Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

Cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.12 KB, 25 trang )

MỞ BÀI
Cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường cùng với xu hướng
ngày càng hội nhập và mở cửa ra thị trường quốc tế. Trong đó, cạnh tranh trong lĩnh vực
ngân hàng là một vấn đề đáng quan tâm và đang diễn ra rất phức tạp ở Việt Nam hiện
nay. Mặc dù, thị trường dịch vụ ngân hàng được đánh giá là thị trường nhiều tiềm năng
và đang phát triển rất mạnh. Song, từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của WTO, điều này đã có tác động không nhỏ đến hệ thống ngân hàng cả nước nói chung
và từng ngân hàng nói riêng. Theo các cam kết mà Việt Nam phải tuân thủ thì nước ta sẽ
mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng ngày rộng và đa dạng hơn. Điều này đồng nghĩa
rằng cuộc cạnh tranh “ không cân sức” giữa các ngân hàng trong nước với nhau và giữa
ngân hàng trong nước với các ngân hàng nước ngoài sẽ trở nên khốc liệt và mạnh mẽ hơn
bao giờ hết.
Trong quá trình cạnh tranh đó, không thể tránh khỏi những bất cập đi kèm đó là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng thương mại. Điều này đã làm
ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng và quyền lợi
của Nhà nước và của người tiêu dùng.
Từ những thực tiễn trên, bài viết này nhằm mục đích giúp cho bạn đọc có cái nhìn
cụ thể về những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng, những
nguyên nhân – hệ quả và thực trạng áp dụng cũng như giải pháp làm giảm thiểu hành vi
cạnh tranh không lành mạnh và tăng cường môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các
ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
Với kinh nghiệm và kiến thức thực tiễn của chúng em - những sinh viên đang ngồi
trên ghế giảng đường, còn chưa đầy đủ và có nhiều thiếu sót cần được trau dồi và học hỏi
thêm, mong thầy và các bạn thông cảm và góp ý nhiệt tình vào bài viết để chúng em có
thể khắc phục những thiếu sót đó và hoàn thiện hơn trong những bài viết sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
1
CHƯƠNG 1: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
1. Tổng quan về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1 Khái niệm


Định nghĩa về “cạnh tranh không lành mạnh “được thừa nhận rộng rãi nhất hiện nay được quy
định tại
(1)
Điều 10 bis Công ước Paris: “(2) Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công
nghiệp và thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.” .Tiêu chí “trái với tập quán
trung thực trong công nghiệp và thương mại “không rõ ràng và ổn định. Bởi vì, ở mỗi quốc gia khác
nhau sẽ có điều kiện kinh tế, văn hóa, lịch sử , khác nhau dẫn đến các tập quán của mỗi quốc gia cũng
khác nhau. Việc để mở khái niệm về “cạnh tranh không lành mạnh “ của Công ước Paris là nhằm để cho
pháp luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Ví dụ: Tại Bỉ và Luxembourg các
tiêu chí này gọi là “thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là “nguyên tắc ngay
tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là “đạo đức kinh doanh”.
Còn tại Hoa Kỳ, một số các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các
nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”.
Còn theo quy định của pháp luật Việt Nam thì định nghĩa về “ hành vi cạnh tranh không lành
mạnh “được quy định tại Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh: “hành vi cạnh tranh không lành mạnh
là hành vi của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”. Định nghĩa về cạnh tranh không lành
mạnh của Luật cạnh tranh của nước ta cũng tương tự như định nghĩa của Điều 10 bis Công ước Paris và
pháp luật của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại định nghĩa này, một lần nữa có thể thấy
tiêu chí đánh giá về tính chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh chỉ được nêu chung chung là
“các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh”.
1.2 Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh có những đặc điểm cơ bản như sau:
+ Hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
Đây là đặc điểm thể hiện về đối tượng áp dụng của Luật cạnh tranh. Theo đó, chủ thể thực hiện
hành vi cạnh tranh là các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể,
các hiệp hội ngành nghề, cá nhân có đăng ký kinh doanh. Ngoài ra còn có các cơ quan quản lý nhà nước,
đơn vị sự nghiệp, các tổ chức của người tiêu dùng, các đơn vị truyền thông, các tổ chức phi kinh tế… tuy
không là đối tượng điều chỉnh trong quan hệ cạnh tranh nhưng vẫn tham gia vào quan hệ pháp luật về

cạnh tranh không lành mạnh.
Mặt khác, mỗi hành vi kinh doanh của một doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh
trong tương quan với các doanh nghiệp khác, do đó mọi hoạt động của doanh nghiệp đều có thể bị xem
xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ hay đạo đức kinh doanh và quy định về cạnh tranh không
lành mạnh có thể can thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế
2
Lưu ý rằng trên thực tế có thể phát sinh tình huống một số tổ chức phi kinh tế, các đơn vị
truyền thông… thực hiện những hành vi xâm phạm đến quyền cạnh tranh lành mạnh của doanh nghiệp,
ví dụ tung tin không trung thực về doanh nghiệp, về hàng hóa, dịch vụ…. tuy liên quan đến hoạt động
cạnh tranh của các chủ thể là doanh nghiệp ở trên nhưng đây là hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh và
vi phạm về các lĩnh vực pháp luật khác như pháp luật dân sự, báo chí…
+ Hành vi cạnh tranh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh
Đây là đặc điểm thể hiện bản chất không lành mạnh của hành vi cạnh tranh, đó là tính chất đối
lập, đi ngược lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh - có thể hiểu là những quy tắc xử
sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh trên thị trường. Pháp luật
cạnh tranh đã quy định một số nội dung sau:
• Quy định các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong Luật cạnh tranh như: Chỉ dẫn gây
nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh; ép buộc trong kinh doanh; gièm pha doanh nghiệp
khác; gây rối hoạt động kinh doanh của người khác; hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh; khuyến mại cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử trong hiệp
hội; bán hàng đa cấp bất chính và một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác ()
• Quy định giới hạn của một số hành vi cạnh tranh hoặc nghiêm cấm một số hành vi (ví dụ
pháp luật khuyến mại quy định giới hạn của giá trị khuyến mại)
• Quy định về việc vận dụng các tập quán kinh doanh thông thường đã được thừa nhận rộng
rãi được áp dụng đối với những hành vi chưa được pháp luật dự liệu là cạnh tranh không
lành mạnh
+ Hành vi gây thiệt hại, có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp khác
và người tiêu dùng
Đây là đặc điểm biểu hiện hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Hành vi cạnh
tranh không lành mạnh có thể gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần cho các đối tượng được pháp luật

bảo vệ như các đối thủ cạnh tranh, Nhà nước, người tiêu dùng và các chủ thể khác khi tham gia thị
trường.
Thiệt hại mà hành vi gây ra có thể đã xảy ra hoặc có căn cứ để xác định rằng hậu quả chắc chắn
sẽ xảy ra nếu không ngăn chặn hành vi đó. Do đó, một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh có cấu
thành vật chất như dèm pha doanh nghiệp khác; một số hành vi có cấu thành hình thức như hành vi
quảng cáo không trung thực….
Dưới góc độ lịch sử phát triển, những đặc điểm về hậu quả của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thay đổi theo thời gian phụ thuộc vào nhận thức của con người về tính nguy hại và mức độ xâm
hại của hành vi đó đối với lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ.
1.3 Bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
3
Xét từ gốc độ kinh tế, bản chất hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các hành vi chiếm đoạt
ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi hủy hoại ưu thế cạnh
tranh của doanh nghiệp khác hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
• Hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác, chẳng hạn bằng cách chiếm
đoạt các bí mật thương mại (vốn là các tài sản mà đối thủ cạnh tranh đã phải đầu tư rất
nhiều công sức mới có được) hoặc hành vi nhái nhãn mác, kiểu dáng, thương hiệu, tạo sự
nhầm lẫn trong khách hàng gây thiệt hại trực tiếp cho đối thủ cạnh tranh.
• Hành vi hủy hoại ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp khác như gièm pha đối thủ cạnh
tranh, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác v.v. khiến cho đối thủ cạnh
tranh bị mất uy tín, mất thời gian công sức để xử lý các vấn đề mới phát sinh cũng gây
ảnh hưởng trực tiếp cho đối thủ cạnh tranh.
• Hành vi tạo ưu thế cạnh tranh giả tạo thông qua việc quảng cáo gian dối, nhái thương
hiệu, kiểu dáng sản phẩm của doanh nghiệp khác v.v. vừa trực tiếp gây thiệt hại cho đối
thủ cạnh tranh lại vừa gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Bản chất pháp lý của hành vi cạnh tranh không lành mạnh chính là mọi hành vi trái với các
chuẩn mực trung thực và lành mạnh trong quan hệ thương mại, gây thiệt hại chủ yếu đến doanh nghiệp
là đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Các yếu tố cấu thành của cạnh tranh không lành mạnh
giống như các yếu tố cấu thành trách nhiệm dân sự truyền thống, đó là hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, lỗi, thiệt hại, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh thường được nhấn mạnh đến tính “không lành mạnh”, tức
là những hành vi cạnh tranh “không đẹp”, không phù hợp với đạo đức kinh doanh và có khả năng gây
thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu
dùng, làm thay đổi tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Từ những phân tích trên, bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh được thể hiện qua
những dấu hiệu sau:
• Đây là hành vi cạnh tranh của các chủ thể kinh doanh trong cùng một lĩnh vực nhất định
như ngân hàng, bảo hiểm, may mặc, da giầy ;
• Hành vi này phải nhằm tới những đối thủ cạnh tranh cụ thể, xác định được trên cùng một
phân khúc thị trường;
• Trái với các chuẩn mực đạo đức kinh doanh hoặc trái với pháp luật;
• Có thể gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng, Nhà nước hoặc các lợi ích xã
hội khác.
2. Phân tích các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo luật cạnh tranh
Từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, số lượng các doanh nghiệp ngày càng nhiều, quy mô lớn, tham gia hầu hết các lĩnh vực nền kinh
tế quốc dân, hoạt động cạnh tranh trở nên đa dạng, phức tạp và gay gắt. Các hành vi thoả thuận hạn chế
cạnh tranh, lạm dụng vị trí độc quyền sảy ra ngày càng nhiều. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là
hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về
đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước quyền và lợi ích hợp
4
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Nhóm liên quan đến sở hữu trí
tuệ
Chỉ dẫn
gây nhầm
lẫn
Xâm phạm
bí mật kinh
doanh

