Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Mối quan hệ giữa dân số và giáo dục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.72 KB, 31 trang )

faTrường Đại học Kinh tế Quốc dân
o0o
BÀI TẬP NHÓM
Đề tài: Mối quan hệ giữa dân số và giáo dục
Lớp học phần: Dân số phát triển _ 2
Nhóm thuyết trình: 3
Thành viên
1. Vũ Văn Quân 6. Hoàng Văn Lâm
2. Lưu Tuấn Anh 7. Ninh Thị Bích Ngọc
3. Nguyễn Thu Thủy 8. Nguyễn Thị Minh Trang
4. Nguyễn Bá Nguyên 9. Nguyễn Thị Thúy
5. Mai Huy Thắng
A – MỤC LỤC
1. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC 3
1.1. Khái niệm về giáo dục 3
1.2.Vai trò của giáo dục 3
1.3. Tiêu chí đánh giá phát triển giáo dục 4
1.3.1. Số lượng 4
1.3.2. Chất lượng 4
1.4. Các chỉ số đánh giá về giáo dục 5
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ GIÁO DỤC 5
2.1 Ảnh hưởng của dân số đến giáo dục 5
2.1.1. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến giáo dục 5
2.1.2. Cơ cấu và chất lượng dân số ảnh hưởng đến giáo dục 6
2.1.3. Phân bố dân cư và mật độ dân số ảnh hưởng tới giáo dục 8
2.1.4. Chất lượng dân số ảnh hưởng đến giáo dục 9
2.1.5. Ảnh hưởng của các quá trình dân số tới giáo dục 11
2.2. Ảnh hưởng của giáo dục đến dân số 12
2.2.1. Giáo dục ảnh hưởng đến mức sinh 12
2.2.2. Giáo dục ảnh hưởng đến mức chết 15
2.2.5. Giáo dục ảnh hưởng đến bình đẳng giới 21


3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP 7 27
3.1. Nhóm giải pháp về dân số 27
3.2. Nhóm giải pháp về giáo dục. () 27
3.3. Nhóm giải pháp chung. (Tuấn Anh) 28
TÍNH CHỈ SỐ ĐÔ THỊ HÓA CỦA VIỆT NAM QUA
CÁC CUỘC TỔNG ĐIỀU TRA DÂN SỐ 30
2
B – NỘI DUNG
1. TỔNG QUAN VỀ GIÁO DỤC
1.1. Khái niệm về giáo dục
- Theo nghĩa rộng : Giáo dục là quá trình xã hội hóa nhân cách, được tổ chức một
cách có mục đích, có kế hoạch, thông qua các hoạt động và mối quan hệ giữa
người giáo dục và người được giáo dục nhằm giúp mỗi cá nhân tiếp thu được các
kiến thức xã hội, lịch sử của loài người, từ đó phát triển sức mạnh của bản thân
sao cho phù hợp với yêu cầu phát triển của xã hội.
- Theo nghĩa hẹp : Giáo dục là quá trình tác động giúp người được giáo dục tiếp
nhận và chuyển hóa tích cực các chuẩn mực xã hội, từ đó hình thành ý thức, thái
độ và hệ thống hành vi phù hợp với các mục tiêu giáo dục. Theo nghĩa hẹp, có 2
hình thức giáo dục là: Giáo dục chính thống và giáo dục không chính thống.
- “ Giáo dục là quá trình hoạt động có mục đích, có ý thức, có kế hoạch nhằm
truyền đạt cho lớp người mới những kinh nghiệm đấu tranh và sản xuất, những tri
thức về tự nhiên, về xã hội và về tư duy, để họ có thể có đủ khả năng tham gia vào
lao động và đời sống xã hội.
1.2.Vai trò của giáo dục.
- “ Giáo dục là nhân tố cơ bản trong sự phát triển bền vững, là một thành phần
của phúc lợi và là phương tiện để các cá nhân nhận được kiến thức. Giáo dục góp
phần giảm tỷ lệ sinh, giảm tỷ lệ tử vong, tăng quyền năng và vị thế cho phụ nữ,
nâng cao chất lượng dân số, cả cung và cầu dịch vụ giáo dục sẽ quyết định trình độ
học vấn của dân số nói riêng và chất lượng dân số nói chung”. ( Hội nghị về Dân
số và Phát triển LHQ tổ chức tại Cairo Ai Cập năm 1994).

3
1.3. Tiêu chí đánh giá phát triển giáo dục.
1.3.1. Số lượng.
- Tỷ lệ biết chữ người lớn – ALR: Là tỷ lệ phần trăm những người từ 15 tuổi trở
lên biết đọc biết viết trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên.
- Tỷ lệ nhập học các cấp(%): Là chỉ tiêu phản ánh đầu vào của giáo dục. Chỉ số
này thường được sử dụng để giám sát sự phổ cập của hệ thống giáo dục và sự phát
triển học sinh.
- Số năm đi học trung bình: Tiêu chí này dùng để chỉ số năm đến trường tích lũy
được trung bình trong tổng dân số.
- Số năm đi học dự kiến : Là số năm mà một đứa trẻ trong độ tuổi đến trường có
thể được đi học nếu tỷ lệ nhập học theo các độ tuổi cụ thể được giữ nguyên trong
suốt cuộc đời của đứa trẻ.
- Tỷ lệ sinh viên/1000 dân : Số lượng sinh viên đại học và cao đẳng trung bình
trên 1000 dân ( theo phần nghìn).
1.3.2. Chất lượng.
- Số học sinh, sinh viên trên một giáo viên(P/T) : Là tỷ lệ giữa học sinh của một
cấp học so với số giáo viên ở cấp học đó.
- Trình độ giáo viên : Có hai chỉ số thường được dùng để đánh giá trình độ giáo
viên là Trình độ học vấn nói chung của giáo viên và tỷ lệ phần trăm giáo viên
được xác nhận (hoặc đào tạo) để tham gia giảng dạy theo tiêu chuẩn quốc gia.
- Chi tiêu công cho giáo dục : Tiêu chí chi tiêu cho giáo dục được khảo sát với tính
chất là một bộ phận chi tiêu công trong tổng thu nhập quốc dân (GNI).
- Cơ sở vật chất phục vụ giáng dạy: tỷ lệ phòng học, xưởng học được xây dựng
vững chắc và đúng tiêu chuẩn, số lượng thiết bị đồ dụng dạy học trên một lớp,…
- Thành tích học tập của học sinh : Kết quả học tập cuối cùng của học sinh, tỷ lệ
hoàn thành các cấp học,
4
1.4. Các chỉ số đánh giá về giáo dục.
- Chỉ số giáo dục (EI): Chỉ số giáo dục hoặc còn gọi là chỉ số thành tựu giáo dục.

