Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN nâng cao chất lượng bộ môn hoá học 8 bằng phương pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.23 KB, 17 trang )

ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỘ MÔN HOÁ HỌC 8
BẰNG PHƯƠNG PHÁP TẠO HỨNG THÚ
HỌC TẬP CHO HỌC SINH
GIỚI THIỆU:
Tên người thực hiện: TRẦN THỊ MÂY
Tên đề tài:“ Nâng cao chất lượng bộ môn hoá học 8 bằng phương pháp tạo
hứng thú học tập cho học sinh”
Thời gian thực hiện: Tháng 09 năm 2014.
Thời gian áp dụng: Từ tháng 10 năm 2014.
A/ PHẦN MỞ ĐẦU:
I/ Lý do chọn đề tài:
Nghị quyết của BCH Trung ương Đảng lần 4 khóa VII, nghị quyết BCH
Trung ương Đảng lần 2 khóa VIII và được pháp chế hóa trong điều 28 khoản 2
của Luật giáo dục đã chỉ rõ “phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui hứng thú
học tập cho học sinh”.
Để đạt được mục đích trên, đối với giáo viên giảng dạy thì ngoài việc nắm
vững nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy còn cần nắm vững các yêu
cầu trọng tâm của từng bài, từng chương, hệ thống các kiến thức cơ bản nhất. Từ
đó cần phải sử dụng phương pháp giảng dạy khác nhau, phù hợp cho từng đối
tượng học sinh: Giỏi, khá, trung bình, yếu…
Là giáo viên trực tiếp giảng dạy hóa học ở trường, qua nghiên cứu chương
trình và quá trình học tập môn hóa học của học sinh tôi nhận thấy: Học sinh tiếp
thu bài chậm và rất sợ học hóa vì đây là môn học mới với các em, nhưng không
vì vậy mà chúng ta thờ ơ với mức độ nhận thức của các em. Cái khó của học sinh
là hóa học quá trừu tượng nên không hiểu bài trên lớp, mà khó hiểu thì làm sao
yêu thích bộ môn, nên dễ gây cho học sinh nhàm chán.
- -1


1
Môn hóa học ở trường phổ thông nếu không có những bài giảng và phương
pháp hợp lý phù hợp với thực tế dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu
và cảm nhận. Trước tình hình đó, đổi mới phương pháp dạy học đang là yếu tố
quyết định hiệu quả giờ dạy. Một trong những yếu tố để đạt giờ dạy có hiệu quả
là phát huy tính thực tế.
Có những kiến thức hóa học giúp học sinh giải thích những hiện tượng
trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan, thậm chí hiểu được những dụng ý khoa
học hóa học trong những câu ca dao – tục ngữ, mà thế hệ trước để lại và có thể
ứng dụng trong thực tiễn đời sống thường ngày, chỉ bằng những kiến thức rất phổ
thông mà không gây nhàm chán, xa lạ, lại có tác dụng kích thích tính chủ động,
sáng tạo, hứng thú trong môn học.
Trong quá trình dạy học người giáo viên phải có khả năng gắn bài giảng
với thực tế, tạo ra được những giờ học sinh động, nâng cao sự hiểu biết và kích
thích sự ham mê học tập của học sinh.
Với những lý do trên, bản thân tôi hết sức trăn trở nên đã suy nghĩ làm thế
nào để các em vận dụng được kiến thức vào thực tiễn và yêu thích bộ môn. Vì
vậy tôi chọn đề tài "Nâng cao chất lượng bộ môn Hoá học 8 bằng phương
pháp tạo hứng thú học tập cho học sinh ” trong năm học này bằng việc giải
thích các hiện tượng thực tiễn liên quan đến bài học nhằm tạo hứng thú học tập
cho học sinh.
2/ Phạm vi của đề tài:
Đề tài này chỉ nêu một số kinh nghiệm nhằm nâng cao chất lượng bộ môn
Hoá học 8 qua việc tạo hứng thú học tập cho học sinh.
B. NỘI DUNG:
I/ THỰC TRẠNG CỦA NỘI DUNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Bộ môn Hoá học là môn học rất trừu tượng và tương đối mới với học sinh
bậc THCS, vì phải tập làm quen với nhiều cái mới và cần phải tư duy, sáng tạo,
phát triển kiến thức, kỹ năng thực hành ….để tiếp thu đầy đủ và lĩnh hội bài học
một cách hiệu quả.

