1
Vấn đề về quyền chống lại hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ
MỤC LỤC
2
Bảng chữ viết tắt
SHTT Sở hữu trí tuệ
CTKLM Cạnh tranh không lành mạnh
LCT Luật cạnh tranh
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
3
MỞ ĐẦU
Ở nước ta, trong những năm gần đây, tình trạng vi phạm quyền chống hành vi
cạnh tranh không lành mạnh đã trở thành một vấn đề nổi cộm, tuy chưa có một thống kê
chính thức và toàn diện nào về tình trạng vi phạm song qua các phương tiện thông tin đại
chúng có thể thấy sự vi phạm diễn ra ngày càng phổ biến, mức độ theo chiều hướng trầm
trọng hơn và cách thức ngày càng tinh vi hơn. Các quy định pháp luật hiện hành của Việt
Nam đã tạo ra những cơ sở pháp lý cần thiết cho việc xử lý các hành vi vi phạm quyền
chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Theo các quy định hiện hành, chủ thể bị vi
phạm có thể áp dụng hay đề nghị áp dụng các biện pháp dân sự, hình sự, hành chính
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm.
Hiện tại, các chế định về quyền chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong
lĩnh vực sở hữu công nghiệp được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ 2005 là các chế
định kế thừa nghị định 54 trước đây. Song song đó, các điều khoản có liên quan đến cạnh
tranh không lành mạnh nói chung và cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu
trí tuệ nói riêng cũng được quy định trong luật Cạnh tranh 2004. Như vậy, sự tồn tại song
song hai phương thức giải quyết vấn đề về hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo
pháp luật cạnh tranh và pháp luật về sở hữu trí tuệ đã đặt ra một vấn đề cần giải quyết, đó
chính là phân biệt hai phương thức giải quyết này, liệu rằng đây là hai chế định chồng
chéo hay bổ sung cho nhau, cũng như nếu có vụ việc xảy ra thì giải quyết theo luật nào là
hợp lý.
Với đề tài “Vấn đề về quyền chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ”, nhóm thực hiện sẽ lần lượt làm rõ các vấn đề trên, làm
sáng tỏ bản chất pháp lý của hành vi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời có sự phân
tích, nhận xét và đề ra một số kiến nghị để việc thực thi các chế định về quyền chống lại
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp có thể hoàn thiện
hơn trong tương lai.
Nhóm rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy và các bạn!
4
Chương 1: Những vấn đề chung về quyền chống lại hành vi CTKLM
1.1 Những quy định của pháp luật về hành vi CTKLM
1.1.1 Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
1.1.1.1. Theo các Điều ước quốc tế
Trên thế giới, điều chỉnh pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh đã
bắt đầu từ thế kỷ XIX. Tại Điều 10bis của Công ước Paris năm 1883 về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp đã có quy định:
(2) “Bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và
thương mại đều bị coi là hành động cạnh tranh không lành mạnh.”
Theo đó, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại điều này
bao gồm:
“Cụ thể, những hành động sau đây phải bị ngăn cấm:
1. tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình thức nào
đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của người cạnh tranh;
2. những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng gây mất uy
tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoạt động công nghiệp hoặc thương mại của người cạnh
tranh;
3. những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt động thương
mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình sản xuất, tính chất, tính
thích hợp để sử dụng hoặc số lượng của hàng hoá.”
Trong Hiệp định Trips cũng khẳng định lại, trong Điều 2: "đối với phần II, III và
IV của Hiệp định này, các thành viên phải tuân thủ theo Điều 1 đến Điều 12, và Điều 19
của Công ước Paris."
1.1.1.2 Theo Luật Cạnh tranh
Mặc dù không bao quan hết tất cả các hành vi CTKLM, tuy nhiên Khoản 4 Điều 3
LCT năm 2004 quy định: “Hành vi CTKLM là hành vi của doanh nghiệp trong quá trình
kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”
Căn cứ điều 39 Luật Cạnh tranh 2004, những hành vi cạnh tranh không lành mạnh
trong Luật này bao gồm:
- Hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn.
5
- Xâm phạm bí mật kinh doanh
- Hành vi quảng cáo nhằm CTKLM
- Hành vi ép buộc trong kinh doanh
- Hành vi gièm pha doanh nghiệp khác
- Hành vi gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
- Khuyến mại nhằm CTKLM
- Hành vi phân biệt đối xử của hiệp hội
- Hành vi bán hàng đa cấp bất chính .
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại Khoản 4
Điều 3 của Luật này do Chính phủ quy định.
1.1.1.3 Theo Luật Sở hữu trí tuệ 2005
Luật SHTT 2005 không đưa ra một định nghĩa như thế nào là hành vi cạnh tranh
không lành mạnh mà chỉ liệt kê những hành vi nào là cạnh tranh không lành mạnh theo
Điều 130 Luật SHTT.
Theo điều 130, các hành vi sau đây bị coi là hành vi CTKLM:
“a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại
1
gây nhầm lẫn
2
về chủ thể kinh doanh, hoạt động
kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng,
chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc
tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn
hiệu đó mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng
là người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được
sự đồng ý của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự
gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn
địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng
hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý
tương ứng.”
Như vậy, luật SHTT cũng đã có những quy định về hành vi CTKLM, ngoài việc
kế thừa phần lớn nội dung trong Công ước Paris, đồng thời còn quy định chi tiết, cụ thể
1 Xem khoản 2 Điều 130 Luật SHTT 2005
2 Xem khái niệm tại Điểm c Khoản 1 Điều 11 TT 37/2011/TT-BKHCN
6
hơn khái niệm chỉ dẫn thương mại và hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại. Tuy nhiên,
chưa khái quát đầy đủ những hạn vi CTKLM trên thực tế, hay nói cách khác là phạm vi
điều chỉnh hẹp hơn. Qua đó, có thể thấy một vài đặc điểm riêng của hành vi CTKLM liên
quan đến quyền SHTT ngoài những đặc điểm cơ bản của hành vi CTKLM nói chung:
Thứ nhất, thủ pháp CTKLM rất đa dạng, nhưng về cơ bản, theo cách phân loại của
Công Ước Paris và Luật SHTT, những thủ pháp đặc biệt bị cấm bao gồm hành vi gây
nhầm lẫn, lừa dối, làm mất uy tín của đối thủ cạnh tranh.