Chỉ số này thường được sử dụng trong so sánh quốc tế và là một trong ba chỉ số
thành phần được sử dụng để tính chỉ số phát triển con người (HDI) của mỗi nước.
- Chỉ số kinh tế tri thức (KEI): Chỉ số này xác lập để có thể định lượng được trình
độ phát triển kinh tế tri thức của các quốc gia. Theo tiêu chí này, Việt Nam xếp
thứ 97/140 nước và vùng lãnh thổ trên bảng xếp hạng năm 2007, lên được 12 bậc
so với bảng xếp hạng 1995.
- Chỉ số thặng dư năng lực giáo dục so với mức thu nhập: Một quốc gia có mức
thặng dư năng lực giáo dục càng cao nếu tỷ lệ giữa chỉ số giáo dục và chỉ số thu
nhập càng lớn.
2. MỐI QUAN HỆ GIỮA DÂN SỐ VÀ GIÁO DỤC
2.1 Ảnh hưởng của dân số đến giáo dục
2.1.1. Ảnh hưởng của quy mô dân số đến giáo dục
- Dân số đông và tăng nhanh => Số dân đi học đông => Cần mở nhiều trường lớp
=> Đội ngũ giáo dục tăng
Tính đến cuối năm 2011, cả nước có 57/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và 63/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Số trường đạt chuẩn
quốc gia trong năm học 2010-2011 cấp mầm non tăng 20,6% so với năm học
trước; cấp tiểu học tăng 11,5%; cấp trung học cơ sở tăng 22,3%; cấp trung học phổ
thông tăng 24,3%. Số giáo viên phổ thông năm học 2010-2011 là 830,9 nghìn giáo
viên, tăng hơn 12 nghìn giáo viên so với năm học trước. Tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn
cấp tiểu học trong năm học này là 97,6%; cấp trung học cơ sở là 97,4% và cấp
trung học phổ thông là 99,0%.
- Với các nước đang phát triển; cần nhiều cán bộ chuyên môn => Nhu cầu học tập
cao để đáp ứng trình độ phát triển => Quy mô giáo dục mở rộng
5
- Với các nước đang phát triển, tỷ lệ lao động ở nông thôn cao và có thu nhập thấp
=> Nhu cầu giáo dục cao để thoát nghèo
Dân số trung bình cả nước năm 2011 ước tính 87,84 triệu người, tăng 1,04% so
với năm 2010, bao gồm: Dân số nam 43,47 triệu người, chiếm 49,5% tổng dân số

cả nước, tăng 1,1%; dân số nữ 44,37 triệu người, chiếm 50,5%, tăng 0,99%. Dân
số khu vực thành thị là 26,88 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số cả nước, tăng
2,5% so với năm 2010; dân số khu vực nông thôn 60,96 triệu người, chiếm
69,4%, tăng 0,41%.
Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi năm 2011 là 2,27%, trong đó khu vực
thành thị là 3,6%, khu vực nông thôn là 1,71% (Năm 2010 các tỷ lệ tương ứng là:
2,88%; 4,29%; 2,30%). Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2011
là 3,34%, trong đó khu vực thành thị là 1,82%, khu vực nông thôn là 3,96% (Năm
2010 các tỷ lệ tương ứng là: 3,57%; 1,82%; 4,26%).
2.1.2. Cơ cấu và chất lượng dân số ảnh hưởng đến giáo dục
- Dân số tới độ tuổi đến trường cao=> quy mô giáo dục tương ứng phải càng
lớn.đa phần đều xảy ra ở những nước đang phát triển.
Bảng 1. Cơ cấu dân số trong độ tuổi giáo dục phổ thông

Bảng 2. Số lượng học sinh phổ thông tại thời điểm 31 -12 các năm học
6
Nhóm tuổi 1979 1989 1999 2009
5 – 9 14,58 13,3 12,00 7,99
10 – 14 13,35 11,7 11,96 8,54
15 – 19 11,40 10,5 10,77 10,19
Tống tỷ lệ (%) 39,33 35,5 34,73 28,73
- Một nước có cơ cấu dân số trẻ, tháp dân số có dạng hình tam giác, đáy rộng
không đồng đều giữa các vùng, miền ảnh hưởng trước tiên tới quy mô, cơ cấu
khung và cơ cấu lãnh thổ ngành giáo dục.
Hình 1. Cơ cấu dân số của Việt Nam
- Dân tộc với nhiều ngôn ngữ, văn hóa phong tục khác nhau sẽ gây khó khăn tới
việc phổ cập giáo dục và có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng đào tạo. Vì thế mà
chất lượng dân số tại những khu vực khác nhau sẽ có chất lượng dân số khác nhau,
7
Năm học 1998 - 1999 2002 - 2003 2006 - 2007 2009 - 2010