- -1
2
Điều kiện về cơ sở vật chất còn thiếu thốn như: trang thiết bị dạy và học
còn hạn chế, chất lượng chưa đảm bảo. Do đó việc kích thích sự say mê, yêu
thích học bộ môn đối với học sinh là tương đối khó, bên cạnh đó còn một số ít
học sinh chưa thật sự xác định mục đích, tầm quan trọng của việc học, chưa có
phương pháp học tập đúng đắn, phương pháp học của học sinh là thụ động, ít tư
duy, sáng tạo và các em thường gặp khó khăn khi giải quyết những bài tập liên quan
đến thực tế …dẫn đến kết quả đạt được chưa cao.
Nhìn chung, các em chưa có ý thức cao trong học tập, phần đông các em
là con nhà nông vừa đi học, vừa phải phụ giúp gia đình. Một số học sinh do ảnh
hưởng của môi trường xã hội, các tệ nạn, hoàn cảnh gia đình nên các em thường
hay không thuộc bài, không làm bài tập, trong lớp học không chú ý nghe giảng
bài, không chuẩn bị bài mới, làm ảnh hưởng đến việc tiếp thu kiến thức mới.
Xuất phát từ tình hình thực tế ấy tôi quyết tâm cố gắng thực hiện tốt chủ đề
năm học cũng như mục tiêu giáo dục đề ra. Một trong những yếu tố để đạt giờ
dạy có hiệu quả là phải làm cho học sinh thấy sự liên quan giữa kiến thức học
trong bài và ứng dụng trong thực tế. Hoá học có thể giúp học sinh giải thích
những hiện tượng trong tự nhiên, tránh việc mê tín dị đoan bằng những kiến thức
rất phổ thông mà không gây nhàm chán, xa lạ; lại có tác dụng kích thích tính chủ
động, sáng tạo, hứng thú trong môn học; làm cho hoá học không khô khan, buồn
chán.
II/. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
1. Cơ sở lý luận:
Để bồi dưỡng cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề,
lý luận dạy học hiện đại khẳng định: Cần phải đưa học sinh vào chủ thể hoạt động
nhận thức, học trong hoạt động, “ Từ trực quan sinh động tới tư duy trừu tượng,
từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn khoa học”, đó là câu nói của một triết gia nổi
tiếng, nó như một ánh đuốc soi đường để tri thức nhân loại đạt được những thành
tựu rực rỡ như hôm nay.

Trong hoạt động giáo dục việc “ Đổi mới phương pháp giáo dục” phù hợp
với yêu cầu phát triển xã hội hiện nay là một việc làm tất yếu. Từ đó giúp các em
- -1
3
trang bị đầy đủ kiến thức, kĩ năng để có thể hoà nhập với xã hội. Vai trò của giáo
viên là không nhỏ, đặc biệt giáo viên bộ môn, là người trực tiếp giảng dạy lớp và
giáo dục học sinh, với vai trò “ Thầy chủ đạo, trò chủ động” sẽ quyết định về
hiệu quả và chất lượng bộ môn, làm thế nào để những giờ học không khô khan,
nhàm chán, học sinh có niềm say mê hứng thú, tích cực chiếm lĩnh tri thức một
cách hiệu quả cao nhất.
Môn Hoá học giữ một vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát
triển trí tuệ của học sinh. Mục đích của môn hóa học là giúp cho học sinh hiểu
đúng đắn và hoàn chỉnh, nâng cao những tri thức, hiểu biết về thế giới, về con
người thông qua các bài học, các giờ thực hành
Học hoá để hiểu, để giải thích được các vấn đề thực tiễn thông qua cơ sở
cấu tạo nguyên tử, sự chuyển hoá của các chất bằng các phương trình phản ứng
hoá học.
Học hoá để biết, là góp phần giải tỏa, xoá bỏ hiểu biết sai lệch làm phương
hại đến đời sống, tinh thần của con người
Học hoá để làm, là khởi nguồn, là cơ sở để sáng tạo ra những ứng dụng
phục vụ trong đời sống của con người.
Để đạt được mục đích của môn hoá học, ngoài việc phải tiếp thu đầy đủ
những kiến thức từ trên lớp, từ sách giáo khoa, từ các thầy cô, học sinh còn tự
mình sưu tầm và tìm hiểu những hiện tượng xảy ra trong cuộc sống thường ngày.
Vận dụng những kiến thức đã học được để giải thích những hiện tượng đó, nhờ
vậy học sinh được củng cố kiến thức sâu sắc hơn.
Và cũng nhờ đó học sinh thấy học môn hóa dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với
đời sống và lôi cuốn hơn.
Như vậy, để hoạt động giảng dạy và học tập đạt được kết quả cao thì học
sinh phải say mê học tập, yêu thích bộ môn. Người giáo viên phải tạo điều

