã đạt được, thì xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam sau khủng hoảng cũng bộc lộ những yếu điểm có tính
chất chiến lược buộc chúng ta phải có những quyết sách đúng đắn để đặt nền
móng cho xuất khẩu bền vững giai đoạn 2011- 2015. Nhận thức được tác động
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến xuất khẩu hàng hóa của Việt
Nam và những thách thức của xuất khẩu trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều
diễn biến phức tạp, em đã mạnh dạn chọn đề tài “Tác động của khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008 đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam” làm khóa luận
tốt nghiệp.
4
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu nhằm đưa ra những cái nhìn tổng quát, những phân
tích, nhận định đánh giá về những tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới
năm 2008 đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra những
giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sau khủng hoảng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam.
 Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung: Những tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới năm
2008 đến xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trước và
sau khủng hoảng năm 2008 và các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa cho

giai đoạn 2011 – 2015.
Phạm vi về không gian: Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trên toàn thế giới.
Phạm vi của giải pháp đề xuất: Giải pháp vĩ mô và vi mô.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận, đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
như sau:
• Phương pháp thống kê, so sánh và dự báo.
• Phương pháp phân tích, tổng hợp và kết hợp giữa phân tích và tổng
hợp.
5. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về khủng hoảng kinh tế và những tác động của khủng
hoảng kinh tế.
Chương II: Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đến xuất
khẩu hàng hóa của Việt Nam.
Chương III: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam trong
những năm sắp tới.
5
6
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
1.1 Quan niệm, phân loại và tác động của khủng hoảng kinh tế
1.1.1 Quan niệm về khủng hoảng kinh tế
Những nghiên cứu về khủng hoảng kinh tế còn có những khác biệt nhất định,
hoặc về quan niệm hoặc về cách tiếp cận, nhưng các kết quả nghiên cứu đều trực
tiếp hoặc gián tiếp thừa nhận khủng hoảng kinh tế là một thực tế khách quan
trong quá trình phát triển kinh tế. Về cơ bản, có thể khái quát những nhận thức
hiện nay về khủng hoảng kinh tế ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, xem xét khủng hoảng kinh tế như một hiện tượng kinh tế khách
quan của mọi quá trình phát triển, nó được hình thành, tồn tại cùng với sự vận

hành của các quá trình kinh tế và bùng nổ khi nền kinh tế hoặc một khu vực kinh
tế trọng yếu rơi vào trạng thái yếu nhất. Do vậy, khủng hoảng kinh tế là một hiện
tượng kinh tế có hình thái biểu hiện đa dạng và không nhất thiết gắn với một
không gian địa lý nhất định. Các cuộc khủng hoảng hoảng kinh tế cũng sẽ diễn
ra với mức độ khác nhau ở từng quốc gia và từng thời điểm nhưng đều có thể
quy về là sự biểu hiện của những dạng thức cơ bản của khủng hoảng kinh tế như
khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng chu kỳ hay hỗn hợp nhiều dạng thức khủng
hoảng.
Thứ hai, khủng hoảng kinh tế theo quan điểm hiện nay được xem xét đó là
sự thay đổi các trạng thái của cùng một sự vật dẫn đến sự biến thái của nó. Hay
nói cách khác đó là hệ quả tất yếu của những biến đổi trong các điều kiện phát
triển kinh tế. Chẳng hạn toàn cầu hóa kinh tế đang được coi là điều kiện tiên
quyết cho phát triển đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới đòi hỏi sự ứng
biến của các quá trình kinh tế không chỉ ở các hành vi kinh tế mà cần cả những
thay đổi về cấu trúc kinh tế. Sự thay đổi trong nền tảng vật chất kĩ thuật gắn với
cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà tâm điểm là sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng tin học là yếu tố đã và đang tạo ra sự thay đổi các điều kiện của quá
7
trình tái sản xuất cũng như hình thành những cách tổ chức sản xuất mới. Do vậy
khủng hoảng kinh tế hiện nay gắn liền với trạng thái quá độ từ nền kinh tế công
nghiệp sang một nền kinh tế vận hành dựa trên nền tảng thông tin và tri thức.
Thứ ba, có những quan niệm khác nhau về khủng hoảng kinh tế, song với
cách tiếp cận toàn diện, khoa học có thể khẳng định rằng khủng hoảng kinh tế
hiểu theo nghĩa chung nhất đó là một thời điểm quan trọng trong tiến trình phát
triển, là điểm nút làm bộc lộ toàn bộ mâu thuẫn hoặc mất cân bằng của một hệ
thống nhất định do sự tác động của những yếu tố nội tại cũng như bên ngoài quy
định sự phát triển của hệ thống đó. Do vậy, khủng hoảng kinh tế có thể hiểu đó
là một tất yếu kinh tế, nó hình thành và xuất hiện từ chính bản thân sự vận động
của quá trình kinh tế. Mặc dù, khi bùng phát hay xuất hiện nó có thể có khởi
nguồn từ khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng chức năng…

nhưng suy đến cùng khủng hoảng kinh tế là sự thể hiện cao nhất, tập trung nhất
của những vấn đề nội tại của hệ thống kinh tế. Nó có thể là sự mất cân đối của
cấu trúc kinh tế, có thể là sai lầm trong cách lựa chọn chính sách, có thể là sai
lầm trong cách lựa chọn đầu tư và cũng có thể là việc mất khả năng thanh khoản
của hệ thống tài chính. Kết quả là đến một thời điểm nhất định, khi những bất ổn
đó phình đại, trở thành những “ bong bong”, những “ điểm yếu” trong nền kinh
tế và khi gặp những yếu tố kích phát thì nó sẽ bị vỡ và khủng hoảng nổ ra.
Ngày nay toàn cầu hóa kinh tế trở thành xu hướng chủ đạo chi phối các quá
trình phát triển kinh tế, bởi vậy khủng hoảng kinh tế trong điều kiện toàn cầu
hóa thường là khủng hoảng kinh tế khu vực hay khủng hoảng kinh tế thế giới.
Điểm bộc phát hay xuất phát của khủng hoảng thường là những trung tâm kinh
tế năng động xét trong tổng thể nền kinh tế khu vực hay toàn cầu. Trong đó,
nhân tố “kinh tế ảo” được coi là căn nguyên trực tiếp làm khủng hoảng kinh tế
nổ ra. Khi khủng hoảng kinh tế bùng phát thì suy giảm kinh tế nhanh chóng lan
rộng trên phạm vi toàn cầu và hệ lụy của nó là không thể dự liệu trước.
8
1.1.2 Phân loại khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là một vấn đề phức tạp cả về lý luận lẫn thực tiễn. Tính
chất phức tạp của khủng hoảng còn thể hiện cả ở việc phân loại chúng, bởi sự
đan xen và hình thái biểu hiện là vô cùng phong phú đa dạng. Tuy nhiên có thể
khái quát được năm loại hình khủng hoảng kinh tế phổ biến đó là: khủng hoảng
sản xuất thừa, khủng hoảng chu kỳ, khủng hoảng cơ cấu, khủng hoảng tài chính,
khủng hoảng tiền tệ tín dụng.
1.1.2.1 Khủng hoảng sản xuất thừa
Đây là loại hình khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong lịch sử phát triển kinh tế
của nhân loại. Cuộc khủng hoảng sản xuất thừa đầu tiên được nổ ra tại nước Anh
vào năm 1825. Về cơ bản, khủng hoảng sản xuất thừa thường được gắn với giai
đoạn của chu kỳ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, được biểu hiện bằng
hàng hóa sản xuất thừa so với nhu cầu có khả năng thanh toán, sản xuất giảm
sút, vốn đầu tư cơ bản bị rút bớt, thất nghiệp và lạm phát tăng lên, những tỷ lệ