Tổng số 17391,1 17699,6 16256,6 14912,1
Tiểu học 10223,9 8815,7 7029,4 6908,0
THCS 5514,3 6429,7 6152,0 5163,2
THPT 1652,9 2454,2 3075,2 2840,9
những trẻ em dân tộc nơi có điều kiện sống và cơ sở vật chất thiếu thốn sẽ có chất
lượng giáo dục khác với trẻ em nơi thành thị có cơ sở vật chất tốt hơn.
-Tôn giáo có ảnh hưởng, chi phối rất lớn tới tâm lý, đời sống tinh thần, quan niệm
của con người. Mỗi tôn giáo có quan niêm khác nhau về giáo dục khác nhau. Điều
này ảnh hưởng lớn tới quy mô và chất lượng giáo dục.
2.1.3. Phân bố dân cư và mật độ dân số ảnh hưởng tới giáo dục
Theo kết quả tổng điều tra dân số 1/4/2009 . Quy mô dân số nước ta là
85.789.573 người được phân bố trên 6 vùng kinh tế xã hội của đất nước. Vùng
đông dân nhất là Đồng bằng sông Hồn(19.577.944 người),chiếm 22.82% dân số cả
nước, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung (18.835.485 người)
,chiếm 21,95% dân số cả nướcvà Đồng bằng sông Cửu Long (17.178.871 người)
chiếm 20,02% dân số cả nước Vùng có số dân ít nhất là Tây Nguyên, gồm 5 tỉnh
với dân số là 5.107.437người.,chỉ chiếmc5,95% cả nước
Chính sự phân bố không đồng đều trên đã ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng giáo
dục của nước ta.Những vùng đông dân cư thường là những vùng có đất đai màu
mỡ,giao thông thuận lợi và kinh tế phát triển nên giáo dục ở những nơi này tốt hơn
những nơi khác cả về chất và lượng.Những nơi như ĐBSH và ĐBSCL có cơ sở
vật chất dành cho giáo dục khá tốt,đặc biệt là tại các thành phố. Ví dụ tp Hà Nội
năm 2009 có ó 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường
trung học phổ thông với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh, Hà Nội có 40 trường
công lập và 65 trường dân lập. Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn
nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học và cao đẳng, đào tạo
hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên,
Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên,chiếm gần một nửa số sinh viên cả nước
chất lượng cơ sở vật chất cũng tốt hơn nhiều với các phòng học kiên có và được
đầu tư hiên đại. Trong khi đó cả vùng Tây nguyên chỉ có hơn 7000 phòng học và

chỉ có một trường đại học,chất lượng cơ sở vật chất cũng không tốt với nhiều
phòng học còn đơn sơ tạm bợ hoặc xuống cấp
8
Việc phân bố dân cư không đồng đều cũng gây nên tình trạng thừa,thiếu
trường lớp ở các vùng.Việc dân cư tập trung quá đông ở các thành phố lớn như Hà
Nội và tp HCM đã gây nên việc thiếu trường lớp và để đáp ứng nhu cầu học tập
của người dân dẫn đến tình trạng chạy đua xin cho con học lớp một tai các trường
công lập hay tình trạng một lớp học có tới 50-60 học sinh,trong khi các trường dân
lập chưa đáp ứng đủ nhu cầu hoạc quá đắt.Trong khi đó tại các vùng như Tây
Nguyên , Tây Bắc nhiều nơi không thể xây được trường học vì có quá ít học sinh
và các học sinh muốn đi học thì phải đi rất xa để học, điều này dẫn tới việc học
sinh bỏ học va quy mô lớp học rất thấp,chỉ từ 15-20 học sinh
2.1.4. Chất lượng dân số ảnh hưởng đến giáo dục
Chất lượng dân số được thể hiên ở trình độ văn hóa,khả năng nhận thức học hỏi
và thể lực của người dân
Ở Việt Nam đã thực hiện xong phổ cập giáo dục tiểu học nhưng tính đến năm
2009 có khoảng 1,7 triệu người mù chữ,điều này ảnh hưởng không nhỏ tới giáo
dục Việt Nam. Làm giảm chất lượng của giáo dục vì chưa biết chữ thì không thể
nào mà thu nhận được cá kiến thức khác và nhà nước cần phải chi thêm nhiều tiền
dể dành cho việc xóa mù thay vì chi để nâng cao chất lượng giáo dục.
Theo thống kê của UNDP năm 2011 thì số năm đi học trung bình của người dân
là 5,5 năm,rất thấp so với mức kì vọng là 10 năm Tại năm 2011 cả nước ta có
14781561 học sinh phổ thông với tổng số 587179 giáo viên. Điều đó cho thấy
nước ta có tỷ lệ dân số đi học khá cao cùng với đội ngũ giáo viên đủ để đáp ứng
nhu cầu học tập.Nhưng số năm đi học trung bình lại thấp. Điều đó cho thấy người
Việt Nam không dành nhiều thời gian cho việc học và tình trạng bỏ học nửa chừng
rất phổ biến.Với số lượng học sinh bậc phổ thông lớn sẽ là nguồn cung cấp đầu
vào cho các hệ học cao đẳng đại học sau này,do đó để nâng cao thêm trình độ của
dân số thì cần phải có những biện pháp nâng cao số năm đi học trung bình của
người dân