Thứ hai, hành vi này liên qua đến các đối tượng của quyền SHTT hoặc chuyển
giao quyền SHTT, chủ yếu liên quan đến các đối tượng sở hữu công nghiệp.
1.1.2 So sánh một số chế định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong luật
SHTT và luật cạnh tranh
1.1.2.1 So sánh hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong luật SHTT và luật CT cụ thể
là hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Vì luật SHTT và luật CT đều có quy định về hành vi sử dụng chỉ dẫn gây nhầm lẫn nên
nhóm chúng tôi sẽ phân biệt những điểm khác nhau cơ bản về quy định hành vi sử dụng
chỉ dẫn gây nhầm lẫn giữa 2 luật.
• Giống nhau:
- Đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh
- Chỉ dẫn bao gồm chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại,
khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn đại lý.
• Khác nhau:
Tiêu chí Luật SHTT 2005 Luật CT 2004
Cơ sở pháp lý Điều 130 Luật SHTT Khoản 1 Điều 39, 40 Luật
CT 2004
Khái niệm Tạo thành hành vi cạnh
tranh không lành mạnh khi
mọi hành vi đi ngược lại các
tập quán trung thực trong
lĩnh vực công nghiệp hoặc
thương mại (điều 10 bis
Công ước Paris)
Hành vi CTKLM là hành vi
cạnh tranh của doanh
nghiệp trong quá trình kinh
doanh trái với các chuẩn
mực thông thường về đạo
đức kinh doanh, gây thiệt
hại hoặc có thể gây thiệt hại
đến lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp
cua doanh nghiệp khác hoặc
7
của người tiêu dùng
Hành vi - Sử dụng chỉ dẫn thương
mại gây nhầm lẫn (điểm a, b
khoản 1 điều 130)
“Chỉ dẫn thương mại là các
dấu hiệu, thông tin nhằm
hướng dẫn thương mại hàng
hoá, dịch vụ bao gồm: nhãn
hiệu, tên thương mại, biểu
tượng kinh doanh, khẩu
hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa
lý, kiểu dáng bao bì của
hàng hoá và nhãn hàng hoá”
→ đối tượng thuộc chỉ dẫn
thương mại bị xâm phạm
theo quy định của Luật
SHTT “rộng” và cụ thể hơn
so với Luật CT 2004. Bởi
như đã trình bày ở trên,
Luật SHTT 2005 còn quy
định cả các chỉ dẫn gây
nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng
hóa.
- Ngoài ra, còn có các hành
vi CTKLM khác quy định
tại điểm c, d khoản 1 điều
130 Luật SHTT
- Sử dụng chỉ dẫn gây nhầm
lẫn (khoản 1 điều 39, 40)
“Chỉ dẫn: chỉ dẫn chứa
đựng thông tin gây nhầm
lẫn về tên thương mại, khẩu
hiệu kinh doanh, biểu tượng
kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn
địa lý và các yếu tố khác
theo quy định của Chính
phủ.”
→ Không có chỉ dẫn gây
nhầm lẫn về nhãn hiệu hàng
hóa.
- Ngoài ra còn có các hành
vi cạnh tranh không lành
mạnh khác quy định tại điều
41-48 LCT
Chủ thể thực hiện hành vi
chỉ dẫn gây nhầm lẫn
Chủ thể thực hiện hành vi
CTKLM liên quan đến chỉ
dẫn thương mại theo quy
định của Luật SHTT 2005
rộng hơn so với Luật CT
2004 . Cụ thể là đối tượng
áp dụng rộng bao gồm
không chỉ các tổ chức, cá
nhân Việt Nam mà gồm cả
tổ chức, cá nhân nước ngoài
khi đáp ứng các điều kiện
quy định tại Luật này và
điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
Điều 2 Luật SHTT 2005
Chủ thể thực hiện hành vi
phải là “doanh nghiệp”.
Doanh nghiệp trrong Luật
CT không chỉ bao gồm các
tổ chức kinh doanh như quy
định của Luật DN 2005, mà
còn bao gồm cả cá nhân
kinh doanh, trong đó gồm
cá nhân có đăng ký kinh
doanh và cá nhân không có
đăng ký kinh doanh.
Điều 4 khoản 1 Luật DN
2005 và điều 2 khoản 1 Luật
CT 2004
8
1.1.2.2 So sánh về cơ chế giải quyết
Bên cạnh những tiêu chí khác nhau về bản chất pháp lý, hành vi CTKLM được
quy định trong LCT và hành vi vi phạm quyền SHTT được quy định trong Luật SHTT
cũng có sự khác biệt về cơ chế giải quyết thông qua bảng so sánh sau đây.
• Giống nhau:
Khoản 3 Điều 211 và khoản 3 Điều 198 Luật SHTT quy định xử phạt vi phạm hành
chính về sở hữu công nghiệp, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền SHTT sẽ được điều chỉnh theo pháp luật cạnh tranh.
• Khác nhau:
Do hành vi CTKLM trong Luật SHTT có thể đồng thời là hành vi xâm phạm quyền
SHTT nên tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi CTKLM
tại điều 130 Luật SHTT còn có các biện pháp khác đó là tự bảo vệ và biện pháp dân sự
được quy định tại Khoản 3 Điều 198 Luật SHTT. Cụ thể ở bảng dưới đây:
CƠ
CHẾ/BIỆN
PHÁP
LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ LUẬT CẠNH TRANH
Tự bảo vệ
Do hành vi CTKLM này có thể
đồng thời là hành vi xâm phạm
quyền SHTT do đó chủ thể quyền
SHTT có thể áp dụng các biện
pháp tự bảo vệ theo quy định tại
Điều 198 LSHTT
Không có quy định
Biện pháp dân
sự
Được quy định tại Điều 202 Luật
SHTT gồm:
Chấm dứt hành vi xâm phạm
Xin lỗi, cải chính công khai
Thực hiện nghĩa vụ dân sự
Bồi thường thiệt hại
Tiêu hủy, phân phối hoặc đưa vào
sử dụng không nhằm mục đích
thương mại
Bồi thường thiệt hại được quy
định tại Điều 6 NĐ 71/2014/NĐ-
CP
“1. Tổ chức, cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật về cạnh tranh
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân khác thì
phải bồi thường.
2. Việc bồi thường thiệt hại quy
định tại Khoản 1 Điều này được
thực hiện theo các quy định của
pháp luật về dân sự.”