chủ yếu của tái sản xuất bị rối loạn. Nguyên nhân chủ yếu là do những mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản, từ đó nảy sinh ra một loạt những mâu thuẫn
phái sinh: mâu thuẫn giữa tư bản và lao động, mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu
dùng, mâu thuẫn giữa tính có tổ chức trong các xí nghiệp riêng biệt và tình trạng
sản xuất vô chính phủ trong toàn xã hội. Những mâu thuẫn đó đưa nền kinh tế tư
bản chủ nghĩa đến khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế là giai đoạn cơ
bản của chu kỳ kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Cho đến nay, qua thực tiễn phát triển kinh tế với những thăng trầm mà mỗi
nền kinh tế phải trải qua, có thể nói rằng mọi nền kinh tế đều có thể bị lâm vào
sản xuất thừa khi không giữ được các tỷ lệ chủ yếu của tái sản xuất, mất cân đối
giữa nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng,
giữa cung và cầu… Do đó, để hạn chế khủng hoảng sản xuất thừa cần luôn có ý
thức điều chỉnh sự vận hành của các thành phần kinh tế sao cho đảm bảo được
các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
9
1.1.2.2 Khủng hoảng chu kỳ
Theo quan điểm mácxít, chu kỳ kinh tế là hình thức biểu hiện chính của
khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản. Nguyên nhân chính của nó nằm ở mâu thuẫn
giữa xã hội hóa sản xuất và hình thức chiếm hữu tư bản tư nhân. Khủng hoảng
chu kỳ biểu hiện ở tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa: sản xuất,
trao đổi, phân phối và tiêu dùng. Tính chu kỳ của khủng hoảng liên quan đến tái
sản xuất tư bản cố định.
Khủng hoảng chu kỳ được mô tả gồm bốn giai đoạn: khủng hoảng, đình đốn,
phục hồi và hưng thịnh. Giai đoạn quan trọng nhất là khủng hoảng bởi chính nó
tạo nên chu kỳ. Các giai đoạn khác đều xuất phát từ giai đoạn này. Việc phân
chia các giai đoạn của khủng hoảng chỉ mang tính chất tương đối, còn thực chất
các giai đoạn của chu kỳ có liên quan hữu cơ với nhau. Các giai đoạn có thể có
độ dài ngắn khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước hoặc của
từng thời kỳ phát triển. Mặc dù vậy, nhưng theo dòng lịch sử thì trong các giai
đoạn đó, giai đoạn khủng hoảng và đình đốn vẫn thường dài hơn giai đoạn phục

hồi và hưng thịnh. Điều này đặc biệt đúng đối với chủ nghĩa tư bản hiện đại
1.1.2.3 Khủng hoảng cơ cấu
Khủng hoảng cơ cấu là một hình thức biểu hiện khá điển hình của các cuộc
khủng hoảng kinh tế . Khác với khủng hoảng chu kỳ do những yếu tố liên quan
đến chu kỳ kinh doanh tạo nên, khủng hoảng cơ cấu có nguyên nhân sâu xa hơn
trong chính hệ thống.
Nếu hiểu một cách tổng quát, khủng hoảng cơ cấu là sự bộc lộ, sự tới hạn
của các yếu tố nền tảng tạo nên hệ thống, đòi hỏi phải có những cải cách căn bản
hoặc những giải pháp dài hạn mang tính tổng thể. Hiểu một cách cụ thể, khủng
hoảng cơ cấu là kết quả của những mất cân đối cơ bản giữa sản xuất và tiêu
dùng, giữa cung và cầu và sự hỗn loạn dài hạn trong cơ chế hoạt động của
những quan hệ kinh tế giữa người cung cấp sản phẩm và người tiêu dùng. Biểu
hiện của những mất cân đối này là những thay đổi rõ rệt trong giá cả tương đối
của các nền kinh tế trên thế giới. Từ những khái quát trên cho thấy, khủng hoảng
10
cơ cấu là hiện tượng gắn liền với các vấn đề lớn của nhân loại như vấn đề nợ,
năng lượng, nguyên liệu, lương thực, môi trường…
1.1.2.4 Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng
Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng là sự chấn động rối loạn của hệ thống lưu
thông tiền tệ và tín dụng, nảy sinh do khủng hoảng chu kỳ của sản xuất hoặc do
các sự kiện đặc biệt bất thường về kinh tế và chính trị. Trên thị trường tiền tệ,
khủng hoảng tiền tệ - tín dụng biểu hiện dưới dạng thiếu tiền cho vay và lãi suất
tăng cao. Trong thời kỳ khủng hoảng tiền tệ, trong lĩnh vực tín dụng và thương
mại xảy ra việc thủ tiêu có tính chất cưỡng bức một số dư nợ lẫn nhau của các
nhà kinh doanh về kỳ phiếu và giảm khối lượng tín dụng thương mại. Trong lĩnh
vưc tín dụng quốc tế, khủng hoảng tiền tệ - tín dụng biểu hiện: sự đứt quãng tức
thời các mối quan hệ tín dụng quốc tế và sự phá sản của những người vay tiền
nước ngoài, sự ách tắc của người xuất khẩu do ngân hàng không cho họ vay
thêm những khoản tín dụng mới, sự thiếu hụt lớn của các bảng cân đối thanh
toán và giảm sút lớn xuất khẩu tư bản. Ảnh hưởng của khủng hoảng tiền tệ tín