Nhóm các hành vi xâm phạm đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp khác
Ép buộc
trong kinh
doanh
Gièm pha
doanh
nghiệp khác
Gây rối hoạt
động kinh
doanh của
doanh nghiệp
khác
Nhóm các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong hoạt động xúc tiến thương mại
Quảng cáo
nhằm cạnh
tranh không
lành mạnh
Khuyến mãi
nhằm cạnh
tranh không
lành mạnh
Nhóm các hành vi khác
Phân biệt
đối xử
giữa các
hiệp hội
Bán hàng
đa cấp bất

chính
pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng. Dựa vào quy định trong điều 39 Luật cạnh tranh có
thể chia các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành 4 nhóm hành vi cơ bản như sau:
2.1Nhóm hành vi liên quan đến sở hữu trí tuệ:
Nhóm hành vi này điều chỉnh các hành vi thuộc phạm vi Sở hữu trí tuệ trong doanh nghiệp.
Đây là những hành vi xâm hại đến các đối tượng trên thông qua việc sử dụng trái phép, tiếp
cận, thu thập, tiết lộ trái phép các đối tượng trên. Hành vi thực hiện nhằm trục lợi bất chính từ
việc khai thác giá trị của các đối tượng liên quan đến sở hữu trí tuệ.
2.1.1 Chỉ dẫn gây nhầm lẫn:
Đó là những chỉ dẫn thương mại liên quan đến đặc tính để nhận biết hàng hoá, dịch vụ. Luật cạnh
tranh cấm doanh nghiệp sử dụng các chỉ dẫn thương mại làm sai lệch nhận thức của khách hàng và hàng
hoá dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh. Biểu hiện: Là việc sản xuất và cho lưu hành hàng hoá và sản
phẩm mà các dữ kiện và thông số về chúng là không trung thực.
Ví dụ: Vừa qua bộ y tế kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm. Sẩn phẩm sữa trên thị trường, kết quả
cho thấy nhiều loại sữa có chứa chất Melamin, nhiều loại sữa có hàm lượng chất đạm thấp hơn từ 1 - 30
lần như đã công bố trên sản phẩm. Hai kết qủa trên ảnh hưởng rất sấu cho sức khoẻ của người tiêu dùng,
nhất là trẻ em Việt Nam.
2.1.2 Xâm phạm bí mật kinh doanh:
Bí mật kinh doanh là thông tin không phải là những hiểu biết thông thường, có khả năng áp dụng
trong kinh doanh và khi được sử dụng sẽ tạo cho người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn so với người
5
không nắm giữ hoặc không sử dụng thông tin đó. Đây được coi là một bộ phận thuộc lợi ích hợp pháp
của từng doanh nghiệp nên chúng có nhu cầu được pháp luật bảo vệ.
2.2Các hành vi xâm phạm đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp khác:
Đối tượng của các hành vi này là hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp khác, tác động
đến khách hàng hoặc đối tác của các doanh nghiệp đó nhằm làm cho hoạt động kinh doanh
trở nên gián đoạn, cản trở, làm mất uy tín, mất khách hàng, mất cân đối tài chính, suy giảm
lợi nhuận, ngoài ra có thể làm cho một hoặc một số hoặc toàn bộ bộ phận của doanh nghiệp
bị tác động dẫn đến hoạt động không đúng chức năng
2.2.1 Ép buộc trong kinh doanh:

Đó là khi họ dồn khách hàng vào tình thế bắt buộc phải mua hoặc không được phép mua hàng
hoá mà họ không có cách lựa chọn nào khác.
Các hành vi ép buộc, đe doạ khách hàng và các đối tác kinh doanh của đối thủ cạnh tranh để bắt
họ không được giao dịch hoặc ngừng giao dịch với đối thủ cạnh tranh được coi là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và bị pháp luật nghiêm cấm.
Trước đây có nhiều doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường ví dụ như nghành ngân hàng,
bưu chính viễn thông
Ngày nay chúng ta thấy hầu hết các ngành đã có sự cạnh tranh giữa các dịch vụ, sản phẩm.
Còn một số ít vẫn độc quyền, chẳng hạn như sản phẩm điện sáng. Người dân sử dụng điện sáng không
có lựa chọn doanh nghiệp. Nhiều nơi người tiêu dùng bị doanh nghiệp đối xử cứng nhắc, nếu vì điều
kiện nào đó nộp giá cước chậm một chút là bị doanh nghiệp ngắt điện sáng ngay , gây nhiều người dân
bức xúc, nhưng không có quyền được chuyển sang sử dụng của doanh nghiệp khác.
2.2.2 Dèm pha doanh nghiệp khác:
Luật cấm hành vi này: Cấm doanh nghiệp dèm pha doanh nghiệp khác bằng hành vi trực tiếp hay
gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực, gây ảnh hưởng xấu đến uy tín, tình trạng tài chính và hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
2.2.3 Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác:
Cấm doanh nghiệp gây rối hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp khác bằng hành vi
trực tiếp hay gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó.
2.3Nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động xúc tiến thương
mại:
2.3.1 Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
Nhằm đạt được mục tiêu, doanh nghiệp có thể thực hiện quảng cáo không trung thực tăng bốc giá
trị và chất lượng thật của hàng hoá, sản phẩm. Đó là những phương thức như khẳng đinh ưu thế của
mình bằng cách so sánh hàng hóa, dịch vụ của thương nhân khác, sử dụng sản phẩm quảng cáo hoặc
những thông tin có thể gây nhầm lẫn lừa dối khách hàng để lôi kéo họ, quảng cáo hàng hoá trên cơ sở
lạm dụng uy tín của 1 sản phẩm khác cùng loại, những hoạt động quảng cáo như thế đều nhằm mục đích
cạnh tranh không lành mạnh.
6
2.3.2 Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh:

Luật cạnh tranh cấm các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động như: Tổ chức khuyến mãi mà
gian dối về giải thưởng, khuyến mãi không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hoá, dịch vụ để lừa
dối khách hàng
Chúng ta thấy nhiều doanh nghiệp quảng cáo khuyến mãi cào có trúng thưởng có thời hạn ghi
trên bao bì hoặc thẻ cào, nhưng khi người tiêu dùng cào trúng thưởng chiếc ô tô, xe máy thị doanh
nghiệp trả lời hết hạn khuyến mãi. Như vậy khách hàng bị lừa khi mua sản phẩm của doanh nghiệp trong
đợt khuyến mại.
2.4Nhóm các hành vi khác:
2.4.1 Phân biệt đối xử của hiệp hội:
Thông qua các hành vi như: Từ chối việc gia nhập hoặc rút khỏi hiệp hội của các doanh nghiệp
có đủ điều kiện mà việc từ chối mang tính phân biệt đói xử và làm cho doanh nghiệp đó bất lợi trong
cạnh tranh, hạn chế bất hợp lí các hoạt động kinh doanh hoặc các hoạt động khác có liên quan đến mục
đích kinh doanh của các doanh nghiệp thành viên.
2.4.2 Bán hàng đa cấp bất chính:
Bán hàng đa cấp bất chính khi nó được thực hiện 1 cách không lành mạnh, hành vi như: Yêu cầu
người tham gia bán hàng phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hoá ban đầu hoặc phải trả một khoản
tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, không cam kết mua lại với giá ít nhất là 90%
giá hàng hoá đã bán cho người tham gia để bán lại
3. Nguyên tắc xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Việc xử lý
hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ dựa vào các nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính (1) và nguyên
tắc xử lý hành vi vi phạm trong pháp luật cạnh tranh (2). Cụ thể là:
- Mọi hành vi vi phạm phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng công minh và triệt để, đối
với những hậu quả do hành vi vi phạm gây ra phải được khắc phục theo đúng quy định của pháp
luật
- Việc xử lý hành vi vi phạm phải tuân theo các trình tự, thủ tục trong tố tụng cạnh tranh và phải
do người có thẩm quyền tiến hành theo đúng thẩm quyền mà pháp luật quy định. Theo quy định
của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn, Cục Quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công
Thương là cơ quan có chức năng tiến hành điều tra, xử lý các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh

- Một hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh chỉ bị xử lý một lần, một doanh nghiệp thực hiện
nhiều hành vi vi phạm thì bị xử lý đối với từng hành vi vi phạm
- Không tiến hành xử lý hành vi vi phạm theo pháp luật đối với những hành vi vi phạm có dấu hiệu
tội phạm.
- Việc bồi thường thiệt hại sẽ thực hiện theo pháp luật tố tụng dân sự
- Không áp dụng miễn trừ cho hành vi cạnh tranh không lành mạnh
7
4. Căn cứ và chế tài xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
4.1Căn cứ áp dụng chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
4.1.1 Hành vi cạnh tranh không lành mạnh
Hành vi cạnh tranh có bản chất là hành vi chiếm đoạt ưu thế cạnh tranh, hủy hoại ưu thế cạnh tranh
của doanh nghiệp khác một cách bất hợp pháp hoặc là hành vi tạo ra ưu thế cạnh tranh giả tạo.
4.1.2 Thiệt hại trong cạnh tranh không lành mạnh
Thiệt hại là một đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là điểm phân biệt giữa
cạnh tranh không lành mạnh với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Việc xác định thiệt hại (vật chất hoặc
tinh thần) là một yêu cầu bắt buộc và cần thiết để bên bị hại có căn cứ đòi bồi thường và cơ quan có
thẩm quyền áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại.
4.1.3 Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi cạnh tranh không lành mạnh và thiệt hại
Quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại là mối quan hệ trực tiếp, nội tại, không phải là sự
suy diễn chủ quan. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là hành vi diễn ra trước,thiệt hại trực tiếp do
hành vi đó gây ra xảy ra sau. Bên thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ phải chịu trách
nhiệm pháp lý và các chế tài tương ứng khi gây ra thiệt hại nhất định cho đối thủ cạnh tranh, mà nguyên
nhân trực tiếp là hành vi cạnh tranh không lành mạnh của mình.
4.1.4 Lỗi trong cạnh tranh không lành mạnh
Lỗi được xác định là trạng thái tâm lý của người có hành vi vi phạm, phản ánh nhận thức của người
đó đối với hành vi và hậu quả của hành vi mà họ thực hiện. Việc xác định lỗi trong cạnh tranh thường
phải dựa vào các tập quán nghề nghiệp. Hành vi cạnh tranh bị coi là có lỗi và không lành mạnh là hành
vi vi phạm các tập quán nghề nghiệp, phá vỡ quan hệ bình đẳng, công bằng trong quan hệ cạnh tranh
trên thị trường.
4.2Hình thức chế tài:

