Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Hoạt động sát nhập, mua lại ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.33 KB, 15 trang )

Mục lụ
1
Danh mục các từ viết tắt
- M&A: mua bán và sáp nhập
- NH: ngân hàng
- HTX: hợp tác xã
- TMCP: thương mại cổ phần
- NHTMCP: ngân hàng thương mại cổ phần
- NHTM: ngân hàng thương mại
- TCTD: tổ chức tín dụng
-
2
LỜI MỞ ĐẦU
Tại Việt Nam, thị trường mua bán và sáp nhập (M&A) diễn ra sôi động trong thời gian
vừa qua với khá nhiều thương vụ lớn. Trên thế giới, hoạt động M&A không còn là hoạt
động mới nhưng đối với Việt Nam, đây là một hướng đi khá mới mẻ, nhất là trong giai
đoạn khủng hoảng kinh tế đang diễn ra . Bên cạnh đó, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam
đang đứng trước cơ hội lớn về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tuy nhiên, nếu chỉ thu hút vốn đầu tư nước ngoài theo các hình thức
truyền thống thì không đón bắt được xu hướng đầu tư nước ngoài, vì vậy, luật Việt Nam
đã bổ sung thêm hình thức đầu tư mới là M&A. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng thúc
đẩy hoạt động đầu tư, tuy nhiên để hoạt động M&A phát triển và là công cụ hữu hiệu,
hoạt động hiệu quả thì cần phải có những bước đi đúng hướng và hợp lý để từng bước
xây dựng nên một thị trường M&A hiệu quả tại Việt Nam.
3
TỔNG QUAN VỀ SÁP NHẬP, MUA LẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Khái niệm về sáp nhập và mua lại.
Tại Việt Nam khái niệm sáp nhập, mua lại và hợp nhất được quy định rải rác ở các
văn bản quy phạm pháp luật khác nhau và hiện chưa có một khung pháp luật hoàn
chỉnh và thống nhất điều chỉnh lĩnh vực này.
Theo điều 152 & 153 - luật Doanh nghiệp 2005 quy định:


Hợp nhất doanh nghiệp: “Hai hoặc một số công ty cùng loại có thể hợp nhất thành một công ty
mới bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty hợp
nhất, đồng thời chấm dứt tồn tại của các công ty bị hợp nhất”.
Sáp nhập doanh nghiệp: “Một hoặc một số công ty cùng loại có thể sáp nhập vào một công ty
khác bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận
sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập”.
Trong Luật Doanh nghiệp lại không đề cập đến hoạt động mua bán doanh nghiệp
mà được nhắc đến trong điều 17 - luật Cạnh tranh 2004:
“Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh
nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”.
Tuy nhiên, theo Thông tư Số 04/2010/TT-NHNN Quy định việc sáp nhập, hợp nhất, mua
lại tổ chức tín dụng ta có thể tìm thấy cả 3 định nghĩa này:
Sáp nhập tổ chức tín dụng là hình thức một hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng bị sáp nhập) sáp nhập vào một tổ chức tín dụng khác (sau đây gọi là tổ chức tín
dụng nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang
tổ chức tín dụng nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của tổ chức tín dụng bị sáp nhập.
Hợp nhất tổ chức tín dụng là hình thức hai hoặc một số tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ
chức tín dụng bị hợp nhất) hợp nhất thành một tổ chức tín dụng mới (sau đây gọi là tổ chức tín
dụng hợp nhất) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang tổ
chức tín dụng hợp nhất, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các tổ chức tín dụng bị hợp nhất.
Mua lại tổ chức tín dụng là hình thức một tổ chức tín dụng (sau đây gọi là tổ chức tín dụng
mua lại) mua toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của tổ chức tín dụng khác (tổ
chức tín dụng bị mua lại). Sau khi mua lại, tổ chức tín dụng bị mua lại trở thành công ty trực
thuộc của tổ chức tín dụng mua lại.
Như thế để có một thương vụ sáp nhập, mua lại hay hợp nhất là các doanh nghiệp
phải cùng loại hình và có sự chấm dứt hoạt động kinh doanh của một hoặc cả các bên
tham gia. Cùng với các quy định về việc thành lập doanh nghiệp mới, việc chuyển toàn
4
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích, ta có cơ sở để xác định hình thức chính xác một
thương vụ.