kiện cho các em lĩnh hội kiến thức nhẹ nhàng, tạo môi trường học tập tích cực,
thân thiện, thoải mái.
2. Biện pháp:
a . Đối với giáo viên:
- -1
4
Bám sát chương trình mới do Bộ GD – ĐT ban hành và chuẩn kiến thức,
kỹ năng theo Quyết định 16 để thiết kế bài dạy phù hợp. Xây dựng cho học sinh
phương pháp học tập bộ môn, có hệ thống câu hỏi phù hợp với từng đối tượng
học sinh từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Không phức tạp hoá nội dung, mà phải hệ thống hoá kiến thức sao cho thích
hợp với khả năng nhận thức của đối tượng học sinh diện trung bình, yếu, giúp học
sinh nắm bắt được kiến thức.
Giáo viên cần quan tâm đúng mức đến đối tượng giáo dục. Bằng tình cảm tác
động đến tinh thần học tập của học sinh, tạo một môi trường học tập tích cực,
thân thiện giữa thầy và trò.
Bằng phương pháp dạy học trực quan, giáo viên tạo điều kiện, khắc sâu kiến
thức cho học sinh hiểu, có khả năng thuộc bài ngay tại lớp. Chú ý cần tạo bầu
không khí cởi mở nhưng nghiêm túc trong học tập, tạo sự tự tin cho học sinh
trong giờ học của mình.
Sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội là yếu tố rất quan
trọng trong công tác giáo dục toàn diện cho học sinh.
Để nâng cao hiệu quả dạy và học môn hoá học giáo viên cần tạo sự hứng
thú khơi dậy niềm đam mê, giúp học sinh hiểu được vai trò và ý nghĩa thực tiễn
trong học hoá học, hình thành giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động
của học sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà đôi lúc có tính khôi hài nhưng sâu
sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích học bộ môn hóa học.
Để tạo hứng thú học tập bộ môn hóa, giúp học sinh yêu thích bộ môn giáo
viên có thể dùng nhiều phương tiện, nhiều cách như: làm thí nghiệm minh họa,
bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim, sử dụng giáo án điện tử… căn cứ vào