Bảng 3. Số người đi học theo độ tuổi năm 2011
9
Tuổi Đang đi học Đã thôi học Chưa đi học
5 399654 3765 1338896
6-9 6428965 80499 839825
10 1656873 51653 67210
11-14 6008539 956653 264809
15-17 2797122 2192249 214685
16-19 800088 2052266 165775
20-25 652965 12067432 773065
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Từ bảng ta có thể thấy số người bỏ học chiếm đa số từ 17-25 tuổi,điều đó lý
giải vì sao thời gian học trung bình của vn thấp.Nguuwoif việt nam đa phần chỉ
học hêt chương trình phổ thong hoặc đại học là dừngkhông tiếp tục học nữa
Hiên nay theo thống kê cả nước có 2208082 sinh viên đang học tai các trường đại
học cao đẳng trong cả nước,tính trung bình cứ khoảng 39 người dân thì có một
người có trình độ từ cao đẳng trở lên,kha cao so với các nước có cùng trình độ
phát triển như VN.Với đôi ngũ giảng viên 84181 người,trong đó có 37740 người
có trình độ ĐH-CĐ trở lên và 45521 người có trình độ trên đại học.Điều đó cho
thấy nước ta rất thiếu giảng viên có trình độ cao,một nước gần 90 triệu người
nhưng chỉ có khoảng 45000 người có trình độ trên đại học thì sẽ rất khó cho việc
có thể đào tạo và nâng cao chất lượng sinh viên.Vơí 2 triệu sinh viên nhưng chỉ sử
dụng giang viên có cùng trình độ thì không thể nâng cao chất lượng sinh viên
được.Bên cạnh đó với quan niêm của người dân học đẻ láy cái bằng cho oai cũng
đã gây ra tình trạng thừa người có trình độ nhưng thiếu ngừoi thao việc dẫn đến
tình trạng nước ta tuy có nhieeuf cử nhân,nhiều sinh viên nhueng trình độ vẫn
không bằng nhiều nước khác trênv thế giới
Theo tống kê nam 2009 thì chỉ số hdi của VN la 0.593,xếp hạng thứ 128 trên
177 quốc gia được dánh giá và thuộc nhóm các nước có chỉ số phát triển teung
bỉnh,chỉ số iq trung bình cua VN la 96,xếp thứ 48 trên 192 quốc gia.Điiều này cho

thhấy người vn kha thong minh,nhân thưc tôt,nếu tận dụng được uuw điểm này để
xây dựng phương pháp giáo dục tốt thì hoàn toàn có thể nâng cao trình độ dân trí
10
Thể lực của người VN được coi là ‘thấp bé nhẹ cân ‘ so với trung bình thế giới
và chế độ dinh dưỡng của người Việt Nam chưa hơp lý. Điều này đã làm giảm khả
năng nhân thức,tiếp thu học tập của người Việt Nam giảm khả năng tư duy sáng
tạo,qua đó làm giảm khả năng học tập ,tiếp thu của người dân và chúng ta sẽ khó
áp dụng các chương trình đạo tạo tiên tiến của nước ngoài yêu cầu áp lực cao và tư
duy sâu vào giảng dạy
2.1.5. Ảnh hưởng của các quá trình dân số tới giáo dục
 Mức sinh
Tỷ suất sinh theo tuổi cùng với số lượng và cơ cấu phụ nữ trong độ tuổi
sinh đẻ ở mỗi địa bàn quyết định số lượng trẻ em sinh ra trong kỳ kế hoạch và chỉ
sau 4 đến 6 tháng trẻ em đã có nhu cấu đến nhà trẻ ngay trong năm đó và đặt ra
nhu cầu đi học ở các năm sau cho kỳ kế hoạch trên địa bàn.
 Mức chết
Tỷ suất chết, đặc biệt là tỷ lệ chết theo tuổi từ trẻ sơ sinh đến tuổi 17-24 ở
mỗi địa bàn cụ thể sẽ quyết định số người trong độ tuổi đi học (mầm non, phổ
thông, kỹ thuật ) còn sống đến năm kế hoạch và là một yếu tố quyết định cầu giáo
dục trên mỗi địa bàn cụ thể trong kỳ kế hoạch.
 Di dân
Số lượng và cơ cấu người trong độ tuổi đi học trong tổng số dân di cư có
thể làm tăng nhu cầu giáo dục ở địa bàn nhận dân và giảm nhu cầu giáo dục ở địa
bàn di dân. Đồng thời số lượng và cơ cấu tuổi của phụ nữ trong độ tuổi sình đẻ
trong tổng số người di cư cũng góp phần làm tăng số trẻ sinh ra ở địa bàn nhận
dân và giảm số trẻ sinh ra ở địa bàn dân đi và như vậy cũng làm tăng / giảm nhu
cầu giáo dục ở mỗi địa bàn trong kỳ kế hoạch.
Ở những nước như VN thì việc di dân ra nước ngoài có thể gây ra hiên
trạng chảy máu chất xám,làm suy giảm chất lượng nền giáo dục VN. Như sau sự
kiện năm 1975 có khoảng gần 2 triệu người VN đã tìm cách ra nước ngoài đinh cư

11
trong đó có rất nhiều người có trình độ học vấn cao,làm cho nền giáo dục nước ta
suy giảm năng lực.
Di dâncó thể làm ảnh hưởng tới kế hoach phát triển giáo dục của các vùng
nếu như không kiểm soát được,như kế hoạch về xây dựng cơ sở vật chất,xây dựng
đội ngũ giáo viên ch phù hợp với dân số của từng vùng
Quá trình gia tăng dân số trung bình mỗi băm dân số VN tăng them khoảng
1triệu người,trung bình khoảng 3 tuổi là bắt đầu đi học ở cấp thấp nhất. Với mức
tăng dân số nhanh như vậy thì việc dẩm bảo đày đủ diều kiên giáo dục cho các thế
hệ sắp tới sẽ rất kho khăn,đòi hỏi ngành giáo dục phải có các kế hoạch để chuẩn bị
để không những đáp ứng được đày đủ nhu cầu về giáo dục trong tương lai mà còn
không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục.
2.2. Ảnh hưởng của giáo dục đến dân số
2.2.1. Giáo dục ảnh hưởng đến mức sinh
Giáo dục có khả năng làm thay đổi nhận thức của con người, nó được biểu hiện
qua: trình độ giáo dục, trình độ dân trí, trình độ học vấn…Nhằm phản ánh các cấp
độ hiểu biết, các kỹ năng đạt được của con người sau quá trình tiếp nhận các luông
thông tin khác nhau từ đó tạo ra khả năng nhận thức, tác động đến hành vi của họ
trong quá trình tham gia hoạt động kinh tế - văn hóa – chính trị - xã hội. Giáo dục
luôn được coi là quốc sách hàng đầu của nước ta.
Nói đến giáo dục hay trình độ học vấn, nó luôn là tiêu chí quan trọng phản ánh
mức sinh.
Bảng 4. Phân bố dân số từ 5 tuổi trở lên chia theo tình trạng đi học,
thời kỳ 1989 – 2011
(Đơn vị tính: %)
Tình hình đi học 1989 1999 `2009 2010 2011
Tổng số 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Đang đi học 23,6 27,6 24,7 24,0 23,8
Đã thôi học 58,4 62,6 70,2 71,2 71,9
12