dụng cũng biểu hiện trên cả thị trường chứng khoán và trong lĩnh vực lưu thông
tiền tệ. Đặc trưng của nó là nạn “ đói tiền” hay sự rối loạn toàn bộ quá trình lưu
thông tiền tệ và sự mất giá đồng tiền.
Khủng hoảng tiền tệ - tín dụng là một hiện tượng có tính khu vực và toàn cầu
nên việc khắc phục nó đòi hỏi một sự cải thiện nền kinh tế và hệ thống quản lý
kinh tế vĩ mô nền tài chính tiền tệ, duy trì sự ổn định chính trị và hợp tác giữa
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
1.1.2.5 Khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính là trạng thái chấn động của hệ thống tài chính, từ hệ
thống lưu thông tiền tệ, tín dụng đến tài chính nhà nước, biểu hiện chủ yếu là sự
mất ổn định, mất cân đối giữa thu và chi, thiếu hụt nghiêm trọng và kéo dài các
nguồn vốn ngân sách nhà nước và tín dụng của ngân hàng, kéo theo lạm phát và
đồng tiền bị mất giá nghiêm trọng. Khủng hoảng tài chính bắt nguồn từ sự thiếu
hụt ngân sách do đề phòng và chuẩn bị chiến tranh, tăng cường lực lượng quân
11
sự, hoặc do chi tiêu vào phúc lợi quá sức chịu đựng của nền kinh tế, hoặc do đầu
tư nhiều mà không có hiệu quả, tất cả đều có thể dẫn đến khủng hoảng tài chính.
Khủng hoảng tài chính xảy ra khi những món nợ đến hạn không thu hồi được,
do việc phải cấp phát vốn, cấp tín dụng không kiểm tra, kiểm soát, không xem
xét khả năng hoàn vốn của những chủ thể vay vốn hoặc do chứng khoán cổ
phiếu đột nhiên giảm sút.
1.1.3 Tác động của khủng hoảng kinh tế
1.1.3.1 Tác động tiêu cực
Khi nói đến tác động của khủng hoảng kinh tế thì phổ biến là nói đến hậu
quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra. Bởi hậu quả mà các cuộc khủng
hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và hết sức nặng nề đối với mỗi quốc gia
đang bị khủng hoảng, cũng như đối với các khu vực và cả thế giới.
Thứ nhất, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất trong mỗi cuộc khủng
hoảng kinh tế thế giới, mà trước hết là tại các trung tâm khủng hoảng là sự mất
ổn định của đồng tiền và tiếp đến là sự chao đảo và sụt giảm nghiêm trọng của

thị trường tài chính - tiền tệ và sau đó lan tỏa ra các khu vực có liên quan và
rộng hơn là sự giảm sút các luồng vốn nước ngoài trong lưu chuyển vốn quốc tế,
là sự giảm sút đầu tư trong nội bộ quốc gia do lãi suất tăng cao và yếu tố lòng tin
suy giảm. Tất cả các vấn đề đó đã làm giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế ở các
trung tâm khủng hoảng, các khu vực có liên quan và toàn thế giới nói chung đi
đôi với gia tăng tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao, cũng như làm tăng các
khoản nợ nước ngoài bằng ngoại tệ do sự mất giá của đồng nôi tệ và do phải thu
hút thêm các khoản tín dụng quốc tế mới để vượt qua khủng hoảng. Lĩnh vực tài
chính tiền tệ được coi là lĩnh vực nhạy cảm nhất trong khủng hoảng và cũng là
lĩnh vực trực tiếp chứa đựng nhiều các chấn động nhất, nên sự trồi sụt bấp bênh
của lĩnh vực này cũng là rõ nét hơn bất kì lĩnh vực nào khác của khủng hoảng,
không chỉ phạm vi quốc gia, khu vực mà là cả thế giới.
Thứ hai, thông thường khi khủng hoảng kinh tế nổ ra cũng là thời điểm đánh
dấu sự kết thúc của một giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh, kéo dài bởi nhiều
12
thuận lợi có trước nhưng cũng đã tích tụ đủ những vấn đề nội tại, để bước sang
một giai đoạn phát triển mới, đặc trưng bởi nhịp độ tăng trưởng ôn hòa hơn, thận
trọng hơn với những điều chỉnh cần thiết. Trong và sau khủng hoảng, nhịp độ
tăng trưởng kinh tế của quốc gia cũng như của thế giới sẽ giảm. Mức độ giảm
tùy thuộc vào mức độ của cuộc khủng hoảng và tùy thuộc vào điều kiện thực tế
của mỗi quốc gia, khu vực và bối cảnh chung của thế giới. Suy thoái tại các nền
kinh tế lớn đồng thời là thị trường xuất khẩu chủ chốt của các nền kinh tế đang
nổi lên kéo theo tốc độ tăng trưởng sụt giảm trên phạm vi toàn cầu.
Thứ ba, khủng hoảng kinh tế thế giới không chỉ gây thiệt hại nghiêm trọng
cho hầu hết các quốc gia, mà trước hết là các quốc gia thuộc trung tâm của
khủng hoảng không chỉ về vật chất mà quan trọng hơn đó là những thiệt hại về
tinh thần, về lòng tin của dân chúng về sự ổn định, phát triển chung của nhân
loại. Biểu hiện trước hết ở những thiệt hại ở dạng này là niềm tin của các chủ thể
kinh tế bị giảm sút, dẫn đến sự giảm sút các kế hoạch đầu tư và gia tăng sự thận
trọng trong các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, từ đó giảm sút năng lực