hoàn cảnh cụ thể và phong cách dạy của giáo viên nhưng phải đảm bảo được nội
dung dạy học theo yêu cầu của chương trình và khi giải thích các hiện tượng
trong thực tiễn liên quan đến bài học cần lựa chọn cách giải thích ngắn gọn, dễ
hiểu theo từng đối tượng học sinh.
- -1
5
Giúp học sinh yêu thích học môn hóa học và nâng cao hiệu quả dạy và học
bằng việc giải thích các hiện tượng thực tiễn có liên quan đến bài học bằng cách
nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày cụ thể như:
- Sau khi đã kết thúc bài học, có thể tạo cho học sinh căn cứ vào những
kiến thức đã học tìm cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện
tượng đó, học sinh sẽ suy nghĩ, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện tượng đó? Tạo tiền
đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp theo.
- Có thể tạo cho học sinh bất ngờ bằng một câu hỏi rất khôi hài hay một
vấn đề rất bình thường mà hàng ngày học sinh vẫn gặp để vào bài mới tạo sự chú
ý quan tâm của học sinh trong quá trình học tập.
- Qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong bài học làm cho học
sinh hiểu và thấy được ý nghĩa thực tiễn bài học.
- Thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây cười có thể
xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học, có thể góp phần tạo không khí
học tập thoải mái. Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học Hoá.
Để giúp học sinh học tốt, khắc phục tình trạng học sinh yếu kém bộ môn,
nâng cao tính tích cực chủ động trong học tập người giáo viên cần phải:
- Xây dựng cho học sinh phương pháp học tập bộ môn, có hệ thống câu hỏi
phù hợp với từng đối tượng học sinh từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
- Bài dạy phải được thiết kế một cách khoa học, đúng trọng tâm, đảm bảo
mục tiêu bài dạy.
- Hệ thống các hoạt động học tập phải đi từ cơ sở nhận thức của học sinh từ
thấp đến cao, nhằm kích thích hứng thú tư duy sáng tạo của học sinh.
- Chọn lựa và sử dụng triệt để các ĐDDH phù hợp nhằm rèn luyện kỹ năng

trình bày, kỹ năng thực hành, năng lực nhận thức để học sinh dễ tiếp thu kiến
thức và nhớ lâu.
- Tổ chức tốt các hoạt động nhằm tạo điều kiện để học sinh nắm được nội
dung, kỹ năng, yêu cầu trọng tâm của bài học và khả năng hệ thống hoá kiến
thức, sự thích thú say mê, lòng tin vào khoa học.
- -1
6
b. Đối với học sinh:
- Học sinh phải đọc kỹ bài học ở nhà, chuẩn bị bài, làm dàn bài trước để tiện
việc theo dõi và giải quyết các vấn đề mà giáo viên đưa ra.
- Mỗi học sinh phải có đầy đủ dụng cụ, đồ dùng học tập.
- Ghi lại những điều cần trình bày và thắc mắc nếu có.
- Tập trung chú ý cao, có khả năng nắm và hiểu bài ngay tại lớp.
- Rèn luyện cho học sinh có kỹ năng tự đánh giá sau mỗi tiết học .
- Nắm được phương pháp học tập bộ môn và yêu thích bộ môn.
- Giải bài tập ở nhà theo yêu cầu của giáo viên.
Những ví dụ minh hoạ:
Thông qua một số hiện tượng trong thực tiễn trong số hàng nghìn, hàng vạn
hiện tượng, tình huống thực tiễn có thể áp dụng:
*Ví dụ 01: Khi dạy bài 1 hóa 8 .GVcó thể đặt câu hỏi: Tại sao sau những cơn
mưa có sấm chớp, đường xá, khu phố, rừng cây … bầu trời xanh cũng như
sạch quang, mát mẻ, trong lành hơn?
Do trong không khí có 20% O
2
nên khi có sấm chớp tạo điều kiện:
2 3
3O 2O→
Tạo ra một lượng nhỏ O
3
, O

3
có khả năng sát trùng:
3 2
O O O
→ +
&
(sát trùng).
Nên ngoài những hạt mưa cuốn theo bụi thì O
3
là tác nhân làm môi trường sạch sẽ
và tạo cảm giác tươi mát. Vậy O
3
và O nguyên tử là gì ta sẽ tìm hiểu trong môn
Hóa học.
- -1
7
*Ví dụ 02: Trước khi dạy bài chất, giáo viên có thể giới thiệu:
Hoá chất trong cơ thể của con người như thế nào?
Các nhà khoa học đã tính được rằng:
• Lượng nước trong cơ thể của người chỉ đủ giặt một chiếc áo sơ mi.
• Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.
• Lượng đường chỉ đủ làm nữa cái bánh ngọt nhỏ.
• Lượng vôi trong toàn bộ xương cơ thể đủ xây một cái chuồng gà con.
• Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phòng.
• Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.
• Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét.
• Cộng lại kể cả các nguyên tố khác như Mg, Cu, K… Theo các nhà bác
học tính ra thì với một người nặng 65kg, giá trị của chúng chỉ đáng giá
chưa tới 3$.
Áp dụng: Đây là tình huống có chút khôi hài nhưng có thể giúp học sinh

