Tải bản đầy đủ (.docx) (45 trang)

Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế Việt Nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.86 KB, 45 trang )

Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Đường lối Đổi mới của Đảng tại Đại hội IV (12- 1986) đã mở ra một thời kỳ
mới cho nền kinh tế Việt Nam - Thời kỳ hội nhập và phát triển. Sau 20 năm Đổi
mới, hoà mình vào dòng chảy hội nhập, Việt Nam đã và đang dần khẳng định vị
thế của mình trên trường quốc tế. Cho đến nay, Việt Nam đã là thành viên chính
thức của 63 tổ chức quốc tế (ASEM- 03/1996; APEC-11/1998; WTO- 01/2007...)
và có mối quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Những kết
quả đáng khích lệ này đã củng cố hơn nữa hệ thống chính trị, nâng cao vị thế
quốc tế của đất nước, đồng thời tạo thế và lực trong hoạt động thương mại Việt
Nam, đặc biệt là hoạt động xuất khẩu.
Với nguồn tài nguyên phong phú “rừng vàng biển bạc” và điều kiện tự nhiên
thuận lợi , Việt Nam mang trong mình lợi thế về các mặt hàng nông sản (gạo,
chè, cà phê...). Việc tận dụng lợi thế này để tiến hành hoạt động xuất khẩu đã
mang lại một nguồn thu lớn cho kinh tế cả nước, trong đó cà phê là một trong số
các nguồn hàng xuất khẩu chủ lực.Vậy tác động của nó đến nền kinh tế như thế
nào? Ngoài ra, Việt Nam đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu cà phê (sau Brazil) và
đứng thứ nhất thế giới về xuất khẩu cà phê Robusta, song, giá cà phê vẫn cao,
tiêu chuẩn chất lượng cà phê vẫn thấp hơn so với tiêu chuẩn trên thế giới... Điều
đó đòi hỏi chúng ta cần tìm ra những biện pháp để mở ra hướng đi mới cho hoạt
động xuất khẩu cà phê Việt Nam.
Từ những ý tưởng trên , dựa trên nguồn kiến thức đã tích luỹ, học hỏi và đặc
biệt là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô giáo TS. Phan Thị Nhiệm đã giúp tôi
hoàn thành đề án với tiêu đề:
“Hoạt động xuất khẩu cà phê đối với tăng trường và phát triển kinh tế
Việt Nam”
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Lan Chi
NỘI DUNG
Đề án kinh tế phát triển
1


Chương I : Những vấn đề chung về xuất khẩu hàng hoá
I- Lý luận chung về xuất khẩu hàng hoá
1, Khái quát chung về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam.
* Xuất khẩu là một hoạt động nhằm bán hàng hoá và dịch vụ trong nước ra thị
trường nước ngoài.Xuất khẩu là một hoạt động kinh tế đối ngoại cơ bản giúp gắn
kết thị trường đơn lẻ của các nước lại với nhau, tăng cường thông thương buôn
bán, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.
Hàng hoá - dịch vụ được đem đi xuất khẩu phải là những hàng hoá có lợi thế
so sánh cao hơn các hàng hoá - dịch vụ khác về chất lượng , số lượng, khả năng
cạnh tranh, giá cả... nó cũng phản ánh thế mạnh, nguồn lực tiềm năng của quốc
gia xuất khẩu: ví dụ: Brazil đứng đầu thế giới về xuất khẩu cà phê; Trung Quốc
đứng đầu về xuất khẩu dệt may; OPEC đứng đầu về xuất khẩu dầu thô, Việt Nam
đứng đầu về xuất khẩu gạo...
* Trong xu thế hội nhập hiện nay, hoạt động xuất khẩu càng có ý nghĩa quan
trọng hơn nữa đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia.Với Việt Nam , kim ngạch
xuất khẩu không ngừng tăng lên với “tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân
hàng năm thời kỳ 1986-2005 là 21,2% cao gấp gần 2 lần tăng trưởng GDP”
(Nguồn:Xuất khẩu hàng hoá Việt Nam 20 năm Đổi mới <1986-2005>).Với mục
tiêu đẩy mạnh xuất khẩu nhằm tạo động lực cho tăng trưởng , xuất khẩu ngày
càng chiếm tỷ trọng cao hơn trong GDP và xuất khẩu bình quân đầu người cũng
không ngừng tăng lên qua các thời kỳ theo bảng số liệu sau:
Bảng 1: Xuất khẩu và GDP giai đoạn 1986-2005
86-90 91-95 96-00 01-05
Xuất khẩu BQ (triệu USD) 1406 3431 1036
5
22166
Tỷ trọng xuất khẩu so với GDP (%) 20.5 22.2 37.4 54.0
Xuất khẩu BQ/ người (USD) 18.1 43.6 129.9 274.0
Nguồn : Tổng cục thống kê
Theo bảng số liệu trên cho thấy trong hai thời kỳ sau (1996-2000)và (2001-

2005) xuất khẩu bình quân tăng rất nhanh , giai đoạn 01-05 gấp 16 lần giai đoạn
86-90. Tỷ trọng xuất khẩu trong GDP ngày càng cao , giai đoạn 01-05 đã trên
2
cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ
chế biến
70.1
74.6
54.8
45.3
28.9
25.4
45.2
54.7
0
20
40
60
80
100
120
1986-
1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-
2005
Giai đoạn
Tỷ lệ (%)