II. Phân loại sáp nhập và mua lại.
1. Sáp nhập.
 Dựa trên mức độ liên hệ giữa hai tổ chức:
 Sáp nhập theo chiều ngang:
Là sự sáp nhập giữa các công ty cạnh tranh trực tiếp về cùng lĩnh vực kinh doanh và
cùng thị trường. Công ty bị sáp nhập là đối thủ cạnh tranh trước đây. Đây là loại hình
sáp nhập chiếm tỷ trọng lớn nhất. Kết quả từ sự sáp nhập theo dạng này sẽ đem lại cho
bên sáp nhập cơ hội mở rộng thị trường, kết hợp thương hiệu, giảm chi phí cố định, tăng
cường hiệu quả của hệ thống phân phối và hậu cần.
Do vậy, khi hai đối thủ cạnh tranh trên thương trường kết hợp lại với nhau thì họ
không những làm giảm bớt cho mình một đối thủ mà còn tạo nên một sức mạnh lớn hơn
để đương đầu với các đối thủ còn lại. Đa số các vụ sáp nhập theo chiều ngang diễn ra
trong các ngành ô tô, dược, viễn thông, dầu khí, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán….
 Sáp nhập theo chiều dọc:
Sáp nhập theo chiều dọc diễn ra giữa các công ty nằm ở những giai đoạn khác nhau
của một quy trình sản xuất hoặc cung cấp dịch vụ hay là khách hàng của nhau. Các công
ty sáp nhập theo chiều dọc có quan hệ người mua- người bán với nhau. Một công ty có
thể sáp nhập với một công ty là nhà cung cấp của nó hoặc một công ty có quan hệ thân
cận trong hệ thống phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng.
Sáp nhập theo chiều dọc đem lại cho công ty tiến hành sáp nhập lợi thế về đảm bảo
và kiểm soát chất lượng nguồn hàng hoặc đầu ra sản phẩm, giảm chi phí trung gian,
khống chế nguồn hàng hoặc đầu ra của đối thủ cạnh tranh.
 Sáp nhập tổ hợp:
Sáp nhập tổ hợp là trường hợp xảy ra đối với các công ty hoạt động ở các lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh không liên quan tới nhau, không có quan hệ người mua - người
bán và cũng chẳng phải là đối thủ cạnh tranh của nhau. Nói cách khác, nếu một cuộc sáp
nhập không rơi vào hai trường hợp sáp nhập theo chiều dọc hoặc sáp nhập theo chiều
ngang thì đó là sáp nhập tổ hợp.
Những công ty theo đuổi chiến lược đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ sẽ lựa chọn
chiến lược liên kết thành lập tập đoàn.

 Dựa trên phạm vi lãnh thổ:
 Sáp nhập trong nước:
Đây là những thương vụ sáp nhập, mua lại giữa các công ty trong cùng lãnh thổ một
quốc gia.
5
 Sáp nhập xuyên biên giới:
Được thực hiện giữa các công ty thuộc các quốc gia khác nhau, là một trong những
hình thức đầu tư trực tiếp phổ biến nhất hiện nay.
2. Mua lại.
 Mua lại mang tính thù nghịch.
Là một hoạt động mà không được sự ủng hộ của công ty bị mua lại. Việc mua lại có
thể ảnh hưởng xấu đến công ty bị mua lại và đôi khi gây tổn hại đến cả bên mua lại.
Hoạt động này diễn ra khi công ty mua lại thực hiện việc mua lại cổ phiếu của công ty bị
mua lại thông qua phương thức lôi kéo cổ đông bất mãn, mua gom dần cổ phiếu trên thị
trường, và các phương thức khác khi mà không đạt được sự đồng thuận hay biết trước
của ban điều hành công ty bị mua lại. Cổ đông của công ty bị mua lại được trả tiền hoặc
hoán đổi cổ phiếu và hoàn toàn mất quyền kiểm soát công ty.
 Mua lại có thiện chí.
Là một hoạt động mà được ban quản lý của công ty bị mua lại đồng ý và ủng hộ trên
cơ sở thương lượng giữa hai bên. Việc mua lại đó có thể bắt nguồn từ lợi ích chung của
cả hai bên.
III. Các phương thức thực hiện sáp nhập và mua lại ngân hàng.
1. Thương lượng tự nguyện.
Đây là cách thực hiện khá chủ yếu trong các thương vụ sáp nhập và mua lại ngân
hàng. Khi cả hai ngân hàng đều nhận thấy lợi ích chung tiềm tàng của thương vụ sáp
nhập hoặc họ dự đoán được tiềm năng phát triển vượt trội của ngân hàng sáp nhập ban
điều hành sẽ ngồi lại với nhau để thương thảo hợp đồng sáp nhập. Có những ngân hàng
nhỏ và yếu trong thời kỳ khủng hoảng của nền kinh tế đã tự động tìm đến các ngân
hàng lớn hơn để đề nghị sáp nhập với nhau tạo thành ngân hàng lớn hơn, mạnh hơn đủ
sức vượt qua những khó khăn của thời kỳ khủng hoảng và nâng cao khả năng cạnh