sản xuất kinh doanh của xã hội, kéo theo là giảm việc làm, gia tăng thất nghiệp
và bất ổn xã hội. Tình trạng này sẽ kéo dài nếu như khủng hoảng không sớm
được khắc phục và sự phục hồi của nền kinh tế sẽ triển trở nên chậm chạp và hệ
quả xã hội theo đó sẽ sâu sắc hơn. Cụ thể, tỉ lệ thất nghiệp, lạm phát tăng cao
làm giảm mức sống thực tế của người làm công ăn lương, những căng thẳng và
bất ổn định xã hội cũng vì thế mà tăng lên. Có thể có những xáo trộn chính trị
nhất định ở một số quốc gia, nhất là những quốc gia phát triển phụ thuộc nhiều
vào sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Thứ tư, khủng hoảng kinh tế thế giới không chỉ làm giảm sút trong đầu tư mà
tăng trưởng thương mại quốc tế cũng bị giảm sút nghiêm trọng, đây là ảnh
hưởng dễ nhận thấy đầu tiên. Trong đó, thế giới sẽ phải chứng kiến sự đảo chiều
của các dòng chu chuyển hàng hóa cả về giá trị lẫn khối lượng. Trước hết, sự
đảo chiều này thuộc về những hàng hóa cơ bản, có tốc độ lưu chuyển lớn trong
thời gian hưng thịnh của nền kinh tế và đặc biệt là những biến động lớn của hai
mặt hàng được quan tâm nhiều nhất là vàng và dầu thô. Khi xảy ra khủng hoảng,
13
hai mặt hàng này có những biến động rất phức tạp. Trong cuộc khủng hoảng
kinh tế thế giới năm 2008, giá của cả hai mặt hàng này đều đạt đỉnh cao lịch sử
trong năm 2008 với mức trên 1030 USD/OZ đối với giá vàng vào thời điểm
tháng 3 và mức trên 147USD/thùng đối với giá dầu vào giữa tháng 7. Sau đó cả
hai mặt hàng cùng trượt dốc dài. Hiện thực này là hệ quả của sự thay đổi quá
nhanh chóng của bộ mặt và viễn cảnh kinh tế thế giới, từ tích cực sang tiêu cực
là lý do chính dẫn đến sự tụt dốc này.
1.1.3.2 Tác động tích cực
Thứ nhất, các quốc gia, khu vực và cả thế giới sẽ có được những điều chỉnh,
thay đổi cần thiết để lành mạnh hóa nền kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới.
Trong đó, vấn đề cấu trúc lại nền kinh tế, điều chỉnh và xác lập lại các thể chế
hiện hành trở thành nhu cầu cấp thiết và cũng chính là tiền đề quan trọng cho
những bước phát triển tiếp theo. Cụ thể, khủng hoảng kinh tế sẽ giúp định hướng
lại và cải thiện kinh tế hiện hành trở thành nhu cầu cấp thiết và cũng chính là

tiền đề quan trọng cho những bước phát triển tiếp theo. Khủng hoảng kinh tế sẽ
giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hóa nền tài chính quốc
gia. Các khoản chi tiêu kém hiệu quả sẽ bị điều chỉnh, cắt giảm, các dự án tư
nhân sẽ được khuyến khích, giảm bớt sự độc quyền, sự can thiệp và bao cấp của
chính phủ trong khu vực kinh doanh sẽ được xúc tiến tích cực hơn, kiên quyết
hơn, rộng khắp hơn. Có thể nói, khủng hoảng sẽ như một cú động mạnh để xốc
lại cơ cấu nền kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả hơn, tạo ra sức ép buộc
các chủ thể kinh tế phải thay đổi thích ứng với tình hình mới. Toàn bộ nền kinh
tế (cả quốc gia, khu vực và quốc tế), sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất
của khủng hoảng sẽ có định hướng phát triển rõ ràng hơn, đầy đủ, sâu sắc và
hoàn thiện hơn. Do đó, tính hiệu quả của nền kinh tế sẽ cao hơn.
Thứ hai, trên phương diện nhận thức, người ta sẽ dành sự quan tâm nhiều
hơn đến việc nghiên cứu lý thuyết và lựa chọn chủ thuyết phát triển. Bởi thực
tiễn phát triển kinh tế suy đến cùng đều là nhằm hện thực hóa các lý thuyết kinh
tế hay nói cách khác các lý thuyết kinh tế suy tới cùng đều nhằm tới việc hình
14
thành một mô hình phát triển hiệu quả hơn. Sức sống của các lý thuyết kinh tế
được biểu hiện thông qua thực tế các mô hình kinh tế mà nó hậu thuẫn. Vì vậy,
khủng hoảng kinh tế xảy ra đồng thời với nó là sự cáo chung của một lý thuyết
kinh tế nào đó. Nên khi đối diện với khủng hoảng kinh tế, người ta sẽ phải có
những nhìn nhận khách quan hơn, toàn diện hơn về lý thuyết kinh tế đang được
vận dụng hay chủ thuyết kinh tế đang chi phối định hướng phát triển. Vậy nên,
khủng hoảng cũng là thời cơ để người ta có thể sàng lọc, chọn lựa đúng đắn hơn,
phù hợp hơn định hướng phát triển.
Thứ ba, khi khủng hoảng kinh tế xảy ra, ít nhiều góp phần và là dịp để các
nhà nước quốc gia và chính người dân nước đó cũng như các tổ chức quốc tế, bổ
khuyết những thiếu sót cả về chính sách, thể chế lẫn những yếu tố thuộc con
người. Từ đó tạo ra những xung lực tích cực mới cho sự phát triển kinh tế xã hội
bền vững ở cả cấp quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể hữu
cơ. Quá trình tự do hóa và toàn cầu hóa sẽ được đẩy lên một nấc mới, một phần