tỷ trọng hàng chế
biến hay tinh chế
tỷ trọng hàng thô
hay mới sơ chế
Mục lục
mức 50% đẩy cán cân thương mại của Việt Nam thoát khỏi thâm hụt, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
* Xuất khẩu của Việt Nam không chỉ tăng về số lượng mà còn không ngừng
được cải thiện về chất lượng xuất khẩu.Tỷ lệ hàng hoá chế biến , tinh chế ngày
càng cao trong tổng lượng hàng hoá xuất khẩu được thể hiện qua biểu đồ sau:
Hình 1: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo mức độ chế biến
Nguồn: Tổng cục thống kê
Theo nhận định của Tổng cục thống kê, sự gia tăng tỷ trọng xuất khẩu trong 2
giai đoạn đầu phản ánh sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu, song, 2 giai đoạn
này, chúng ta đẩy mạnh công nghiệp chế biến phát triển nên các mặt hàng xuất
khẩu phần lớn ở dạng thô. Nhưng trong hai giai đoạn sau, do tác động của chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, và tăng cường đầu tư vào ngành chế biến đã đẩy tỷ trọng
hàng xuất khẩu đã tăng lên, cụ thể đến năm 2001- 2005 đã chiếm tỷ trọng cao
hơn hàng xuất khẩu dạng thô.
Bên cạnh đó, cơ cấu hàng xuất khẩu phân theo ngành kinh tế cũng có sự thay
đổi theo chiều hướng tích cực, phù hợp với xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế, thể hiện định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH- HĐH) nền
kinh tế.Cụ thể, cơ cấu hàng xuất khẩu theo ngành kinh tế qua các giai đoạn như
sau:
Đề án kinh tế phát triển
3
Bảng 2: Cơ cấu hàng xuất khẩu theo phân ngành kinh tế
(1986-2005)
Đơn vị: %
1986-

1990
1991-
1995
1996-
2000
2001-2005
Hàng CN nặng & khoáng sản 16.0 30.4 31.4 33.1
Hàng CN nhẹ & TTCN 29.8 21.4 34.8 40.4
Hàng Nông sản & NS chế
biến 35.7 31.5 22.7 15.3
Hàng Lâm sản 6.0 4.0 1.8 1.1
Hàng thuỷ sản 12.2 12.8 9.2 10.1
Nguồn : Xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam 20 năm Đổi mới
- Tổng cục thống kê
Nhận thấy, tỷ trọng hàng nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản có xu hướng
giảm dần; tỷ trọng hàng công nghiệp có xu hướng tăng lên qua các giai đoạn.
Trong giai đoạn đầu Đổi mới (1986-1990), do tác động của cơ cấu ngành kinh tế,
tận dụng lợi thế về nông nghiệp song nền kinh tế mới được phục hồi nên sản xuất
chưa chú trọng vào chất lượng sản phẩm, chủ yếu tập trung sản xuất hàng nông
nghiệp xuất khẩu với số lượng nhiều nhờ kinh nghiệm kĩ thuật thủ công nên hàng
nông nghiệp xuất khẩu chiếm tỷ trọng cao 52,9% . Đến các thời kỳ sau , do chú
trọng vào chất lượng , tập trung đầu tư vào kĩ thuật công nghệ, đặc biệt là công
nghiệp chế biến đã thúc đẩy tỷ trọng hàng công nghiệp xuất khẩu, lên đến mức
73,5% gấp 1,6 lần giai đoạn 1986-1990.Điều quan trọng là tốc độ tăng bình quân
hàng năm trong giai đoạn 1986-2005: đứng đầu là nhóm hàng công nghiệp khai
thác (29,4%), tiếp theo là nhóm hàng công nghiệp chế biến (22,2%); hàng thủy
sản (19,1%); hàng nông lâm sản (15,1%) và hàng lâm sản (11,9%). Đây là hướng
đi đúng đắn trong công cuộc Đổi mới đất nước đặc biệt là Đổi mới nền kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Theo kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 2006-2010 thì hoạt động xuất khẩu sẽ

mang lại 258,7 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân là 16% <Nguồn: Kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010>. Qua đó cho thấy tiềm năng
xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam là rất lớn và hoạt động đó sẽ đóng góp ngày
càng nhiều vào nguồn thu của Nhà nước. Qua đó cho thấy tiềm năng xuất khẩu
hàng hóa của Việt Nam là rất lớn và hoạt động đó sẽ đóng góp ngày càng nhiều
vào nguồn thu của Nhà nước. Điều này cũng khẳng định rõ tầm quan trọng của
hoạt động xuất khẩu đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
4
Mục lục
2-Vai trò của xuất khẩu.
Những phân tích trên đã cho thấy xuất khẩu giữ một vai trò hết sức quan trọng
cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Việc mở rộng xuất khẩu làm tăng thêm
nguồn thu ngoại tệ cho đất nước và cho nhu cầu nhập khẩu. Khuyến khích xuất
khẩu còn nhằm giải quyết việc làm, tăng thêm nguồn thu nhập cho người dân. Vì
vậy, đẩy mạnh xuất khẩu là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để phát triển kinh tế và
thực hiện quá trình CNH - HĐH đất nước. Cụ thể , vai trò của xuất khẩu được thể
hiện dưới những khía cạnh sau:
- Thứ nhất, xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu.Để phục vụ cho
sự nghiệp CNH- HĐH đất nước đòi hỏi phải có một nguồn vốn lớn nhập khẩu
máy móc, trang thiết bị kĩ thuật, công nghệ tiên tiến , hiện đại. Một trong các
nguồn thu có được là nhờ xuất khẩu và cũng là nguồn quan trọng nhất. Xuất khẩu
quyết định tốc độ và quy mô nhập khẩu. Đối với nước ta, trong thời kỳ 1986-
1990 nguồn thu xuất khẩu đã đảm bảo trên 55% nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu,
thời kỳ 1991-1995 là 75,3%; thời kỳ 1996-2000 là 84,5% và thời kỳ 2001-2005
là 85,17% <Nguồn: Kinh tế đối ngoại Việt Nam>
- Thứ hai, xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế , thúc đẩy sản
xuất phát triển. Xuất khẩu Việt Nam không phải là việc tiêu thụ sản phẩm thừa do
vượt quá nhu cầu tiêu thụ nội địa mà thực chất nhằm đặt ra mục tiêu sản xuất cao
hơn đối với hàng hóa Việt Nam do coi thị trường thế giới là mục tiêu quan trọng
để tổ chức sản xuất. Từ đó, chúng ta tổ chức lại hệ thống sản xuất, đẩu tư vào đầu