tranh với các ngân hàng lớn hơn.
2. Thu gom cổ phiếu trên thị trường chứng khoán.
Việc mua lại bắt nguồn từ ngân hàng lớn hơn hoặc từ đối thủ cạnh tranh, ngân hàng
có ý định mua lại tiến hành thu gom dần cổ phiếu trên thị trường chứng khoán hoặc
nhận chuyển nhượng của các nhà đầu tư chiến lược, các cổ đông nhỏ lẻ. Khi việc thu
gom cổ phiếu của ngân hàng mục tiêu đủ khối lượng cần thiết để triệu tập cuộc họp đại
hội đồng cổ đông bất thường thì ngân hàng thu mua yêu cầu họp và đề nghị mua hết số
cổ phiếu còn lại của các cổ đông. Cách thức này đòi hỏi thời gian dài, hơn nữa nếu để lộ
ý định ra bên ngoài thì giá cổ phiếu của ngân hàng mục tiêu sẽ có thể tăng vọt trên thị
trường. Ngược lại, nếu cách thức này diễn ra dần dần và trôi chảy, ngân hàng mua lại có
thể đạt được mục tiêu của mình một cách êm thấm mà không gây xáo động lớn cho
6
ngân hàng mục tiêu, trong khi đó chỉ phải trả một mức giá thấp hơn cách thức chào thầu
rất nhiều.
3. Chào thầu.
Ngân hàng hoặc cá nhân hoặc nhóm nhà đầu tư có ý định mua lại toàn bộ ngân hàng
mục tiêu đề nghị cổ đông hiện hữu của ngân hàng này bán lại cổ phiếu của họ với giá
cao hơn giá thị trường rất nhiều. Giá chào thầu đó có đủ hấp dẫn để đa số cổ đông tán
thành việc từ bỏ quyền sở hữu cũng như quản lý ngân hàng mình.
Hình thức chào thầu thường áp dụng trong các vụ thôn tính mang tính thù địch đối
thủ cạnh tranh. Ngân hàng mục tiêu thường là ngân hàng yếu hơn. Tuy vậy, vẫn có một
số trường hợp một ngân hàng nhỏ nuốt được một đối thủ nặng ký hơn, đó là khi họ huy
động được nguồn tài chính khổng lồ từ bên ngoài để thực hiên được vụ thôn tính.
Điểm đáng chú ý trong thương vụ chào thầu là ban quản trị ngân hàng mục tiêu bị
mất quyền định đoạt, bởi vì đây là sự trao đổi trực tiếp giữa ngân hàng thu mua và cổ
đông của ngân hàng mục tiêu, trong khi ban quản trị (thường là người đại diên do đó
trực tiếp không nắm đủ số lượng cổ phiếu chi phối) bị gạt ra bên ngoài. Thông thường
ban quản trị, các vị trí chủ chốt của ngân hàng mục tiêu sẽ bị thay thế, mặc dù thương
hiệu và cơ cấu tổ chức của nó vẫn có thể được giữ lại mà không nhất thiết bị sáp nhập
hoàn toàn vào ngân hàng mua lại. Để chống lại vụ sáp nhập bất lợi cho mình, ban quản

trị ngân hàng mục tiêu có thể chiến đấu lại bằng cách tìm kiếm sự trợ giúp, bảo lãnh tài
chính mạnh hơn, để có thế đưa ra mức giá mua cổ phần của các cổ đông hiện hữu đang
ngã lòng.
4. Mua tài sản.
Phương thức này cũng gần tương tự như phương thức chào thầu. Ngân hàng thu
mua có thể đơn phương hoặc cùng ngân hàng mục tiêu định giá tài sản của ngân hàng
đó (họ thường tham khảo giá của công ty tư vấn định giá tài sản độc lập chuyên nghiệp
thực hiện). Sau đó các bên sẽ thương thảo để đưa ra các mức giá phù hợp (có thể cao hơn
hoặc thấp hơn mức giá mà công ty tư vấn định giá tài sản chuyên nghiệp). Phương thức
thanh toán có thể bằng tiền mặt hoặc nợ. Điểm hạn chế của phương thức này là các tài
sản vô hình như thương hiệu, thị phần, hệ thống khách hang nhân sự, văn hóa doanh
nghiệp rất khó được định giá và được các bên thống nhất.
5. Lôi kéo cổ đông bất mãn.
Phương thức này cũng thường được sử dụng trong các thương vụ thôn tính mang
tính thù địch.
Khi lâm vào tình cảnh kinh doanh yếu kém và thua lỗ, luôn có một bộ phận không
nhỏ cổ đông bất mãn và muốn thay đổi ban quản trị và điều hành ngân hàng mình.
Ngân hàng có lợi thế cạnh tranh có thể lợi dụng tình hình này để lôi kéo bộ phận cổ
đông đó. Trước tiên thông qua thị trường, họ sẽ mua một số lượng cổ phần tương đối
lớn (nhưng chưa đủ chi phối) cổ phiếu trên thị trường để trở thành cổ đông của ngân
7
hàng mục tiêu. Sau khi nhận được sự ủng hộ, họ và các cổ đông bất mãn sẽ triệu tập
cuộc họp đại hội đồng cổ đông, hội đủ số lượng cổ phần chi phối để loại bỏ ban quản trị
cũ và bầu đại diện ngân hàng thu mua vào hội đồng quản trị mới. Cảnh giác với hình
thức thôn tính này, ban quản trị có thể sắp đặt các nhiệm kỳ của ban điều hành và ban
quản trị xen kẽ nhau ngày từ trong điều lệ ngân hàng. Bởi vì mục đích cuối cùng của
ngân hàng thu mua và cổ đông bất mãn là thay đổi ban điều hành.
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN VÀ SÁP NHẬP CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
TẠI VIỆT NAM
I. Hoạt động mua bán, sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam thời kỳ trước năm 2008.

