Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.29 KB, 42 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
MỤC LỤC............................................................................................... 1
DANH MỤC SƠ ĐỒ..............................................................................3
LỜI MỞ ĐẦU.........................................................................................4
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ,
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ..................................5
I. Các khái niệm cơ bản..............................................................................5
1. Đầu tư và phân loại đầu tư.................................................................5
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế......................................................7
3. Khái niệm về phát triển kinh tế.........................................................8
CHƯƠNG II ........................................................................................10
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUA
PHÂN TÍCH CỦA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ ............................10
1. Số nhân đầu tư.......................................................................................10
2. Lý thuyết gia tốc đầu tư........................................................................11
2.1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư ........................11
2.2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư ..........................................11
2.2. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư.............................................14
3. Lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư..........................................................16
4. Lý thuyết tân cổ điển.............................................................................17
4.1. Sự ra đời của lý thuyết tân cổ điển ..............................................17
4.2. Nội dung của lý thuyết tân cổ điển ..............................................17
4.3.Nhận xét về mô hình tân cổ điển ...................................................18
5. MÔ HÌNH HARROD - DOMAR.........................................................21
5.1. Sự ra đời của mô hình ...................................................................21
5.2. Nội dung của mô hình Harrod - Domar . ....................................22
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG III ....................................................................................... 26
XU HƯỚNG ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT TRIỂN KINH


TẾ VIỆT NAM HIỆN NAY ĐẾN NĂM 2020, THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ...................................26
ĐẦU TƯ, THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ.......................................................................................................... 26
I. Xu hướng đầu tư Việt Nam đến năm 2020..........................................26
1 Lĩnh vực đầu tư..................................................................................26
2. Đầu tư vào vùng lãnh thổ.................................................................27
3. Cơ cấu đầu tư của các thành phần kinh tế....................................29
II. Xu hướng tăng trưởng và phát triển kinh tế Viêt Nam đến năm
2020.............................................................................................................30
1. Đối với tăng trưởng kinh tế..............................................................30
2. Đối với thương mại............................................................................32
3. Đối với các ngành kinh tế ................................................................33
III.Thực trạng, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy
tăng trưởng phát triển Việt Nam hiện nay đến năm 2020.....................35
1.Thực trạng hiệu quả của đầu tư đến tăng trưởng và phát triển
kinh tế ở Việt Nam hiện nay.................................................................35
2. Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư,thúc đẩy tăng trưởng
phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay đến năm 2020.........................35
KẾT LUẬN...........................................................................................40
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................42
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1. Đường đồng sản lượng là các đường cong............................19
Sơ đồ 2. Các nhà kinh tế tân cổ điển cho rằng nền kinh tế đạt được
mức sản lượng tiềm năng (Y=Y*)........................................................20
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU

Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia
trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc biệt
là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước
ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm 2020
Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu trên thì
đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát triển,
không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp làm gia
tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển kinh tế.
Đã có nhiều lý thuyết về đầu tư được nêu ra nhằm phân tích tác động của đầu tư đến
tăng trưởng và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác nhau như lý thuyết số nhân đầu
tư, lý thuyết gia tốc đầu tư, mô hình Harrod – Domar...
Chính phủ Việt Nam với vai trò của mình đã luôn nỗ lực tạo điều kiện tốt nhất
cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững và kết quả là Việt Nam đã trở thành thành
viên chính thức của tổ chức kinh tế thế giới WTO từ ngày 1/1/2007. Đây vừa là cơ
hội vừa là thách thức lớn đặt ra đối với Việt Nam khi nền kinh tế còn non trẻ, khả
năng kiểm soát các luồng vốn đầu tư ( trong nước và từ bên ngoài vào) còn hạn chế.
Nếu không có một cái nhìn đúng đắn về đầu tư thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất khó
đứng vững trước làn sóng vốn tràn vào Việt Nam và luôn biến động một cách mạnh
mẽ như hiện nay. Chính vì tầm quan trọng của đầu tư đối với tăng trưởng và phát
triển kinh tế là rất lớn nhưng vấn đề giải thích sự tác động đó thông qua các lý thuyết
kinh tế về đầu tư còn ít được đề cập đến. Do đó chúng tôi quyết định chọn đề tài
nghiên cứu là:

DỰA VÀO CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ GIẢI THÍCH VAI TRÒ
CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ

.
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ ĐẦU

TƯ, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. Các khái niệm cơ bản
1. Đầu tư và phân loại đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư.
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực
đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy , mục tiêu của mọi công cuộc đầu tư là
đạt được các kết quả lớn hơn so với những hy sinh về nguồn lực mà nhà đầu tư phải
ghánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực được nói đến ở đây có thể là tiền, tài nguyên, công nghệ, nhà
xưởng, sức lao động, trí tuệ… và các mục đích hướng tới chính là sự tăng lên về tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện, máy móc…),
tài sản trí tuệ (trình độ chuyên môn, kỹ năng tay nghề, năng suất lao động, trình độ
quản lý… ) trong nền sản xuất xã hội.
Trong những kết quả đạt được trên đây, những kết quả trực tiếp của sự hy sinh
các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng
trong mọi lúc , mọi nơi không chỉ đối với người bỏ vốn mà cả đối với toàn bộ nền
kinh tế. Những kết quả này không chỉ nhà đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ
hưởng. Chẳng hạn, một nhà máy được xây dựng, tài sản vật chất của nhà đầu tư trực
tiếp tăng lên, đồng thời tài sản vật chất, tiềm lực sản xuất của nền kinh tế cũng được
tăng thêm.
Lợi ích trực tiếp do sự hoạt động của nhà máy này đem lại cho nhà đầu tư là lợi
nhuận, còn cho nền kinh tế là thoả mãn nhu cầu tiêu dùng (cho sản xuất và cho sinh
hoạt ) tăng thêm của nền kinh tế, đóng góp cho ngân sách, giải quyết việc làm cho
người lao động…
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trình độ nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động tăng thêm không chỉ có
lợi cho chính họ (để có thu nhập cao, địa vị cao trong xã hội) mà còn bổ sung nguồn
lực có kỹ thuật cho nền kinh tế để có thể tiếp nhận công nghệ ngày càng hiện đại, góp

phần nâng cao dần trình độ công nghệ và kỹ thuật của nền sản xuất quốc gia.
1.2 Phân loại đầu tư.
Căn cứ vào các kết quả của hoạt động đầu tư, bản chất và lợi ích do đầu tư đem
lai chúng ta có thể chia đầu tư ra làm 3 loại : đầu tư tài chính, đầu tư thương mại và
đầu tư phát triển.
Đầu tư tài chính:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra cho vay hoặc mua
các giấy tờ có giá để hưởng lãi suất định trước, hay lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra
tài sản mới cho nền kinh tế (Nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này)
mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân. Với sự hoạt động
của hình thức đầu tư này, vốn được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra nhanh
chóng. Đây thực sự là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển.
Đầu tư thương mại:
Đầu tư thương mại là hình thức đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra mua
hàng hóa và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch do giá khi
mua và khi bán. Loại đầu tư này không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không
xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của nhà đầu tư trong quá
trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với nhà đầu
tư và giữa nhà đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác
dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra. Từ đó
thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển
sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư phát triển :
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đầu tư phát triển là những hoạt động đầu tư tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế,
làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ
yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Nói cách
khác đầu tư phát triển là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa, kết cấu hạ

tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản
này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới
cho nền kinh tế xã hội.
Ba loại đầu tư trên luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau, trong đó
đầu tư phát triển là cơ bản nhất, tạo tiền đề đề tăng tích lũy, phát triển hoạt động đầu
tư tài chính và đầu tư thương mại. Đầu tư phát triển là điều kiện tiên quyết cho sự ra
đời, tồn tại và tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ. Bên
cạnh đó, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường
đầu tư phát triển. Tuy nhiên trong khuân khổ của đề tài này chúng ta chỉ đi sâu, tiềm
hiểu, xem xét các vấn đề kinh tế của đầu tư phát triển- loại đầu tư quyết định trực tiếp
sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời, tồn tại và
tiếp tục phát triển của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ.
2. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự gia tăng này được thể hiện ở quy mô và
tốc độ tăng trưởng. Quy mô phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít còn tốc độ tăng trưởng
được dùng để so sánh sự gia tăng giữa các thời kỳ. Người ta thường xác định tăng
trưởng kinh tế thông qua các chỉ tiêu GDP (tổng sản phẩm quốc nội), GNP (tổng sản
phẩm quốc dân) và GNI (thu nhập bình quân đầu người).
Đầu tư là một trong những yếu tố được tính đến trong tăng trưởng kinh tế, dựa
vào công thức tính GDP sau:
GDP = S + I + G + (X – IM)
Trong đó: S: tổng tiết kiệm trong nền kinh tế
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I: đầu tư
G: chi tiêu của chính phủ
X: xuất khẩu
IM: nhập khẩu.