Chưa bao giờ đi học 18,0 9,8 5,1 4,8 4,3
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Trong vòng hơn 20 năm qua, tỷ trong dân số từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đi
học giảm đáng kể. Năm 2011 chỉ còn 4,3% dân số từ 5 tuổi trở lên chưa bao giờ đi
học, giảm 0,8 điểm phần trăm so với năm 2009, giảm hơn 2 lần so với năm 1999
và hơn 4 lần so với năm 1989.
 Sự phát triển của giáo dục của mỗi đất nước ảnh hưởng trực tiếp đến trình
độ nhận thức và trình độ học vấn của mỗi người dân đặc biệt là phụ nữ trong độ
tuổi sinh đẻ.
+ Số con trung bình của phụ nữ tỷ lệ nghịch với trình độ học vấn:
Hình 2. Tỷ lệ phụ nữ 15-49 tuổi sinh con thứ 3 trở lên chia theo
trình độ học vấn, 1/4/2011

(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Giữa trình độ học vấn và tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba có quan hệ tỷ lệ nghịch:
trình độ học vấn càng cao, tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ ba càng thấp. Tỷ lệ phần trăm
phụ nữ sinh con thứ ba trở lên trong năm của phụ nữ chưa đi học tới 44,4% , giảm
dần xuống còn 28,0% đối với phụ nữ chưa tốt nghiệp tiểu học, giảm xuống 14,9%
đối với phụ nữ tốt nghiệp trung học cơ sở và chỉ còn 4,1% đối với phụ nữ có trình
độ học vấn từ phổ thông trở lên. Như vậy việc ban hình chính sách chú trọng đến
việc nâng cao số năm học trung bình của người dân, cần chú ý đến đối tượng nữ
giới , đẩy mạnh công tác hỗ trợ các gia đình gặp khó khan, tạo dựng phong trào
ham học hỏi ở mọi đối tượng.
13
+ Những phụ nữ chưa bao giờ đến trường thường lấy chồng sớm. Những phụ nữ
này thường có nhiều con hơn so với những phụ nữ lấy chồng muộn => Mức sinh
tăng
 Đối với nam giới, trình độ giáo dục cao giúp họ dễ dàng chấp nhận chia sẻ công
việc gia đình với vợ mình, thực hiện các biện pháp tránh thai và chấp nhận quy mô
gia đình ít con => Mức sinh giảm

Bảng 5. Tỷ suất giới tính khi sinh thời kỳ 1999 – 2011
(Đơn vị tính: Số bé trai/100 bé gái)
Năm Tỷ số giới tính khi sinh
1999 107,0
2001 109,0
2002 107,0
2003 104,0
2004 108,0
2005 106,0
2006 109,8
2007 111,6
2008 112,1
2009 110,5
2010 111,2
2011 111,9
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Từ số liệu trong bảng ta thấy, xu hướng biến động tỷ số giới tính khi sinh của
Việt Nam giai đoạn 1999 đến 2005 không rõ ràng, dường như dao động trong
khoảng 104 đến 109 bé trai /100 bé gái. Nhưng đến năm 2006 đến năm 2011, tỷ số
giới tính khi sinh ở Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu tăng đáng kể. Năm 2011, tỷ sô
giới tính khi sinh duy trì ở mức khá cao 111,9 bé trai/100 bé gái. Đặc biệt, năm
2009, mặc dù đã có nhiều cảnh báo về hệ lụy của sự mất cân bằng giới tính khi
14
sinh nhưng tình trạng này vẫn không hề được khắc phục, mỗi năm tỷ số giới tính
khi sinh tăng khoảng 0,7 điểm phần trăm.
Qua đây ta thấy rằng, cần tăng cường giáo dục nhận thức đối với nam giới về kế
hoạch hóa gia đình, sử dụng biện pháp tránh thai hợp lý, tránh tình trạng bất bình
đẳng giới xảy ra. Từ đó, chấp nhận quy mô gia đình ít con và đầu tư cho con cái
học tập tốt hơn
TÁC ĐỘNG QUA LẠI GIỮA DÂN SỐ VÀ GIÁO DỤC: tỷ lệ sinh thấp sẽ làm

giảm gánh nặng nuôi con, qua đó làm tăng tiết kiệm. Tỷ lệ tiết kiệm cao sẽ thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, tỷ lệ sinh thấp đồng nghĩa với tỷ lệ dân sô trong
độ tuổi lao động tăng lên. Nếu tất cả các công dân đến tuối lao động có việc làm
thì thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng và số người ăn theo giảm. Tác động này
góp phần đáng kể trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2.2.2. Giáo dục ảnh hưởng đến mức chết
 Trình độ học vấn cao sẽ làm giảm mức chết của trẻ em sơ sinh, nâng cao
chất lượng nuôi dạy con cái.
Bởi nhờ có trình độ học vấn cao, họ biết sử dụng các dịch vụ y tế và những thay
đổi trong việc vệ sinh phòng bệnh của gia đình và có chế độ dinh dưỡng tốt hơn
cho con cái
Hình 3. Tỷ suất chết của trẻ em chia theo vùng kinh tế - xã hội, 1/4/2011
15
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 năm tuổi ở Trung du và Tây Nguyên, hai vùng khó
khăn nhất của cả nước vẫn còn khá cao ,tương ứng 34,9 và 37 trẻ em dưới 5 năm
tuổi tử vong/1000 trẻ sinh sống trong năm 2011. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi tử vong
thấp nhất ở Đông Nam Bộ - nơi có điều kiện phát triển về kinh tế - xã hội.
Phụ nữ có trình độ học vấn cao thường kết hôn muộn và sinh ít con, họ có cơ hội
có được việc làm thu nhập cao, nên có điều kiện về kinh tế và tri thức để nuôi
dưỡng con cái mình hơn. Mức chết trẻ em giảm, mức chết người mẹ cũng giảm;
đặc biệt là tử vong mẹ do thai nghén và sinh nở vì họ biết cách chăm sóc khi mang
thai và sinh nở.
 Trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng trong kế hoạch hóa gia đình và sử
dụng các biện pháp tránh thai
Bảng 5. Tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai chia theo thành thị/nông thôn và
vùng kinh tế - xã hội, 1/4/2011
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
16
Qua con số này, ta thấy: tỷ lệ sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại khá cao ở