vào sản xuất để nâng cao chất lượng đầu ra cả về số lượng, chất lượng và mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Chính quan điểm nhất quán đó đã tác động
tích cực đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Tác động này được thể hiện ở chỗ:
+, Xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khác phát triển thuận lợi. Xuất khẩu
phát triển làm tăng nhu cầu sản xuất , kinh doanh của những ngành có liên quan.
+, Xuất khẩu tạo ra khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, giúp cho sản xuất ổn
định và phát triển vì có nhiều thị trường. Nhờ đó các doanh nghiệp trong nước
cũng phân tán được rủi ro do cạnh tranh.
+, Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất
nâng cao năng lực sản xuất trong nước.Việc mở rộng xuất khẩu làm tăng khả
năng cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu buộc họ phải tăng cường sản
Đề án kinh tế phát triển
5
xuất sản phẩm theo chiều sâu, thích nghi với sự thay đổi của nhu cầu thị trường
bên ngoài. Do vậy, chất lượng đầu vào sản xuất cũng phải cao lên.
+, Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế - kĩ thuật nhằm cải tạo và nâng cao
năng lực sản xuất trong nước. Xuất khẩu là phương tiện quan trọng để tạo ra vốn,
mang khoa học kĩ thuật, công nghệ tiên tiến hiện đại từ bên ngoài vào trong nước
nhằm hiện đại hóa nền kinh tế của đất nước tạo ra một năng lực sản xuất mới.
+, Thông qua xuất khẩu, hàng hóa sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị
trường thế giới về giá cả, chất lượng. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tổ chức lại
sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất thích nghi được với thị trường bên ngoài.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể đổi
mới, hoàn thiện việc quản trị sản xuất, kinh doanh. Nhờ đó, nền kinh tế trở nên
vững vàng, ổn định và có sức cạnh tranh cao hơn.
- Thứ ba, xuất khẩu còn tác động đến nhiều mặt của đời sống xã hội:
+, Xuất khẩu tác động tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải
thiện đời sống nhân dân.Việc đẩy mạnh xuất khẩu đòi hỏi gia tăng sản xuất hàng
xuất khẩu; hoạt động này đã thu hút hàng triệu lao động vào làm việc, giảm bớt

tình trạng thất nghiệp trong nước và tăng thu nhập cho người dân với mức thu
nhập không thấp.
+, Xuất khẩu gia tăng làm tăng GDP, tăng thu nhập quốc dân làm tăng tiêu
dùng nội địa. Nhu cầu tiêu dùng hàng hóa càng tăng lên với chất lượng ngày càng
cao. Việc xuất khẩu hàng hóa cũng tạo thêm nguồn vốn hỗ trợ việc nhập khẩu
những vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống và đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng ngày càng cao của người dân.
+, Xuất khẩu là cầu nối cho việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của quốc
gia. Tăng cường xuất khẩu giúp chúng ta thiết lập thêm nhiều hơn quan hệ thông
thương buôn bán giữa các quốc gia, từ đó làm gia tăng nguồn đầu tư, chủ động
hơn trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo nên thế ngày càng ổn định về kinh
tế.
3- Nhiệm vụ - phương hướng phát triển xuất khẩu.
*Nhiệm vụ
Với mục tiêu xuất khẩu nhằm bảo đảm cho nhập khẩu đáp ứng nhu cầu đa
dạng của nền kinh tế , xuất khẩu cần phải chú trọng vào những nhiệm vụ sau:
6
Mục lục
- Xuất khẩu phải chú trọng vào việc khai thác một cách hiệu quả mọi nguồn
lực của đất nước (đất đai , vốn, tài nguyên, lao động ...) phục vụ cho việc tổ chức
sản xuất.
- Chúng ta cần phải nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh
khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Chúng ta cần phải tạo ra những mặt hàng , nhóm hàng xuất khẩu chủ lực đáp
ứng những nhu cầu thị trường thế giới và của khách hàng về số lượng cũng như
chất lượng nhằm tạo lập niềm tin với khách hàng và mở rộng thị trường xuất
khẩu.
* Phương hướng phát triển
Phương hướng phát triển nguồn hàng xuất khẩu phải được xem xét dựa trên xu
thế phát triển thị trường , thực trạng và tiềm năng của nguồn lực...Cụ thể:

- Về cơ cấu hàng xuất khẩu: Chúng ta không chỉ chú trọng vào số lượng mặt
hàng xuất khẩu mà còn cần chú trọng nhiều hơn nữa tới chất lượng hàng xuất
khẩu. Cần chủ động gia tăng xuất khẩu những sản phẩm đã qua chế biến với lợi
thế cạnh tranh cao, chú trọng tới nhóm hàng có hàm lượng khoa học công nghệ
cao , giảm tỷ trọng hàng thô, đa dạng mẫu mã, tăng cường các hoạt động dịch vụ
xuất khẩu.
Bảng 4: Dự kiến cơ cấu hàng xuất khẩu đến năm 2010
Nhóm hàng
Kim ngạch
2010
Tỷ trọng (%)
(triệu USD) 2000 2010
Nguyên vật liệu 1,750 20.1 3.5
Nông,thủy, hải sản 8,600 23.3 17.0
Chế biến, chế tạo 21,000 31.4 41.0
Sản phẩm CN cao 7,000 5.4 14.0
Hàng hóa khác 12,500 19.8 24.5
∑ kim ngạch XK HH 50,850 100.0 100.0
Xuất khẩu lao động 4,500 25.0 52.3
Du lịch 1,600 25.0 18.6
Một số ngành khác 2,500 50.0 29.1
∑ kim ngạch XK DV 8,600 100.0 100.0
Nguồn:Giáo trình Kinh tế đối ngoại Việt Nam
- Hình thành các vùng sản xuất hàng xuất khẩu: Theo các nhà phân tích, ở Việt
Nam sẽ hình thành các vùng sản xuất chính như sau:
Đề án kinh tế phát triển
7
+, Vùng Trung du miền núi phía Bắc: tập trung sản xuất các mặt hàng như chè,
lâm sản, khoáng sản, thịt...
+, Vùng đồng bằng sông Hồng : thịt, cây công nghiệp ngắn ngày, rau quả...