nhờ các chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rãi theo hướng này sau khi đã sử
dụng các biện pháp khắc phục khủng hoảng, một phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo
hơn, thận trọng hơn và thích hợp hơn của mỗi nước, phần nữa nhờ sự xuất hiện
những cơ chế thúc đẩy và giám sát mới mang tính khu vực, quốc tế và cả sự hợp
tác quốc tế rộng rãi trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng.
Ngoài ra, tác động của khủng hoảng kinh tế còn thể hiện trong cả việc làm
chuyển dịch ở mức độ nhất định vai trò và vị thế kinh tế - chính trị truyền thống
của các cường quốc trên phạm vi khu vực và trên thế giới, địa chính trị và địa
kinh tế sẽ ít nhiều được định vị lại với tư cách như một cộng đồng.
1.2 Nguyên nhân, diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008
1.2.1 Diễn biến
Cuộc khủng hoảng tài chính đã có dấu hiệu từ mùa hè năm 2007, khi dầu
thô, lương thực và nguyên liệu cơ bản bị đầu cơ, đẩy giá lên cao (thời kỳ cao
nhất dầu thô 147 USD/thùng, thép 830USD/tấn, gạo 1.000USD/tấn ); giá bất
động sản ở Mỹ giảm; sự rò rỉ thông tin về nguy cơ thua lỗ lớn của các ngân hàng
15
đầu tư và thương mại Mỹ nắm giữ nhiều khoản cho vay bất động sản và các tài
sản tài chính có nguồn gốc từ các khoản vay bất động sản dưới chuẩn; tháng
3/2008, ngân hàng đầu tư Bear Stearns bị sáp nhập vào ngân hàng JP.Morgan
Chase; tháng 7/2008, tập đoàn cho vay thế chấp thứ cấp Freddie Mac và Fannie
Mae mất khả năng thanh toán. Ngày 15/9/2008, cuộc khủng hoảng tài chính
bùng nổ ở Mỹ, với sự đổ vỡ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers và công ty
bảo hiểm AIG, ngân hàng tiết kiệm Washington Mutual Inc, đã nhanh chóng lan
rộng sang thị trường tài chính châu Âu và khu vực khác. Để ngăn chặn sự sụp đổ
của thị trường tài chính và suy thoái kinh tế, chính phủ và ngân hàng trung ương
các nước, quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng Thế giới (WB) và ngân hàng
Phát triển châu Á (ADB) đã dốc sức, nhanh chóng thực hiện các biện pháp giải
cứu, ổn định thị trường tài chính và kích thích kinh tế:
- IMF cam kết cho các nước đang phát triển vay 175 tỷ USD để ổn định
thị trường tài chính (Iceland, Ukraina, Pakistan, Hungari ); ngày 02/4/2009, các

nước G20 đồng ý cho IMF vay 750 tỷ USD để hỗ trợ các nước. WB, ADB tiếp
tục cho vay hỗ trợ xoá đói giảm nghèo đối với các nước.
1
- Ngân hàng trung ương các nước phát triển (Mỹ, Đức, Pháp, Anh, Nhật )
và nhiều nước đang phát triển đã thực hiện các biện pháp để tăng khả năng thanh
khoản và mở rộng tín dụng, hỗ trợ tài chính cho các ngân hàng và công ty tài
chính: (1) Thực thi chính sách tiền tệ nới lỏng bằng biện pháp giảm mạnh lãi
suất chủ đạo, bơm tiền ra lưu thông; (2) Trả lãi đối với tiền gửi dự trữ bắt buộc
và vượt dự trữ bắt buộc; (3) Bảo lãnh cho các ngân hàng vay trên thị trường liên
ngân hàng; (4) Phối hợp thực hiện hoán đổi tiền tệ để cung ứng USD cho thị
trường ngoài nước Mỹ (FED đã hoán đổi ngoại tệ với 13 ngân hàng trung
ương ); (5) Cho phép một số ngân hàng đầu tư được huy động vốn như ngân
hàng thương mại; (6) Cho các ngân hàng gặp khó khăn về tài chính vay dài hạn
để mua cổ phiếu của chính các ngân hàng đó; (7) Phối hợp với Bộ Tài chính cơ
cấu lại vốn cho các ngân hàng.
1 TS. Nguyễn Văn Giàu, Chính sách tiền tệ đối với ổn định và phát triển kinh tế xã hội trong bối cảnh
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới, Tạp chí Ngân hàng số 17/2009
16
- Chính phủ các nước thực hiện nhiều biện pháp nhằm ổn định thị trường
tài chính và kích thích kinh tế: (1) Mua lại cổ phiếu, nợ xấu của các ngân hàng
mất khả năng thanh toán; (2) Đưa ra tuyên bố đảm bảo thanh toán các khoản tiền
gửi tại hệ thống ngân hàng, tăng số tiền được bảo hiểm tiền gửi; (3) Rà soát lại
khả năng tài chính của các ngân hàng để lập kế hoạch hỗ trợ tài chính cơ cấu lại;
(4) Triển khai gói giải pháp kích thích kinh tế với tổng trị giá của các nước
khoảng 12.500 tỷ USD, tương đương 20,6% GDP thế giới năm 2008.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, thị trường tài chính các nước phụ thuộc lẫn
nhau, quy mô vốn luân chuyển gấp nhiều lần so với giai đoạn Đại suy thoái kinh
tế thế giới 1929 - 1933, khủng hoảng tài chính đã làm giảm sút nghiêm trọng
lòng tin của các nhà đầu tư, đẩy kinh tế thế giới sớm rơi vào suy thoái: (1) Đến
tháng 12/2008, có 25 nước rơi vào suy thoái (Mỹ, Nhật Bản, khu vực đồng Euro,

các nước Đông Âu); suy thoái kinh tế ở nhiều nước tiếp tục diễn ra trong năm
2009. Tuy vậy, với sự nỗ lực của hệ thống tài chính toàn cầu và chính phủ các
nước, IMF, WB, WTO, OECD, Hội nghị G8 tổ chức tại Italia từ ngày 08/7
-10/7/2009 đều đưa ra nhận định, giai đoạn tồi tệ nhất của khủng hoảng tài chính
đã qua và tình trạng suy giảm kinh tế toàn cầu đã chậm dần, nhưng sự ổn định
và quá trình phục hồi kinh tế thế giới sẽ kéo dài và chậm chạp. Năm 2010 mới
bắt đầu phục hồi và quá trình này phải mất từ 3 - 4 năm, bởi vì các vấn đề căn
bản của kinh tế thế giới, đặc biệt là Mỹ, EU, Nhật Bản chưa được xử lý tận gốc.
2
1.2.2 Nguyên nhân
Nguyên nhân sâu xa của cơn địa chấn kinh tế bắt nguồn từ khủng hoảng tín
dụng và nhà đất tại Mỹ. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt
thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu
Âu vào thế nguy hiểm thông qua quan hệ tài chính nói riêng và kinh tế nói
chung mật thiết của Hoa Kỳ với nhiều nước. Cuộc khủng hoảng từ Hoa Kỳ đã
lan rộng ra nhiều nước trên thế giới, dẫn tới những đỗ vỡ tài chính, suy thoái
2 Tạp chí Ngân hàng số 17/2009
17
kinh tế, suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế ở nhiều nước trên thế giới. Sau đây
là một số nguyên nhân của cuộc khủng hoảng :
* Thứ nhất là chứng khoán hóa bất động sản thế chấp
Nguyên nhân đầu tiên quan trọng nhất là gia tăng nguồn vốn tài trợ để mua
bán nhà ở thông qua kỹ thuật “chứng khoán hóa bất động sản thế chấp” trong
khi hệ thống kiểm soát không theo kịp là nguyên nhân sâu xa của khủng hoảng.
Trước đây ở Mỹ, nguồn vốn cho vay mua bất động sản chủ yếu do ngân hàng
cung cấp, vì vậy lượng tiền gửi của người dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay
cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc của Chính phủ đối với ngân hàng. Năm 1980
chính phủ Mỹ ban hành Luật Giao dịch Thế chấp Tương đương, nới rộng những
quy tắc cho vay và khuyến khích những kênh tài trợ khác phi ngân hàng. Đạo
luật này đã góp phần cho ra đời của nhiều công ty cho vay thế chấp và không bị