4.2.1 Chế tài hành chính
Theo quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, các hình thức chế tài xử lý vi phạm về cạnh tranh không
lành mạnh chủ yếu là các chế tài hành chính, được quy định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử
phạt và khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được Nghị
định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết, bao gồm:
- Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng.
- Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi
vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm. Ngoài
các hình thức xử phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc
cải chính công khai. Trong dự thảo nghị định Về xử lí vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh
4.2.2 Chế tài hình sự
8
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại
Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm
2009, biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản xuất, buôn
bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); tội sản xuất,
buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây
trồng, vật nuôi (Điều 158); tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội quảng cáo gian dối (Điều 168); tội
xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự
thật trong hoạt động chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán
(Điều 181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c). Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên
thường là phạt tiền, cải tạo không giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt
rất nặng như tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần
hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
4.2.3 Chế tài dân sự
Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh. Chức năng chủ yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp
những tổn thất về vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các quy
tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của nước nào cũng quy định chế tài
này. Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại thì phải dẫn chiếu đến

pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
sẽ được áp dụng theo các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chương XXI
của Bộ luật Dân sự năm 2005 và pháp luật có liên quan. Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc
định được pháp luật thừa nhận, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế
tài bồi thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.
.
9
CHƯƠNG 2: CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC NGÂN HÀNG
1. Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh:
1.1Trong giai đoạn đầu:
Trong điều kiện hạn chế của lịch sử, các ngân hàng ở Việt Nam trong nền kinh tế vận hành ở giai
đoạn trước đều theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Chính chế độ kinh tế tập trung của thời kì
“bao cấp” đã không cho những ngân hàng ở Việt Nam trở thành những chủ thể kinh doanh độc
lập theo đúng nghĩa và do đó cũng không có được một môi trường để cạnh tranh thực sự. Điều đó
xuất phát từ việc Nhà nước áp đặt các quyết định về nhận tiền gửi và cho vay lên mỗi ngân hàng
nhằm thực hiện những kế hoạch pháp lệnh, chứ không phải xuất phát từ ý chí tự thân của mỗi
ngân hàng. Do đặc thù của cơ chế kinh tế chỉ huy bằng mệnh lệnh hành chính, hầu như mỗi ngân
hàng không có cơ hội để tự mình quyết định giá cả của các sản phẩm do mình cung cấp cho thị
trường, bởi lẽ hệ thống lãi suất huy động vốn và cho vay đều do Nhà nước quy định sẵn và được
áp dụng thống nhất cho tất cả các ngân hàng đang hoạt động trong nền kinh tế này. Bên cạnh đó,
mỗi ngân hàng cũng không có quyền tự quyết định về kế hoạch huy động vốn và cho vay, không
được tự do lựa chọn khách hàng và cũng không thể tự xây dựng cho mình những chiến lược kinh
doanh thích hợp hay một phong cách kinh doanh độc đáo để tạo ra dấu ấn riêng mang tính
thương hiệu. Có thể nhận định rằng trong giai đoạn này, gần như không thấy được vấn đề cạnh
tranh trong lĩnh vực ngân hàng.
1.2Giai đoạn từ năm 1990 đến nay:
Kể từ năm 1990 trở lại đây, trước sự chuyển đổi của nền kinh tế từ hướng cơ chế kế hoạch hoá
tập trung (1) sang cơ chế kinh tế thị trường (2) đã tạo ra những bước ngoặt lớn nhất trong lịch sử
ngân hàng Việt Nam, đó là sự hình thành hệ thống tổ chức tín dụng chuyên nghiệp mà hạt nhân
là các ngân hàng thương mại. Những ngân hàng thương mại này đã mang đầy đủ ý nghĩa và tư

cách như là những chủ thể kinh doanh độc lập trong thị trường dịch vụ tài chính, dịch vụ ngân
hàng. Hiện tại, pháp luật không chỉ thừa nhận tư cách pháp nhân cho mỗi tổ chức tín dụng mà
còn thừa nhận quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền tự do cạnh tranh giữa các tổ chức tín
dụng. Cũng chính từ đây, hiện tượng cạnh tranh, cũng như những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ra đời
Trong luật các tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi 2004), đã từng đề cập đến việc cạnh tranh trong
lĩnh vực ngân hàng, cụ thể là các tổ chức hoạt động ngân hàng được hợp tác và cạnh tranh hợp
pháp. Nghiêm cấm các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, gây tổn hại đến việc thực hiện chính
sách tiền tệ quốc gia, an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng và lợi ích hợp pháp của các bên. Các
hành vi cạnh tranh bất hợp pháp bao gồm:
- Khuyến mại bất hợp pháp;
- Thông tin sai sự thật làm tổn hại lợi ích của tổ chức tín dụng khác và của khách hàng;
- Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ;
- Các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp khác.
- Luật Cạnh tranh được ban hành năm 2004 quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi
cạnh tranh không lành mạnh. Như vậy, điểm mới quan trọng trong Luật Cạnh tranh 2004 là
10
phân biệt hành vi cạnh tranh thành hai loại là hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh.
Về sau, trong luật các tổ chức tín dụng 2010 () cũng có quy định về hợp tác và cạnh tranh trong
hoạt động ngân hàng (). Theo đó, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được hợp
tác và cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác theo quy định của
pháp luật. Nghiêm cấm hành vi hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh có
nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, an toàn của
hệ thống các tổ chức tín dụng, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân và giao cho Chính phủ quy định cụ thể các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt
động ngân hàng và hình thức xử lý các hành vi này.
Cũng chính từ những quy định về trong Luật cạnh tranh và luật các tổ chức tín dụng 2010, Toà
án Nhân dân tối cáo đã rút ra những dấu hiệu về hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các tổ
chức tín dụng như sau:

- Đó là hành vi của các tổ chức tín dụng phát sinh trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trái
với đạo đức thông thường trong kinh doanh;
- Gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức tín dụng khác hoặc với khách hàng. Về dấu hiệu này, cần quy định hết sức thận trọng,
đặc biệt là xác định như thế nào là thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại, ai là người chứng minh
thiệt hại. Có thể xem thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh là:
• Thiệt hại ở đây được là những thiệt hại về vật chất, tức là ảnh hưởng tới doanh thu,
khả năng sinh lợi trong hoạt động của đối thủ cạnh tranh và những tổn hại về uy tín
của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Về dấu hiệu có thể gây thiệt hại cần xem xét kỹ
lưỡng, vì hoạt động ngân hàng rất nhạy cảm với những thông tin không tốt vì nó sẽ
ảnh hưởng tới hoạt động của các tổ chức tín dụng, nó có thể “giết chết” một tổ chức
tín dụng cũng như gây tác động xấu đối với xã hội, đặc biệt là bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền. Do vậy, khi có dấu hiệu có thể gây thiệt hại, đối thủ cạnh tranh cần tìm
đến một giải pháp hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước có thẩm quyền để tránh thiệt hại
cho cả hai bên cũng như đối với nền kinh tế và xã hội;
• Người phải chứng minh mức độ thiệt hại là đối thủ cạnh tranh của tổ chức tín dụng;
cơ quan quản lý nhà nước trong quá trình thực thi công vụ nếu phát hiện ra hành vi
cạnh tranh không lành mạnh thì phải báo cáo kịp thời đến Ngân hàng Nhà nước, Cục
Quản lý cạnh tranh Bộ Công Thương để có biện pháp phối hợp xử lý;
• Thông thường, hành vi cạnh tranh không lành mạnh có mức độ ảnh hưởng tiêu cực
trên thị trường hẹp, thường chỉ tác động lên một số chủ thể nhất định mà không ảnh
hưởng đến một khu vực thị trường rộng như hành vi hạn chế cạnh tranh, ngay cả khi
hành vi đó do tính chất mức độ nguy hại của nó xâm phạm đến các đối tượng được
Luật Hình sự bảo vệ. Tuy nhiên, đối với lĩnh vực ngân hàng, do sự khác biệt trong
hoạt động, việc xác định mức độ ảnh hưởng của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực ngân hàng cần được hiểu là trên phạm vi rộng, trên toàn bộ thị trường
ngân hàng, bởi lẽ:
11
+ Trong thực tiễn hoạt động, xu hướng hợp tác giữa các tổ chức tín dụng với nhau
để cùng tồn tại và phát triển là tất yếu, vấn đề đặt ra là sự hợp tác của các tổ chức

