Tải bản đầy đủ (.pdf) (260 trang)

Văn hóa vùng biển đảo quảng ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.31 MB, 260 trang )


BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI



NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO





VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)



LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC











HÀ NỘI - 2015





BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI



NGUYỄN THỊ PHƯƠNG THẢO



VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
(QUA NGHIÊN CỨU CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG)

Chuyên ngành: Văn hóa học
Mã số: 62310640


LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Trần Đức Ngôn
2. TS. Nguyễn Thị Việt Hương






HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS. Trần Đức Ngôn và TS. Nguyễn Thị Việt Hương. Các kết quả nghiên cứu
và các kết luận trong luận án này là trung thực, không sao chép từ bất kỳ một nguồn
nào và dưới bất kỳ hình thức nào. Việc tham khảo các nguồn tài liệu đã được trích dẫn
và ghi xuất xứ theo đúng quy định.
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Tác giả luận án



Nguyễn Thị Phương Thảo


1
MỤC LỤC
Trang
MỤC LỤC 1
DANH MỤC BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 2
DANH MỤC BẢNG BIỂU 3
MỞ ĐẦU 4
Chương 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI
QUÁT VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
8
1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài 8

1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền
thống
17
1.3. Khái quát về lễ hội truyền thống vùng biển đảo Quảng Ninh 33
Tiểu kết
48
Chương 2: YẾU TỐ NỘI ĐỒNG TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO
QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
49
2.1. Cộng đồng cư dân và cơ cấu tổ chức các làng nông nghiệp 49
2.2. Sự thể hiện yếu tố nội đồng trong lễ hội truyền thống 56
Tiểu kết
78
Chương 3: YẾU TỐ BIỂN TRONG VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO
QUẢNG NINH THỂ HIỆN QUA CÁC LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
79
3.1. Cộng đồng ngư dân và cơ cấu tổ chức các làng biển đảo 79
3.2. Sự thể hiện yếu tố biển trong lễ hội truyền thống 83
Tiểu kết

115
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM CỦA VĂN HÓA VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
117
4.1. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm yếu tố nội đồng và
nhạt yếu tố biển
117
4.2. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh mang đậm tính lịch sử

121
4.3. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự tương đồng và khác biệt

với các vùng biển đảo khác
142
4.4. Văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh có sự dung hợp văn hóa các
vùng miền
156
Tiểu kết
160
KẾT LUẬN 161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 167
PHỤ LỤC 175





2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
A: Ảnh
â.l: âm lịch
GS: giáo sư
h: huyện
x: xã
tx: thị xã
TP: thành phố
Nxb: Nhà xuất bản

PL: phụ lục
QN: Quảng Ninh
TCN: trước Công nguyên
SCN: sau Công nguyên
TS: tiến sĩ
tr: trang

















3
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU



Stt Nội dung bảng thống kê Trang


1 Bảng 1.1: Thống kê số lượng lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Quảng Ninh
37
2 Bảng 1.2: Thống kê không gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển
đảo Quảng Ninh
37
3 Bảng 1.3: Thống kê thời gian tổ chức lễ hội truyền thống vùng biển đảo
Quảng Ninh
39
4 Bảng 1.4: Phân loại lễ hội truyền thống của cư dân vùng biển đảo
Quảng Ninh
42





