ràng buộc bởi các luật lệ của ngân hàng. Ngay cả những ngân hàng cũng thành
lập hoặc liên kết với các công ty cho vay thế chấp làm bùng nổ các kênh cung
cấp vốn thị trường bất động sản.
Đồng thời, để hỗ trợ cho vay tạo lập nhà ở, chính phủ Mỹ còn cho lập hiệp
hội quốc gia tài trợ bất động sản (Federal National Mortgage Assocation gọi tắt
là Fannie Mae) và tập đoàn cho vay thế chấp quốc gia (Federal Home Loan
Mortgage Corporation - gọi tắt là Freddie Mac). Hoạt động chính của Fannie
Mae và Freddie Mac là mua lại những món nợ vay thế chấp bằng bất động sản,
đặc biệt là các khoản vay thế chấp “dưới chuẩn” của các ngân hàng rồi dùng bất
động sản thế chấp để phát hành “trái phiếu tái thế chấp” (Mortgage - bached
Securities-MBS) bán cho các nhà đầu tư khác nhằm tăng tính thanh khoản cho
ngân hàng. Như vậy những món nợ nhà ở đã được “trái phiếu hóa” thành sản
phẩm tài chính thông dụng có thể mua bán dễ dàng trên thị trường tiền tệ. Nói
đơn giản hơn MBS là một loại chứng khoán mà Fannie Mae, hoặc là một công
ty tài chính khác như Lehman Brothers, bỏ tiền ra mua lại các khoản cho vay thế
chấp từ các ngân hàng thương mại, tập trung chúng thành từng lọai khác nhau,
rồi phát hành MBS để bán lại cho các nhà đầu tư.
18
Và cũng vì có sự khác nhau về rủi ro của các loại MBS cho nên các công ty
bảo hiểm và thẩm định rủi ro, chẳng hạn như AIG, cũng nhảy vào để bán bảo
hiểm cho các nhà đầu tư MBS. Các bảo hiểm này được gọi là creditdefault swap
(CDS), với mục đích bảo đảm cho các nhà đầu tư MBS là trong trường hợp
những người vay tiền mua nhà không trả được nợ và làm cho MBS mất giá thì
sẽ được bồi thường. Trong thời kì hoàng kim, việc kinh doanh bảo hiểm CDS đã
đem lại cho AIG nhiều món nợ khổng lồ.Tuy nhiên, chúng trở thành rắc rối
chính của người khổng lồ này khi thị trường bất động sản đi xuống và rủi ro tín
dụng vùn vụt tăng.
* Thứ hai là việc cho vay mua nhà ở dễ dãi “dưới chuẩn” nhưng thiếu cơ
chế kiểm soát tại Mỹ
Thông thường muốn vay ngân hàng để mua nhà trả góp ở Mỹ, người vay

phải đảm bảo “chuẩn” gồm 3 điều kiện cơ bản là: có tiền đặt cọc ít nhất bằng
10% số tiền mua nhà, chứng minh có thu nhập ổn định sao cho số tiền trả góp
hàng tháng không quá 28% thu nhập và có điểm tín nhiệm vay trả sòng phẳng.
Mặt khác, ngân hàng cũng chỉ được phép cho vay tùy thuộc vào lượng tiền gửi
của người dân và những hạn chế về tỷ lệ cho vay cũng như tỷ lệ dự trữ bắt buộc
của Chính phủ đối với ngân hàng.
Tuy nhiên, để hỗ trợ các gia đình có thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn có
điều kiện sở hữu nhà ở, Chính phủ Mỹ có chương trình “cho vay dưới chuẩn”.
Các ngân hàng thương mại khi cho đối tượng này vay thì được hai tổ chức
Fannie Mae và Freddie Mac mua lại các khoản vay này. Khi thị trường bất động
sản suy thoái, những người thu nhập thấp và thu nhập khiêm tốn không có điều
kiện trả nợ.
Việc cho vay dưới chuẩn là không xét khả năng chi trả và điểm tín dụng theo
quy định, nhưng đổi lại người vay phải trả lãi suất cao hơn từ 1 đến 2%. Ngoài
ra việc cho vay dưới chuẩn còn thể hiện ở mức cho vay cao tới 85% giá trị bất
động sản thế chấp, người mua chỉ cần đóng góp 15%. Nghĩa là người dân chỉ
cần có 150.000 USD là có thể được vay 850.000 USD để mua căn nhà 1 triệu
19
USD. Nhiều công ty cho vay thế chấp hoặc ngân hàng còn cạnh tranh thu hút
khách hàng bằng các gói tín dụng hấp dẫn khác. Đây là cơ hội cho các nhà đầu
cơ bất động sản vì khi thi trường bất động sản đang lên, chỉ cần có một ít tiền là
có thể đặt cọc mua nhà, vài tháng sau giá nhà lên bán lấy lãi.
Ngoài ra, việc cho vay dễ dãi “dưới chuẩn” còn do tiền cho vay được thu về
thông qua “ chứng khoán hóa”, thông quan phát hành “trái phiếu tái thế chấp”
bất động sản thế chấp. Dưới hình thức này người cho vay và người vay không
biết nhau, ngân hàng chỉ còn là đơn vị trung gian cho vay sau đó chuyển nhượng
khoản vay cho công ty cho vay thế chấp để công ty phát hành “trái phiếu tái thế
chấp” chuyển nhượng trên thị trường là xong. Đây là khuyết tật nghiêm trọng
của việc chứng khoán hóa bất động sản thế chấp nhưng thiếu kiểm soát.
* Thứ ba là giá bất động sản tại Mỹ tăng liên tục đã lôi kéo các nhà đầu tư