tín dụng được thực hiện đến đâu và đến mức nào là nội dung cần phải được quan
tâm giải quyết triệt để. Một ví dụ điển hình là sự kiện Ngân hàng thương mại cổ
phần Á Châu do tin đồn thất thiệt đã bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán các khoản nợ, nếu không có sự cam kết của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
và sự hỗ trợ của Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại trên địa bàn
thì nguy cơ phá sản ngân hàng này là điều có thể xảy ra. Bên cạnh đó, trong hoạt
động các tổ chức tín dụng hỗ trợ cho nhau. Sự hợp tác giữa các tổ chức tín dụng
chỉ thật sự bình đẳng, thân thiện và minh bạch nếu việc hợp tác này diễn ra công
khai, rõ ràng và có thể kiểm soát được.
+ Hoạt động kinh doanh ngân hàng là hoạt động rủi ro rất cao, thường xuyên chịu sự
tác động của các yếu tố kinh tế vĩ mô như tình trạng lạm phát, thay đổi trong
chính sách của Ngân hàng Nhà nước và dựa trên niềm tin của người gửi tiền nên
nếu ngân hàng “gặp sự cố” thì sẽ ảnh hưởng đến nguồn cung cấp vốn cho nền
kinh tế.
+ Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, các tổ chức tín dụng tiếp nhận kỹ
thuật, công nghệ, sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng; đặc biệt, trong
những năm gần đây, số lượng sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng mới
tăng lên nhanh chóng về quy mô và đa dạng về loại hình càng làm cho vấn đề
kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh trở nên khó khăn và phức tạp hơn.
Qua những dấu hiệu cơ bản trên cùng phân tích về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
chương 1, có thể nhận diện được các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân
hàng như sau:
• Nhóm các hành vi liên quan đến Sở hữu trí tuệ:
- Những chỉ dẫn gây nhầm lãn:
Bao gồm các hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn về nội dung, hình thức, hành vi kinh
doanh sản phẩm có sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
Trong lĩnh vực ngân hàng có thể nói đến chính là hành vi cung cấp thông tin dễ gây hiểu
lầm có hại cho các tổ chức tín dụng và khách hàng khác. Trong hoạt động thương mại nói
chung, việc cung cấp thông tin dễ gây nhầm lẫn thường liên quan tới sự không rõ ràng về
việc nhận dạng nhà cung cấp hàng hóa, dịch vụ, ví dụ thông tin khiến khách hàng nhầm

lẫn trong việc xác định xuất xứ hàng hóa
Trong hoạt động ngân hàng, việc cung cấp thông tin thông tin gây hiểu lầm có thể được
thể hiện như:
+ Sử dụng các tên gọi, logo, chỉ dẫn địa lý dễ gây nhầm lẫn với các tổ chức tín dụng
nước ngoài, khiến cho khách hàng tưởng nhầm dịch vụ đó do tổ chức tín dụng uy
tín hoặc nổi tiếng cung cấp
+ Cung cấp thông tin sai sự thật về các chiến lược trong tương lai với các đối tác
nước ngoài như: đối tác nước ngoài mua cổ phần, ký kết hợp đồng hợp tác cung
12
cấp dịch vụ… khiến cho khách hàng lầm tưởng vào khả năng tài chính, khả năng
kinh doanh của tổ chức tín dụng
- Xâm phạm bí mật kinh doanh
Theo điều 3 khoản 11 Luật cạnh tranh thì bí mật kinh doanh là thông tin thỏa mãn các
điều kiện sau:
+ Không phải là hiểu biết thông thường và đạt được bằng cách thông thường;
+ Giúp người nắm giữ thông tin đó có lợi thế hơn những người không nắm
giữ hoặc không sử dụng thông tin đó;
+ Được người chủ sở hữu bảo mật bằng các biên pháp cần thiết để thông tin
đó không bị tiết lộ và không dễ dàng tiếp cận được.
Xuất phát từ quy đinh chung này, bí mật kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm
những bí mật liên quan đến hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng (trừ những bí mật
mà theo qui định của pháp luật phải công khai), bí mật liên quan đến tài khoản của khách
hàng. Những thông tin liên quan đến chiến lược phát triển của tổ chức tín dụng, các hợp
đồng, giao dịch, tình hình tài chính….đều được coi là những bí mật kinh doanh. Ngoài ra,
những thông tin liên quan đến khách hàng gửi tiền (ví dụ số dư tiền gửi của khách hàng,
các giao dịch phát sinh trên tài khoản của khách hàng) cũng được coi là thông tin mật và
pháp luật ngân hàng ràng buộc trách nhiệm của tổ chức tín dụng phải giữ bí mật thông tin
này trừ trường hợp phải tiết lộ theo yêu cầu của cơ quan pháp luật có thẩm quyền (k3 điều
17, điều 101 Luật các tổ chức tín dụng)
Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng có thể bao gồm:

+ Tiếp cận thông tin, phá hệ thống bảo mật của tổ chức tín dụng nhằm chiếm đoạt
những thông tin bảo mật của tổ chức tín dụng
+ Tiết lộ những thông tin thuộc bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng mà không
được phép
+ Lừa gạt, mua chuộc, lợi dụng lòng tin của nhân viên bảo mật của tổ chức tín dụng
cạnh tranh nhằm thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng
này
+ Tiếp cận thông tin, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của tổ chức tín
dụng khi tổ chức tín dụng này làm các thủ tục hành chính nhà nước, (ví dụ đăng
ký thêm loại hình dịch vụ ngân hàng), hoặc dùng các biện pháp thâm nhập hệ
thống thông tin bảo mật của cơ quan nhà nước để chiếm đoạt thông tin về tổ chức
tín dụng khác nhằm mục đích phục vụ hoạt động kinh doanh của mình
• Nhóm các hành vi xâm phạm đến hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng
khác:
- Hành vi ép buộc trong kinh doanh:
Điều 42 Luật cạnh tranh cấm doanh nghiệp ép buộc khách hàng ngừng giao dịch với
doanh nghiệp khác hoặc không giao dịch với doanh nghiệp đó. Hành vi ép buộc khách
hàng xảy ra khi doanh nghiệp lạm dụng vị trí của mình để đưa ra những yêu cầu không
hợp pháp đối với khách hàng nhằm ràng buộc khách hàng chỉ giao dịch với mình.
Trong hoạt động ngân hàng, hành vi ép buộc khách hàng có thể thể hiện trong việc ngân
hàng cấp tín dụng cho khách hàng kèm theo các điều kiện bất hợp lý như: chỉ được sử
13
dụng các dịch vụ kèm theo do ngân hàng đó cung cấp hoặc phải mở tài khoản duy nhất ở
ngân hàng đó mà không được có tài khoản ở ngân hàng khác…
Hành vi của ngân hàng trong những trường hợp này bị coi là vi phạm quyền lợi của khách
hàng trong việc lựa chọn dịch vụ mình cần cũng như vi phạm quyền tự do kinh doanh của
các tổ chức tín dụng khác
- Gièm pha tổ chức tín dụng khác
Điều 43 của Luật Cạnh tranh quy định gièm pha các doanh nghiệp khác là hành vi trực
tiếp hoặc gián tiếp đưa ra thông tin không trung thực gây ảnh hưởng xấu tới uy tín, tình

trạng tài chính và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp đó.
Trong hoạt động ngân hàng, hành vi gièm pha các tổ chức tín dụng khác có thể được
thể hiện như: Nói xấu tổ chức tín dụng khác, tung tin không chính xác về tình hình tổ
chức hoặc hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng khác nhằm gây khó khăn cho hoạt
động của tổ chức này. Có thể kể đến vụ ngân hàng ACB bị tung tin là Tổng giám đốc bỏ
trốn vào mấy năm trước khiến khách hàng gửi tiền đồng loạt kéo đến ngân hàng đòi rút
tiền. Mặc dù chưa thể xác định được đây có phải là tin đồn do một ngân hàng khác đưa ra
hay không nhưng nếu các cơ quan chức năng xác định được điều này thì đây có thể coi là
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc gièm pha tổ chức tín dụng khác
- Gây rối hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng khác
Đây là hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp cản trở, làm gián đoạn hoạt động kinh doanh của
các tổ chức tín dụng khác. Hành vi này trên thực tế hiếm khi xảy ra. Mặc dù vậy có thể kể
đến ví dụ như chi nhánh của một ngân hàng có hành vi cản trở hoạt động bình thường của
một chi nhánh khác trên địa bàn thông qua các hành động như thuê người đứng ở tại chi
nhánh đó và cản trở khách hàng vào giao dịch với chi nhánh đó, hoặc tìm cách làm phá
hoại hệ thống máy tính nối mạng của chi nhánh đó khiến việc thanh toán qua chi nhánh
đó bị gián đoạn hoặc không thực hiện được
- Ngoài ra, xét về bản chất, hành vi thông tin sai sự thật làm tổn hại đến lợi ích của tổ chức
tín dụng khác và của khách hàng, có thể hiểu tương tự như hành vi gièm pha doanh
nghiệp khác (Điều 43 Luật cạnh tranh) hoặc hành vi gây rối hoạt động của doanh nghiệp
khác (Điều 44 Luật cạnh tranh) nhằm mục đích cạnh tranh không lành mạnh
Đây là một trong số những hành vi cạnh tranh không lành mạnh của tổ chức tín dụng
nhằm gây thiệt hại đến uy tín, lợi ích của các đối thủ cạnh tranh cũng như của khách
hàng, dẫn đến hệ quả cuối cùng là loại trừ đối thủ cạnh tranh khỏi thị trường. So với sự
cạnh tranh giữa các loại hình doanh nghiệp khác thì hành vi cạnh tranh theo kiểu này giữa
các tổ chức tín dụng có tính nguy hiểm cao hơn rất nhiều, bởi lẽ uy tín và lợi ích của mỗi
tổ chức tín dụng có tác động, ảnh hưởng trực tiếp và mang tính dây chuyền đến lợi ích
của nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội, chẳng hạn như người gửi tiền vào tổ chức tín
dụng, người vay tiền của tổ chức tín dụng, các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế và
thậm chí là cả hệ thống kinh tế. Tính nhạy cảm cao và sự ảnh hưởng mang tính chất dây