các vùng khó khăn, lạc hậu về KT – XH như Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung (chiếm 72,7%), Trung du và miền núi phía Bắc (chiếm 70,4%). Đối với các
nhóm phụ nữ có trình độ thấp như chưa đi học (chiếm 71,8%), chưa tốt nghiệp tiểu
học (chiếm 71,7%).
Qua đây ta thấy, các chương trình kế hoạch hóa gia đình của nhà nước đầu tư và
tập trung thực hiện có trọng điểm trong thời gian qua, đặc biệt là ở khu vực nông
thôn.
2.2.3. Giáo dục ảnh hưởng đến di dân
- Ở các nước đang phát triển thành thị là nơi có điều kiện sinh sống thuận lợi cơ
hội tìm kiếm việc làm tốt thuận lợi hơn.Những người có học vấn ở nông thôn
thường có xu hướng di cư ra thành thị làm ăn sinh sống. Trong khoảng 10 năm từ
2001-2010, lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng dân số bình quân năm ở thành thị
(~4%) vượt cao so với khu vực nông thôn (~1,8%).
Ở Việt Nam, trong 10 năm từ 2001-2010, tỷ lệ tăng dân số đô thị vào khoảng
3,43%, tỷ lệ tăng dân số nông thôn khoảng 0,34%
Bảng 6. Tỷ lệ tăng dân số đô thị và nông thôn Việt Nam, 2000-2010
Tổng số (%) Tỷ lệ tăng dân số đô thị
(%)
Tỷ lệ tăng dân số nông thôn
(%)
2000 1,35 3,32 0,74
2001 1,27 3,06 0,71
2002 1,17 2,97 0,58
2003 1,17 4,29 0,13
2004 1,20 4,23 0,16
2005 1,17 3,38 0,38
2006 1,12 3,20 0,34
2007 1,09 3,04 0,34
2008 1,07 3,90 -0,04
2009 1,06 3,69 -0,01

2010 1,05 2,50 0,44
(Nguồn. Tổng cục thống kê, 2011)
17
Số liệu của Tổng điều tra dân số năm 1999 cho rằng di cư tới các khu vực đô
thị chiếm hơn một nửa tổng số di cư trong nước củaViệt Nam với 53%, trong đó
27% di cư từ các khu vực nông thôn ra thành thị và 26% di cư giữa các khu vực
thành thị. Đối với những người di cư từ nông thôn ra thành thị, các nơi đến phổ
biến nhất là các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải Phòng
và Đà Nẵng. Dòng di cư tới các khu đô thị này chiếm 1/3 mức tăng dân số của các
khu đô thị trong giai đoạn 1994-1999.Trong trường hợp thành phố Hồ Chí Minh
và Hà Nội, số dân di cư làm tăng gấp đôi dân số ở hai thành phố này77. Gần đây
di cư đã góp phần phát triển các thành phố địa phương như Cần Thơ, Long Xuyên,
Cà Mau tại khu vực Đồng bằng sông Mê kông và góp phần phát triển các trung
tâm kinh tế như Quảng Ninh, Bình Dương và Đồng Nai
Bảng 7. Tỷ suất nhập cư, tỷ suất di cư và tỷ suất di cư thuần theo khu vực
theo số liệu. Mẫu điều tra của Tổng điều tra dân số năm 1999 và 2009
- Di cư từ các nước đang và kém phát triển sang các nước phát triển. Tổng số
người thuộc diện di dân quốc tế trên toàn thế giới năm 2010 ước tính vào khoảng
214 triệu người. Tỷ trọng số người di dân quốc tế trên tổng dân số thế giới giai
đoạn 2005-2010 đã tăng lên không đáng kể, từ 3% năm 2005 lên khoảng 3,1%
năm 2010. Theo số liệu thống kê của Liên hợp Quốc, Mỹ là nước có số lượng
18
người nhập cư cao nhất (lên tới 43 triệu người năm 2010).Việt Nam cũng đang
xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám sang quốc gia với điều kiện học tập và làm
việc hiện đại,chuyên nghiệp.Rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu nổi tiếng đang
học tập và làm việc ở nước ngoài như Giáo sư Ngô Bảo Châu…
2.2.4. Giáo dục ảnh hưởng đến hôn nhân và gia đình.
Những người có trình độ học vấn cao,họ hiểu biết sâu sắc về giá trị gia
đình,con cái,họ có điều kiện để tự do tìm hiểu bạn đời phù hợp.Mặt khác,để đạt
được trình độ nhất định họ phải mất 1 khoảng thời gian đi học khá dài,do vậy