9
Biện pháp
hành chính
Vì hành vi này có thể là hành vi vi
phạm quyền SHTT nên có thể áp
dụng các biện pháp hành chính
theo Luật SHTT tại Điều 214
Hình phạt chính
Cảnh cáo
Phạt tiền.
Hình phạt bổ sung
Tịch thu hàng hoá giả mạo về sở
hữu trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu,
phương tiện được sử dụng chủ
yếu để sản xuất, kinh doanh hàng
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ;
Đình chỉ có thời hạn hoạt động
kinh doanh trong lĩnh vực đã xảy
ra vi phạm.
Biện pháp khắc phục hậu quả
Buộc tiêu huỷ hoặc phân phối
hoặc đưa vào sử dụng không
nhằm mục đích thương mại đối
với hàng hoá giả mạo về sở hữu
trí tuệ, nguyên liệu, vật liệu và
phương tiện được sử dụng chủ
yếu để sản xuất, kinh doanh hàng
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ với
điều kiện không làm ảnh hưởng
đến khả năng khai thác quyền của
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ;
Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt
Nam đối với hàng hoá quá cảnh
xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
hoặc buộc tái xuất đối với hàng
hoá giả mạo về sở hữu trí tuệ,
phương tiện, nguyên liệu, vật liệu
nhập khẩu được sử dụng chủ yếu
để sản xuất, kinh doanh hàng hoá
giả mạo về sở hữu trí tuệ sau khi
đã loại bỏ các yếu tố vi phạm trên
hàng hoá.
Nếu hành vi này không phát triển
thành 1 vụ việc xâm phạm quyền
SHTT mà chỉ là 1 hành vi
CTKLM thì thông thường ta áp
Điều 117 LCT
Hình phạt chính:
Cảnh cáo
Phạt tiền
Hình phạt bổ sung:
Thu hồi giấu chứng nhận đăng
ký kinh doanh, tước quyền sử
dụng giấy phép, chứng chỉ hành
nghề.
Tịch thu tang vật, phương tiện
được sử dụng để vi phạm pháp
luật về cạnh tranh.
Biện pháp khắc phục hậu quả:
Cơ cấu lại doanh nghiệp lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường;
Chia, tách doanh nghiệp đã sáp
nhập, hợp nhất; buộc bán lại
phần doanh nghiệp đã mua;
Cải chính công khai;
Loại bỏ những điều khoản vi
phạm pháp luật ra khỏi hợp đồng
hoặc giao dịch kinh doanh;
Các biện pháp cần thiết để khắc
phục tác động hạn chế cạnh
tranh của hành vi vi phạm
Tổ chức, cá nhân có hành vi vi
phạm pháp luật về cạnh tranh
gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích họp pháp
của tổ chức, cá nhân khác thì
phải bồi thường thiệt hại theo
quy định của pháp luật
10
dụng Khoản 3 Điều 211 Luật
SHTT để xử phạt vi phạm hành
chính theo quy định của LCT
Biện pháp hình
sự
Điều 212 Luật SHTT nếu hành vi
xâm phạm có yếu tố cấu thành tội
phạm
Điều 94 LCT nếu vụ việc cạnh
tranh có dấu hiệu tội phạm.
1.2 Quyền chống lại hành vi CTKLM
1.2.1 Khái niệm quyền chống lại hành vi CTKLM
Quyền sở hữu công nghiệp là tài sản vô hình chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong
tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp. Do vậy, quyền sở hữu công nghiệp đang khẳng định
vai trò to lớn, tạo nên giá trị và tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Chính vì
thế, các doanh nghiệp đã và đang tích cực thực hiện các hoạt động bảo vệ các đối tượng
sở hữu công nghiệp của mình, trong đó có quyền chống các hành vi CTKLM xuất hiện
trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Trên thế giới, tại Hội nghị ngoại giao Brusels về Sửa đổi Công ước Paris về Bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp bằng việc bổ sung Điều 10 bis vào Công ước đã lần đầu
tiên công nhận quyền chống CTKLM là một bộ phận cấu thành của bảo hộ Sở hữu công
nghiệp vào năm 1900. Tại Điều 1, Công ước Paris quy định: “Đối tượng bảo hộ sở hữu
công nghiệp bao gồm patent, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá,
nhãn hiệu dịch vụ, tên thương mại, chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ, và chống
CTKLM”.
Tương tự như Công ước Paris, pháp luật về SHTT Việt Nam cũng xem quyền
chống CTKLM được coi là một trong những đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp.
Luật SHTT 2005, sửa đổi, bổ sung năm 2009 đã quy định tại Khoản 4, Điều 4 như sau:
“Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn
địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống CTKLM”.
Như vậy, quyền chống CTKLM được coi là một trong những đối tượng của quyền sở hữu
công nghiệp. Có quy định như vậy là bởi đối tượng sở hữu công nghiệp là một yếu tổ thể
hiện lợi thế cạnh tranh trong thương mại, nên đã có không ít các doanh nghiệp thực hiện
hành vi CTKLM làm xâm hại đến các đối tượng sở hữu công nghiệp của đối thủ để thu
11
lợi bất chính trong kinh doanh. Ngoài ra, tính độc quyền của quyền sở hữu công nghiệp
có thể bị các doanh nghiệp sở hữu quyền lạm dụng để cản trở thương mại. Do vậy, pháp
luật phải thừa nhận và trao cho các chủ thể kinh doanh quyền chống CTKLM như là một
nội dung của quyền sở hữu công nghiệp để đối phó với các loại hành vi CTKLM có thể
gặp phải. Đồng thời, qua đó cũng góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của người tiêu dùng,
bảo vệ lợi ích xã hội.