+, Vùng khu IV cũ : thịt, cây công nghiệp ngắn - dài ngày, khoáng sản
+, Tây Nguyên: cà phê, cao su, dâu tằm, lâm sản...
+, Duyên hải miền Trung: thịt, lâm sản, thủy sản...
+, Đông Nam Bộ: cao su, cà phê, tiêu, điều, chăn nuôi thịt
+, Đồng bằng Nam Bộ: lúa gạo, thịt , thủy sản, cây ăn quả
+, Vùng biển và thềm lục địa: khai thác thủy sản và dầu, khí
+, Các thành phố: tập trung cho công nghiệp chế biến nông sản, công nghiệp
nhẹ, công nghiệp cơ khí.
- Hình thành các ngành sản xuất then chốt:
+, Ngành sản xuất nông - ngư nghiệp.Chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản
xuất : kinh tế vườn, thực phẩm chế biến, hải sản, lương thực, hạt có dầu, dầu ăn.
+, Ngành lâm nghiệp và đồn điền: gỗ và sản phẩm từ gỗ; cao su và sản phẩm
cao su.
+, Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: may mặc và tơ tằm, những sản
phẩm điện tử, đồ điện, cơ khí, công nghệ phần mềm....
+, Ngành dịch vụ xuất khẩu: ngành du lịch, xuất khẩu lao động, vận tải, các
dịch vụ tài chính - ngân hàng...
II- Một số lý thuyết bàn về lợi ích của ngoại thương đối với phát triển
kinh tế
1- Lý thuyết “Lợi thế t uyệt đối” của Adam Smith.
Adam Smith (1723 - 1790) là nhà kinh tế học cổ điển người Anh. Ông là người
đầu tiên đưa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương. Theo
A.Smith “sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hóa và dịch vụ có
sẵn hơn là phụ thuộc vào vàng”.Ông cho rằng các quốc gia khác nhau có thể sản
xuất những loại hàng hóa khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác. Nếu
thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của thương mại quốc tế do thực hiện
nguyên tắc phân công. Mọi người đều có lợi khi tập trung làm công việc sở
trường của mình và dùng một phần số tiền kiếm từ việc bán sản phẩm ấy hay
chính sản phẩm ấy để mua các hàng hóa khác mà mình có nhu cầu sử dụng. Điều
8

Mục lục
đó có nghĩa to lớn khi ta áp dụng quan điểm đó với một quốc gia nghĩa là, sẽ tốt
hơn khi mua hàng hóa của một quốc gia khác mà cung cấp hàng hóa đó với giá rẻ
hơn là khi ta tự sản xuất.Điều này tạo ra nguồn thu nhập cho nước bán sản phẩm
với giá rẻ đồng thời và nước mua sản phẩm đó sẽ có được sản phẩm rẻ hơn so với
chi phí tự bỏ ra, tức là đã bù đắp được sự yếu kém về khả năng sản xuất trong
nước. Do vậy, có thể thấy rằng lợi thế tuyệt đối của hoạt động ngoại thương là lợi
thế có được từ việc so sánh chi phí để sản xuất ra cùng một loại sản phẩm giữa
các quốc gia; và một nước sản xuất với chi phí cao hơn sẽ nhập sản phẩm đó từ
một nước khác có chi phí sản xuất thấp hơn.
Theo A.Smith: “Các quốc gia nên chuyên môn hóa sản xuất những sản phẩm
mà họ có lợi thế tuyệt đối sau đó bán những hàng hóa này sang quốc gia khác để
đổi lấy sản phẩm mà nước ngoài sản xuất có hiệu quả hơn”. Như vậy, nhờ chuyên
môn hóa sản xuất các quốc gia sẽ đạt được hiệu quả hơn do:
- Người lao động sẽ lành nghề hơn do lặp đi lặp lại cùng một thao tác nhiều lần
- Người lao động sẽ không phải mất nhiều thời gian chuyển từ việc sản xuất
sản phẩm này sang sản phẩm khác.
- Người lao động sau quá trình lao động dài với một công đoạn sản xuất giống
nhau sẽ nảy sinh ra những sáng kiến, đề xuất nhằm cải tiến quy trình sản xuất
mang lại hiệu quả sản xuất cao hơn.
Tuy nhiên, hạn chế của lý thuyết này chính là ở chỗ nó không cho phép giải
thích hiện tượng khi một quốc gia có lợi thế hơn hẳn các quốc gia khác hoặc
những quốc gia khác không có lợi thế tuyệt đối nào cả thì chỗ đứng trong phân
công lao động quốc tế là ở đâu? và thương mại quốc tế sẽ xảy ra như thế nào với
các quốc gia này.
2- Lý thuyết “ Lợi thế so sánh” của David Ricacdo
David Ricacdo (1772 - 1823) là nhà duy vật , nhà kinh tế học người Anh. Ông
đã đưa ra lý thuyết về lợi thế so sánh của hoạt động ngoại thương. Lý thuyết này
được đánh giá cao hơn một bước trong việc khám phá ra cơ chế hình thành lợi
ích ngoại thương. Theo ông, lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi

thế tuyệt đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng
kém hiệu quả để sản xuất những sản phẩm có hiệu quả hơn. Nói cách khác ,
những lợi ích có được do chuyên môn hóa và ngoại thương mang lại phụ thuộc
vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt đối. D.Ricacdo đã nghiên cứu lợi
thế này dưới góc độ chi phí so sánh để sản xuất ra một sản phẩm.Chính vì vậy,
Đề án kinh tế phát triển
9
ông khẳng định trong tác phẩm “Những nguyên lý của kinh tế chính trị học” rằng
bất cứ quốc gia nào cũng có thể thu được lợi khi tham gia vào quan hệ thương
mại với nước ngoài. Trong “Học thuyết về lợi thế so sánh” của mình, ông đã đưa
ra cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế:
- Mọi quốc gia đều có thể và rất có lợi khi tham gia vào quá trình phân công
lao động quốc tế vì nó sẽ mở rộng khả năng tiêu dùng của quốc gia.
- Những nước có lợi thế hơn các nước khác hoặc kém về lợi thế tuyệt đối so
với các nước khác trong sản xuất mọi sản phẩm thì vẫn có thể và có lợi khi tham
gia vào phân công lao động và thương mại quốc tế vì các nước này có lợi thế so
sánh nhất định.
- Thương mại quốc tế không yêu cầu sự khác nhau về lợi thế tuyệt đối, nó vẫn
xảy ra khi có lợi thế so sánh. Lợi thế so sánh tồn tại bất cứ khi nào mà tương
quan về lao động cho mỗi sản phẩm khác nhau giữa hai hàng hóa.
Như vậy, tư tưởng chủ đạo của học thuyết này là mỗi quốc gia nên chuyên môn
hóa sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm mà họ có lợi thế so sánh và nhập khẩu
các mặt hàng mà họ bất lợi nhất. Dù đã có những tiến bộ vượt hơn quan điểm của
A.Smith là xem xét hoạt động ngoại thương của quốc gia dưới góc độ lợi ích so
sánh, song vẫn còn tồn tại những hạn chế cơ bản sau:
- Do không tính đến cơ cấu về nhu cầu tiêu dùng của mỗi nước nên khi áp
dụng học thuyết không thể xác định giá tương đối mà các nước dùng để trao đổi
sản phẩm.
- Không đề cập đến các chi phí vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa, hàng rào bảo
hộ mậu dịch mà các nước thực hiện.

- Không giải thích được nguồn gốc phát sinh thuận lợi của một nước đối với
một loại sản phẩm nên không giải thích được nguyên nhân sâu xa của quá trình
thương mại quốc tế.
3- Lý thuyết “ Tỷ lệ các yếu tố” của Hecksher - Ohlin
Để khắc phục những hạn chế của Ricacdo, hai nhà kinh tế học người Thụy
Điển là Eli Hecksher (1919) và Peter Ohlin (1933) đã đưa ra cách giải thích mới
về nguồn gốc của lợi thế so sánh. Theo hai ông, lợi thế so sánh của một quốc gia
xuất phát từ sự khác biệt về mức độ có sẵn của các yếu tố sản xuất. Các yếu tố đó
là đất đai, lao động và tư bản. Sự khác biệt về mức độ có sẵn của các yếu tố đó sẽ
dẫn tới sự khác biệt về giá cả của chúng. Các yếu tố càng dồi dào thì giá của nó
10
Mục lục
càng rẻ. Do vậy, giá cả của những hàng hóa sử dụng nhiều yếu tố sản xuất cũng
rẻ hơn. Đồng ý kiến với Ricacdo khi cho rằng thương mại là có lợi , hai ông còn
giải thích động thái thương mại xuất phát từ sự khác nhau về mức độ sẵn có của
các yếu tố sản xuất. Lý thuyết này cũng chỉ ra rằng sự khác nhau ở các nước về
mối tương quan giữa lao động với đất đai hay vốn có thể giải thích sự khác biệt
về chi phí các nhân tố. Nếu lao động dư thừa so với đất đai và vốn thì chi phí lao
động sẽ thấp hơn chi phí đất đai và tiền vốn, ngược lại, nếu lao động khan hiếm
hơn thì chi phí lao động sẽ cao hơn. Nhờ đó, các quốc gia có thể sử dụng các yếu
tố dư thừa một cách hiệu quả tạo ra sản phẩm có giá rẻ hơn và đem xuất
khẩu.Tuy nhiên, giá sản phẩm khác nhau không chỉ phụ thuộc vào sự khác biệt về
giá cả các yếu tố đầu vào mà còn phải kể đến kỹ thuật sản xuất và sự phối hợp
các yếu tố sản xuất.
III- Chiến lược xuất khẩu hàng hóa
Do cà phê là một loại mặt hàng xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô đặt trong điều
kiện nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam nên chiến lược được lựa chọn là
chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô
Sản phẩm xuất khẩu thô là những sản phẩm nông nghiệp và những sản phẩm
khai khoáng.Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô chủ yếu dựa vào việc sử dụng

các nguồn lực sẵn có và các lợi thế của đất nước để tạo ra sản phẩm xuất khẩu thô
với giá rẻ tiêu thụ ở thị trường bên ngoài. Chiến lược này áp dụng chủ yếu với
các quốc gia đang phát triển có những hạn chế về trình độ sản xuất và khả năng
tích lũy vốn.
1- Tác động tích cực của chiến lược đối với phát triển kinh tế
- Chiến lược xuất khẩu sản phẩm thô tạo điều kiện phát triển nền kinh tế theo
chiều rộng. Chiến lược làm tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài và tăng tích lũy
trong nước; đồng thời chiến lược còn giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động, tăng đội ngũ công nhân lành nghề từ đó làm tăng quy mô nền kinh tế.
- Chiến lược cũng tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Bên cạnh việc phát triển nông nghiệp còn cần chú trọng phát triển những ngành
công nghiệp: công nghiệp khai khoáng, công nghiêp chăn nuôi ... và đặc biệt là
công nghiệp chế biến phát triển làm tăng lượng sản phẩm thô xuất khẩu. Cùng
với đó, các dịch vụ cũng được đẩy mạnh kích thích chuyển dịch cơ cấu.
- Chiến lược cũng góp phần tạo nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Xuất
khẩu sản phẩm thô đem lại nguồn thu ngoại tế cho quốc gia, đây cũng là nguồn
Đề án kinh tế phát triển
11
chủ yếu để tiến hành nhập khẩu hàng hóa - dịch vụ cần thiết phục vụ cho tiến
trình CNH - HĐH đất nước.
2- Những hạn chế của nền kinh tế khi áp dụng chiến lược xuất khẩu sản
phẩm thô.
- Những trở ngại do cung - cầu sản phẩm thô không ổn định
+, Cung sản phẩm thô không ổn định do các sản phẩm thô chủ yếu là các sản
phẩm nông nghiệp và khai khoáng chịu nhiều ảnh hưởng của các yếu tố khách
quan như khí hậu, thời tiết, mùa vụ, thiên tai, hạn hán....
+, Theo phân tích trong “Giáo trình kinh tế phát triển - NXB Lao động thương
binh xã hội” có hai nguyên nhân chính làm cho cầu sản phẩm thô biến động: Thứ
nhất là quy luật tiêu dùng của Engel, quy luật xác định xu hướng tiêu dùng lương
thực, thực phẩm cơ bản tăng chậm hơn mức tăng thu nhập. Quy luật này làm cho