Bản chất của tăng trưởng kinh tế là phản ánh sự thay đổi về lượng của nền kinh
tế còn đầu tư phát triển không những làm gia tăng tài sản của nhà đầu tư mà còn trực
tiếp làm tăng tài sản của nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn khi nhà đầu tư xây dựng
một nhà máy thì nhà máy đó không những là tài sản của nhà đầu tư mà còn là tiềm
lực sản xuất của cả nền kinh tế, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Như
vậy đầu tư phát triển chính là một yếu tố không thể thiếu đối với quá trình tăng
trưởng của một nền kinh tế.
3. Khái niệm về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên, tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế. Phát
triển kinh tế là một khái niệm rộng hơn tăng trưởng. Nếu tăng trưởng được xem là
quá trình biến đổi về lượng thì phát triển là quá trình biến đổi cả về lượng và chất của
nền kinh tế. Đó là sự kết hợp một cách chặt chẽ quá trình hoàn thiện của cả hai vấn
đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Phát triển kinh tế bao gồm có tăng trưởng, sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng tiến bộ (thường xét đến sự chuyển dịch
cơ cấu ngành: sự gia tăng tỉ trọng ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm tỉ trọng ngành
nông nghiệp), sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội (xóa bỏ nghèo
đói, suy dinh dưỡng, tăng tuổi thọ bình quân, tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế,
nước sạch của người dân, đảm bảo phúc lợi xã hội, giảm thiểu bất bình đẳng trong xã
hội…).
Một mặt trái của đầu tư phát triển, bên cạnh việc làm tăng sản lượng của nền
kinh tế, đầu tư phát triển còn gây nên một số tác động tiêu cực như ô nhiễm, suy thoái
môi trường, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, gây ảnh hưởng tới sức khỏe con người.
Hiện nay, ở nhiều quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, người ta đã chú ý tới
những ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai do tăng trưởng nhanh gây ra. Trên thế giới
đã xuất hiện khái niệm mới về phát triển, đó là phát triển bền vững. Theo định nghĩa
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
của Ngân hàng Thế giới WB: “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu
cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai”. Nói cách khác, phát triển bền vững là sự kết hợp hài hòa, chặt chẽ, hợp lý

cả về ba mặt: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Đây là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II
VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
QUA PHÂN TÍCH CỦA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ
Chúng ta đều biết rằng đầu tư là một yếu tố nằm trong tổng cầu của nền kinh tế.
Trong khi đầu tư nhỏ hơn rất nhiều so với tiêu dùng trong GDP, nhưng nó lại rất
quan trọng bởi vì đây là thành tố trong GDP biến động mạnh nhất và phản ánh rõ nét
nhất hình mẫu biến động theo chu kỳ mà các nền kinh tế thị trường phải đối mặt.
Trong yêu cầu của đề tài chúng ta phải nghiên cứu ảnh hưởng của đầu tư đến tăng
trưởng và phát triển kinh tế nhưng dưới góc độ vận dụng các lý thuyết kinh tế về đầu
tư để giải thích . Do đó chúng ta phải nghiên cứu vấn đề trên phương diện lý luận,
vận dụng các lý thuyết đầu tư là chủ yếu. Có rất nhiều lý thuyết kinh tế về đầu tư,
mỗi lý thuyết nghiên cứu một khía cạnh khác nhau của đầu tư đối với tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Dưới đây trình bày một số lý thuyết tiêu biểu sau.
1. Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư tới sản lượng.
Công thức tính
k=
Trong đó : ΔY là mức gia tăng sản lượng
ΔI là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Ta có ΔY= k*ΔI với k>1
Như vậy việc gia tăng đầu tư có tác dụng khếch đại sản lượng tăng lên số nhân
lần.
10
ΔI
ΔY