Vào những năm 1992-1993, tại khu vực TP.HCM đã xảy ra những vụ sáp nhập NH
mang tính chất sơ khai. Đầu tiên là các cơ quan sản xuất, kinh doanh có vốn bị vỡ nợ
như: Nước hoa Thanh Hương, Đại Thành, Xacogiva , rồi đến sự phá sản và giải thể của
các hợp tác xã (HTX) tín dụng, quỹ tín dụng kéo dài từ những năm 1989-1990, dã xảy ra
những biến động lớn, buộc một số HTX tín dụng còn lại đã hợp nhất hình thành nên
những NH thương mại cổ phần đầu tiên trên địa bàn TP.HCM (ngoại trừ Eximbank,
Saigon Bank và HDB), để thỏa các điều kiện theo khuôn khổ các quy định của các pháp
lệnh về NH. Nếu như năm 1991 chỉ mới có 9 ngân hàng thương mại, trong đó có đến 4
ngân hàng quốc doanh thì đến năm 1993 số lượng ngân hàng thương mại đã tăng lên
đến 56 trong đó có đến 41 ngân hàng thương mại cổ phần. Một số trường hợp điển hình
như:
• Vào ngày 21/12/1991, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) được thành
lập và đi vào hoạt động trên cơ sở chuyển thể Ngân hàng phát triển kinh tế Gò
Vấp và sáp nhập với ba hợp tác xã tín dụng Tân Bình, Thành Công, Lữ Gia.
• Ngân hàng TMCP Phát triển Mê Kong thành lập năm 1992, tiền thân là ngân hàng
TMCP nông thôn Mỹ Xuyên, với trụ sở chính đặt tại thành phố Long Xuyên, tỉnh
An Giang
• Ngân hàng TMCP Gia Định thành lập năm 1992 trên cơ sở hợp nhất 2 HTX Tín
dụng Bạch Đằng và Kỹ Thương.
• Ngân hàng Tân Việt thành lập năm 1992 trên cơ sở sáp nhập HTX Tín dụng
Thống Nhất ( Quận Tân Bình) và HTX Tín dụng Phú Đông ( Quận Phú Nhuận).
• Ngân hàng Đệ Nhất thành lập năm 1993 trên cơ sở chuyển đổi HTX tín dụng Q5.
• Ngân hàng Quế Đô thành lập trên cơ sở chuyển đổi HTX Tín dụng Phong Phú.
• Ngoài ra còn có sự hình thành của một số ngân hàng khác như: Nam Á, Đại Nam,
Nam Đô, Việt Hoa, Phương Nam và Nông Thôn An Bình.
• Ngân hàng Phương Nam: sáp nhập Ngân hàng TMCP Đồng Tháp năm 1997, sáp
nhập Ngân hàng TMCP Đại Nam năm 1999, năm 2000 mua Quỹ tín dụng Nhân
Dân Định Công Thanh Trì Hà Nội, năm 2001 sáp nhập Ngân hàng TMCP Nông
thôn Châu Phú, Năm 2003 sáp nhập Ngân hàng TMCP Nông thôn Cái Sắn (Cần
Thơ).