Việc bổ sung thêm quy định về quyền chống lại hành vi CTKLM được coi như
một bước tiến quan trọng trong pháp luật về cạnh tranh nói riêng và pháp luật về SHTT
nói chung. Với quy định này các chủ sở hữu quyền sở hữu công nghiệp hay chủ các
doanh nghiệp kinh doanh sản xuất và người tiêu dùng có thể yên tâm rằng quyền lợi của
mình sẽ được bảo vệ từ những đối thủ, những nhà kinh doanh sản xuất mà thực hiện
những hành vi canh tranh không lành mạnh nhằm thu lợi bất chính hay mục đích tiêu cực
nào đó. Điều này cũng cho thấy rằng các nhà làm luật đã quan tâm sâu sắc tới vấn đề
CTKLM và cũng cho thấy vai trò quan trọng của quyền chống lại hành vi CTKLM đối
với các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
1.2.2 Nội dung quyền chống lại hành vi CTKLM
Bằng việc trao cho các tổ chức, cá nhân quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các biện pháp dân sự cũng như các biện pháp hành chính khi các chủ thể
này bị thiệt hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Nhà
nước ta đã góp phần giúp cho các tổ chức, cá nhân tự bảo vệ mình khỏi những hành vi
cạnh tranh không lành mạnh này, đồng thời bảo vệ được quyền lợi người tiêu dùng và lợi
ích của toàn xã hội. Cụ thể, tại Khoản 3, Điều 198, Luật sở hữu trí tuệ có quy định: “Tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không
lành mạnh có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
dân sự quy định tại Điều 202 của Luật này và các biện pháp hành chính theo quy định
của pháp luật về cạnh tranh”.
- Biện pháp dân sự:
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý hành vi xâm phạm theo yêu cầu của tổ
chức, cá nhân bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra, kể cả khi hành
vi đó đã hoặc đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự. Khi bị xâm phạm
do hành vi cạnh trahnh không lành mạnh, thì các chủ thể có quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền của mình. Thủ tục yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
áp dụng biện pháp dân sự tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
12
Cụ thể, tại Điều 202 Luật sở hữu trí tuệ quy định các biện pháp dân sự như sau:
“1. Buộc chấm dứt hành vi xâm phạm;
2. Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
3. Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
4. Buộc bồi thường thiệt hại;
5. Buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích
thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để
sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ với điều kiện không làm ảnh
hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ”.
Khi yêu cầu Tòa án bỏ vệ quyền của mình, chủ thể phải có nghĩa vụ chứng minh, cụ thể
tại Khoản 3, Điều 203, quy định “Nguyên đơn phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh”.
Ngoài ra, tại Khoản 6 Điều 203 cũng quy định “Trong trường hợp có yêu cầu bồi
thường thiệt hại thì nguyên đơn phải chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và nêu căn cứ xác
định mức bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 205 của Luật này”.
Theo đó, tại Điều 205 quy định mức bồi thường thiệt hại về vật chất được tính bằng tiền
cộng với khoản lợi nhuận mà bị đơn đã thu được do thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, nếu khoản lợi nhuận bị giảm sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật
chất. Ngoài ra, trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đã gây thiệt hại về tinh thần cho mình thì có quyền yêu cầu Toà án quyết định mức bồi
thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, tuỳ thuộc vào mức độ
thiệthại.
- Biện pháp hành chính:
Biện pháp hành chính là biện pháp được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp
dụng để xử lý những hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Trên thực tế, phần lớn các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh đều được giải quyết trước tiên bằng biện pháp hành
chính. Đây được xem là một biện pháp nhanh chóng, đơn giản và ít tốn kém.
Tại Khoản 3, Điều 211, Luật sở hữu trí tuệ quy định: “Tổ chức, cá nhân thực hiện
hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính
theo quy định của pháp luật về cạnh tranh.”
Như vậy, khác với các hành vi vi phạm sở hữu trí tuệ, được xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh được xử lý theo quy định của pháp luật về cạnh tranh. Nếu trước
đây, việc xử lý theo pháp luật cạnh tranh không gặp phải vướng mắc gì, tuy nhiên hiện
nay, Chính phủ ban hành Nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành
13
chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp. Như vậy, hiện nay, sẽ tồn tại hai nguồn văn bản
xử lý hành chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Pháp luật về cạnh tranh:
Theo pháp luật cạnh tranh, cụ thể là Luật canh tranh năm 2004 quy định về xử lý hành
chính đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, tại Điều 117 quy định:
“1. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức, cá nhân vi phạm phải
chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau đây:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh
còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh.
… ”
Tại Nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết Luật cạnh tranh về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh:
+ Hình thức xử lý vi phạm:
“Điều 3. Các hình thức xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh
1. Đối với mỗi hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, tổ chức cá nhân vi phạm phải
chịu một trong các hình thức xử phạt chính sau:
a) Cảnh cáo;
b) Phạt tiền.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về cạnh tranh
còn có thể bị áp dụng một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:
a) Thu hồi giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; tước quyền sử dụng giấy phép, chứng
chỉ hành nghề;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh bao
gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.
3. Ngoài các hình thức xử phạt theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này, doanh
nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số biện pháp khắc phục hậu quả…”.
+ Về mức phạt tiền đối với từng hành vi được quy định tại Điều 28 và Điều 29
Nghị định này như sau:
“Điều 28. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có
quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người
14
đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý
của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
b) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý
mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm
thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
2. Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau
đây:
a) Sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn về tên thương mại, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, bao bì, chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu, nhãn hàng hóa và các
yếu tố khác theo quy định của Chính phủ để làm sai lệch nhận thức của khách hàng về
hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh;
b) Kinh doanh hàng hóa, dịch vụ có sử dụng chỉ dẫn chứa đựng thông tin gây nhầm lẫn
quy định tại Điểm a Khoản này.
3. Phạt tiền gấp hai lần mức quy định tại Khoản 2 Điều này đối với hành vi quy định tại
Khoản 2 Điều này trong các trường hợp sau:
a) Hàng hóa, dịch vụ liên quan là các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu theo quy định của pháp
luật; b) Hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trở lên.
4. Ngoài việc bị phạt tiền theo Khoản 1, Khoản 2 và Khoản 3 Điều này, doanh nghiệp vi
phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp
khắc phục sau đây:
a) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả
tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
b) Buộc cải chính công khai”.
“Điều 29. Hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh
1. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau
đây:
a) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh bằng cách chống lại các biện
pháp bảo mật của người sở hữu hợp pháp bí mật kinh doanh đó;
b) Tiết lộ, sử dụng thông tin thuộc bí mật kinh doanh mà không được phép của chủ sở
hữu bí mật kinh doanh;
c) Vi phạm hợp đồng bảo mật hoặc lừa gạt, lợi dụng lòng tin của người có nghĩa vụ bảo
mật nhằm tiếp cận, thu thập và làm lộ thông tin thuộc bí mật kinh doanh của chủ sở hữu
bí mật kinh doanh đó; d) Tiếp cận, thu thập thông tin thuộc bí mật kinh doanh của người
khác khi người này làm thủ tục theo quy định của pháp luật liên quan đến kinh doanh,
15
làm thủ tục lưu hành sản phẩm hoặc bằng cách chống lại các biện pháp bảo mật của cơ
quan nhà nước hoặc sử dụng những thông tin đó nhằm mục đích kinh doanh, xin cấp
giấy phép liên quan đến kinh doanh hoặc lưu hành sản phẩm.