chuyền của hoạt động ngân hàng đối với hệ thống các quyền lợi khác nhau trong xã hội
chính là mối lo thường trực của những cơ quan công quyền có chức năng quản lí cạnh
14
tranh ở mọi quốc gia trên thế giới. Chỉ cần một thông tin thất thiệt về một tổ chức tín
dụng nào đó được tung ra trước công luận cũng đủ để cho tổ chức này lâm vào tình trạng
khốn đốn do bị khách hàng rút tiền hàng loạt và hệ quả kéo theo là cả hệ thống ngân hàng
trong nền kinh tế bị ảnh hưởng.
• Nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động xúc tiến thương mại:
- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh:
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh có thể là hành vi quảng cáo sai sự thật về
mình. Đối với một tổ chức kinh doanh thông thường, hành vi này có thể gây lầm lẫn và
dẫn đến hậu quả không nhỏ đối với một bộ phận khách hàng. Tuy nhiên, hậu quả của
quảng cáo sai sự thật của một tổ chức tín dụng sẽ lớn hơn nhiều bởi lẽ số lượng khách
hàng lớn hơn, phạm vi ảnh hưởng lớn hơn và cao hơn hết là có thể dẫn đến sự mất niềm
tin của khách hàng vào cả hệ thống ngân hàng
Trong lĩnh vực ngân hàng, hành vi quảng cáo sai sự thật có thể được thể hiện như tổ chức
tín dụng quảng cáo sai sự thật về khả năng tài chính, số lượng chi nhánh, mạng lưới phục
vụ, chất lượng và số lượng dịch vụ, đội ngũ nhân viên…
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể là hành vi so sánh dịch vụ
mình cung cấp với dịch vụ của các tổ chức tín dụng khác theo hướng làm giảm uy tín của
các tổ chức tín dụng khác, gây nhầm lẫn cho khách hàng để nhằm mục đích làm giảm
lượng khách hàng của các tổ chức tín dụng này.
Bắt chước sản phẩm quảng cáo của một tổ chức tín dụng khác cũng thuộc nhóm hành vi
này. Việc bắt chước như vậy sẽ làm cho khách hàng nhầm lẫn về dịch vụ mình cung cấp
là dịch vụ mà khách hàng đã biết và tín nhiệm trước đó do tổ chức tín dụng khác cung
cấp
- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh (khuyến mại bất hợp pháp):
Hoạt động khuyến mại là hoạt động xúc tiến thương mại bình thường của các tổ chức tín
dụng. Thực tế thời gian qua cho thấy, trong cuộc chiến lãi suất, nhiều ngân hàng đưa ra
các chương trình khuyến mãi (bắt thăm trúng thưởng) hoặc tặng quà nhằm thu hút người

gửi tiền. Mặc dù vậy, vẫn có những hoạt động khuyến mãi có thể bị coi là cạnh tranh
không lành mạnh và bị pháp luật cấm
Thực tế, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể như thế nào là hành vi khuyến mại
bất hợp pháp trong lĩnh vực ngân hàng. Vì vậy, về nguyên tắc việc xác định những hành
vi khuyến mại bất hợp pháp của ngân hàng phải căn cứ vào các chỉ dẫn tại Điều 46 Luật
cạnh tranh năm 2004 về hành vi khuyến mại để cạnh tranh không lành mạnh. Điều 46 luật
cạnh tranh đưa ra một số hình thức khuyến mại bị cấm. Bên cạnh đó, nghị định
37/2006/NĐ-CP về xúc tiến thương mại cũng quy định những hình thức khuyến mãi
thương nhân được phép tiến hành. Trên cơ sở các quy định trong hai văn bản này có thể
rút ra các hành vi bị cấm sau có thể hiện diện trong lĩnh vực ngân hàng như sau:
+ Tổ chức khuyến mại mà gian dối về giải thưởng (ví dụ: tổ chức khuyến mãi không
được phép, không công khai, không có sự hiện diện của đại diện Sở thương mại,
15
tổ chức khuyến mãi mà những người trúng thưởng toàn là người nhà của nhân
viên ngân hàng);
+ Khuyến mại không trung thực hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa để lừa dối khách
hàng; (ví dụ: khuyến mãi phát hành thẻ thanh toán miễn phí nhưng không giải
thích rõ cho khách hàng khiến khách hàng tưởng lầm thẻ tín dụng);
+ Phân biệt đối xử đối với các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến
mại khác nhau trong cùng một chương trình khuyến mại (ví dụ: các chi nhánh đưa
ra các mức thưởng khác nhau);
+ Cung ứng dịch vụ trong chương trình khuyến mãi với giá rẻ hơn giá thành với thời
gian vượt quá 45 ngày[6]. Đây có thể là hiện tượng bán phá giá dịch vụ, nếu kéo
dài trong một thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng có ít khả năng tài chính hơn
Những hành vi khuyến mãi này cản trở hoạt động cạnh tranh bình thường giữa các tổ
chức tín dụng và phải bị coi là cạnh tranh không lành mạnh
• Nhóm các hành vi khác
- Phân biệt đối xử giữa các hiệp hội:
Hiện nay, các tổ chức kinh tế được tự do thỏa thuận thành lập các Hiệp hội nghề nghiệp

đê giúp nhau hoạt động và bảo vệ cho quyền lợi của mình. Ở Việt Nam đã có Hiệp hội
ngân hàng Việt Nam. Trong tương lai có thể có các hiệp hội khác nữa trong lĩnh vực ngân
hàng. Điều đặc biệt quan trọng là các hiệp hội này phải không được có những hoạt động
mang tính phân biệt đối xử với các tổ chức tín dụng. (Ví dụ: không được từ chối tổ chức
tín dụng gia nhập hội viên vì những lý do như: quy mô vốn, linh vực hoạt động, địa bàn
hoạt động). Tất cả các tổ chức tín dụng là thành viên của các hiệp hội phải được đối xử
bình đẳng như nhau. Nghiêm cấm việc hạn chế bất hợp lý hoạt động kinh doanh hoặc các
hoạt động khác có liên quan tới mục đích kinh doanh của các tổ chức tín dụng thành viên
Ngoài ra, trong hoạt động ngân hàng còn có một số các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh thể hiện sự đặc thù. Trong đó có:
- Đầu cơ lũng đoạn thị trường tiền tệ, vàng, ngoại tệ.
Đây là hành vi cạnh tranh mang tính đặc thù trong lĩnh vực ngân hàng, bởi lẽ chỉ có các tổ
chức tín dụng (trong đó chủ yếu là các ngân hàng), với giấy phép kinh doanh ngân hàng
được cấp bởi Ngân hàng Nhà nước, mới có khả năng chi phối tới thị trường tiền tệ, thị
trường vàng và thị trường ngoại tệ.
Hoạt động mua, bán ngoại tệ và vàng là hoạt động kinh doanh bình thường của các tổ
chức tín dụng nếu thoả những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, nếu một tổ chức tín dụng
hoặc nhóm tổ chức tín dụng lợi dụng quyền này, thỏa thuận đầu cơ nhằm lũng đoạn tỷ giá
ngoại tệ, vàng và thị trường tiền tệ như tiến hành mua gom các giấy tờ có giá ngắn hạn
trên thị trường tiền tệ hoặc mua gom vàng, ngoại tệ trên thị trường ngoại hối với số lượng
thật lớn đủ khả năng chi phối giá cả nhằm chủ đích lũng đoạn thị trường và dẫn tới loại
trừ các đối thủ cạnh tranh thì hậu quả sẽ rất tai hại. Trước hết, hành vi này sẽ ảnh hưởng
đến hoạt động cạnh tranh bình thường trong lĩnh vực ngân hàng, ảnh hưởng đến việc kinh
doanh ngoại tệ và vàng của các tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó, tỷ giá ngoại tệ và giá
16
vàng có tác động rất lớn đến nền kinh tế. Do vậy, mọi sự biến động của những chỉ số này
chắc chắn sẽ tác động trực tiếp đến sự bình ổn của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng
trong đó.
- Lạm dụng cơ chế lãi suất trong cạnh tranh
Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước trao quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong

hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp. Các tổ chức tín dụng cũng không phải là
ngoại lệ. Các tổ chức tín dụng được quyền ấn định lãi suất kinh doanh của mình trên cơ
sở lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố trong từng thời kỳ. Mặc dù vậy, vẫn có
thể xảy ra hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc lạm dụng cơ chế lãi
suất mở.
Có thể xem xét hai thành tố của cơ chế lãi suất: Lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Hai
thành tố này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và quyết định hiệu quả hoạt động ngân
hàng. Bởi lẽ, phần lớn lợi nhuận ngân hàng của Việt Nam hiện nay thu được đều từ sự
chênh lệch lãi suất huy động và lãi suất cho vay trong hoạt động ngân hàng truyền thống
là đi vay để cho vay.
Thực tế thời gian qua cho thấy, các ngân hàng đã tham gia vào “cuộc chiến lãi suất tiền
gửi” nhằm mục đích tăng thị phần huy động vốn của mình. Để thực hiện được điều này,
các ngân hàng đua nhau nâng mức lãi suất huy động tiền gửi trong dân cư mà không cần
hiệu quả kinh tế cao. Nếu việc đưa ra lãi suất huy động cao dựa trên cơ sở sự tính toán
hiệu quả kinh tế và có lợi nhuận thì đây là cạnh tranh lành mạnh. Tuy nhiên nếu lãi suất
được đưa ra trên cơ sở tổ chức tín dụng chấp nhận lỗ để dành thị phần (đây được coi như
bán dịch vụ dưới giá thành) thì lại là cạnh tranh không lành mạnh
Cạnh tranh không lành mạnh cũng có thể hiện diện trong hoạt động cho vay. Bên cạnh
việc giảm lãi suất cho vay để thu hút khách hàng, các ngân hàng dưới sức ép của cạnh
tranh và vì chạy theo lợi nhuận mà có thể bỏ qua các quy định an toàn của Ngân hàng nhà
nước. Một ví dụ điển hình là việc Ngân hàng Nhà nước đã có chỉ thị về hạn chế cho vay
đầu tư chứng khoán nhưng một số ngân hàng vẫn chưa tuân thủ nghiêm túc hoặc vẫn tìm
cách lách quy định này[5]. Đây là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh bởi lẽ nó gây
thiệt thòi cho các ngân hàng mà tuân thủ đúng các quy định của Ngân hàng nhà nước
2. Nguyên nhân và hệ quả:
2.1Nguyên nhân
• Bản chất và đặc điểm kinh tế vốn có của hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
Ngay từ khi ra đời, với vị trí, vai trò đặc biệt và tính chất nhạy cảm vốn có, hoạt động ngân
hàng luôn gắn liền với trình độ phát triển xã hội không chỉ về phương diện kinh tế, mà còn cả về phương
diện văn hoá, đạo đức, dân trí, pháp luật… Những yêu cầu về đạo đức kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp,