8
• Ngân hàng Sacombank: sáp nhập Ngân hàng TMCP PNT Thạnh Thắng (Cần Thơ)
năm 2001.
• Ngân hàng Đông Á: sáp nhập Ngân hàng TMCP PNT Tân Hiệp ( Kiên Giang)
năm 2004.
So với các Ngân hàng khác, Phương Nam trong thời kỳ đó được xem là đã sáp
nhập nhiều ngân hàng nông thôn nhất. Những hệ quả sáp nhập khá âm thầm, ít có
thông tin. Còn những nguyên do, động cơ trước sáp nhập nghe nói cũng khá tế nhị: có
những trường hợp bất đắc dĩ, bị ép uổng, thẩm chí chỉ đơn giản là trừ nợ.
II. Hoạt động mua bán, sáp nhập ngân hàng tại Việt Nam giai đoạn sau 2008 và sự
tham gia vốn các yếu tố nước ngoài vào ngân hàng tại Việt Nam.
Kết quả tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam rất khả quan. Cụ thể có
đến 13 NHTMCP có vốn nhà đầu tư nước ngoài tham gia và nhìn chung, 13 NHTM này
đều không nằm trong đối tượng của những Ngân hàng yếu kém, thậm chí phần lớn
thuộc nhóm đầu. Ví dụ:
• Mizuho Corporate Bank. Ltd nắm giữ ~15% cổ phần của ngân hàng Vietcombank
và trở thành đối tác chiến lược.
• HSBC nắm giữ ~19.5% cổ phần của ngân hàng Techcombank.
• Maybank nắm giữ ~20% và IFC nắm giữ ~10% cổ phần của ngân hàng An Bình
(Abbank).
• The Bank of Tokyo - Mitsubishi (UFJ) nắm giữ ~19.7% cổ phần của ngân hàng
Vietinbank.
Cho đến nay các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu của các TCTD Việt Nam đang
được thực hiện theo nghị định số 69/2007/NĐ-CP. Nghị định quy định rõ, cụ thể về tỷ lệ
sở hữu tối đa của một nhà đầu tư, của đối tác chiến lược và tổng tỷ lệ sở hữu của các nhà
đầu tư nước ngoài tại một TCTD Việt Nam.
Tuy nhiên, gần đây với sự ra đời của Nghị định 01/2014/NĐ-CP thay thế cho Nghị
định 69/2007/NĐ-CP hứa hẹn sẽ mang đến cơ hội để các nhà đầu tư thâm nhập sâu hơn
vào thị trường Việt Nam và ý nghĩa hơn là tham gia vào quá trình tái cơ cấu TCTD Việt
Nam bằng việc tăng tỷ lệ sỡ hữu cổ phần mà các nhà đầu tư ngoại có thể nắm giữ tại cái

TCTD. Việc mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài tại cá TCTD là trên cơ sở tự nguyện
và sự lựa chọn đối tác của TCTD Việt Nam. Vì vậy trong thời gian qua các TCTD Việt
Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài đạt được những thành tựu đáng kể như:
tăng năng lực tài chính thông qua tăng vốn điều lệ và thặng dư vốn cổ phần; năng lực
điều hành thông qua tái cơ cấu bộ máy, tư vấn, đào tạo của TCTD nước ngoài, mở rộng
nghiệp vụ hoạt động, mở rộng quan hệ đại lý Cụ thể tại điều 7, Nghị định
01/2014/NĐ-CP:
“Điều 7. Tỷ lệ sở hữu cổ phần đối với nhà đầu tư nước ngoài
1. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một cá nhân nước ngoài không được vượt quá 5% vốn điều lệ của
một tổ chức tín dụng Việt Nam.
9
2. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài không được vượt quá 15% vốn điều lệ của
một tổ chức tín dụng Việt Nam trừ trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều này.
3. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20%
vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam.
4. Tỷ lệ sở hữu cổ phần của một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan của nhà đầu
tư nước ngoài đó không được vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng Việt Nam.
5. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài không vượt quá 30% vốn điều
lệ của một ngân hàng thương mại Việt Nam. Tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư
nước ngoài tại một tổ chức tín dụng phi ngân hàng Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp
luật đối với công ty đại chúng, công ty niêm yết.
6. Trong trường hợp đặc biệt để thực hiện cơ cấu lại tổ chức tín dụng yếu kém, gặp khó
khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, Thủ tướng Chính phủ quyết định tỷ lệ
sở hữu cổ phần của một tổ chức nước ngoài, một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài, tổng
mức sở hữu cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng cổ phần yếu
kém được cơ cấu lại vượt quá giới hạn quy định tại các Khoản 2, 3, 5 Điều này đối với
từng trường hợp cụ thể.
7. Tỷ lệ sở hữu quy định tại các Khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6 Điều này bao gồm cả phần vốn nhà đầu tư
nước ngoài ủy thác cho tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần.
8. Nhà đầu tư nước ngoài chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi của tổ chức tín dụng Việt Nam sang