2. Ngoài việc bị phạt theo Khoản 1 Điều này, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu
khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm”.
+ Về thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh:
Tại Điều 119, Luật cạnh tranh quy định về cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm
pháp luật cạnh tranh bao gồm: Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Cơ quan quản lý cạnh
tranh và Cơ quan khác có thẩm quyền.
+ Về trình tự, thủ tục xử lý hành vi vi phạm quy định về cạnh tranh không lành
mạnh được quy định cụ thể trong Luật cạnh tranh và Nghị định 71/2014/NĐ-CP.
Việc xử lý vi phạm đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo pháp luật
canh tranh, mà cụ thể là Luật cạnh tranh và Nghị định 71 vẫn còn hạn chế như:
- Thứ nhất, chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh được quy định trong Luật
Cạnh tranh Việt Nam còn rất khái quát, chưa cụ thể hóa đối với từng hành vi vi phạm,
viện dẫn quá nhiều văn bản dưới luật hoặc văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Đặc
biệt, trong các văn bản hướng dẫn chi tiết về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhiều
quy định dừng lại ở mức định tính do chưa thể định lượng gây khó khăn cho việc áp dụng
trên thực tế.
- Thứ hai, chế tài còn lỏng lẻo, mức xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh còn chưa đủ sức răn đe. Chẳng hạn: Theo quy định của Nghị định 71/2014/NĐ-CP
thì mức phạt tiền cao nhất đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh là 200 triệu
đồng, tuy có cao hơn so với Nghị định 120/2005/NĐ-CP trước đây nhưng nếu so sánh
giữa mức tiền phạt mà doanh nghiệp phải chịu so với những thiệt hại mà doanh nghiệp đó
gây ra cho các doanh nghiệp khác, cho người tiêu dùng và xã hội thì vẫn chưa thỏa đáng.
Ngoài ra, có thể áp dụng một số hình thức phạt bổ sung khác hoặc biện pháp khắc phục
hậu quả.
- Cuối cùng, các nhà làm luật Việt Nam đã cố gắng tạo sự liên kết về xử lý hành vi cạnh
tranh không lành mạnh giữa Luật sở hữu trí tuệ và Luật cạnh tranh, chẳng hạn như tại
khoản 3 Điều 211 của Luật Sở hữu trí tuệ có sự dẫn chiếu đến pháp luật cạnh tranh khi
quy định “Tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh về sở hữu trí
tuệ thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về cạnh tranh”. Tuy
nhiên, những cố gắng này còn chưa đầy đủ và đồng bộ. Mặc dù có sự dẫn chiếu trên các
văn bản luật, các quy định của văn bản dưới luật lại không khớp để có thể tổ chức thực thi.
16
Nghị định 99/2013/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp:
Điều 3 Nghị định này quy định các hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu
quả:
“1. Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, tổ chức,
cá nhân vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt chính là cảnh cáo hoặc phạt
tiền.
2. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng
một hoặc các hình thức xử phạt bổ sung sau đây:…”
+ Mức phạt:
Đối với từng hành vi CTKLM trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Nghị định quy định
mức phạt cụ thể như sau:
“Điều 14. CTKLM trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp
1. Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với một
trong các hành vi sau đây trong trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ vi phạm đến
3.000.000 đồng:…
2. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi
phạm quy định tại Khoản 1 Điều này trong trường hợp giá trị hàng hóa, dịch vụ vi
phạm từ trên 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng……”
+ Về thẩm quyền xử phạt đối với hành vi CTKLM thuộc về các cơ quan sau: Tại
Điều 15, Nghị định này quy định:
“1. Thanh tra Khoa học và Công nghệ
2. Thanh tra Thông tin và Truyền thông có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm quy định
tại Điểm a Khoản 16 Điều 14 của Nghị định này.
3. Quản lý thị trường có thẩm quyền xử phạt các hành vi vi phạm sau đây:
b) Hành vi vi phạm trong hoạt động buôn bán, vận chuyển hàng hóa tại thị trường trong
nước. Trong trường hợp xử lý hành vi vi phạm quy định tại Điểm b Khoản 3 Điều này mà
xác định được cơ sở sản xuất loại hàng hóa đó thì Quản lý thị trường có thẩm quyền tiếp
tục xử lý hành vi vi phạm tại cơ sở sản xuất.
4. Hải quan có thẩm quyền xử phạt hành vi vi phạm quy trong hoạt động quá cảnh, nhập
khẩu hàng hóa”.
Như vậy, có thể thấy, Nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định về mức xử lý đối với
hành vi CTKLM, mà chủ yếu là trong sở hữu công nghiệp rõ ràng, cụ thể, chi tiết mức
phạt đối với từng hành vi tương ứng với giá trị hàng hóa, dịch vụ vi phạm. Điều này đã
khắc phục được bất cập về sự khác nhau trong việc quy định các hành vi CTKLM theo
Điều 130 Luật SHTT và Điều 39 LCT.
17
Tuy nhiên, vẫn còn một số bất cập như: công tác xử lý các hành vi CTKLM trong lĩnh
vực SHTT với sự tham gia của rất nhiều cơ quan như thanh tra KH&CN, quản lý thị
trường, hải quan, tòa án… tạo nên sự chồng lấn về thẩm quyền, mâu thuẫn về trình tự,
thủ tục giải quyết vụ việc. Thêm vào đó, pháp luật thiếu các quy định về giải quyết xung
đột pháp lý, phân định thẩm quyền của các cơ quan thực thi cũng như thiếu quy định về
cơ chế phối hợp giữa các cơ quan trong quá trình xử lý hành vi phản cạnh tranh liên quan
đến quyền SHTT dẫn đến thiếu khả năng hợp tác hiệu quả của các cơ quan thực thi trong
khi luật nội dung chưa rõ ràng, cụ thể đã gây khó khăn cho quá trình triển khai thực hiện
pháp luật.
Tóm lại, hiện nay, đang tồn tại hai nguồn văn bản xử lý hành chính đối với hành vi
CTKLM. Thứ nhất, là nghị định 71/2014/NĐ-CP quy định chi tiết LCT về xử lý vi phạm
pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh. Thứ hai là nghị định 99/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp.