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khếch đại của sản lượng càng lớn.
Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất
(máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai yếu
tố này làm cho sản xuất phát triển, kết quả là, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Mô hình số nhân đầu tư phản ánh quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng
đầu tư, theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ
sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy làm tăng cầu về tiêu dùng,
tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm cho thu nhập
tăng lên, đến lượt mình thu nhâp lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư
mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhập, thu nhập lại
tạo tiền đề để gia tăng đầu tư.
2. Lý thuyết gia tốc đầu tư.
2.1. Tư tưởng trung tâm của mô hình gia tốc đầu tư .
Nếu số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa việc gia tăng đầu tư với gia tăng
sản lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như vậy
đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes, đầu tư cũng được xem
xét dưới góc độ tổng cung, nghĩa là mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu
tư như thế nào. Các doanh nghiệp thực hiện các dự án đầu tư để đưa mức tư bản đạt
mức mong muốn. Lượng tư bản mong muốn phụ thuộc vào mức sản lượng là điều dễ
dàng chấp nhận được. Khi mức sản lượng cao hơn, các hãng có nhu cầu lớn hơn về
tư bản vì tư bản là một trong nhiều nhân tố để tạo ra sản lượng. Tư tưởng trung tâm
của mô hình gia tốc dựa trên mối quan hệ đơn giản này.
2.2. Nội dung của lý thuyết gia tốc đầu tư .
Mô hình gia tốc giả thiết rằng lượng tư bản mong muốn là bội số của mức sản
lượng :
K
d
t

= α .Y
t
α>0 (1)
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở dạng đơn giản nhất của mô hình gia tốc, đầu tư ròng đúng bằng chênh lệch
giữa lượng tư bản mong muốn với lượng tư bản hiện có vào cuối thời kì trước. Nếu
tạm thời bỏ qua hao mòn tư bản trong quá trình sử dụng, chúng ta có mối liên hệ sau:
I
n,t
= K
d
t
- K
d
t -1
(2)
Lượng tư bản có được vào cuối thời kỳ trước chính là lượng tư bản mong muốn
phụ thuộc vào thu nhập của thời kỳ đó.
K
t-1
= K
t-1
d
=

α .Y
t-1
(3)
Vì vậy, chúng ta có thể viết lại phương trình (2) như sau:

I
n,t
= K
d
t
- K
t-1
= α .Y
t
- α .Y
t-1
= α.( Y
t
- Y
t-1
)
I
n,t
= α.Δ Y
t
(4)
Mức đầu tư phụ thuộc vào sự thay đổi của sản lượng.
Dạng đơn giản này cho ta thấy một đặc điểm quan trọng của mô hình gia tốc.
Từ phương trình (1), α có thể được coi là tỷ lệ giữa mức tư bản mong muốn so với
sản lượng:
α =K
t
d
/ Y
t