4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về biển đảo gần đây đã nhận được sự quan tâm của nhiều ngành
nghiên cứu như khoa học tự nhiên, khoa học xã hội… Việt Nam có bờ biển dài hơn
3260 km, từ vùng ven biển đã mở ra vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế biển.
Trong môi trường biển đảo cộng đồng cư dân sáng tạo ra nhiều di sản văn hóa có giá
trị cần được bảo tồn và phát huy.
Vấn đề bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, trong đó có lễ hội
truyền thống của mỗi vùng miền, đã và đang đặt ra như một nhiệm vụ quan trọng để
góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội. Từ trước đến nay, các nhà nghiên
cứu đều thống nhất nhận định rằng văn hóa giữ vị trí, vai trò nền tảng cho sự phát
triển của dân tộc. Những dấu ấn sâu đậm của lịch sử, của đời sống kinh tế - xã hội,
tâm lý cộng đồng, phong tục, tập quán, tín ngưỡng đều có thể tìm thấy trong văn
hóa, đặc biệt là trong các lễ hội truyền thống. Bước vào thế kỷ XXI, trước xu thế toàn
cầu hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta xác định văn hóa truyền thống là một nguồn lực
tạo nên động lực để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững. Tuy nhiên, ở
nhiều nơi, văn hóa truyền thống (trong đó có lễ hội truyền thống) không phải lúc nào
cũng được coi trọng đúng mức. Không ít nơi phục cổ một cách tùy tiện, thiếu định
hướng, làm biến dạng các di sản văn hóa quý giá đó, thậm chí quay lưng lại với các
giá trị văn hóa dân tộc, xem đó là cái bảo thủ, lỗi thời. Vì thế rất cần một thái độ
khách quan, khoa học đối với di sản văn hóa, trong đó có lễ hội.
Ngày càng có nhiều ý kiến cho rằng, thế kỷ XXI là "Thế kỷ của đại dương".
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (2-2007) về
"Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020" cũng ghi nhận ý kiến trên và nêu lên mục
tiêu "vươn ra biển lớn". Và như thế, "con mắt cận duyên" phải được thay bằng "tầm

nhìn đại dương". Để có "tầm nhìn đại dương" ấy không thể không nghiên cứu địa
hình, khí hậu, môi trường sinh thái, phong tục, tập quán của cư dân biển, là tác nhân
sinh thành và phát triển những vùng văn hóa khác nhau.

5
Quảng Ninh (QN) là một vùng đất cổ. Các di chỉ khảo cổ học, các thư tịch cổ
sưu tầm được đã minh chứng rõ điều này. QN tập hợp đầy đủ đặc điểm của hệ sinh
thái nước ta, có đồi núi, đồng bằng, đặc biệt là có biển với sự đa dạng sinh học rất
đáng chú ý. QN có hơn 20 tộc người, mỗi tộc người lại có những nét văn hóa riêng,
tiêu biểu, tất cả tạo nên sự phong phú, đa dạng của một vùng văn hóa độc đáo.
Địa hình QN chủ yếu là đồi núi (chiếm 4/5 diện tích). Tuy nhiên, nói đến QN,
nhiều người lại nghĩ ngay đến biển, bởi vì nơi đây có một vùng biển đảo rộng lớn với
250 km bờ biển và hơn 2000 đảo lớn nhỏ trên vùng vịnh Hạ Long và Bái Tử Long.
Vịnh Hạ Long đã hai lần được Unesco công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới, năm
2007 được vào danh sách bầu chọn 7 kỳ quan thiên nhiên thế giới. QN không chỉ gắn
tên tuổi của mình với những bãi biển đẹp, những thắng cảnh hùng vĩ, nên thơ, mà QN
còn nổi tiếng với di tích lịch sử - văn hóa, các kiến trúc độc đáo, phong tục, tập quán,
tín ngưỡng, vốn văn hóa dân gian và hệ thống lễ hội truyền thống phong phú, đặc sắc,
tiêu biểu cho một vùng văn hóa biển đảo.
QN là một tỉnh ven biển nằm trong tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc (Hà
Nội - Hải Phòng - QN), đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch của Việt Nam.
Điều đó cho thấy vị thế của QN trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các
tỉnh phía Bắc nói riêng và của cả nước nói chung là rất lớn.
Chính vì vậy, từ góc nhìn địa - văn hóa, tác giả chọn đề tài Văn hóa vùng
biển đảo Quảng Ninh (qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống) để nghiên cứu.
Việc nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ hơn những nét đặc trưng, tính chất đa
dạng, phong phú của lễ hội truyền thống QN trong lịch sử và hiện tại. Kết quả
nghiên cứu của đề tài cũng sẽ là một căn cứ khoa học góp phần định hướng quy
hoạch phát triển văn hóa, tạo môi trường xã hội ổn định, bền vững, trong đó có
việc khai thác lễ hội truyền thống như là một nguồn lực văn hoá để phát triển kinh

tế - xã hội của QN nói riêng, của cả nước nói chung trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhận thức sâu về các yếu tố cấu thành và đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo QN.