ứng xử, cách thức cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng luôn gắn liền với mặt bằng kinh tế - xã hội.
Bên cạnh đó, hoạt động ngân hàng mang tính chất hoạt động cung ứng dịch vụ nên rất
khó có thể phân biệt rõ sự khác biệt giữa các tổ chức cung cấp, rất khó đánh giá về sự hợp lý trong “giá
cả” do yếu tố cấu thành chi phí khác nhau ở các tổ chức… Chính đặc điểm này của hoạt động ngân hàng
17
đã vô tình tạo những điều kiện khách quan cho việc tồn tại những hiện tượng cạnh tranh không lành
mạnh và gây khó khăn cho việc đánh giá, xử lý trong thực tiễn.
• Hành lang pháp luật chưa đồng bộ và hoàn thiện, tính pháp lý chưa cao, chưa kiên quyết
trong thực thi pháp luật.
Hiện trạng pháp luật chưa đồng bộ và hoạt động của hệ thống ngân hàng luôn tiềm ẩn rủi ro rất cao,
nhân tố này vô tình cũng tạo nên những cơ hội để tình trạng cạnh tranh không lành mạnh tồn tại.
• Hệ thống giám sát tài chính còn yếu, hoạt động thụ động, năng lực cảnh báo kém.
Trong điều kiện kinh doanh luôn tiềm ẩn rủi ro cao, nhất là nhiều nhân tố rủi ro đến từ môi trường kinh
doanh (trong và ngoài nước) bất ổn như thời gian qua, vấn đề thanh tra giám sát luôn phải được đặt lên
hàng đầu. Việc áp dụng các biện pháp can thiệp thị trường mang tính chất hành chính yêu cầu thanh tra -
giám sát càng cần được coi trọng. Tuy nhiên nếu việc thanh tra giám sát yếu kém sẽ là kẽ hở để các ngân
hàng lợi dụng thực hiện việc cạnh tranh không lành mạnh.
• Thị trường tài chính chưa phát triển, các nhu cầu về dịch vụ tài chính trong nền kinh tế tập
trung chủ yếu vào hệ thống ngân hàng.
Về nguyên tắc, nhu cầu vốn trong kinh doanh của các tổ chức kinh tế luôn được đặt ra và việc
đáp ứng các nhu cầu vốn này phải do nhiều định chế tài chính trên thị trường tài chính đảm nhiệm. Hầu
hết các nhu cầu về vốn trong nền kinh tế chủ yếu vẫn do hệ thống Ngân hàng thương mại cung cấp, mà
điều kiện năng lực tài chính của hầu hết các Ngân hàng thương mại còn khá yếu, để đáp ứng các nhu cầu
về vốn cho các hoạt động kinh tế - xã hội, các ngân hàng thương mại dã chịu áp lực rất lớn. Bên cạnh
các dịch vụ về vốn, rất nhiều nhu cầu về các loại hình dịch vụ ngân hàng mới, để triển khai đòi hỏi các
Ngân hàng thương mại phải có tiềm lực về vốn lớn, đầu tư tốt về hạ tầng kỹ thuật, tuy nhiên, do năng lực
tài chính thấp nên việc triển khai các loại hình dịch vụ này đối với hầu hết các Ngân hàng thương mại cổ
phần nhỏ là rất khó khăn và việc triển khai trong điều kiện như vậy sẽ tạo ra các rủi ro tiềm ẩn rất cao
cho cả ngân hàng lẫn khách hàng. Sự giới hạn về phạm vi, sản phẩm trong cạnh tranh sẽ làm cho tính
chất cạnh tranh trên thị trường truyền thống càng khốc liệt và tạo môi trường cho những biểu hiện cạnh

tranh không lành mạnh.
• Mức độ phân bổ không đồng đều.
Mạng lưới ngân hàng tập trung dày đặt, mật độ cao ở các thành phố lớn. Trong khi đó các
khu vực vùng sâu vùng xa hạn chế, bỏ quên. Việc phát triển mạng lưới quá sức ở các thành phố lớn phát
sinh quá nhiều điểm giao dịch khiến chi phí hoạt động của ngân hàng tăng lên rất cao, khả năng kiểm
soát rủi ro của ngân hàng cũng bị hạn chế. Đây cũng là nguyên nhân dẫn đến hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng
• Tác động của hội nhập tài chính - ngân hàng quốc tế.
Hội nhập tài chính quốc tế giúp hệ thống ngân hànghoạt động ngày càng hoàn thiện và hiệu
quả trên cơ sở tiếp thu các kinh nghiệm kinh doanh thương trường cũng như tiếp cận kỹ thuật công nghệ
và kỹ năng quản lý kinh doanh ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên, mục tiêu trong kinh doanh ngân hàng là
lợi nhuận. Mục tiêu này luôn được các Ngân hàng thương mại quốc tế hướng tới khi thâm nhập các thị
18
trường tài chính quốc tế và vì lợi nhuận chúng sẽ bất chấp tất cả, kể cả xuyên thủng hàng rào pháp luật.
Sự hội nhập tài chính khu vực và toàn cầu sẽ khiến các quốc gia phải đối mặt với các tác động tiêu cực
từ các cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế. Các cuộc khủng hoảng tài chính luôn khiến cho môi trường
kinh doanh của hệ thống ngân hàng bất ổn và để tự phòng vệ và chiến thắng trong cạnh tranh, các Ngân
hàng thương mại luôn có xu hướng tìm cách “lách luật”, điều này không chỉ diễn ra tại các nước đang
phát triển, mà là vấn đề chung toàn cầu nếu như các chế tài pháp luật không đủ mạnh
2.2HỆ QUẢ
2.2.1 Hệ quả đối với nền kinh tế - xã hội
Như đã đề cập và phân tích, tình trạng cạnh tranh không lành mạnh sẽ khiến cho thị trường
tài chính bất ổn, và sự bất ổn của thị trường tài chính sẽ tác động xấu đến sự ổn định của môi trường
kinh tế vĩ mô, ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Hiệu lực và hiệu quả
của các chính sách (nhất là chính sách tiền tệ) trong ngắn hạn và dài hạn bị ảnh hưởng nghiêm trọng
trong bối cảnh nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng xuất hiện. Những
ảnh hưởng không tốt của cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động ngân hàng làm giảm lòng tin của
xã hội đối với nhiều chính sách của Nhà nước
2.2.2 Hệ quả đối với các khách hàng của Ngân hàng thương mại
Nhìn bên ngoài, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh có vẻ như tạo cơ hội tốt hơn

cho khách hàng, ví dụ trong những trường hợp “giành giật” khách hàng của các Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, những lợi ích đó chỉ là ngắn hạn và không có lợi về dài hạn cho khách hàng. Những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh nếu tiếp tục sẽ tác động không tốt đối với khách hàng: họ không có được
thông tin đáng tin cậy, họ được hưởng những dịch vụ ngân hàng ít có cải thiện về chất lượng, mối quan
hệ gắn bó dài hạn với các Ngân hàng thương mại ít được quan tâm và khó thiết lập….
3. Thực trạng áp dụng luật cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng? Giải pháp để tăng môi trường cạnh
tranh lành mạnh và giảm tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng hiện
nay:
3.1Thực trạng
Cùng với quá trình thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế của Việt Nam, sự tham gia ngày càng sâu
rộng của các tổ chức tín dụng nước ngoài vào thị trường Việt Nam đã và đang tạo ra một “cuộc chiến
không cân sức” giữa các tổ chức tín dụng trong nước với những tổ chức tín dụng nước ngoài vốn là
những tổ chức có nhiều điểm mạnh về vốn, công nghệ, trình độ quản lí cũng như chiến lược khách
hàng, phong cách phục vụ và hệ thống dịch vụ ngân hàng hoàn hảo.
Bên cạnh đó, tình trạng bất bình đẳng và môi trường cạnh tranh không lành mạnh cũng đang tồn tại
ngay trong số các tổ chức tín dụng trong nước. Điều này cho thấy việc áp dụng Luật cạnh tranh vào
môi trường kinh doanh nói chung ở Việt Nam cũng như thực thi Luật cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh ngân hàng ở Việt Nam nói riêng đang ngày càng khó khăn hơn, cụ thể:
• Thứ nhất, các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện đang chiếm giữ khoảng 80% thị phần tín
dụng cả nước nhưng cơ bản vẫn là một hệ thống yếu kém về năng lực cạnh tranh so với các tổ
chức tín dụng là ngân hàng thương mại trên thế giới. Việc mở cửa hội nhập với bên ngoài buộc
Việt Nam phải chấp nhận xu thế cạnh tranh công bằng, bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng trong
19
nước với nhau và giữa các tổ chức tín dụng trong nước với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Tuy
nhiên, trên thực tế Nhà nước đã không hề buông xuôi để cho “bàn tay vô hình”
1
của thị trường tự
do điều chỉnh mà bằng chứng là pháp luật hiện hành vẫn có những điều khoản thể hiện mục đích
duy trì vai trò chủ đạo, chủ lực của các tổ chức tín dụng
1