nắm được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người nhằm làm rõ thêm
về quan điểm duy vật .
* Ví dụ 03: Vì sao“bánh bao”thường rất xốp và có mùi khai?
Khi làm bánh bao người ta thường cho ít bột nở NH
4
HCO
3
vào bột mì. Khi
nướng bánh, NH
4
HCO
3
phân hủy thành các chất khí và hơi thoát ra nên làm cho
bánh xốp và nở. NH
4
HCO
3
(r) NH
3
↑ + CO
2
↑ + H
2
O↑
Do khí NH
3
sinh ra nên làm cho bánh bao có mùi khai.
Áp dụng: Dạy phần Sự biến đổi chất - Hiện tượng hoá học
* Ví dụ 04: Nước đá khô là gì và có công dụng như thế nào?
- -1

8

Nước đá khô (hay còn gọi là tuyết cacbonic) được điều chế từ khí CO
2
hoặc
CO
2
hoá lỏng. Đây là tác nhân lạnh ở thể rắn cung cấp lạnh cho nơi tiêu thụ lạnh
bằng các biến đổi trạng thái: đá khô thăng hoa thành hơi, không qua trạng thái
lỏng.
CO
2
hoá lỏng, đặc biệt là nước đá khô (không độc hại), được ứng dụng
thích hợp để bảo quản những sản phẩm kỵ ẩm và dùng làm lạnh đông thực phẩm.
Dùng đá khô để làm lạnh và bảo quản gián tiếp các sản phẩm có bao gói nhưng
có thể dùng làm lạnh và bảo quản trực tiếp. Chính chất tác nhân lạnh này (CO
2
)
đã làm ức chế sự sống của vi sinh vật, giữa được vị ngọt - màu sắc cho hoa quả.
Đồng thời hạn chế được tổn hao khối lượng tự nhiên của sản phẩm do sự bay hơi
từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên men, phân huỷ.
* Ví dụ 05: Vài kỷ lục trong thế giới kim loại
• Kim loại có khối lượng riêng lớn nhất: Osmi (Os) với D = 22,7g/cm
3
.
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy cao nhất: Vonfram (W) với t
nc
= 3410
0
C.

• Kim loại nhẹ nhất: Liti (Li) với D = 0,53g/cm
3
.
• Kim loại dẻo nhất: Vàng (Au).
• Kim loại có nhiệt độ nóng chảy thấp nhất: thủy ngân (Hg) với t
nc
= −39
0
C.
• Kim loại dẫn điện, dẫn nhiệt tốt nhất: Bạc (Ag).
• Kim loại được con người sử dụng làm công cụ sớm nhất: Đồng (Cu).
- -1
9
• Kim loại có trữ lượng lớn nhất: Nhôm chiếm 7% về khối lượng vỏ trái đất.
Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Nguyên tố hóa học.
*Ví dụ 06 : Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của
người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước bọt làm tăng cơ hội chuyển
hoá một lượng tinh bột theo phản ứng thuỷ phân thành mantozơ, glucozơ gây
ngọt theo sơ đồ:
( )
2 2
, ,
6 10 5 12 22 11 6 12 6
Amilaza H O Mantaza H O
n
C H O C H O C H O
TB Mantozo Glucozo
→ →
* Ví dụ 07: Tại sao khi nấu nước giếng ở một số vùng lại có lớp cặn ở dưới

đáy ấm? Cách tẩy lớp cặn này?
Trong tự nhiên nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời, là nước có chứa
muối Ca(HCO
3
)
2
, Mg(HCO
3
)
2
.Khi nấu sôi sẽ xảy ra phản ứng hoá học:
( )
( )
3 3 2 2
2
3 3 2 2
2
2
2
o
o
t
t
Ca HCO CaCO CO H O
Mg HCO MgCO CO H O
→ ↓ + ↑ +
→ ↓ + ↑ +
CaCO
3
, MgCO