sản phẩm thô có xu hướng giảm. Thứ hai là do tác động của sự phát triển khoa
học công nghệ (KHCN). KHCN phát triển làm giảm bớt hao phí đầu vào sản xuất
đồng thời cũng tạo ra những nguyên vật liệu nhân tạo như cao su, nhựa, nilon ....
Chính điều này cũng làm giảm nhu cầu sản phẩm thô.
- Trở ngại do giá sản phẩm thô có xu hướng giảm so với hàng công nghệ
Do tác động của tiến bộ KHCN, các sản phẩm thô có xu hướng ngày càng
giảm giá so với những sản phẩm có chứa yếu tố công nghệ. Theo nghiên cứu của
hai nhà kinh tế học Grilli và Yang về sự biến động giá cả của hai loại hàng hóa
này trong giai đoạn 1900-1986 cho thấy giá của sản phẩm thô giảm bình quân
0,65%/năm so với sản phẩm công nghệ.<Nguồn: Giáo trình Kinh tế phát triển-
NXB Lao động xã hội>
- Trở ngại do thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô biến động
Do cung - cầu sản phẩm thô luôn biến động nên sản lượng và giá cả sản phẩm
thô cũng biến động theo. Do vậy, thu nhập từ xuất khẩu sản phẩm thô cũng biến
động. Do cung sản phẩm thô có độ co giãn cao nên tác động mạnh tới mức
giá.Khi cung tăng làm cho sản lượng tăng, giá giảm nhưng mức giảm của giá lớn
hơn mức tăng sản lượng nên thu nhập từ xuất khẩu giảm. Và ngược lại, với cung
giảm, giá tăng lớn hơn sản lượng giảm nên thu nhập tăng nhưng không nhiều.
Còn cầu sản phẩm thô luôn có xu hướng giảm nên giá và sản lượng đều giảm do
vậy thu nhâp cũng giảm mạnh.
12
Mục lục
IV-Bài học kinh nghiệm đối với xuất khẩu cà phê Việt Nam
* Kinh nghiệm tổ chức sản xuất và xuất khẩu cà phê của Brazil
Brazil là một quốc gia có lịch sử trồng trọt, chế biến và tiêu thụ cà phê từ thế
kỷ 17, phát triển mạnh từ thập kỷ 20 cho đến nay, Trước đây, cà phê chiếm tới
80% tổng thu nhập từ xuất khẩu, nhưng hiện nay chỉ còn là 20% do giá trị xuất
khẩu của các ngành hàng khác tăng mạnh. Mặc dù vị trí của ngành cà phê giảm
tương đối trong cơ cấu xuất khẩu, nhưng Brazil vẫn là nước xuất khẩu cà phê lớn
nhất thế giới, với sản lượng tương đối ổn định. Thành tựu này đạt được một phần

là nhờ nước này có hệ thống giám sát nguồn cung cà phê hiệu quả, để đưa ra
thông tin và dự báo thị trường cà phê chính xác.
Dù điều kiện đất đai của Brazil không hẳn đã tốt hơn Việt Nam nhưng nhờ có
giống tốt và đồng bộ, quy trình và kỹ thuật sản xuất và chế biến tiên tiến nên chất
lượng cà phê của Brazil luôn cao và tạo uy tín với thế giới.
Ngành cà phê của Brazil có 4 nhóm tổ chức chính: Tổ chức của các nhà sản
xuất (bao gồm các nhà sản xuất nhỏ lẻ và các hợp tác xã), Tổ chức của các nhà
rang xay; Tổ chức của các nhà sản xuất cà phê hoà tan và tổ chức của các nhà
xuất khẩu. Các tổ chức này cùng tham gia vào một quá trình làm việc khoa học
bao gồm: (1) Thảo luận, hoạch định và thực hiện chính sách;(2) Xác định, điều
chỉnh, giám sát và đánh giá nghiên cứu kỹ thuật cà phê;(3) Thực hiện các chương
trình xúc tiến thương mại, tăng cường chất lượng cà phê.
Brazil xây dựng và phát triển hệ thống hợp tác xã ngành hàng cà phê hoạt
động rất hiệu quả và nhịp nhàng. Sản xuất cà phê của các Hợp tác xã chiếm tới
35% tổng sản lượng cà phê của cả nước. Ngoài ra, Brazil còn có các tổ chức hỗ
trợ khác như Nhóm các tổ chức nghiên cứu cà phê nhằm chịu trách nhiệm nghiên
cứu và chuyển giao các vấn đề kỹ thuật cho cà phê .
Nhờ vậy, Brazil không chỉ đứng đầu về lượng cà phê xuất khẩu mà còn đứng
thứ hai thế giới về lượng cà phê tiêu thụ , trong đó tiêu thụ nội địa chiếm gần
50% sản lượng sản xuất và không ngừng tăng lên qua các năm nhờ triển khai
hiệu quả chương trình xúc tiến thương mại toàn diện trong nước.
Qua những phân tích trên, ngành cà phê của Việt Nam cần chú trọng vào một
số vấn đề sau:
- Tăng cường việc kiểm tra, giám sát chất lượng cà phê từ khâu trồng trọt đến
chế biến, xuất khẩu bằng việc hướng dẫn và theo dõi thường xuyên.
- Đổi mới công nghệ, kỹ thuật chế biến, cải tiến máy móc thiết bị
- Chú trọng vào lĩnh vực lưu thông của cà phê xuất khẩu
- Đẩy mạnh sản lượng cà phê tiêu thụ trong nước
Đề án kinh tế phát triển
13