6
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan đến vùng văn hóa biển đảo QN.
- Tiến hành khảo sát, điền dã vùng biển đảo QN, đặc biệt tham gia vào các lễ
hội truyền thống.
- Mô tả các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN ở cả ba nhóm: nội đồng, ven
biển và hải đảo để làm rõ các yếu tố nội đồng và yếu tố biển.
- Làm rõ những đặc trưng cơ bản của lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN
thông qua việc so sánh với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu các lễ hội truyền thống ở vùng
biển đảo trên địa bàn tỉnh QN. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu, tác giả sẽ đề cập
đến một số lễ hội tiêu biểu liên quan đến biển của các tỉnh, thành phố vùng duyên hải
Bắc Bộ như Hải Phòng, Thái Bình và một số địa phương ở Trung Bộ để tìm ra những
nét tương đồng và khác biệt với lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.
- Về thời gian: Luận án khảo sát các lễ hội truyền thống vùng biển đảo hiện nay ở
QN. Tư liệu khảo sát được thực hiện trong 7 năm (từ năm 2007 đến năm 2013). Dựa vào
kết quả nghiên cứu, đối chiếu với các lễ hội truyền thống ven biển trước năm 1954 thông
qua tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước để thấy các yếu tố truyền thống còn được bảo
lưu trong các lễ hội hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp liên ngành: Tiếp cận vấn đề trên các phương diện địa lý, lịch sử,
kinh tế, văn hoá, xã hội của tỉnh QN.
- Phương pháp điền dã dân tộc học: Tác giả đặc biệt coi trọng phương pháp điền
dã để quan sát, tham dự vào các sinh hoạt văn hoá của cư dân địa phương với mục đích
khảo tả một cách chân thực các hiện tượng trong các lễ hội truyền thống nhằm thu thập
nguồn tư liệu xác thực, cập nhật nhất. Bên cạnh đó, việc quan sát, phỏng vấn, trao đổi ý
kiến để thu thập thông tin về những vấn đề liên quan đến lễ hội truyền thống vùng biển

7
đảo cũng được thực hiện.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp được dùng để nhận thức sâu đối tượng
nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh để chỉ ra sự tương đồng và khác biệt giữa văn hóa vùng
biển đảo QN với văn hóa vùng biển đảo khác.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Phân loại lễ hội truyền thống ven biển QN.
- Mô tả những yếu tố văn hóa nội đồng và văn hóa biển trong lễ hội truyền
thống vùng biển đảo QN.
- Ngoài việc tiếp cận với các tư liệu đã công bố, đề tài sẽ công bố một số tư
liệu mới.
- Nêu một số đặc điểm tiêu biểu của văn hóa vùng biển đảo QN và đối chiếu
với các vùng biển đảo khác ở Bắc Bộ và Trung Bộ.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên
cứu về văn hoá vùng hoặc địa chí văn hóa.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án được trình bày trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát về lễ hội truyền
thống vùng biển đảo Quảng Ninh
Chương 2: Yếu tố nội đồng trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua

các lễ hội truyền thống
Chương 3: Yếu tố biển trong văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh thể hiện qua các
lễ hội truyền thống
Chương 4: Đặc điểm của văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh






8
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT
VỀ LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG VÙNG BIỂN ĐẢO QUẢNG NINH
1.1. Tổng quan nghiên cứu các vấn đề liên quan đến đề tài
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Bắc Bộ
Có thể khẳng định rằng nghiên cứu lễ hội truyền thống vùng biển đảo Bắc Bộ
chưa được chú trọng như Trung Bộ và Nam Bộ. Vì vậy, tài liệu viết về vấn đề này
cũng không nhiều.
Năm 1985, tác giả Diệp Trung Bình có bài Vài nét về đời sống của ngư dân vùng
biển Đông Bắc Việt Nam [4]. Nội dung của bài gồm hai mục: sinh hoạt kinh tế và đời
sống văn hóa, xã hội. Bài viết đã chỉ ra các mối quan hệ về gia đình, dòng họ và ảnh
hưởng trực tiếp của các mối quan hệ này đến đời sống ngư dân (người Đản) ở Đông
Bắc Việt Nam trong đó có đề cập tới một số lễ hội truyền thống ven biển. Tác giả
khẳng định: “Trong đời sống đánh cá, ngư dân Đản đã sản sinh ra một nền văn hóa
biển khá đặc sắc và phong phú” [4, tr.20].
Năm 1996, tác giả Nguyễn Thanh có bài, Lễ hội trình nghề reo ống làng
Quang Lang [60]. Bài viết đã giới thiệu khá chi tiết nguồn gốc, thời gian, các nghi
thức tiến hành lễ hội của làng Quang Lang nay thuộc x. Thụy Hải, h. Thái Thụy, tỉnh
Thái Bình, một làng ven biển mà dân làng sống chủ yếu nhờ vào nghề đánh cá và làm

muối. Tác giả đã giới thiệu những nét độc đáo của lễ hội trình nghề reo ống (chủ yếu là
phục dựng lại). Tuy nhiên, bài nghiên cứu cũng chỉ dừng lại ở mức giới thiệu và đưa ra
một số nhận định về lễ hội này.
Trải qua một thời gian sưu tầm, nghiên cứu lễ hội Thái Bình, đến năm 2000 tác
giả Nguyễn Thanh đã xuất bản cuốn Lễ hội truyền thống Thái Bình [61]. Tác giả khẳng
định: Thái Bình cùng chung đặc điểm với lễ hội ở vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ. Lễ
hội truyền thống ở Thái Bình được phân bố với mật độ cao vào những tháng nông nhàn
theo chu trình sản xuất của hai vụ lúa chiêm, lúa mùa với tâm thức “tháng tám giỗ cha
tháng ba giỗ mẹ” nhưng những hội làng lớn duy trì nhiều lễ thức cổ xưa lại tập trung
nhiều vào tháng tư và tháng chín. Tác giả cũng nghiên cứu về đặc điểm lễ hội ở Thái

9
Bình: Ngoài tính phổ biến “sáng rối tối chèo” của nhiều hội, mỗi hội lại có những tục
thi riêng gắn với huyền thoại về sự tích, hành trạng của vị thần được thờ và những điệu
múa dân gian gắn với nghi thức tín ngưỡng” [61, tr.16]. Cùng với tục rước nước của hội
nhiều làng ven sông, ven biển, tục đua trải của các hội làng ở Thái Bình làm đậm thêm
sắc thái lễ hội truyền thống của một vùng sông nước.
Năm 2010, công trình của Đỗ Lan Phương Văn hóa vùng cửa sông Hồng như
một dạng thức của văn hóa biển Việt Nam (qua nghiên cứu hai xã ở Nam Định và
Thái Bình) [45]. Mặc dù chỉ khảo sát trường hợp cư dân hai xã Giao An ở Nam Định
và Đông Minh ở Thái Bình, nhưng tác giả đã đi sâu nghiên cứu đầy đủ về văn hóa
biển: Lịch sử hình thành; các nghề khai thác tài nguyên; các sinh hoạt văn hóa - tín
ngưỡng; Tác giả khẳng định: “văn hóa cửa sông Hồng không chỉ là một dạng thức
của văn hóa biển Việt Nam mà còn là biểu hiện của mối quan hệ giữa văn hóa với
phát triển, trong đó có mối quan hệ giữa văn hóa với môi trường sinh thái” [45, tr.21 -
22]. Rõ ràng, bài viết không chỉ có giá trị về mặt thực tiễn khảo cứu văn hóa biển ở
hai địa điểm cụ thể mà còn có giá trị trong việc hệ thống hóa các khái niệm công cụ để
chúng tôi có thể áp dụng vào quá trình nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển QN.
Năm 2011, Lê Thanh Tùng có bài Lễ hội cổ truyền của cư dân ven biển Hải
Phòng - bước đầu nhận diện [87]. Qua việc nghiên cứu các lễ hội ven biển ở Hải