3
sinh ra đóng cặn.
Cách tẩy cặn ở ấm: Cho vào ấm 1 lượng giấm 5% và rượu, đun sôi để
nguội qua đêm thì tạo thành 1lớp cháo đặc chỉ hớt ra và lau mạnh là sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể xen vào trong bài giảng về nước. Mục đích cung
cấp mẹo vặt trong đời sống cũng góp phần cho học sinh hiểu bản chất của vấn đề
có trong đời sống hàng ngày, có thể ứng dụng trong đời sống gia đình mình, tạo
sự hưng phấn trong học tập. Đó là một thí nghiệm tự làm được.

- -1
10
* Ví dụ 08: Hiện tượng mưa axit là gì ? Tác hại như thế nào ?


Khí thải công nghiệp và khí thải của các động cơ đốt trong ( ô tô, xe máy)
có chứa các khí SO
2
, NO, NO
2
,…Các khí này tác dụng với oxi O
2
và hơi nước
trong không khí nhờ xúc tác oxit kim loại ( có trong khói, bụi nhà máy) hoặc
ozon tạo ra axit sunfuric H
2
SO
4
và axit nitric HNO
3
.

2SO
2
+ O
2
+ 2H
2
O → 2H
2
SO
4
2NO + O
2
→ 2NO
2
4NO
2
+ O
2
+ 2H
2
O → 4HNO
3
Axit H
2
SO
4
và HNO
3
tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của
mưa axit là H

2
SO
4
còn HNO
3
đóng vai trò thứ hai.
Hiện nay mưa axit là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.
Mưa axit làm mùa màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các
tượng đài làm từ đá cẩm thạch, đá vôi, đá phiến ( các loại đá này thành phần
chính là CaCO
3
):
CaCO
3
+ H
2
SO
4
→ CaSO
4
+ CO
2
↑ + H
2
O
CaCO
3
+ 2HNO
3
→ Ca(NO

3
)
2
+ CO
2
↑ + H
2
O
- -1
11
* Ví dụ 09: Vì sao nước rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì
chuyển sang màu đỏ?
Có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho màu
của dung dịch thay đổi khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị này. Trong chanh có
7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi
màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có màu xanh là chứa chất
kiềm Canxi.
Áp dụng: Dạy bài Nước phần tính chất của axit, bazơ.
* Ví dụ 10: Tại sao phải ăn muối có Iod?
Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iod cho cơ thể, trong cơ thể một người trưởng
thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod trong
tuyến này thì cơ thể sẽ bị một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn,
phụ nữ thiếu Iod dẫn dến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh. Mỗi ngày phải đảm
bảo cho cơ thể tiếp xúc với < 150 microgam Iod.
Áp dụng: Vấn đề liên quan đến Iod giúp học sinh hiểu được vai trò tại sao
toàn dân phải ăn muối Iod và nhận thấy tầm quan trọng của muối Iod, tăng tính
hiểu biết hơn. Có thể giới thiệu trong bài tính chất của chất.
* Ví dụ 11 : Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O

2
trong không khí tạo ra khí CO
2
, phản ứng
tỏa nhiệt.
2 2
0C O CO H
+ → ↑ ∆ <
Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần, khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì
than tự bốc cháy.
Áp dụng: Dạy phần sự cháy và sự tự bốc cháy.
* Ví dụ 12: Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu
than củi?
Do than củi xốp có tính hấp phụ mùi, nên hấp phụ được mùi khét của cơm
làm cho cơm đỡ mùi khê.
Áp dụng: Giáo viên có thể lồng ghép vào bài tính chất của chất.
- -1
12
* Ví dụ 13: Vì sao dùng đồ dùng bằng bạc đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ?
Khi gặp bạc nước sẽ có một lượng rất nhỏ đi vào nước thành iôn. Iôn bạc
có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ cần 1/5 tỉ gam bạc trong 1 lít nước cũng đủ
diệt các vi khuẩn. Không có vi khuẩn phát triển nên thức ăn không bị ôi thiu.
Áp dụng : Có thể đưa vào bài tính chất của chất.
*Ví dụ 14: Vì sao khi mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra
Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí
cacbonic CO
2
. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép
CO
2