“ Bàn tay vô hình” là một phép ẩn dụ, một tư tưởng kinh tế mà Adam Smith đưa ra vào năm 1776. Trong tác phẩm vĩ đại
Nguồn gốc của cải của các dân tộc (the Wealth of Nations) và những bài viết khác, Smith đã tuyên bố rằng, trong nền kinh tế
thị trường tự do, mỗi cá nhân theo đuổi một mối quan tâm và xu hướng lợi ích riêng cho cá nhân mình, và chính các hành
động của những cá nhân này lại có xu hướng thúc đẩy nhiều hơn và củng cố lợi ích cho toàn cộng đồng thông qua một "bàn
tay vô hình". Ông biện luận rằng, mỗi một cá nhân đều muốn thu lợi lớn nhất cho mình sẽ làm tối đa lợi ích của cả cộng
đồng, điều này giống như việc cộng toàn bộ tất cả các lợi ích của từng cá nhân lại. Adam Smith cho rằng “Bàn tay vô hình”
có nghĩa là: Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân tham gia muốn tối đa hóa lợi nhuận cho mình. Ai cũng muốn thế cho
nên vô tình chung đã thúc đẩy sự phát triển và củng cố lợi ích cho cả cộng đồng. Theo Adam Smith, chính quyền mỗi quốc
gia không cần can thiệp vào cá nhân và doanh nghiệp, cứ để nó tự do hoạt động kinh doanh.Ông kết luận: “Sự giàu có của
mỗi quốc gia đạt được không phải do những quy định chặt chẽ của nhà nước, mà do bởi tự do kinh doanh” - Tư tưởng này
đã chế ngự trong suốt thể kỉ XIX và sau này, thuật ngữ này đã được sử dụng rộng rãi trở thành một lý luận kinh tế học.
( trích bài viết “ADAM SMITH VÀ LUẬN ĐỀ BÀN TAY VÔ HÌNH của TS Đinh Trung Thành - Khoa GDCT – Trường Đại
học Vinh)
nhà nước trong thị trường dịch vụ ngân hàng. Việc thực hiện chủ trương này có thể sẽ tạo ra những
rào cản nhất định đối với quá trình thực thi Luật cạnh tranh, cũng như sẽ làm chậm lại quá trình xây
dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng và bình đẳng thực sự giữa các tổ chức tín dụng
đang hoạt động tại Việt Nam.
• Thứ hai, Luật cạnh tranh và pháp luật ngân hàng không có sự thống nhất chặt chẽ trong cách tiếp
cận và điều chỉnh về hành vi cạnh tranh. Cụ thể là trong Luật cạnh tranh năm 2004 đã dự liệu hai
nhóm hành vi liên quan đến cạnh tranh cần được kiểm soát chặt chẽ, bao gồm các hành vi hạn
chế cạnh tranh
1
và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
2
. Trong khi đó, vấn đề cạnh tranh
trong lĩnh vực ngân hàng lại được tiếp cận bằng khái niệm cạnh tranh hợp pháp và cạnh tranh bất
hợp pháp. Nói cách khác, pháp luật ngân hàng hoàn toàn không đề cập những hành vi hạn chế
cạnh tranh bị cấm thực hiện mà chỉ liệt kê một số hành vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình
trong lĩnh vực ngân hàng. Quy định này vô tình tạo kẻ hở cho một số tổ chức tín dụng tìm cách
liên kết với nhau thông qua hình thức thị trường“độc quyền nhóm”

3
để gây thiệt hại cho các tổ
chức tín dụng khác và cho khách hàng.
• Thứ ba, thị trường dịch vụ ngân hàng là một loại thị trường đặc biệt, ở đó không một tổ chức tín
dụng nào có thể hoạt động một cách hoàn toàn biệt lập và tách khỏi cuộc chơi chung. Điều này
cũng đồng nghĩa với những khó khăn trong việc áp dụng các quy định của Luật cạnh tranh để
quy kết và xử lí những hành vi hạn chế cạnh tranh của các ngân hàng, đặc biệt là hành vi thoả
thuận hạn chế cạnh tranh hoặc hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền của một nhóm tổ chức tín dụng nào đó để gây thiệt hại cho một số tổ chức tín dụng khác
hoặc cho khách hàng tham gia thị trường dịch vụ ngân hàng. Sự liên kết theo nhóm giữa các tổ
chức tín dụng hiện nay ở Việt Nam rất có thể trong tương lai gần sẽ trở thành xu hướng thị
trường“độc quyền nhóm”- nguy cơ tiềm ẩn những hành vi vi phạm Luật cạnh tranh trong lĩnh
vực ngân hàng .
20
• Thứ tư, vì mục tiêu thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, Ngân hàng trung ương có thể can thiệp
vào hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng bằng việc quy định lãi suất cơ bản và lãi suất
chiết khấu, tái chiết khấu; ấn định tỉ lệ dự trữ bắt buộc;. Ví dụ, khi một tổ chức tín dụng có nguy
cơ lâm vào tình trạng phá sản, Ngân hàng trung ương có thể can thiệp để “cứu”
1
Xem chương II – Luật cạnh tranh năm 2004
2
Xem chương III – Luật cạnh tranh năm 2004
3
Thị trường“ Độc quyền nhóm” là dạng thị trường mà trên đó chỉ có một nhóm nhỏ doanh nghiệp cùng hoạt động. Tuy
không phải là một doanh nghiệp duy nhất độc chiếm thị trường, doanh nghiệp độc quyền nhóm thường có quy mô tương
đối lớn so với quy mô chung của thị trường. Điều này cho phép nó có một quyền lực thị trường hay khả năng chi phối
giá đáng kể. Sản phẩm của các doanh nghiệp trên thị trường độc quyền nhóm có thể giống hệt hoặc gần như giống hệt
nhau (những sản phẩm được tiêu chuẩn hóa như thép, hóa chất…), song cũng có thể khác biệt nhau (như ô tô, máy tính,
dịch vụ hàng không…). Tính đồng nhất hay khác biệt của sản phẩm không phải là những tính chất đặc thù của thị
trường này.

Đặc trưng cơ bản của một ngành độc quyền nhóm là sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các doanh nghiệp. Mỗi khi ra quyết
định về sản lượng, giá cả hay các quyết định kinh doanh có liên quan khác, mỗi doanh nghiệp đều phải cân nhắc xem
quyết định của mình có ảnh hưởng gì đến các quyết định của các đối thủ, khiến cho các đối thủ phản ứng như thế nào.
Trong trường hợp này, việc luôn luôn phải tính đến hành vi của các đối thủ làm cho quá trình ra quyết định của các
doanh nghiệp trở nên khó khăn và phụ thuộc vào nhau.
• doanh nghiệp này bằng cách “bơm” thêm vốn cho nó thông qua cơ chế cho vay, hoặc buộc tổ
chức tín dụng phải tiến hành một số cải cách mạnh mẽ, triệt để trên nhiều lĩnh vực để khôi
phục dần khả năng hoạt động trên thị trường thông qua việc áp dụng chế độ kiểm soát đặc
biệt. Những can thiệp này từ phía Ngân hàng trung ương là cần thiết tuy nhiên chính điều này
đã làm hạn chế một phần quyền tự do kinh doanh, trong đó bao hàm cả quyền tự do cạnh
tranh của các tổ chức tín dụng.
 Tóm lại, có thể nhận định rằng, việc đưa ra những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn
và thực thi chúng như thế nào lại là một vấn đề khá phức tạp. Tuy nhiên, không thể phủ nhận
rằng,việc nhận thức rõ ràng tình trạng trên để có ý thức tìm ra giải pháp tháo gỡ, thiết nghĩ
cũng là việc cấp thiết nên làm trong bối cảnh Việt Nam đang từng bước hoàn thiện hệ thống
các thể chế và môi trường pháp lí cho một nền kinh tế phát triển theo hướng thị trường như
hiện nay.
3.2Giải pháp:
3.2.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
ngân hàng
Trên thực tế, vấn đề cạnh tranh đang tồn tại ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh ngân hàng đặc biệt
thể hiện một số hoạt động và hành vi cạnh tranh không lành mạnh chủ yếu sau:
− Thu hút tiền gửi với mức lãi suất tiền gửi cao hơn tại một số ngân hàng khiến cho tiền gửi
chuyển lòng vòng nMtừ ngân hàng này sang ngân hàng khác;
21
− Quảng cáo đưa ra không đúng hoặc gây hiểu lầm về nguồn lực tài chính, đưa ra những báo
cáo kiểm toán gây hiểu lầm để hỗ trợ những quảng cáo, với quan điểm là để thu hút người
gửi tiền từ những ngân hàng khác;
− Khoản vay lãi suất thấp hơn cho khách hàng của một lĩnh vực cụ thể so với lãi suất cho
người vay các khu vực khác;

− Cung cấp tiền thưởng và thù lao cho nhân viên dựa trên mức
huy
động
vốn;
− Giảm giá tùy tiện mà không có lý do hợp lý hoặc cung cấp dịch vụ dưới chi
phí;
− Cho một khách hàng vay để họ có thể sử dụng khoản vay đó
như
là một khoản tiền gửi tối thiểu
để mở một tài
khoản;
− Nới lỏng các điều kiện bắt buộc đối với khách hàng khi xem xét các đề xuất vay
vốn;
− Cung cấp các thông tin về vấn đề và khó khăn của các ngân
hàng
khác, gièm pha đối thủ cạnh
tranh và cung cấp thông tin sai trái để gây nhầm lẫn cho khách
hàng;
− Gây hạn chế hoặc trì hoãn một cách bất hợp lý các giao
dịch
thanh toán với các ngân hàng
đối
thủ;
− Tham gia vào các giao dịch và các hoạt động ngoài phạm vi
kinh
doanh;
− Chào lãi suất cao hơn mức lãi suất cho phép của Ngân
hàng
Nhà nước Việt Nam;