Phòng, tác giả đã thống kê và phân loại lễ hội ven biển.
Năm 2012 Lê Thanh Tùng hoàn thành Luận án tiến sĩ Lễ hội cổ truyền cư dân
ven biển Hải Phòng và sự biến đổi trong giai đoạn hiện nay [88]. Trong luận án, tác giả
đã đưa ra được những nhận định có giá trị qua quá trình nghiên cứu về lễ hội ven biển
của Hải Phòng như:
Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có liên quan đến tục tế trâu và thần Độc Cước ở
vùng ven sông ven biển Thanh Hóa,… Để thích ứng và phù hợp với vùng
đất mới, ngư dân đã hòa nhập tín ngưỡng gốc với tín ngưỡng vùng đất mới,
địa phương hóa tín ngưỡng, để tạo nên tục thờ dấu chân thần vừa quen
thuộc, vừa mới lạ: thần Độc Cước - dấu chân, vết chân chim sẻ - thần
Điểm Tước Đại Vương. Đồng thời tục tế trâu và tín ngưỡng thờ thủy thần,
mặt trăng của dân chài ven biển Quảng Xương, Thanh Hóa đã gặp gỡ nhau

10

trong một không gian thiêng, nơi cư trú mới để rồi hòa cùng, tạo ra hội
chọi trâu Đồ Sơn, Hải Phòng độc đáo nhưng rất quen thuộc [88, tr.89].
Nhưng nhìn chung luận án vẫn chưa tổng kết được những đặc trưng tiêu biểu nhất
của văn hóa biển Hải Phòng và sự khác biệt với các vùng ven biển khác trong cả nước.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Trung Bộ
Về mặt địa lý, Trung Bộ là vùng tiếp giáp với biển nhiều nhất trên lãnh thổ Việt Nam.
Chính vì vậy, các nghiên cứu về văn hóa biển đảo nói chung và lễ hội ven biển tập trung chủ
yếu ở vùng này.
Mục sản vật của tỉnh Bình Thuận trong Đại Nam nhất thống chí, tập 3 [47] có
ghi chép: “Cá voi: tương truyền ngày mùng 2 tháng 2 năm Nhâm Ngọ, người thôn
Sơn Hải, h. Yên Phước thấy một đoạn xương cá voi, một cái thùng gỗ thông từ ngoài
bến trôi vào, người trong thôn cùng nhau khiêng cái xương ấy bỏ vào thùng, muốn tìm
đất để chôn thì khiêng không thấy động đậy, rồi bỗng linh cá voi phụ vào người mà
nói rằng: Ta ở đây thôi, không nên chôn chỗ khác”. Người trong thôn cho là thần, bèn
chôn ở đấy và lập đền thờ. Đền ở phía nam đầm thôn ấy, có tượng đất, sau tượng có

quan tài sơn son, có hiệu là Nam hải cự tộc Ngọc lân chi thần. Theo chúng tôi, những
ghi chép này chứng tỏ các vị thần biển có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng đối với
ngư dân ven biển. Phải chăng trong tâm thức của họ, thần biển mà cụ thể ở đây là cá
voi - sống nơi biển cả - đã có một sức mạnh lớn, là vật linh thiêng ?
Giai đoạn này, văn hóa biển được thể hiện qua sự ghi chép về các ngôi miếu,
đền thờ các vị thần biển. Trong Đại Nam nhất thống chí, tập 1 có ghi:
Miếu Nam Hải Long Vương: ở phía tả cửa biển Thuận An, xã Thái
Dương, huyện Hương Trà, thờ thần Nam Hải Long Vương. Trước kia
miếu ở x.Dương Xuân, h.Hương Thủy đầu niên hiệu Gia Long hằng
năm tế vào 4 tháng trọng, năm thứ 12 đổi dựng chỗ ở hiện nay, gọi là
đền thần cửa biển Thuận An; năm Minh Mệnh thứ 3 đổi tên như hiện
nay [48, tr.72-73].
Rõ ràng, các vị thần biển luôn có một sức mạnh lớn giúp ngư dân vượt qua
những khó khăn trong cuộc sống hằng ngày, là chỗ tựa vững chắc cho họ về mặt tinh
thần, giúp họ có niềm tin vững chắc khi vượt ra biển để kiếm kế sinh nhai.