và cả người dân đổ xô vào kinh doanh bất động sản làm cung vượt quá cầu.
Việc cho vay dễ dãi tạo điều kiện cho đông đảo các nhà đầu tư tham gia đầu
cơ bất động sản, tạo cầu ảo đẩy “bong bóng” bất động sản lên cao. Thị trường
bất động sản Mỹ tăng liên tục trong vòng nhiều năm. Theo thống kê của Cơ
quan Tài chính nhà ở Liên bang (OFHEO) thì nếu Chỉ số giá nhà ở (HPI) trung
bình của toàn Liên bang năm 1980 là 100 điểm, thì tới năm 1998 chỉ số giá nhà
ở là 206 điểm và tới Quí 4/2007 là 387 điểm, cá biệt có những Bang như New
England là 613 điểm. Cũng theo thống kê của cơ quan này thì giá nhà ở Quí
1/2005 tăng 12,5% so với Quí 1/2004, trong khi đó giá các loại hàng hoá và dịch
vụ khác chỉ tăng 3,1% cùng thời kỳ.
Chính giá nhà ở tăng liên tục đã thúc đẩy người dân đổ xô vào mua bán bất
động sản, làm cho cung cầu mất cân đối, cung vượt xa cầu. Theo thống kê của
Cơ quan Thống kê Hoa kỳ thì từ năm 1997 đến năm 2007, bình quân mỗi năm ở
Mỹ xây dựng thêm 1.233.000 ngôi nhà ở. Nếu bình quân mỗi ngôi nhà có diện
tích khoảng 150 m
2
sàn thì hàng năm nước Mỹ xây dựng được gần 200 triệu m
2
nhà ở. Riêng năm 2007 có tới 17.958.000 ngôi nhà bỏ không, trong đó có đến
13.276.000 ngôi nhà bỏ không suốt năm.
20
Đầu năm 2009, Mỹ lần đầu tiên đã áp dụng biện pháp tín dụng thuế mua nhà
trị giá 8.000 USD. Tín dụng thuế, giống như một chương trình hỗ trợ đã hết hiệu
lực và các chuyên gia tự hỏi liệu số lượng nhà được mua có tiếp tục tăng hay
không. Nhìn vào số liệu của tháng 5 năm 2009, doanh thu nhà mới trong tháng
đã rơi xuống mức thấp kỷ lục đã thiết lập lần đầu tiên vào năm 1963.
1.3 Tác động của khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đối với nền kinh tế
thế giới
1.3.1 Thị trường chứng khoán suy giảm
Ảnh hưởng đầu tiên từ cuộc khủng hoảng tín dụng diễn ra trên các thị trường

cổ phiếu ở Mỹ, châu Âu và trên khắp thế giới. Thị trường chứng khoán thế giới
cũng đã có một năm hứng chịu không ít tổn thất. Sản xuất bị co hẹp, chi tiêu
giảm do tâm lý bất an trước tình trạng lạm phát cao và kết quả làm ăn thua lỗ từ
các tập đoàn lớn là nguyên nhân chính khiến cho mức điểm trên sàn chứng
khoán thế giới liên tục sụt giảm, đặc biệt trong quý IV/2008. Trong năm 2008,
cũng do tác động cuộc khủng hoảng nên thị trường chứng khoán tài chính toàn
cầu đã mất khoảng 17.000 tỷ USD. Thị trường chứng khoán các nước mới nổi
giảm 54,72%, thị trường các nước phát triển giảm 42,72%. Mức sụt giảm cao
nhất rơi vào các nước Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc khoảng hơn 70%. Ma
rốc và Israel là những thị trường có diễn biến tốt nhất. Tại một số thị trường lớn
kể từ khi bắt đầu cuộc khủng hoảng (12/9/08) đến 12/1/2008 thì hầu hết chỉ số
chứng khoán của các quốc gia đều giảm như Mỹ: chỉ số Dow Jones giảm
25,81%, chỉ số Nasdas giảm 32,03%; chỉ số S&P 500 giảm 30,47%; chỉ số
FTSE 100 của Anh giảm 18,29%; chỉ số Nikkey 225 của Nhật giảm 31,12%.
3
1.3.2 Suy giảm tăng trưởng kinh tế
Hoạt động tín dụng đóng băng ở Mỹ và Châu Âu, cộng với sự sa sút thịnh
vượng do giá trị cổ phiếu giảm mạnh đã gây ra áp lực lớn đối với tổng cầu và
3 Nghiên cứu trao đổi “Khủng hoảng kinh tế toàn cầu: Tác động, biện
pháp và dự báo” – Ngân hàng nhà nước Việt Nam
21
tổng cung (GDP). Tốc độ tăng trưởng GDP thực bắt đầu suy giảm ở Mỹ và tại
các quốc gia khác trong năm 2007, trong khi tại các nền kinh tế mới nổi và các
nước đang phát triển, đặc biệt là các nước đang phát triển ở Châu Á, tăng trưởng
vẫn tiếp tục mạnh mẽ cho đến khi cuộc khủng hoảng ngân hàng tại Mỹ lan rộng
vào cuối năm 2008 thì mới bắt đầu suy giảm dần. Năm 2009 cho thấy nhiều xu
hướng đối ngược, một mức tăng trưởng âm 4% tại các nền kinh tế phát triển và
sự cắt giảm đáng kể tỷ lệ tăng trưởng tại các nền kinh tế đang phát triển từ 8%
năm 2007 xuống còn 2% năm 2009.
Tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2009 đạt -2,2%. Các nước phát triển là