- Biện pháp hình sự
Ngoài các biện pháp dân sự và hành chính, thì hành vi CTKLM có yếu tố cấu thành
tội phạm sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự. Tuy nhiên,
thực tế hiện nay, Nhà nước chỉ coi những hành vi xâm hại quyền lợi của người tiêu dùng là
tội phạm và áp dụng chế tài hình sự khi hành vi đó có tính chất nguy hiểm cao, gây tổn hại
nghiêm trọng cho tính mạng, sức khoẻ và tài sản của người tiêu dùng. Để có thể áp dụng
chế tài hình sự cho người vi phạm, buộc phải chứng minh được các yếu tố cấu thành tội
phạm, điều đó không phải là đơn giản. Trong khi đó, các hành vi CTKLM lại xảy ra khá
phổ biến và đã gây ra không ít tổn hại cho người tiêu dùng. Do đó, quyền lợi của người tiêu
dùng cần thiết phải có sự bảo vệ của các chế tài hình sự, nhằm tránh sự xâm hại của các
hành vi CTKLM.
Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi CTKLM được quy định tại
Chương XVI "Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa
đổi năm 2009, biểu hiện dưới các tội danh như: Tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156);
tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng
bệnh (Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,
thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội lừa dối khách
hàng (Điều 162); tội quảng cáo gian dối (Điều 168); tội xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp (Điều 171); tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật trong hoạt động
chứng khoán (Điều 181a); tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều
181b); tội thao túng giá chứng khoán (Điều 181c).
18
Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không giam
giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như tù chung thân
hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài
sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
1.3 Quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công
nghiệp theo quy định của pháp luật Việt Nam
1.3.1 Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
Hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp là hành vi có
những đặc điểm sau đây:
• do doanh nghiệp tiến hành;
• làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường;
• liên quan đến sử dụng hoặc chuyển giao quyền sở hữu công nghiệp
Hạn chế cạnh tranh thể hiện ở ba dạng: thoả thuận hạn chế cạnh tranh; lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền; và tập trung kinh tế.
Nếu như LSHTT có quy định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến
quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 130 thì LCT lại không có quy định cụ thể nào về hành
vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp. Về nguyên tắc, những
thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại Điều 8, Điều 9 LCT, những hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền quy định từ Điều 11 đến Điều 14
LCT, những hành vi tập trung kinh tế quy định từ Điều 16 đến Điều 19 LCT mà liên quan
đến quyền sở hữu công nghiệp đều có thể bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan
đến quyền sở hữu công nghiệp.
Theo quy định của pháp luật cạnh tranh và pháp luật sở hữu trí tuệ, những hành vi
sau đây bị coi là hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ:
• Thoả thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ khi các bên tham gia thoả thuận
có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên (khoản 4 Điều 8,
khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh);
• Doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành
vi cản trở sự phát triển kĩ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng (khoản 3
Điều 13 Luật cạnh tranh). Theo Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005
của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh, các
hành vi nêu trên được giải thích là việc mua sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
19
công nghiệp để tiêu huỷ hoặc không sử dụng (khoản 1 Điều 17 và điểm a khoản 3
Điều 28);
• Ghi nhận những điều khoản hạn chế cạnh tranh trong hợp đồng sử dụng đối tượng
sở hữu công nghiệp.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 144 LSHTT, hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu
công nghiệp không được có các điều khoản hạn chế bất hợp lí quyền của bên được
chuyển quyền, đặc biệt là các điều khoản không xuất phát từ quyền của bên chuyển
quyền, bao gồm:
(i) Cấm bên được chuyển quyền cải tiến đối tượng sở hữu công nghiệp, trừ nhãn hiệu; buộc
bên được chuyển quyền phải chuyển giao miễn phí cho bên chuyển quyền các cải tiến đối
tượng sở hữu công nghiệp do bên được chuyển quyền tạo ra hoặc quyền đăng ký sở hữu
công nghiệp, quyền sở hữu công nghiệp đối với các cải tiến đó;
(ii) Trực tiếp hoặc gián tiếp hạn chế bên được chuyển quyền xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ
được sản xuất hoặc cung cấp theo hợp đồng sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp sang
các vùng lãnh thổ không phải là nơi mà bên chuyển quyền nắm giữ quyền sở hữu công
nghiệp tương ứng hoặc có độc quyền nhập khẩu hàng hoá đó;
(iii) Buộc bên được chuyển quyền phải mua toàn bộ hoặc một tỷ lệ nhất định các nguyên liệu,
linh kiện hoặc thiết bị của bên chuyển quyền hoặc của người thứ ba do bên chuyển quyền
chỉ định mà không nhằm mục đích bảo đảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ do bên được
chuyển quyền sản xuất hoặc cung cấp. Bên cạnh đó, Điều 20 (khoản 2, điểm e) Luật
chuyển giao công nghệ cũng quy định rõ: Bên giao công nghệ ”không được thoả thuận về
điều khoản hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của Luật cạnh tranh”.
1.3.2 Phân biệt hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh
• Giống nhau:
Thứ nhất, chúng đều là hành vi xâm hại môi trường cạnh tranh lành mạnh, công bằng,
có thể gây thiệt hại cho các doanh nghiệp khác hoặc cả người tiêu dùng. Do đó, đều phải
chịu sự điều chỉnh của pháp luật liên quan, đặc biệt là pháp luật về cạnh tranh và pháp
luật về sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, chủ thể tham gia hành vi cạnh tranh liên quan đến quyền sở hữu công nghiệp
ở đây không phải là mọi cá nhân tổ chức mà chỉ giới hạn ở những chủ thể kinh doanh
nhất định.
• Khác nhau
20
Cạnh tranh không lành mạnh Hạn chế cạnh tranh
Khái niệm
Hành vi CTKLM là hành vi của
doanh nghiệp nhằm mục đích cạnh
tranh trong quá trình kinh doanh trái
với chuẩn mực đạo đức thông thường
về kinh doanh, gây thiệt hại đến lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của doanh nghiệp hoặc
người tiêu dùng
Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi
của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch
cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao
gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung
kinh tế.
Hậu quả
Gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh ;
cho một bộ phận người tiêu dùng nhất
định.