hòa tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước
ngọt. Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO
2
lập tức bay vào
không khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi.
- -1
13
Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống
nước ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO
2
. Ở trong dạ dày
nhiệt độ cao nên CO
2
nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó
mang đi bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ,
dễ chịu. Ngoài ra CO
2
có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc
tiết dịch vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng : Có thể đưa vào bài tính chất của CO
2
.
*Ví dụ 15 : Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?
“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể (xương động
vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ tạo 1 phần thành khí
PH
3
(Photphin) khi có lẫn một chút khí P
2
H

4
(Diphotphin), khí PH
3
tự bốc cháy
ngay trong điều kiện thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí:
2 4
3 2 2 5 2
2 4 3
P H
PH O P O H O
+ → +
Điều trùng lặp ngẫu nhiên là: Người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghĩa
địa càng tăng nên tính chất kịch tính.
Áp dụng: giải thích được hiện tượng trong đời sống “Ma trơi”.Tránh tình
trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống lành mạnh.
*Ví dụ 16: Khí cười
Nhà hóa học Anh Humphry Davy khi nghiên cứu về các oxit nitơ đã phát
hiện ra một loại oxit có tính chất sinh lý rất độc đáo – thậm chí kỳ cục. Một số
- -1
14
người tỏ ra hoài nghi kết quả này. Thế là Davy quyết định sẽ công bố chất khí
này trong một buổi dạ hội mà thành viên tham gia là các bậc quý tộc Anh cả.
Khi Davy mang một cái bình lớn đến dạ hội thì các quý ông, quý bà trong
những trang phục lộng lẫy đắt tiền đã chờ đợi sẵn. Ông mở nắp bình và một
cảnh tượng vô cùng lạ đã xảy ra Các quý bà cười như nắc nẻ, cười đến chảy
nước mắt, quặn ruột, mồ hôi ướt đầm đến khổ và ông Davy, đứng trước cảnh
đó, cũng tươi cười tuyên bố loại nitơ oxit mà ông đựng trong bình là N
2
O: đinitơ
oxit và khí này còn được gọi là khí cười.

Áp dụng: Giáo viên có thể vận dụng vào bài Oxit.
Một số vấn đề cần lưu ý:
Để giúp học sinh yêu thích học bộ môn, chủ động trong học tập người giáo
viên cần phải:
- Kiên trì, đầu tư nhiều tâm sức để tìm hiểu các vấn đề hoá học, vận dụng
sáng tạo phương pháp dạy hóa học, để có bài giảng thu hút được học sinh.
- Có phương pháp giảng dạy phù hợp.
- Bằng tình cảm tác động đến tinh thần học tập của học sinh, tạo một môi
trường học tập tích cực, thân thiện giữa thầy và trò.
- Bằng phương pháp hữu hiệu tạo điều kiện, khắc sâu kiến thức cho học sinh
hiểu, có khả năng thuộc bài ngay tại lớp. Chú ý cần tạo bầu không khí cởi mở
nhưng nghiêm túc trong học tập, tạo sự tự tin cho học sinh trong giờ học của
mình.
- Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm, học tập trong tổ chuyên môn nhằm rút
ra những bài học kinh nghiệm bổ ích cho bản thân.
- Có thể đưa ra những câu hỏi thuộc phạm vi bài mới, biểu dương và cho
điểm khuyến khích để động viên học sinh say mê học tập và theo dõi bài học.
IV. KẾT QUẢ:
Khi thực hiện chuyên đề, với cách thức giảng dạy, truyền đạt và hướng dẫn
học sinh học tập. Kết quả khảo sát chất lượng bộ môn hóa học 8 đầu học kỳ II
năm học 2014-2015 có nâng cao so với đầu học kì I năm học 2014-2015. Cụ thể:
- -1
15
Năm học
2014- 2015
Tổng
số HS
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
Đầu HK I 198 39 19,69 61 30,80 65 32,83 23