cổ phiếu phải đảm bảo tỷ lệ sở hữu cổ phần, điều kiện sở hữu cổ phần theo quy định tại Nghị định
này.”
Thêm vào đó, khoản 6 của điều này là một điểm nổi trội đầy hứa hẹn trong quá trình
tái cấu trúc hệ thống Ngân hàng đang “ăn chẳng ngon mà còn bội thực” hiện nay của
chúng ta, và đây cũng là cơ hội cho không chỉ các Ngân hàng mà còn các nhà đầu tư từ
đủ mọi lĩnh vực có thể tham gia vào lĩnh vực Ngân hàng.
Nhưng có lẽ trước hết, chúng ta nên có một tư duy thống nhất đối với hoạt động mua
bán, sáp nhập đặc biệt trong lĩnh vực Ngân hàng và hoàn thiện các cơ sở pháp lý để
không rối mù không biết nên dùng luật gì như hiện nay. Cụ thể như trên đã nói:
Luật Cạnh tranh 2004 đề cập đến hoạt động sáp nhập, mua lại doanh nghiệp như một
hình thức tập trung kinh tế ở Điều 17.
• Luật Doanh nghiệp 2005 lại không đề cập đến hoạt động mua lại doanh nghiệp
nói chung mà chỉ quy định việc bán doanh nghiệp tư nhân (Ðiều 145) và xem xét
sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp như là hình thức tổ chức lại doanh nghiệp xuất
phát từ nhu cầu tự nguyện của doanh nghiệp (Ðiều 152 và 153).
• Luật Đầu tư 2005 coi việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp như một trong các
hình thức đầu tư trực tiếp (Ðiều 21).
10
• Trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
04/2010/TT-NHNN ngày 11.02.2010 hướng dẫn về hoạt động sáp nhập, hợp nhất,
mua lại tổ chức tín dụng. Nhưng đến nay, Thông tư số 04 nêu trên đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập, đặc biệt là Thông tư số 04 được ban hành trước khi Luật Các tổ
chức tín dụng, trong đó cho phép tổ chức tín dụng được tổ chức lại dưới hình
thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý sau khi được
Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản (Điều 153); đồng thời giao Ngân
hàng Nhà nước quy định cụ thể điều kiện, hồ sơ, trình tự, thủ tục chấp thuận việc
tổ chức lại tổ chức tín dụng.
Có lẽ, trong tương lai sắp đến hoạt động mua bán, sáp nhập các Ngân hàng sẽ càng
diễn ra sôi nổi và phức tạp hơn nữa. Nếu chúng ta không chịu nhìn nhận và chấp nhận
hoạt động này theo hướng cởi mở và thống nhất, rất có thể còn lâu chúng ta mới có thể

cải thiện tình trạng đua nhau mở ngân hàng mà hoạt động yếu kém như hiện nay, và
không chỉ vậy các ngân hàng đang hoạt động tương đối tốt cũng sẽ chậm phát triển đổi
mới cho phù hợp với Thế giới.
MỘT SỐ ĐIỂM LƯU Ý VÀ KIẾN NGHỊ HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG MUA BÁN & SÁP NHẬP
I. Những điểm cần lưu ý trong hoạt động sáp nhập và mua lại:
 Cần có thông tin và kinh nghiệm cần thiết để nhận diện bên mua tiềm năng.
Bên bán cần thực hiện một cách cụ thể bên mua tiềm năng một cách đầy đủ trước khi
thực hiện hoạt động sáp nhập và mua lại. Cần xác định bên mua về khả năng tài chính,
kế hoạch đầu tư, có mục tiêu và thoái đầu tư cụ thể, có kinh nghiệm chuyên môn, có
lượng thông tin thị trường và các phân tích cần thiết. Bên bán tham gia vào tiến trình
giao dịch một cách tự tin và thực hiện các bước công đoạn hiệu quả nhất. Hơn thế nữa
bên bán sẽ có được sự kiểm soát rủi ro tốt hơn từ phía mình.
Không hiếm khi ngay sau khi thông báo về kế hoạch mua, giá cổ phiếu của công ty
bắt đầu giảm xuống. Đây là thước đo cho thấy rằng thị trường coi việc sáp nhập là sai
lầm.
Các bên cũng cần cẩn trọng với sáp nhập với công ty ngang hàng vì khi đó sẽ có
nhiều trở ngại khi một bên phải chấp nhận các hành động, chính sách hay con người của
bên kia.
 Có một kế hoạch hợp lý cho việc sáp nhập và mua lại để tận dụng cơ hội khi thực
hiện giao dịch.
Ngoại trừ một số bên bán tiềm năng có được sự tư vấn ngay từ đầu, không ít bên bán
trước khi đi tới quyết định về giao dịch, ra sức củng cố công ty mình với hy vọng tài sản
hay vốn sẽ được mua với giá cao hơn và giao dịch được thực hiện thuận lợi hơn. Điều
này là cần thiết để hướng công ty tới một vị thế giá trị mới hay nói cách khác, công ty sẽ
11
có một nền tảng định giá tốt hơn. Tuy nhiên những cải thiện và thay đổi thường cần
nhiều thời gian để thành công. Trong khi đó, cơ hội nắm bắt được bên mua tiềm năng
không phải quá nhiều.
Bên bán cần có một kế hoạch khi muốn thực hiện một giao dịch và phân bố các công