thường có xu hướng kết hôn muộn.
Tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM: Singular Mean Age at Marriage) cho
biết số năm trung bình của một thế hệ đã sống độc thân trước khi kết hôn lần đầu
tiên. Chỉ tiêu này thường được tính riêng cho từng giới, do có những đặc điểm
khác nhau.Từ năm 2000 đến năm 2011, Số năm đi học trung bình của nước ta tăng
từ 4,5 lên 5,5.Tuổi kết hôn trung bình lần đầu (SMAM) tăng nhẹ trong 10 năm
qua. Năm 1999, SMAM là 22,8 đối với nữ và 25,4 đối với nam; đến năm 2009,
SMAM của nữ vẫn giữ nguyên trong khi SMAM của nam tăng lên 26,2(Tổng
Điều tra về dân số và nhà ở 2009
Bảng 8. Tuổi kết hôn trung bình lần đầu chia theo giới tính, thành thị/nông
thônvà các vùng kinh tế xã hội 2009
Nơi cư trú/các vùng kinh tế - xã hội
Tuổi kết hôn
trung bình lần đầu
Nam Nữ
Toàn quốc 26,2 22,8
Thành thị 27,7 24,4
Nông thôn 25,6 22,0
19
Các vùng kinh tế - xã hội
Trung du và miền núi phía Bắc 24,2 21,3
Đồng bằng sông Hồng 26,2 22,5
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung
26,8 23,0
Tây Nguyên 25,2 21,8
Đông Nam Bộ 27,4 24,2
Đồng bằng sông Cửu Long 26,1 22,6
(Nguồn: TCTK, Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2009)
Qua bảng số liệu trên, với cả nam và nữ, tuổi kết hôn trung bình lần đầu ở

thành thị cao hơn ở nông thôn. Điều này phản ánh tình trạng kết hôn hiện nay ở
Việt Nam. Nguyên nhân có thể xuất phát: Ở đô thị, thanh niên sau khi học xong
phổ thông thường phải học cao đẳng, đại học.Giáo dục được sâu rộng hơn.Sau khi
tốt nghiệp và tìm kiếm được việc làm ổn định thì họ mới kết hôn; còn đối với khu
vực nông thôn, sau khi học hết phổ thông nhiều thanh niên tìm việc làm và lập gia
đình. Điều kiện sống, cơ hội học tập và việc làm khiến tuổi kết hôn ở thành thị
thường cao hơn ở nông thôn. Thanh niên thành thị thường quan niệm cần lo làm
ăn, giao tiếp bạn bè, tích lũy kinh nghiệm sống rồi mới bước vào cuộc sống hôn
nhân.
Đông Nam Bộ là vùng có tuổi kết hôn trung bình lần đầu cao nhất (27,4 năm
đối với nam và 24,2 đối với nữ), tiếp theo sau là Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền
Trung. Hai vùng có tuổi kết hôn trung bình lần đầu thấp nhất là Tây Nguyên (25,2
năm đối với nam và 21,8 năm đối với nữ), vùng Trung du và miền núi phía Bắc
(24,2 năm đối với nam và 21,3 năm đối với nữ). Kết quả này là do ở hai vùng Tây
Nguyên và miền núi phía Bắc có tỷ lệ dân số dân tộc tương đối cao.Trình độ giáo
dục hạn chế.Họ có phong tục tập quán riêng và điều kiện học tập, tìm kiếm việc
làm khó khăn nên thường kết hôn sớm. Quan niệm của đồng bào dân tộc cho rằng
tuổi trưởng thành về sinh lí (dậy thì) đồng nghĩa với tuổi, lấy vợ lấy chồng.
20
2.2.5. Giáo dục ảnh hưởng đến bình đẳng giới.
Theo Công ước CEDAW “Bình đẳng giới: Là tình trạng (điều kiện sống, sinh
hoạt, làm việc ) mà trong đó phụ nữ và nam giới được hưởng vị trí như nhau, họ
có cơ hội bình đẳng để tiếp cận, sử dụng các nguồn lực để mang lại lợi ích cho
mình,phát hiện và phát triển tiềm năng của mỗi giới nhằm cống hiến cho sự phát
triển của quốc gia và được hưởng lợi từ sự phát triển đó”
Theo cách hiểu đơn giản: Bình đẳng giới là phụ nữ và nam giới được coi trọng
như nhau, cùng được công nhận và có được vị thế bình đẳng. Họ đều có các điều
kiện phù hợp để phát huy đầy đủ tiềm năng, có các cơ hội như nhau để tham gia
đóng góp và thụ hưởng bình đẳng trong quá trình phát triển. Có các quyền tự do
và chất lượng cuộc sống bình đẳng.Được đo lường thông qua chỉ số phát triển

giới GDI
Giáo dục mang đến tri thức khoa học cho con người làm cho con người có
những cái nhìn,những quan niệm hiện đại,tiên tiến thay thế hoàn toàn chỗ của các
quan niệm bảo hủ,sai lầm vẫn tồn tại bấy lâu nay như ‘Trọng nam khinh nữ’ Tôn
vinh giá trị con người.Thực tế đã chứng minh,những gia đình có học vấn có nhận
thức đầy đủ và cũng có khả năng tài chính để con cái được chăm sóc và tạo điều
kiện cho ăn học không biệt trai gái Các gia đình có trình độ học vấn thấp,thu nhập
thấp,đời sống khó khăn sẽ phải cân nhắc,lựa chọn cho con nào đi học và thường
con trai sẽ được ưu tiên.Đây là một nguyên nhân lớn gây ra bất bình đẳng giới.
Trong những năm gần đây Việt Nam chúng ta cũng đã được đánh giá có sự phát
triển về giáo dục.
21
Hình 3.Tỷ lệ dân số 15 tuổi trở lên biết đọc biết viết theo giới tính,
1989-2009
(Nguồn số liệu:Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1989,1999 và năm 2009)
Xu hướng chung đó là tỉ lệ người biết chữ qua các năm không ngừng tăng lên từ
87,3% năm 1989 đến 93,5% năm 2009.Sự phát triển về giáo dục này đã mang lại
những chuyển biến tích cực về bình đẳng giơi trong các lĩnh vực
 Bình đẳng trong giáo dục
Nhận thức của xã hội về bình đẳng giới đã có chuyển biến tích cực. Tư tưởng
« Trọng nam khinh nữ »đã dần được khắc phục, gia đình và xã hội đã quan tâm
nhiều hơn và tạo điều kiện cho cả trẻ em trai và trẻ em gái đến trường. Do vậy tỷ
lệ nhập học đều tăng lên ở các cấp học.
Tỷ lệ biết chữ của phụ nữ đã tăng lên và khoảng cách giới ngày càng được thu
hẹp. Phân bổ tỷ lệ biết chữ theo nhóm tuổi cho thấy tình hình giáo dục của nước ta
đã được cải thiện một cách đáng kể qua từng giai đoạn. Tỷ lệ biết chữ của nhóm
50 tuổi trở lên là 87,2%. Tỷ lệ biết chữ của nhóm trẻ hơn được tăng dần cho đến
mức cao nhất là 98% ở nhóm tuổi từ 15 – 17 tuổi đối với cả nam và nữ. Sự chênh
22
lệch về tỷ lệ biết chữ của nông thôn và thành thị cũng rất thấp (97% ở thành thị và