Gây nguy hiểm lớn cho thị trường,
làm sai lệch cấu trúc thị trường gây
tổn hại cho toàn bộ lợi ích của người
tiêu dùng và lợi ích chung của xã hội,
của nền kinh tế
Phương
thức thực
hiện
Giả mạo chỉ dẫn thương mại
Xâm phạm bí mật kinh doanh
Ép buộc trong kinh doanh, gièm pha
trong kinh doanh, gây rối loạn kinh
doanh cho doanh nghiệp khác
Quảng cáo, khuyến mại nhằm cạnh
tranh ko lành mạnh
Phân biệt đối xử của hiệp hội
Báo hàng đa cấp bất chính
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Lạm dụng vị trí độc quyền
Tập trung kinh tế
Các hành
vi được
miễn trừ
Không có
Trường hợp miễn trừ đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm (điều
10- luật canh tranh)
Trường hợp miễn trừ đối với tập trung
kinh tế (điều 19- luật cạnh tranh)
21
Chế tài
Nhẹ hơn chủ yếu là bồi thường thiệt
hại, tùy mức độ phạt hành chính và
hình sự truy cứu
Chủ thể vi phạm còn bị áp dụng các
chế tài dân sự khác
Thẩm
quyền giải
quyết
Cơ quan quản lý cạnh tranh Hội đồng cạnh tranh
Tính chất
Trái với đạo đức trong kinh doanh, vi
phạm pháp luật
Xuất phát từ lạm dụng quyền tự do
cạnh tranh
Mục đích
của pháp
luật
Chống các hành vi này. Cấm thực
hiện các hành vi cạnh tranh không
lành mạnh
Kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh
tranh
1.4 Sự giao thoa giữa Luật SHTT và LCT
1.4.1 Phân biệt hành vi CTKLM trong Luật SHTT và LCT
Mối quan hệ giữa pháp luật chống CTKLM và pháp luật về SHTT có từ rất lâu.
Các quy định mang tính quốc tế đầu tiên về CTKLM xuất phát từ một công ước về SHTT
là Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp. Bảo vệ quyền SHTT chính là một trong
những xuất phát điểm cơ bản của các quy định CTKLM, vì về bản chất các hành vi xâm
phạm quyền SHTT đều được tiến hành với động cơ CTKLM. Một hành vi chỉ bị coi là
xâm phạm quyền SHTT khi chủ thể thực hiện nó có ý định hoặc đã đưa tài sản trí tuệ của
người khác vào khai thác thương mại, đồng nghĩa với việc trở thành một đối thủ cạnh
tranh của chính chủ sở hữu tài sản trí tuệ đó.
Hành vi vi phạm quyền SHTT và CTKLM nhìn bề ngoài có thể có rất nhiều điểm
giống nhau, tuy vậy sự khác nhau giữa hai loại hành vi này xuất phát từ chính bản chất
pháp lý của mỗi loại hành vi. Đó chính là sự khác nhau về phạm vi áp dụng, yếu tố chủ
thể và yếu tố lỗi. Từ sự khác nhau cơ bản này ta có thể phân biệt hành vi vi phạm quyền
SHTT và hành vi CTKLM qua bảng so sánh sau:
TIÊU CHÍ
HÀNH VI XÂM PHẠM
QUYỀN SHTT
HÀNH VI CTKLM
Phạm vi áp dụng Khi có một quyền SHTT
được bảo hộ hợp pháp bị
xâm hại, tức là sẽ không có
khái niệm về vi phạm quyền
Hình thành kể cả khi một đối
tượng bị xâm phạm không
đăng kí bảo hộ (Điều 39 LCT)
22
SHTT khi mà quyền đó
không hề tồn tại
Ví dụ: Trường hợp một nhãn hiệu không đăng ký thì không
thể căn cứ vào pháp luật về SHTT để bảo vệ khi bị xâm
phạm. Tuy nhiên, cũng trong trường hợp này lại hoàn toàn
có thể áp dụng LCT để điều chỉnh, theo đó hành vi sử dụng
chỉ dẫn làm sai lệch nhận thức của khách hàng về hàng hoá,
dịch vụ nhằm mục đích cạnh tranh là một dạng của hành vi
CTKLM, không phụ thuộc vào việc dấu hiệu chỉ dẫn đó đã
được đăng ký hay chưa
Chủ thể thực hiện hành vi
Bất kì chủ thể nào vi phạm
độc quyền của chủ sở hữu
đã được pháp luật quy định.
Chủ thể có hành vi CTKLM
đối với đối thủ cạnh tranh
trên thị trường liên quan.
(Thị trường liên quan bao
gồm thị trường sản phẩm liên
quan và thị trường địa lý liên
quan.
Thị trường sản phẩm liên
quan là thị trường của những
hàng hóa, dịch vụ có thể thay
thế cho nhau về đặc tính, mục
đích sử dụng và giá cả.
Thị trường địa lý liên quan là
một khu vực địa lý cụ thể
trong đó có những hàng hóa,
dịch vụ có thể thay thế cho
nhau với các điều kiện cạnh
tranh tương tự và có sự khác
biệt đáng kể với các khu vực
lân cận).
(Khoản 1 Điều 3 LCT)
Ví dụ: Một doanh nghiệp tại Bến Tre đã sao chép nguyên
vẹn một nhãn hiệu đã đăng ký cho cùng nhóm sản phẩm của
doanh nghiệp khác có trụ sở và phạm vi hoạt động tại Đà
Nẵng. Giả sử rằng hai doanh nghiệp này không có quan hệ
cạnh tranh với nhau trên thị trường địa lý liên quan (do ở
quá xa nhau) thì chủ nhãn hiệu vẫn hoàn toàn có thể kiện về
hành vi vi phạm quyền SHTT nhưng sẽ không thể kiện về
hành vi CTKLM.
Chủ thể có quyền khởi
kiện
Chủ thể của quyền SHTT
(Khoản 2 Điều 198 LSHTT)
Tổ chức cá nhân bị thiệt hại
hoặc có khả năng bị thiệt hại
do hành vi CTKLM
(Điều 58 LCT)
23
Yếu tố lỗi
Lỗi không phải là yếu tố bắt
buộc cấu thành hành vi vi
phạm. Một khi các đối
tượng của quyền SHTT đã
được đăng ký theo đúng
trình tự pháp luật quy định
thì các chủ thể khác được
suy đoán là đã biết tới
quyền của chủ hữu. Do đó,
sẽ cấu thành hành vi vi
phạm quyền SHTT mọi
hành vi thuộc độc quyền
của chủ sở hữu quyền
SHTT mà không được chủ
sở hữu cho phép.