Chương II: Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam
I- Thực trạng sản xuất, chế biến và xuất khẩu cà phê
1, Thực trạng sản xuất cà phê
Cây cà phê được đưa vào nước ta từ cuối thế kỷ XIX (1870) và đến thế kỷ XX
mới được phát triển ở một số đồn điền của người Pháp. Lúc đó người ta trồng 3
loại cà phê: cà phê Arabica với chủng chủ yếu là Typica, cà phê Canephora với
chủng Robusta, và cà phê Liberica với chủng Excelsa. Năm 1930 diện tích cà phê
ở Việt nam có 5.900 ha, trong đó có 4.700 ha cà phê Arabica, 900 ha cà phê
Excelsa và 300 ha cà phê Robusta. Quá trình trồng và phát triển cây cà phê được
phân ra thành các thời kỳ như sau:
* Thời kỳ trước năm 1975: Đây là thời kỳ cây cà phê chủ yếu do các đồn điền
của Pháp để lại và được trồng trong các nông trường quốc doanh ở miền Bắc.
Thời kỳ này, diện tích trồng cà phê được mở rộng từ 5.900 ha (1930) đến 13.000
ha (1964 - 1966).Song, do cây cà phê chưa được chú trọng, do thiếu kiến thức
khoa học, chưa có kinh nghiệm sản xuất, nhất là yếu kém trong tổ chức quản lý
nên gây ra tình trạng sâu bệnh ở cà phê Arabica và sự không phù hợp về yếu tố tự
nhiên với giống cà phê Robusta nên một phần lớn diện tích cà phê đã bị thanh lý.
Chính vậy, sản lượng và năng suất cà phê không ổn định. Theo thống kê, cho đến
năm 1975, cả nước có trên 13.000ha diện tích trồng cà phê với sản lượng 6.000
tấn cà phê nhân và năng suất bình quân chỉ đạt 4,61 tạ /ha.
* Thời kỳ 1975 - 1984: Cây cà phê được tập trung phát triển ở các tỉnh phía
Nam, đặc biệt là Tây Nguyên với giống cà phê vối là chủ yếu .Đồng thời, các
vườn cà phê cũ ở miền Bắc cũng được củng cố. Lúc này, ở Tây Nguyên, một mặt
ta tổ chức trưng thu, trưng mua đồn điền cũ, một mặt mở rộng diện tích trồng mới
trên cơ sở thành lập các nông trường quốc doanh. Trong thời kỳ này, cả nước đã
trồng thêm được 12.000 ha, nhưng năng suất cà phê vẫn chưa cao, trung bình vẫn
chỉ đạt mức 4-5 tạ/ha.
* Thời kỳ 1985 - 1994: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh gắn liền với
sự ra đời của Công ty cà phê - ca cao Việt Nam ( nay là Tổng công ty cà phê Việt
Nam). Do cơ chế mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã tiến hành hợp tác với các

nước xã hội chủ nghĩa cũ như: Liên Xô cũ , Ba Lan, Cộng hòa dân chủ Đức,
Bungari, Tiệp Khắc nhằm tăng cường nguồn vốn đầu tư vào ngành cà phê. Nhờ
vậy, diện tích, sản lượng và năng suất cà phê đã có bước tăng trưởng đáng kể.Cà
14
Mục lục
phê Việt Nam bắt đầu góp mặt vào thị trường cà phê thế giới. Trong 10 năm qua,
diện tích tăng gần 100.000 ha, năng suất tăng từ 4-5 tạ/ha lên 18 tạ/ha năm 1994.
Sản lượng cà phê năm 1994 đạt 180.000 tấn, trong đó xuất khẩu được 165.000
tấn thu được 227 triệu USD.
* Thời kỳ 1995 đến nay: Đây là thời kỳ cây cà phê phát triển mạnh mẽ hơn bao
giờ hết, tăng nhanh về diện tích, nâng cao năng suất và sản lượng cà phê, đặc biệt
khối lượng cà phê xuất khẩu gia tăng mạnh mẽ. Sự tăng trưởng không ngừng sản
lượng xuất khẩu đã đưa xuất khẩu cà phê Việt Nam lên vị trí thứ 2 thế giới. Số
liệu cụ thể như sau:
Bảng 5: Diện tích, năng suất, sản lượng cà phê nước ta
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (tấn)
1994 123,900 18.0 180,000
1995 186,400 21.8 218,000
1996 254,200 20.3 316,900
1997 340,300 24.1 420,500
1998 370,600 20.7 427,400
1999 477,700 22,8 553,200
2000 561,900 16.8 802,500
2001 565,300 20.0 840,600
2002 522,200 14.5 699,500
2003 513,700 15.8 793,700
2004 503,200 16.6 834,600

2005 497,400 15.1 752,100
2006 488,600 17.5 853,500
Nguồn:Tổng cục Thống kê
Từ bảng số liệu và thực tiễn phát triển của sản xuất cà phê nước ta trong hơn
chục năm qua có thể thấy rằng:
- Về diện tích: Diện tích cà phê tăng nhanh, hình thành vùng sản xuất hàng hóa
tập trung, có giá trị kinh tế cao và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối hàng đầu
thế giới
+ Diện tích cà phê tăng nhanh từ 123.900 ha (1994) lên tới mức cao nhất là
565.300 ha (2001) rồi giảm xuống mức 488.600 ha (2006). Như vậy, diện tích cà
phê năm 2001 gấp 4,56 lần năm 1994, và năm 2006 gấp 3,94 lần năm 1994.Tốc
độ tăng diện tích bình quân năm là 17,12%/năm. Sở dĩ, diện tích tăng nhanh như
vậy là do một số nguyên nhân cơ bản sau: Trước hết là những năm giữa của thời
kỳ 1985-1994 là thời kỳ bội thu của cây cà phê. Hiệu quả sản xuất cà phê rất cao
Đề án kinh tế phát triển
15
tới 38-40 chỉ vàng/tấn cà phê nhân (1986) tuy sau đó có giảm xuống nhưng vẫn
tác động lớn đến việc mở rộng diện tích trồng cà phê. Thứ hai, do các chủ trương
chính sách về cà phê đã tác động đến phong trào cà phê trong dân. Người dân tự
bỏ vốn ra để phát triển cà phê. Thứ ba, do cây cà phê vối hoàn toàn phù hợp với
điều kiện sinh thái của Tây Nguyên, đảm bảo năng suất cao, ổn định và không bị
sâu bệnh.Tây Nguyên là vùng đất có đủ điều kiện để mở rộng diện tích do có
diện tích lớn và dân cư thưa thớt. Cà phê phát triển cũng thu hút được người dân
từ các nơi khác đến. Do vậy, diện tích cà phê không ngừng tăng lên đẩy sản
lượng và năng suất không ngừng tăng.
+ Cây cà phê được phá triển ở 6 vùng (trừ Đồng bằng sông Hồng và Đồng
bằng sông Cửu Long) và trên 28 tỉnh trong cả nước trong đó các vùng cà phê
chính: Tây Nguyên chiếm 86,31%, Đông Nam Bộ (10,28%)...
+ Vùng sản xuất cà phê vối tập trung có điều kiện sinh thái phù hợp cho năng
suất cao. Năm 2003, với diện tích trồng cà phê lớn, Tây Nguyên có sản lượng cà