11

Ninh Viết Giao (1978) trong công trình, Sinh hoạt của ngư dân miền biển Nghệ
Tĩnh trước Cách mạng (qua tục ngữ, dân ca) [13], thông qua việc phân tích những câu
tục ngữ, ca dao vùng biển, tác giả đã cho người đọc thấy rõ văn hóa biển mà cụ thể là
những sinh hoạt văn hóa của ngư dân miền biển Nghệ Tĩnh. Đặc biệt quý giá hơn cả
trong kho tàng ca dao, tục ngữ ấy là những tri thức thực tiễn trong cuộc sống được đúc rút
ra từ thế hệ này qua thế hệ khác mà Ninh Viết Giao đã ghi chép được.
Năm 1982, tác giả Tôn Thất Bình có bài nghiên cứu Một số tín ngưỡng, tục lệ
của cư dân vùng biển từ Bình Trị Thiên đến Bình Thuận [5]. Qua 5 trang viết, tác giả
đã đề cập tới một số tục lệ, nghi lễ của cư dân vùng biển miền Trung: Tục thờ thần
Hoàng làng, tục thờ cá ông Voi và các loài hải tộc khác, cùng các hội hè, nghi lễ liên
quan đến sinh hoạt nghề biển. Ngoài ra, công trình còn đề cập tới tín ngưỡng vật linh
miền biển như Rùa biển được gọi là Bà, hiệu là “Đệ bát Thánh phi nương tôn thần”;

hay ông Sứa, ông Nược, ông Hèo Đây là nguồn tư liệu quý, góp phần quan trọng đối
với những nhà nghiên cứu quan tâm tới văn hóa tâm linh của ngư dân ven biển.
Năm 1986 Võ Quang Trọng có bài viết Hội đua thuyền ở một làng biển [83].
Tác giả đã mô tả cụ thể về hội đua thuyền mang tính chất ngư nghiệp của làng biển
Nhượng Bạn (Hà Tĩnh). Cũng nghiên cứu về lễ hội miền Trung, còn phải kể tới
Huỳnh Tới (1996) với bài Lễ hội Dinh Cô [82], giới thiệu về một lễ hội độc đáo của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Năm 1997 Cao Đức Hải có công trình về Tín ngưỡng thờ Thuỷ thần của ngư dân
vùng cực Đông Trung Bộ [16]. Mặc dù tác giả mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về tín
ngưỡng thờ Thủy thần của ngư dân vùng Đông Trung Bộ, nhưng đây cũng là một tài
liệu tham khảo đáng tin cậy, giúp chúng tôi nghiên cứu về việc thờ cúng các vị thần
trong lễ hội truyền thống ven biển QN. Bên cạnh đó, năm 2000, tác giả Trương Minh
Hằng có bài viết về Văn hóa biển ở làng chài Nhượng Bạn [21] cũng đề cập tới các lễ
hội, tín ngưỡng, phong tục, tập quán có liên quan tới biển của một làng chài cụ thể.
Luận án tiến sĩ chuyên ngành Lịch sử văn hóa và nghệ thuật của Nguyễn Đăng
Vũ về Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi, năm 2003 [99] đề cập tới
các vấn đề của văn hóa dân gian như tín ngưỡng, văn nghệ dân gian, ngữ văn dân
gian. Đặc biệt tác giả đã mô tả chi tiết lễ hội ven biển Quảng Ngãi, trong đó có lễ

12

Khao lề thế lính Hoàng Sa, lễ hội Đua thuyền.
Công trình của Viện Văn hóa Thông tin, Văn hóa cư dân Việt ven biển Phú
Yên, năm 2006 [93] đã cho thấy một số vấn đề về văn hóa biển (đời sống kinh tế,
văn hóa vật thể và phi vật thể; văn học và diễn xướng dân gian) của cư dân Việt ven
biển Phú Yên. Tuy nhiên, cuốn sách mới chỉ dừng lại ở việc mô tả và hệ thống hóa
văn hóa theo các mục, chưa làm rõ được những khái niệm công cụ và chưa thấy
được sự thống nhất cũng như các đặc trưng của đời sống tinh thần trong đó có lễ hội
truyền thống của cư dân ven biển ở Phú Yên. Cũng trong năm 2006, Hội Văn nghệ
Dân gian Việt Nam xuất bản cuốn Văn hóa sông nước miền Trung [26]. Cuốn sách