Lỗi cố ý theo pháp luật hiện
hành cũng như được ghi nhận
từ lâu trong pháp luật các
nước
Ví dụ: Điều 40 LCT
Cấm doanh nghiệp sử dụng
chỉ dẫn chứa đựng thông tin
gây nhầm lẫn về tên thương
mại, khẩu hiệu kinh doanh,
biểu tượng kinh doanh, bao
bì, chỉ dẫn địa lý và các yếu
tố khác theo quy định của
Chính phủ để làm sai lệch
nhận thức của khách hàng về
hàng hóa, nhằm mục đích
cạnh tranh.
1.4.2 Vai trò của các quy định về hành vi CTKLM
1.4.2.1 Vai trò của các quy định về CTKLM theo pháp luật hiện hành
Ngay từ năm 2000 khi Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ra đời, pháp luật đã có các
quy định về CTKLM trong lĩnh vực SHTT. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật đương
nhiên phải kể tới LCT năm 2004 (bắt đầu có hiệu lực từ 01/07/2005) Bộ luật dân sự năm
2005 (bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2006) và Luật SHTT 2005 (bắt đầu có hiệu lực
từ ngày 1/7/2006), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật SHTT năm 2009 (bắt đầu
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2010).
Như vậy, tại thời điểm hiện tại cùng song song tồn tại khái niệm về CTKLM tại
hai văn bản là Luật SHTT 2005, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở
hữu công nghiệp bao gồm : (Khoản 1 Điều 130)
“Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng, chất
lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp hàng
hoá, dịch vụ;
Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có quy
định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà
24
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại
diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của
chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm
lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà
mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm
thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương
ứng.”
Văn bản thứ hai tồn tại khái niệm CTKLM trong đó có hành vi CTKLM liên quan
đến SHTT được quy định trong LCT như đã được đề cập. Trên thực tế, mặc dù LCT đã
có hiệu lực khá lâu nhưng cho tới thời điểm này có rất ít vụ việc nào về CTKLM bị xử lý
theo LCT. Còn trước đó, khi Luật SHTT 2005 chưa ra đời, việc áp dụng Nghị định
54/2000/NĐ-CP để xử lý về hành vi CTKLM liên quan đến SHCN cũng rất hạn chế, theo
đó tất cả các vụ việc được xử lý chỉ giới hạn ở một hoặc một vài ý kiến giám định của
Cục SHTT và ý kiến của Cục SHTT đưa ra cũng thường rất chung chung là một hành vi
vi phạm quyền SHTT cũng có thể đồng thời bị coi là hành vi CTKLM.
1.4.2.2 Vai trò của các quy định về CTKLM trong các vụ việc về SHTT trong Luật SHTT
Có thể dễ dàng nhận thấy trong Luật SHTT có 03 điều khoản đề cập đến hành vi
cạnh trạnh không lành mạnh trong lĩnh vực SHTT, đó là:
Quy định tại các Khoản 4 Điều 4 liên quan đến giải thích thuật ngữ Quyền sở hữu
công nghiệp: “ Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng
chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống
CTKLM”. Điểm d Khoản 3 Điều 6 liên quan đến căn cứ phát sinh, xác lập quyền SHCN:
“Quyền sở hữu công nghiệp đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được
một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó”.
Đặc biệt tại Điều 130 quy định về hành vi CTKLM , Mục 1 Chương IX liên quan
đến chủ sở hữu, nội dung và giới hạn quyền SHCN :
“1. Các hành vi sau đây bị coi là hành vi CTKLM:
a) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt động kinh
doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hoá, dịch vụ;
25
b) Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất, tính năng,
chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hoá, dịch vụ; về điều kiện cung cấp
hàng hoá, dịch vụ;
c) Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều ước quốc tế có
quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu sử dụng nhãn hiệu đó
mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người
đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý
của chủ sở hữu nhãn hiệu và không có lý do chính đáng;
d) Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc tương tự gây
nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người khác hoặc chỉ dẫn địa lý
mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm
thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương ứng.
2. Chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này là các dấu hiệu, thông tin nhằm
hướng dẫn thương mại hàng hoá, dịch vụ, bao gồm nhãn hiệu, tên thương mại, biểu
tượng kinh doanh, khẩu hiệu kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng bao bì của hàng hoá,
nhãn hàng hoá.
3. Hành vi sử dụng chỉ dẫn thương mại quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm các
hành vi gắn chỉ dẫn thương mại đó lên hàng hoá, bao bì hàng hoá, phương tiện dịch vụ,
giấy tờ giao dịch kinh doanh, phương tiện quảng cáo; bán, quảng cáo để bán, tàng trữ
để bán, nhập khẩu hàng hoá có gắn chỉ dẫn thương mại đó, và Điều 198 khoản 3 quy
định về Quyền tự bảo vệ (Phần thứ 5 Chương XVI liên quan đến Bảo vệ quyền SHTT)”.
Trong số các quy định có liên quan đến hành vi CTKLM trong Luật SHTT vừa
nêu, có một số điểm cần lưu ý:
Một là, khái niệm về hành vi CTKLM trong lĩnh vực SHTT đã được mở rộng và
có nội hàm rõ ràng hơn rất nhiều so với khái niệm chỉ dẫn gây nhầm lẫn (một trong các
dạng biểu hiện cụ thể của hành vi CTKLM mạnh liên quan tới SHTT được quy định tại
khoản 1 Điều 39 và Điều 40 LCT).
Hai là, Luật SHTT đã đề cập đến khả năng chủ thể bị thiệt hại hoặc có khả năng bị
thiệt hại do hành vi CTKLM có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện
pháp dân sự để bảo vệ quyền của mình đều không được chỉ rõ trong LCT. Tuy nhiên, nội
dung nghiên cứu sẽ tập trung vào phân tích mối quan hệ giữa các quy định về CTKLM
liên quan tới SHTT và các quy định về vi phạm SHTT nói chung .
Các quy định về CTKLM sẽ và phải đóng vai trò bổ sung cho các quy định về
SHTT, nhưng dựa trên các cơ sở pháp lý độc lập, để bảo vệ hiệu quả hơn các chủ thể
trong nền kinh tế trong trường hợp các chủ thể không thể viện dẫn các quy định về SHTT