những nước có tốc độ giảm sút tăng trưởng cao nhất trong năm 2009 (-3,3%).
Tuy nhiên, những can thiệp mạnh mẽ của chính phủ các nước này đã giúp ổn
định kinh tế và thúc đẩy sự quay trở lại mức tăng trưởng khiêm tốn vào những
tháng cuối năm. Các quốc gia trong khối liên minh châu Âu đã chịu tác động
đặc biệt mạnh mẽ của khủng hoảng. Tăng trưởng của khu vực này năm 2009 là
-3,9% và sự phục hồi nhìn chung là chậm hơn so với các khu vực khác.
Tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển năm 2009 đạt 1,2%. Kinh
tế của các nước đang phát triển cao hơn mức tăng trưởng chung toàn cầu và
đang trên đường tiếp tục phục hồi chủ yếu do được dẫn dắt bởi sự tăng trưởng
khá của nền kinh tế châu Á. Trong các nước đang phát triển, khu vực Đông Á và
Nam Á vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng khá tốt trong bối cảnh khủng hoảng, lần
lượt đạt 6,8% và 5,7%. Các nước Đông và Trung Âu chịu tác động nặng nề của
khủng hoảng, tốc độ tăng trưởng năm 2009 là - 6,2%.
4
1.3.3 Thương mại quốc tế giảm sút
Kênh chính để lan truyền khủng hoảng từ các nước phát triển sang các nước
đang phát triển chính là hoạt động thương mại quốc tế. Do khủng hoảng kinh tế
toàn cầu, nhu cầu giảm sút mạnh, đặc biệt là ở các nước phát triển, đã tác động
tiêu cực đến hoạt động thương mại thế giới. Tổng hoạt động thương mại toàn
cầu năm 2009 giảm 14,4% so với năm 2008. Bên cạnh giảm sút nhu cầu, giá cả
4 />22
hàng hóa giảm cũng là một nguyên nhân nữa làm giảm hoạt động thương mại.
Giá hàng hóa không phải là năng lượng giảm 21,6% so với năm 2008. Giá dầu
mỏ bình quân trong năm 2009 cũng thấp hơn các năm trước đó và giảm 36,3%
so với năm 2008. Ngoài ra, giá trị trên một đơn vị hàng sản xuất xuất khẩu trên
thế giới cũng giảm 4,9% so với năm 2008.
23
Bảng 1.1 Giá cả và thương mại thế giới
Các chỉ số 2007 2008 2009
Tổng hoạt động thương mại (thay đổi %)

Giá cả hàng hóa
- Giá hàng hóa không phải năng lượng (thay đổi
%)
- Giá dầu mỏ (USD/thùng)
- Sự thay đổi giá dầu mỏ (%)
- Giá trị đơn vị hàng sản xuất xuất khẩu( thay
đổi %)
7,2
17,1
71,1
10,6
5,5
3,0
21,0
97,0
36,4
6,0
-14,4
-21,6
61,8
-36,3
-4,9
Nguồn: Ngân hàng thế giới (Tổng hợp từ website ngân hàng thế giới
www. worldbank.org)
Sang năm 2010, thương mại thế giới tiếp tục có dấu hiệu phục hồi và mức
tăng trưởng thương mại có tăng lên, tuy nhiên chưa thể bằng thời điểm trước khi
xảy ra khủng hoảng. Theo WTO, tăng trưởng thương mại thế giới năm 2010
tăng 13,5% sau khi giảm mạnh trong năm 2009, một mức giảm chưa từng thấy
trong lịch sử thế giới. WTO cũng đưa ra các tính toán xuất khẩu hàng hóa của
các nước phát triển, các nước đang phát triển và cộng đồng các quốc gia độc lập

trong năm 2010 đạt lần lượt 11,5% và 16,5%, một mức cao hơn nhiều so với
mức giảm 7,8% trong năm 2009
5
. Mặc dù xuất khẩu của thế giới đã trở lại mức
bắt đầu khủng hoảng (tháng 8/2008) nhưng vẫn còn thấp hơn so với mức đỉnh
trước khủng hoảng và thấp hơn khoảng 13,6% so với mức xuất khẩu thế giới
trong trường hợp không có khủng hoảng xảy ra. Mặc dù khối lượng thương mại
đã tăng lên nhưng do sự giảm sút của giá cả hàng hóa nên giá trị thương mại
hàng hóa vẫn thấp hơn 8% so với trước khủng hoảng. So với các nước phát
triển, thương mại có sự phục hồi nhanh hơn ở các nước đang phát triển. Tính
đến cuối năm 2010, trong khi kim ngạch xuất khẩu của các nước đang phát triển
đã vượt 16% thời điểm trước khủng hoảng thì con số này đối với các nước phát
triển vẫn thấp hơn 2%. Sự gia tăng nhanh nhu cầu từ các nước đang phát triển đã
thúc đẩy phục hồi thương mại toàn cầu. Thực tế, trong nửa đầu năm 2010, 58%
5 www.iwep.org.vn/upload/Vo%20Minh%20Le(1).doc
24
sự gia tăng trong xuất khẩu của thế giới là xuất phát từ sự tăng mạnh nhập khẩu
từ các nước đang phát triển.
6
1.3.4 Hoạt động FDI
Theo đánh giá của Tạp chí The Economist, cuộc khủng hoảng kinh tế, tài
chính toàn cầu 2008-2009 đã tác động mạnh mẽ đến dòng FDI. Trong 2 năm
2008 - 2009, dòng vốn này đã giảm đi một nửa, nhưng một điều đặc biệt là các
thị trường đang nổi lại là “điểm đến” của dòng vốn FDI.
Bộ phận phân tích thông tin kinh tế (EIU) thuộc Tạp chí The Economist
của Anh cho biết, trong 2 năm 2008 - 2009, dòng đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) toàn cầu đã giảm một nửa và trong quá trình này, các thị trường đang nổi
lên đã vượt qua các thị trường phát triển để trở thành điểm đến chính của FDI.
Trong giai đoạn suy thoái, với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, các thị trường
đang nổi thu hút vốn FDI tốt hơn các thị trường phát triển - ngoại trừ khu vực

Đông Âu. Sau khi giảm 17% trong năm 2008 xuống còn 1.720 tỷ USD, so với
mức 2.080 tỷ của năm 2007, trong năm 2009, FDI toàn cầu tiếp tục giảm khoảng
41% xuống còn 1.000 tỷ USD. Sự suy giảm này cho thấy nguồn tín dụng sẵn có
giảm, mức độ suy thoái nghiêm trọng ở các nước phát triển và nhiều nước đang
phát triển cũng như việc né tránh rủi ro trên quy mô rộng của các nhà đầu tư.
Ban đầu, dòng FDI vào các thị trường đang nổi không bị ảnh hưởng bởi cuộc
khủng hoảng. Năm 2008, trong khi dòng FDI vào các nước phát triển giảm 1/3
thì dòng FDI vào các nước đang nổi lại tăng 11%. Trong năm 2009, dòng FDI
vào các nước đang nổi cũng giảm mạnh, khoảng 36%, xuống còn khoảng 532 tỷ
USD. Nhưng mức giảm này vẫn thấp hơn so với ở các nước phát triển - giảm
45%, xuống còn 488 tỷ USD. Do vậy, năm 2009 là năm đầu tiên các nước đang
nổi thu hút được FDI nhiều hơn các nước phát triển.
7
6 />7 />25

×