(5)
Ví dụ, giả sử rằng tỷ lệ này là 2. Trong trường hợp này, cứ mỗi đồng sản lượng
thay đổi thì mức bổ sung tương ứng là 2 đồng. Trong bối cảnh đó, đầu tư sẽ biến
động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Theo mô hình giao điểm của Keynes cho
thấy sự thay đổi của đầu tư có tác dụng số nhân đến sản lượng. Vì vậy cùng với hiệu
ứng số nhân, lý thuyết gia tốc đơn giản chỉ có thể giải thích sự biến động theo chu kỳ
của sản lượng. Một cú sốc đối với sản lượng sẽ làm thay đổi mức đầu tư và sự thay
đổi này sẽ làm mức sản lượng cân bằng thay đổi thông qua hiệu ứng số nhân, và tác
động thêm vào đầu tư thông qua hiệu ứng gia tốc. Tuy nhiên cũng giống như lý
thuyết đơn giản về số nhân của Keynes, chúng ta cần phải điều chỉnh lý thuyết gia tốc
về đầu tư trước khi có thể sử dụng nó để giải thích cho quá trình đầu tư trong nền
kinh tế thực.
Điều chỉnh đầu tiên mà chúng ta cần làm để mô hình gia tốc đơn giản trở nên
thực tế hơn bằng cách cho rằng lượng tư bản thực tế sẽ điều chỉnh dần đến mức
mong muốn. Gỉa sử rằng chúng ta sử dụng mô hình cho một năm nào đó. Cũng giả sử
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
rằng, do sản lượng tăng lên nên lượng tư bản mong muốn cũng tăng theo. Các dự án
đầu tư sẽ được thực hiện nhằm đưa lượng tư bản tiến tới mức mong muốn. Bên cạnh
những chi phí mà ta gọi là chi phí trực tiếp của đầu tư, chúng ta cần tính đến những
chi phí điều chỉnh, và việc coi chi phí này tăng lên khi mức đầu tư tăng cũng là điều
hợp lý. Những ví dụ về chi phí điều chỉnh như phải đóng cửa nhà máy hoặc thuê
thêm công nhân làm việc ngoài giờ để lắp đặt thiết bị, chi phí tăng thêm do muốn
tăng tiến độ xây dựng nhà máy và hoạt động sản xuất có thể bị đình trệ do bộ máy
quản lý phải tập trung vào việc triển khai các dự án đầu tư. Nếu chi phí điều chỉnh
tăng mạnh, thì quyết định tối ưu đối với doanh nghiệp sẽ là điều chỉnh dần lượng tư
bản thực tế đến mức mong muốn. Khi đó chênh lệch giữa hai lượng tư bản này chỉ bị
triệt tiêu một phần trong từng thời kỳ.
Để phản ánh được độ trễ điều chỉnh này, chúng ta có thể viết (2) như sau:
I

n,t
= λ.( K
d
t
-K
t-1
) 0< λ<1 (6)
Sử dụng (1), ta có:
I
n,t
= λ.( α.Y
t
- K
t-1
) (7)
Trong đó, thông thường, K
t-1
khác K
d
t -1
do lượng tư bản thực tế khác với lượng
tư bản mong muốn trong mỗi thời kỳ. Phương trình (7) xác định cơ chế điều chỉnh
một phần mà ở đó hệ số λ thể hiện phần của chênh lệch giữa lượng tư bản mong
muốn với lượng tư bản thực tế được thực hiện thông qua đầu tư. Do chỉ một phần sự
thay đổi của lượng tư bản mong muốn được thực hiện trong mội thời kỳ nên trong
một thời kỳ nhất định nào đó đầu tư sẽ phản ứng với những thay đổi của thu nhập
trong một số thời kỳ trước đó. Phương trình (7) hàm ý rằng, đầu tư phản ứng chậm
hơn với sự thay đổi của thu nhập hiên tại, và vì thế mà cũng hàm ý rằng đầu tư không
thay đổi nhiều trong ngắn hạn như mô hình gia tốc đơn giản dự báo (ở phương trình
4). Phương trình (7) được gọi là mô hình gia tốc linh hoạt- có thể thích hợp hơn với

những biến động của đầu tư trong thực tế. Mặc dù đầu tư là nhân tố dễ biến động,
nhưng nó không biến đông nhiều như dự đoán của mô hình gia tốc đơn giản.
Mô hình gia tốc linh hoạt cũng có thể được điều chỉnh nhằm thể hiện sự biến
động về tốc độ thay đổi của đầu tư nhằm lấp đầy lỗ hổng giữa lượng tư bản thực tế
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
với lượng tư bản mong muốn (tham số λ). Đây chính là biến lựa chọn đối với hãng
kinh doanh và có thể bị tác động bởi các điều kiện tín dụng, bao gồm lãi suất, thuế và
các biến số khác. Ví dụ, chúng ta có thể kỳ vọng rằng, trong điều kiện các nhân tố
khác không thay đổi, có ít đầu tư hơn sẽ được thực hiện để triệt tiêu lỗ hổng giữa
lượng tư bản thực tế với lượng tư bản mong muốn khi lãi suất cao hơn và ngược lại.
2.2. Nhận xét về lý thuyết gia tốc đầu tư.
2.2.1 Ưu điểm.
a. Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư.Nếu α
không thay đổi trong kỳ kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá
chính xác.
b. Lý thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế dẫn đến đầu tư. Khi
kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến
tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
2.2.2 Nhược điểm.
a. Lý thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế
đại lượng này (α) luôn biến do sự tác động c ủa nhiều nhân tố khác.
b. Thực chất lý thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không
phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng. Vì từ công
thức K
d
t
= α.Y
t
có thể viết:

Tại thời điểm t : K
d
t
= α.Y
t
(8)
Tại thời điểm (t-1): K
t-1
d
= α.Y
t-1
d
(9)
Lấy (8) trừ đi (9), ta có :
K
d
t
- K
t-1
d
= α.Y
t
-α.Y
t-1
d
= α.( Y
t
-Y
t-1
d

) (10)
Trong đó:
K
d
t
- K
t-1
d
: Đầu tư ròng và bằng (I
t
-D) với D l à khấu hao
Do đó:
I
t
-D= K
d
t
- K
t-1
d
= α.( Y
t
-Y
t-1
d
)= α.ΔY ()
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
và đầu tư ròng ΔI= α.ΔY
Như vậy theo lý thuyết này đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra.

Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng(lớn hơn α lần). Nếu sản lượng giảm, đầu tư
thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ
bằng 0 (khi ΔY=0 thì ΔI=0 )
Tuy nhiên khi sản lượng không thay đổi giữa hai thời kỳ đầu tư thuần bằng 0
nhưng tổng đầu tư là một số dương vì các doanh nghiệp vẫn phải đầu tư thay thế máy
móc thiết bị đã hao mòn hết.
c. Theo lý thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay
trong cùng một thời kỳ. Điều này không đúng vì nhiều lý do, chẳng hạn do việc cung
cấp các yếu tố có liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt qúa
cung…do đó lý thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lý
thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một
hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn
được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi K
t
d
và K
t-1
d
là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và t-1
Kt
*
t
–K
t-1
d
là vốn đầu tư mong muốn
λ là một hằng số (0< λ <1)
Thì: K
t

–K
t-1
= λ .(Kt
*
t
–K
t-1
)
Có nghĩa là sự thay đổi vốn đầu tư thực hiện giữa hai kỳ chỉ bằng một phầm của
chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kỳ t và vốn đầu tư thực hiện thời kỳ t-
1. Nếu λ =1 thì K
d
t
=Kt*
t
.
Và lý thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu tư.
Theo lý thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thì đầu tư thuần ∆I=I
t
- D
t
=K
t
d
-K
t-1
d
. Theo
lý thuyết gia tốc đầu tư sau này thì
K

t
d
- K
t-1
d
= λ(Kt
*
t
–K
t-1
) và do đó ∆I= λ(Kt
*
t
–K
t-1
)
Để xác định tổng đầu tư, chúng ta giả định: D
t
=δ.K
t-1
δ là hệ số khấu hao v à 0< δ <1. Do đó
I
t
- D
t=
I
t
- δ K
t-1
d

=
λ(Kt
*
t
–K
t-1
) hoặc
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
I
t
= λ .(Kt
*
t
–K
t-1
) + δ K
t-1
d
I
t
chính là tổng đầu tư trong kỳ và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực hiện.
3. Lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư.
Theo lý thuyết này, đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I ~ f (lợi nhuận thực tế ). Do đó , dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ
được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức đầu
tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại,
tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu bán
cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp
nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và

lâm vào tình trạng phá sản. Do đó, việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi
được vay ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng
không phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các
doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án
đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư, các doanh nghiệp thường
chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và các sự gia tăng của lợi
nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giưa lý thuyết gia tốc đầu tư và lý thuyết này dẫn đến việc thực thi
các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lý thyết gia tốc đầu tư chính
sách tài khoá mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản lượng thu được
cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghệp không có tác dụng kích
thích đầu tư. Ngược lại theo lý thuyết quỹ nội bộ của đầu tư thì việc giảm thuế lợi tức
của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng
lợi nhuận cũng có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để
xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính sách tài khoá mở rông không có
tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lý thyết này.
16

×