92% ở nông thôn). Hà Nội là tỉnh, thành phố có tỷ lệ biết chữ cao nhất (97,6%),
thấp nhất là Lai Châu (57,4%).
Bảng 9. Thay đổi trong tính lệ học sinh đến trường chung (GER)* 2000-2004
Cấp học 2000-2001 2001-2002 2002-2003 2003-2004
Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ Nam Nữ
Tiểu học 110 105 109 103 107 103 107 103
Trung học cơ
sở
83 80 87 84 88 84 90 86
Trung học phổ
thông
44 37 45 38 44 43 46 45
(Nguồn:TCTK-Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ)
* GER là tỷ lệ học sinh đến trường so với tổng số dân ở độ tuổi đi học tương ứng.
 Bình đẳng trong chính trị
Trong số các quốc gia Đông Ávà Thái BìnhDương,Việt Nam có tỷ lệ phụ nữ tham
gia nghị trường cao nhất. Trên thế giới, Việt Nam cũng đứng hàng cao, xếp thứ 18
về số đại biểu quốc hội là nữ. Tỷ lệ ở cấp quốc gia cũng cho thấy một vài cải thiện
qua các khóa quốc hội liên tiếp.Tuy nhiên, tỷ lệ nữ tham gia các cấp uỷ Đảng
nhiệm kỳ 2005-2010 đạt 13,5%
23
Hình 4. Tỉ lệ phụ nữ trong quốc hội qua các giai đoạn
(Nguồn:Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam)
 Bình đẳng trong kinh tế,lao động và việc làm
Trong lĩnh vực kinh tế tài chính đã có sự tham gia của cả nam và nữ vào cơ
quan quản lý, lãnh đạo, trong hoạt động kinh tế, trong các ngành nghề kinh doanh.
Việc làm cho phụ nữ đã được quan tâm và đạt được những kết quả khích lệ.
Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia hoạt động kinh tế ở
mức cao (83% so với nam giới 85%). Phụ nữ đóng vai trò ngày càng quan trọng
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; tham gia ngày càng nhiều hơn trong khu vực

phi nông nghiệp, đặc biệt là các ngành và lĩnh vực kinh tế có yêu cầu kỹ thuật,
công nghệ cao. Theo Điều tra lao động - việc làm ngày 18/2007 của Tổng cục
thống kê, tỷ lệ lao động nữ đã chiếm 46% trong số người làm công ăn lương từ các
lĩnh vực sản xuất – kinh doanh; số chủ cơ sở sản xuất – kinh doanh là nữ chiếm
24
41,12%; tỷ lệ lao động nữ làm kinh tế hộ gia đình chiếm 49,42%. Mặc dù các số
liệu thống kê cũng chỉ ra có một tỷ lệ lớn lao động nữ còn làm các công việc giản
đơn (53,64%), nhưng tỷ lệ phụ nữ đang tham gia vào các lĩnh vực vốn được coi là
“truyền thống” (công việc kỹ thuật, quản lý) của nam giới cũng đang dần tăng
lên.Tỷ lệ lao động nữ từ 15 tuổi trở lên làm công việc khai khoáng chỉ chiếm
31,1%, trong khi đó nam giới chiếm 68,9%; tham gia hoạt động khoa học và công
nghệ thì nữ chiếm 34% và nam chiếm 66%; quản lý nhà nước về an ninh, quốc
phòng, bảo đảm xã hội thì nữ chiếm 24,7% và nam chiếm 75%.Nhìn chung, phân
bố cơ cấu nam, nữ trong các ngành nghề cho thấy, nam giới vẫn thường chiếm tỷ
lệ cao hơn ở những nhóm việc như công nhân, lãnh đạo, dịch vụ cá nhân, công
việc chuyên môn kỹ thuật và lực lượng vũ trang. Phụ nữ thường chiếm tỷ lệ cao ở
một số nhóm nghề khác như nông nghiệp, buôn bán nhỏ, nhân viên văn phòng.
Mặc dù chưa có số liệu thống kê chính thức, phụ nữ cũng tham gia rất nhiều
vào lực lượng lao động trong khu vực kinh tế phi chính thức, ước tính khoảng
70% đến 80%. Tuy nhiên, điều kiện lao động, thu nhập và an sinh xã hội (bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế) đối với lao động nữ làm việc trong khu vực này còn
rất nhiều hạn chế.
Vị thế việc làm của lao động nữ cũng có sự thay đổi tích cực. Trong 10 năm từ
1997 đến 2007, nhóm lao động làm công ăn lương tăng rất mạnh trong cơ cấu
phân bố lao động, từ 18,6% (1997) lên tới 30% (2007), trong đó lao động nam
chiếm 59,8% và lao động nữ chiếm 40,2% (2007). Nếu so sánh với năm 2005 thì
có sự thay đổi rõ rệt. Năm 2005, tỷ trọng lao động làm công ăn lương chiếm
25,6%, trong đó lao động nam chiếm 78,7% và lao động nữ chiếm 21,3%. Tỷ
trọng lao động nữ trong số người làm công ăn lương tăng mạnh (19%), thể hiện sự
thay đổi theo hướng giảm sự bất bình đẳng giới về việc làm có thu nhập ổn định

giữa nam và nữ. Đây là một chỉ số quan trọng để đánh giá tình hình bình đẳng giới
của Việt Nam có nhiều tiến bộ.
25

×