12,6
3
Đầu HK II 198 60 30,30 56 28,28 71 35,86 11 5,55
Qua kết quả trên cho thấy việc thực hiện áp dụng ý tưởng của sáng kiến kinh
nghiệm vào thực tế giảng dạy mang lại hiệu quả tương đối khả quan và bản thân
sẽ tiếp tục áp dụng thực hiện trong thực tế giảng dạy thời gian tiếp theo nhằm
nâng cao hơn nữa chất lượng bộ môn và yêu cầu chỉ tiêu đề ra.
C. KẾT LUẬN:
Trên đây là biện pháp tôi đã áp dụng trong việc giảng dạy bộ môn hoá học,
nhằm giúp học sinh học tốt bộ môn, nâng cao chất lượng giảng dạy, giảm dần tỉ lệ
học sinh yếu kém, từng bước nâng dần chất lượng học tập , giúp học sinh tiếp thu
kiến thức nhẹ nhàng, rèn luyện một số kỹ năng cần thiết để các em hiểu bài, hứng
thú học tập, nắm vững kiến thức và nhớ lâu .
Để tiết học đạt hiệu quả cao nhất luôn là niềm trăn trở, là mục đích hướng
tới của từng người giáo viên, nhưng đây không phải là điều đạt được dễ dàng.
Trong nội dung đề tài mình, tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc
sống và có ý nghĩa thực tiễn, thậm chí có thể gặp, tiếp xúc hàng ngày. Mặc dù
trong đề tài này tôi không thể đề cập mọi hiện tượng có liên quan.
Để vận dụng tốt SKKN này vào thực tế giảng dạy bộ môn, tôi tâm đắc một
số vấn đề sau:
1/ Giáo viên:
Giáo viên vận dụng tốt các phương pháp dạy, tìm tòi khai thác và nghiên
cứu các phương pháp để truyền đạt hữu hiệu nhất.
Bổ sung thêm nhiều hiện tượng thực tế để áp dụng trong bài học giúp học
sinh thấy được việc học bổ ích. Từ đó các em càng yêu thích học hóa học hơn và
chất lượng bộ môn ngày càng nâng cao.
Sự kết hợp hài hoà trong phong cách dạy có thể làm cho giờ học mang
không khí rất thoải mái, khả năng tiếp thu bài của học sinh cũng tốt hơn.
- -1
16

Khi vận dụng giải thích các hiện tượng vào trong bài học người dạy cần
phải linh hoạt và khéo léo vì thời gian dành cho vấn đề này là không nhiều nếu
chúng ta quá lạm dụng thì không tốt. Vì thế tôi vẫn luôn nghĩ: “ Dạy như thế nào
cho tốt là một điều không dễ”.
2/ Học sinh:
Học sinh trở nên thích học Hoá hơn, không còn sợ học hóa thậm chí có cả
những học sinh đã về nhà tự quan sát và tái tạo lại hiện tượng thực tế.
Nắm được phương pháp học tập bộ môn, chất lượng ngày càng nâng cao
Biết quan sát, đặt những câu hỏi tại sao với hiện tượng xung quanh, tìm tòi
phương pháp giải thích.
Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đúc kết được trong quá trình giảng
dạy của mình trong thời gian vừa qua, luôn kết hợp giữa hai mặt lý luận dạy học
và thực tiễn đứng lớp của giáo viên bước đầu mang tính hiệu quả và khả thi, góp
phần giúp học sinh yêu thích học bộ môn, giờ học Hóa không còn khô khan, học
sinh háo hức học tập để lĩnh hội những kiến thức một cách nhẹ nhàng nhưng sâu
sắc. Mặc dù bản thân đã cố gắng song không thể tránh được những thiếu sót, rất
mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để
đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Người viết SKKN
Trần Thị Mây
- -1
17

×