phê chiếm tới 45,43% về diện tích và 53,62% sản lượng cà phê cả nước.
- Về năng suất: Đây là thời kỳ có năng suất cao nhất đạt từ 15 đến 20 tạ/ha, cao
nhất là năm 1999, đạt 22,8 tạ/ha. So với các nước có ngành cà phê phát triển
mạnh như Brazil, Colombia, Indonesia ... Những thành tựu trên có được là do:
+ Việc lựa chọn phát triển giống cà phê vối ở các vùng phía Nam là hoàn toàn
đúng đắn, đặc biệt là vùng Tây Nguyên có khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ thích hợp,
diện tích đất chưa sử dụng còn lớn.
+ Việc chọn và tạo giống cà phê tốt cho sản xuất đại trà như các dòng cà phê
vối chọn lọc: 4/55; 1/20; 13/8 ... cho năng suất cao, cỡ hạt to. Ngoài ra chúng ta
cũng chọn lọc ra được giống cà phê chè có năng suất cao và chống được bệnh gỉ
sét như: cà phê Catimor, TN1, TN2...
+ Áp dụng phương pháp đốn tạo hình đơn thân trên cà phê vối, hãm ngọn
nhiều lần, duy trì chiều cao vừa phải, sử dụng lượng phân bón thích hợp. Kết hợp
dự trữ nước cho mùa khô, giảm lượng cây tán rộng nhằm tăng hấp thụ ánh sáng
cho cây, góp phần nâng cao năng suất cà phê.
+ Áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phòng trừ sâu bệnh cho cây, thâm
canh, xen canh...
- Về sản lượng: Sản lượng cà phê không ngừng tăng cao trong những năm
2000, 2001 (sản lượng năm 2001 gấp 4,76 lần so với năm 1994) chủ yếu do diện
16
Mục lục
tích trồng cà phê tăng lên trong giai đoạn này. Phần lớn cà phê Việt Nam được sử
dụng vào mục đích xuất khẩu.
Như vậy, cây cà phê trở thành cây công nghiệp dài ngày chủ lực có giá trị kinh
tế cao. Nó đã khẳng định được chỗ đứng và lợi thế so sánh so với các loại cây
trồng khác. Sở dĩ vậy là do ngành đã thu hút được nhiều nguồn lực tham gia phát
triển cây cà phê : từ Chính phủ, từ vốn đầu tư hợp tác của 5 nước XHCN cũ, từ
địa phương, từ dân...
2- Thực trạng chế biến cà phê.
Do cà phê là được thu hoạch ở dạng quả tươi, nên sau khi thu hoạch cần tiến

hành quy trình chế biến tạo ra cà phê nhân khô là sản phẩm chủ lực trong giao
dịch.
* Tổ chức chế biến
Hiện nay, nước ta vẫn sử dụng hai phương pháp chế biến cà phê là chế biến
ướt và chế biến khô. Chế biến nước là phương pháp chế biến dùng đến nước qua
3 cấp: Cấp quy mô hộ gia đình, cấp quy mô xã, cấp xưởng chế biến tập trung
công suất lớn do các công ty nhà nước quản lý. Chế biến khô là phương pháp đơn
giản hơn, cà phê đem phơi khô sau đó, xát vỏ và đánh bóng.
Trên thực tế, do tích lũy vốn trong dân đặc biệt là nông dân rất thấp nên ít hộ
có đủ điều kiện để đầu tư tự chế biến. Theo khảo sát tháng 6/2003 ở Đắc Lắc,
khoảng 26,7% hộ trung bình và 35,3% hộ giàu tự chế biến, hầu hết đều đi thuê. Ở
những vùng cà phê phát triển nhất thì 74,1% hộ trung bình và 84% hộ giàu tự chế
biến.
* Trang thiết bị chế biến
Sau năm 1975, trang thiết bị chế biến cà phê còn cũ kĩ, lạc hậu, chắp vá. Ở
miền Bắc chỉ có một số xưởng chế biến của nông trường Đồng Giao, Phủ Quỳ
với thiết bị được lắp đặt từ những năm 1960-1962 của Đức. Ở miền Nam cũng có
một số đồn điền cà phê cũ với công suất nhỏ. Khi quy mô sản xuất cà phê được
mở rộng, sản lượng tăng lên thúc đẩy quá trình đổi mới quy trình chế biến. Ta
tiến hành đầu tư vào cơ sở , trang thiết bị, máy móc, dây chuyến phục vụ cho
hoạt động chế biến sông vẫn mang tính sao chép.
Trong những năm gần đây, nhiều công ty, nông trường đã tiến hành xây dựng
các cơ sở chế biến tiên tiến với công nghệ kỹ thuật hiện đại nhập từ bên ngoài
Đề án kinh tế phát triển
17

×