Quy định hạn ngạch trong việc huy động tiền
gửi.
Đặc biệt, trong quá trình hội nhập và phát triển hiên nay, các tổ chức tín dụng tiếp nhận kỹ thuật,
công nghệ, sản phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng; đặc biệt trong những năm gần đây, số lượng sản
phẩm kinh doanh và dịch vụ ngân hàng mới tăng lên nhanh chóng về quy mô và đa dạng về loại hình.
Điều đó đói hỏi Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước có văn bản pháp quy để điều chỉnh và xử lý vi
phạm.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng,
nói
cách khác là hành vi hạn
chế sự hội nhập của lĩnh vực ngân hàng và sự vận hành bình đẳng của thị
trường.
Khi sức ép cạnh
tranh ngày càng lớn (kể cả giữa
các
ngân hàng Việt Nam hay giữa các ngân hàng Việt Nam với các
ngân
hàng
ngoài Việt Nam), đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng an toàn, bình đẳng
.
Xuất phát từ những lý do cơ bản trên đây, việc xây dựng Nghị định về hành vi cạnh tranh không
lành mạnh trong hoạt động ngân hàng là rất cần thiết.
3.2.2 Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật điều chỉnh về hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng ở Việt Nam hiện
Về phía các tổ chức tín dụng:
- Mọi Tổ chức tín dụng không phân biệt thành phần sở hữu cần phấn đấu đạt chuẩn an toàn hoạt động theo
qui định tại chương 6 – Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010 (từ điều 130 đến 135). Theo đó, khuyến
khích các Tổ chức tín dụng chưa đạt chuẩn cần tìm đối tác tự nguyện sáp nhập, thực hiện các thương vụ
mua bán sở hữu để đạt và vượt chuẩn. Ngân hàng Nhà nước lúc này chỉ cần chuẩn bị phương án dự
phòng để cứu nguy cho sự đe dọa an toàn hệ thống (chủ yếu là các khách hàng và cổ đông nhỏ…) chứ

không phải để giải nguy cho các Tổ chức tín dụng vì trên cơ sở đã tạo môi trường cạnh tranh sòng phẳng
và lành mạnh cho những tổ chức này.
22
- Để tăng hiệu quả cạnh tranh trên thị trường thì Ngân hàng nhà nước có thẩm quyền yêu cầu được kiểm
tra cơ cấu doanh thu, năng lực phát triển của từng dòng sản phẩm trong danh mục để xem xét có cho
phép các tổ chức tín dụng đó thực hiện nữa hay không đối với dòng sản phẩm nào đó không có sức cạnh
tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh. Trong trường hợp cần thiết nếu xét thấy loại sản phẩm nào đã
được duyệt mà không phát sinh trong vòng một quý
2
, thì Ngân hàng nhà nước sẽ có quyền xóa bỏ sản
phẩm đó khỏi giấy phép kinh doanh của Tổ chức tín dụng đó.
- Để đảm bảo hiệu quả cạnh tranh và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng cần
phải yêu cầu các Ngân hàng thương mại khi đã có từ 2 công ty con trở lên, chuyển đổi từ mô hình kinh
doanh đa năng sang mô hình tập đoàn tài chính, từ đó đảm bảo rằng Ngân hàng thương mại mẹ cũng chỉ
là một pháp nhân và phải phục tùng qui chế về kinh doanh chung của tập đoàn. Đồng thời lúc này, các
công ty con cũng là những pháp nhân độc lập, chịu sự điều chỉnh của luật cạnh tranh chung và các qui
định cụ thể về cạnh tranh trong thị trường tài chính, mà không có tình trạng lấn quyền và biến các công
ty con này trở thành “ sân sau” của các công ty mẹ. Và quan hệ kinh tế giữa các công ty mẹ và công ty
con lúc này là quan hệ pháp nhân với pháp nhân, phù hợp với các qui định về cạnh tranh lành mạnh.
Về phía các cơ quan quản lí Nhà nước và Hiệp hội ngân hàng Việt Nam:
- Nâng cao vai trò và trách nhiệm của Hiệp Hội ngân hàng Việt Nam. Các Tổ chức tín dụng cần bầu
chọn cho Hiệp Hội ngân hàng là cơ quan phi chính phủ, có nhiệm vụ đứng ra thực hiện tạo diễn đàn trao
đổi thông tin, phản biện, phát hiện, cũng như đưa ra các đề xuất sửa đổi các qui định pháp luật mà chưa
phù hợp với thực tiễn và thông lệ quốc tế; phát hiện và bảo vệ hoạt động cạnh tranh bình đẳng với mọi
hội viên dù có thành phần sở hữu khác nhau; phổ biến pháp luật tới
các hội viên một cách hiệu quả… Bên cạnh đó, nên hình thành một số thiết chế hưởng lợi chung như:
Hình thành quỹ cứu trợ, làm đầu mối tổ chức mua bán nợ tốt, tổ chức đồng tài trợ, hòa giải các bất đồng
lợi ích giữa các thành viên…- Mặt khác, Thanh tra ngân hàng với nhiệm vụ căn bản là thực hiện cơ chế
giám sát từ xa và thanh tra hội sở chính khi thực sự có vấn đề và trên cơ sở rủi ro. Đóng vai trò là cơ
quan soạn thảo, trình Thống Đốc ban hành chi tiết, đủ, rõ ràng danh mục các qui định chuẩn về các hành

vi cạnh tranh không lành mạnh và các hình thức xử phạt tương ứng với mỗi loại hành vi cạnh tranh
không lành mạnh đó, phù hợp với từng thời kỳ và thông lệ quốc tế tương ứng.
- Về phía các cơ quan quản lí Nhà nước, cần cơ cấu lại mô hình tổ chức, chức năng của Ủy ban Giám sát
Tài chính Quốc gia theo hướng là cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực
thanh tra – giám sát toàn bộ thị trường tài chính Việt Nam thay cho vị trí hiện tại chỉ là cơ quan tư vấn
cho Thủ Tướng Chính phủ. Theo đó, Ủy Ban này có thẩm quyền ban hành các văn bản
qui phạm pháp luật về bộ tiêu chuẩn an toàn và phòng chống rủi ro trong thị trường tài chính; được cập
nhật đầy đủ thông tin định kỳ và bất thường theo danh mục đảm bảo an toàn từ các bộ phận khác trong
thị trường tài chính như: Ngân hàng, Chứng khoán, Bảo hiểm và Kho bạc Nhà nước. Bên cạnh đó, cần
bổ nhiệm người đứng đầu cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành trên các thị trường bộ phận của thị
trường tài chính quốc gia…Mặt khác, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia phải liên đới chịu trách
nhiệm trước Nhà nước về tình trạng an toàn và cạnh tranh không lành mạnh trong thị trường tài chính
Việt Nam. Để đảm bảo rằng các bên tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính phải tuyệt
đối tuân thủ các điều kiện độc lập với nhau, an toàn, công khai, minh bạch và khách quan. Tuân thủ
nghiêm ngặt các qui luật thị trường và những tiêu chí hoạt động an toàn, cạnh tranh lành mạnh.
- Nên tách quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước đối với phần vốn Nhà nước tại các ngân hàng thương
mại khỏi Ngân hàng Nhà Nước và chuyển về Bộ kế hoạch & đầu tư hoặc Kho Bạc Nhà nước. Để đảm
23
bảo rằng mọi hoạt động nghiệp vụ Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam là hoàn toàn khách quan với mọi
thành phần sở hữu, mọi loại cổ đông.
- Ngân hàng Nhà Nước cần xem xét nhu cầu của nền kinh tế,cũng như đánh giá năng lực thực sự của
một số ngân hàng thương mại lớn hoặc một số tập đoàn tài chính lớn trước khi cho phép những tổ chức
này hình thành một số ngân hàng con chuyên biệt độc lập. Điển hình như: Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng
phát triển, Ngân hàng xây dựng và Ngân hàng xuất – nhập khẩu. Bên cạnh đó, nên giải thể những ngân
hàng chuyên doanh mang tính ngành nghề cục bộ như các dạng: Ngân hàng dầu khí, Ngân hàng hàng
hải, Ngân hàng nông-công-thương…Để đảm bảo rằng hầu hết các ngân hàng phải là các công ty đại
chúng (mọi lợi ích đều hướng tới công chúng và cổ đông), và mọi ngân hàng thương mại phải bắt buộc
lên sàn công khai minh bạch về thực lực và năng lực cạnh tranh lành mạnh.
- Pháp luật về ngân hàng ở nước ta cần quy định rõ những loại quan hệ: giữa Ngân hàng Nhà Nước với
các tổ chức tín dụng, giữa các tổ chức tín dụng với nhau và giữa các tổ chức tín dụng với nền kinh tế thì

mối quan hệ nào cần phải dùng mệnh lệnh hành chính, quan hệ nào không nhất thiết và không thể dùng
mệnh lệnh hành chính. Để đảm bảo rằng việc quản lý và chủ động “dẫn dắt cuộc chơi” của Ngân hàng
Nhà Nước đối với các hoạt động dịch vụ của ngân hàng là hoàn toàn tuân theo qui luật thị trường, qui
luật cạnh tranh bình đẳng và mang những đặc thù khách quan nhất định.
24
KẾT BÀI
Mặc dù Việt nam đã có cơ sở pháp luật điều chỉnh cạnh tranh nói chung và các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh nói riêng trong lĩnh vực thương mại, tuy nhiên hiện nay trong lĩnh vực ngân hàng thì dường
chưa được quan tâm và điều chỉnh cụ thể bằng bất kì văn bản pháp luật nào. Mà lĩnh vực hoạt động ngân
hàng là một lĩnh vực chuyên ngành với những đặc thù riêng, rất quan trọng và ngày càng diễn biến đa
dạng, phức tạp khi nền kinh tế đang hội nhập mở cửa với thị trường quốc tế. Điều này đòi hỏi Nhà nước
ta cần phải ban hành kịp thời các qui định pháp luật điều chỉnh cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực ngân hàng để kiểm soát thị trường chặt chẽ, tránh tạo lổ hổng pháp luật cho những đối tượng lợi
dụng để chuộc lợi cho mình gây ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh của các ngân hàng
thương mại, lợi ích quốc gia và của người tiêu dùng. Do đó, trong phạm vi thẩm quyền của mình, trên cơ
sở Luật cạnh tranh và Luật các tổ chức tín dụng, Chính phủ cần ban hành nghị định quy định chi tiết về
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực ngân hàng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng
nên ban hành thông tư hướng dẫn chi tiết vấn đề này. Đây sẽ là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan
chức năng nhận diện cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này và có biện pháp xử lý thích hợp.
25

×