việc cần làm trong từng thời gian cụ thể, xác định những việc cần thực hiện, bỏ qua
những công việc không thực sự cần thiết để tận dụng thời điểm kiếm được bên mua
tiềm năng.
 Cần sử dụng đội ngũ tư vấn và có tính hợp tác để có một mức giá hợp lý cho cả hai
bên mua và bán.
Định giá về lý thuyết, được xem là cơ sở lý luận cần thiết để xúc tiến một giao dịch
tài chính. Tuy nhiên tùy vào tình hình thị trường mà ảnh hưởng của kết quả định giá có
thể được xem ở các mức độ quan trọng khác nhau.
Không tồn tại phương pháp tài chính hoàn hảo nào tính toán lợi ích việc sáp nhập.
Phương pháp quy đổi dòng tiền tương lai thường hay được sử dụng nhưng phức tạp và
đôi khi không chính xác. Ngoài ra, còn những sai lầm trong công tác đánh giá tài sản và
các khoản nợ.
Nếu các thỏa thuận chịu nhiều sức ép lớn khi phải cạnh tranh với nhiều đối thủ khác
cũng muốn mua lại thường bên mua bắt đầu nhượng bộ. Đến khi các thỏa thuận được
hoàn tất, bên bán bỗng nhiên có nhiều lợi ích và quyền hạn, giá của người chiến thắng
thường cao hơn so với giá thực thế.
 Tìm hiểu kỹ vấn đề pháp lý trước khi thực hiện giao dịch.
Khi tiến hành sáp nhập, bên mua phải đối mặt với những vấn đề khá phức tạp như
các quy định của luật pháp về độc quyền, thuế, kế toán, chuyển đổi tài sản, trách nhiệm
giải quyết các khoản nợ chưa thanh toán, phân chia lợi nhuận, tính toán các vấn đề hậu
sáp nhập làm sao cho giá trị ngân hàng ngày càng tăng để hấp dẫn nhà đầu tư. Nếu
không phân tích kỹ các vấn đề trên và các yếu tố pháp lý đi kèm thì nguy cơ thất bại cao.
Một số nước, khi sáp nhập các công ty có tổng giá trị tài sản lớn hoặc chiếm một thị
phần lớn sau khi sáp nhập thì cần phải có sự đồng ý của chính phủ do luật về chống độc
quyền. Nếu như công ty vi phạm quy định này, nó sẽ bị xử phạt. Ngoài ra, chính phủ có
thể đưa ra những khuôn khổ hoạt động của công ty trên thị trường, và do vậy có khi
không đem lại lợi ích từ sáp nhập và mua lại hoặc thậm chí đòi hòi hủy bỏ hợp đồng
thông qua tòa án.
 Chuẩn bị các vấn đề hậu sáp nhập và mua lại để có một thương vị thành công.
Quá trình hòa nhập các hoạt động kinh doanh, các bộ phận chức năng của các bên

sau khi kết thức một thương vụ sáp nhập và mua lại có thể xảy ra một số vấn đề mà hai
bên chuẩn bị trước để mang đến hiệu quả cho một thương vụ.
12
Các bên chưa coi trọng thế mạnh sản phẩm, dịch vụ của nhau, hoặc không chuẩn
giao đầy đủ kỹ năng, thế mạnh của từng bên.
Việc không dung hợp giữa các nền văn hóa công ty khi chính là nguyên nhân thất bại
của nhiều cuộc sáp nhập. Các nhà quản lý bên mua thường mắc một sai lầm lớn khi tự
cho mình nhiều quyền hạn hơn trong việc áp đặt sự giám sát khắt khe đôi khi hơi thái
quá của mình đối với bên bán.
II. Một số đề xuất, kiến nghị.
 Cần sớm xây dựng, hoàn thiện và ban hành Thông tư thay thế Thông tư số
04/2010/TT-NHNN ngày 11 tháng 02 năm 2010:
Ngân hàng thương mại là loại hình doanh nghiệp đặc thù, hoạt động trong lĩnh vực,
ngành nghề kinh doanh có điều kiện. Khác với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực khác, ngân hàng là định chế tài chính trung gian với chức năng thường
xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi, cấp tín dụng, cung cấp dịch vụ thanh toán qua tài
khoản. Ðối tượng kinh doanh của ngân hàng không phải là hàng hóa, dịch vụ thông
thường như các doanh nghiệp khác mà là hàng hóa đặc biệt (tiền mặt, vàng, giấy tờ có
giá và các dịch vụ thanh toán ), dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại
hàng hóa khác. Xuất phát từ đặc thù đó, hoạt động huy động vốn tiền gửi tiết kiệm và
cấp tín dụng của ngân hàng được kiểm soát và điều chỉnh rất chặt chẽ bằng các văn bản
quy phạm pháp luật chuyên ngành trong từng thời kỳ. Do đó, như đã nêu ở trên, vì mục
tiêu điều chỉnh hoạt động mua bán và sáp nhập tại các văn bản quy phạm pháp luật
khác nhau là không giống nhau, nên việc ngân hàng vận dụng những quy định của
pháp luật chung để tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập là không phù hợp. Vì vậy,
hoạt động mua bán và sáp nhập ngân hàng cần có văn bản quy phạm pháp luật chuyên
biệt hướng dẫn, điều chỉnh cho phù hợp với lĩnh vực kinh doanh đặc thù này, đáp ứng
yêu cầu tại Ðiều 153 Luật Các tổ chức tín dụng 2010 và bảo đảm phù hợp với thông lệ
quốc tế.
 Cần minh bạch và công khai thông tin tài chính của các tổ chức tín dụng:

Hiện nay vẫn có rất ít ngân hàng thương mại có cổ phiếu niêm yết trên Sở Giao dịch
chứng khoán thực hiện việc công bố thông tin tài chính theo quy định của Bộ Tài chính.
Do đó, việc nhà đầu tư tìm kiếm thông tin, tìm hiểu tình hình tài chính của phần đông
các ngân hàng thương mại còn lại (các ngân hàng chưa niêm yết cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán) là rất khó khăn hoặc thông tin không được công bố đầy đủ, kịp thời dẫn
đến việc đánh giá tình hình tài chính của các ngân hàng này không toàn diện, đầy đủ,
chính xác. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật quy định về công bố thông tin (trong đó có các chế tài thích hợp nếu không
tuân thủ) áp dụng đối với tất cả các ngân hàng thương mại nhằm bảo đảm tính công
khai, minh bạch về thông tin tài chính như các ngân hàng có cổ phiếu niêm yết trên Sở
Giao dịch chứng khoán.
 Cần có văn bản hướng dẫn về quy trình, thủ tục mua bán và sáp nhập:
13
Pháp luật hiện hành mới chỉ xác lập nguyên tắc và hình thức pháp lý cho các hoạt
động mua bán và sáp nhập, theo đó, ngân hàng thương mại phải thực hiện các thủ tục
liên quan để giao dịch mua bán và sáp nhập có hiệu lực và các thủ tục, trình tự tại các cơ
quan/bộ phận có thẩm quyền của cơ quan chức năng trong quá trình thẩm định, phê
duyệt giao dịch mua bán và sáp nhập ngân hàng. Trong khi đó, quy trình, thủ tục mua
bán và sáp nhập ngân hàng dường như chưa được hướng dẫn hoặc được quy định cụ
thể trong các văn bản quy phạm pháp luật để tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng
tham gia thực hiện. Do đó, các ngân hàng thương mại Việt Nam thiếu cơ sở để chủ động
tham gia quá trình mua bán và sáp nhập với đối tác, nhất là đối tác mua lại là tổ chức tín
dụng nước ngoài.
 Cần hướng dẫn chi tiết về thủ tục sau hợp nhất và sáp nhật để bảo vệ quyền lợi của
các cổ đông:
Cho đến nay, pháp luật nước ta vẫn chưa hướng dẫn cụ thể các thủ tục sau mua bán
và sáp nhập để bảo vệ quyền lợi của cổ đông bên bị sáp nhập, bên mua lại. Trong hoạt
động sáp nhập, sau sáp nhập, vốn cổ phần của ngân hàng nhận sáp nhập tăng lên và tỷ
lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông ngân hàng bị sáp nhập giảm xuống dẫn đến tiếng nói
của họ tại các kỳ họp Ðại hội đồng cổ đông không còn được coi trọng, có tính chất quyết

định như trước đây nữa. Ðể tiếp tục duy trì vai trò và bảo vệ lợi ích của mình tại ngân
hàng mới (ngân hàng nhận sáp nhập), cổ đông của ngân hàng bị sáp nhập có thể phải
chấp nhận các điều kiện, yêu cầu của ngân hàng nhận sáp nhập.
Trên đây chỉ là một số vấn đề trong cả quá trình triển khai nhiều thủ tục sau mua
bán và sáp nhập ngân hàng (thu hồi giấy phép, chuyển nhượng cổ phần của các cổ đông
trong gian đoạn thực hiện thủ tục mua bán và sáp nhập, xây dựng và thông qua điều lệ,
xác định và đăng ký lại vốn điều lệ, xác định giá và tỷ lệ hoán đổi cổ phiếu ). Chính vì
lẽ đó, cơ quan có thẩm quyền cần xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn các thủ tục,
quy trình sau mua bán và sáp nhập để tạo điều kiện cho các bên thực hiện, bảo vệ quyền
lợi của cổ đông ngân hàng bị sáp nhập hoặc ngân hàng thâu tóm.
14
Kết luận
Tóm lại, hoạt động mua bán và sáp nhập là một xu thế phát triển tất yếu mang tính
khách quan và là một trong các giải pháp có tính chiến lược góp phần nâng cao năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Sự bất cập của pháp luật hiện hành và tính đặc thù của hoạt động ngân hàng rất cần các
văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành hướng dẫn cụ thể điều chỉnh hoạt động mua
bán và sáp nhập ngân hàng. Do vậy, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm xây
dựng, hoàn thiện và ban hành các văn bản hướng dẫn chuyên ngành phù hợp với các
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên được ban hành gần đây và
thông lệ quốc tế để tạo hành lang pháp lý an toàn cho các ngân hàng thương mại Việt
Nam tham gia hoạt động mua bán và sáp nhập.
15

×