tập hợp các bài viết của hội thảo “Văn hóa sông nước miền Trung và văn hóa sông
nước Phú Yên”. Các tác giả đã khẳng định miền Trung có văn hóa sông nước và
được biểu hiện qua các thành tố văn hóa như: truyền thuyết dân gian, tục thờ cúng
cá Ông, ca dao, dân ca, hội đua thuyền…
Tác giả Nguyễn Xuân Hương đã xuất bản cuốn Tín ngưỡng cư dân ven biển
Quảng Nam - Đà Nẵng (hình thái, đặc trưng, giá trị) vào năm 2009 [29]. Tác giả đã
nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam, Đà
Nẵng. Trong đó, tác giả chú ý tới tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu và
những giá trị, đặc trưng trong tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam, Đà Nẵng.
Cũng viết về Quảng Ngãi có tác giả Nguyễn Thế Truyền (2010) giới thiệu về Hò
Quảng Ngãi [86];
Công trình của Trần Hoàng (2010): Sinh hoạt văn hoá dân gian cổ truyền làng
biển Cảnh Dương [24]. Với độ dài 231 trang, tác giả giới thiệu những hình thức sinh hoạt
văn hóa dân gian cổ truyền ở làng biển này và nhấn mạnh tầm quan trọng của các lễ hội
ven biển. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm kế thừa và phát huy di sản văn hóa dân
gian cổ truyền làng xã. Công trình đã cung cấp những tư liệu có giá trị trên phương diện:
văn hóa, văn học dân gian cổ truyền ở làng biển Cảnh Dương.
Các công trình của Đặng Thị Thúy Hằng (2010) về Lễ hội đền Lê Khôi trong
đời sống văn hóa của cư dân ven biển Thạch Hà, Lộc Hà, Hà Tĩnh [20] và Lê Hồng
Khánh (2010) với Mộ gió, hình nhân và lễ khao lề thế lính Hoàng Sa [31], bước đầu
giới thiệu về văn hóa của người dân biển ở vùng đất mà tác giả đã tiếp cận.

13

Tác giả Trịnh Sinh (2010) trong bài Người Sa Huỳnh và giao lưu văn hóa trên
biển [50] đã đưa ra các chứng tích khảo cổ học và một số nhận định về vai trò của
người Sa Huỳnh trong quan hệ giao lưu văn hóa trên biển. Ở góc độ lễ hội truyền
thống ven biển với phát triển du lịch, có công trình của tác giả Cao Kỳ Hương (2011)
về Văn hóa du lịch biển Nha Trang [28].
Có thể kể tới nhiều công trình khác nghiên cứu lễ hội truyền thống ven biển.

Tuy nhiên, nhóm tài liệu này nhìn chung chỉ mang tính chất giới thiệu. Chỉ có một số
ít công trình đi sâu nghiên cứu địa điểm cụ thể (làng) như công trình của Trương Duy
Bích, Lê Ngọc Canh, Nguyễn Phương Châm (2000), Văn hóa dân gian làng ven biển
[72]. Đa số các công trình đi theo một bố cục giống nhau là khái quát chung về địa lý,
lịch sử; giới thiệu các phương diện khác nhau của văn hóa dân gian cổ truyền ở các làng
ven biển trong đó có lễ hội truyền thống.
Năm 2011, có thể kể đến bài viết của Nguyễn Hữu Thông: Biển trong lịch sử Việt
Nam dưới góc nhìn của Charles Wheeler (dẫn liệu từ vùng Thuận Quảng) [81]. Tác giả
đã phân tích tư liệu, giải thích vì sao C. Wheeler và nhiều học giả, nhà nghiên cứu trong
và ngoài nước đều cho rằng sự vắng mặt của biển trong lịch sử Việt Nam là do “bị những
định kiến khi đánh giá trên mặt hiện tượng các vấn đề liên quan đến địa hình, lịch sử,
kinh tế cũng như những hoạt động trong quá trình ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc” [81,
tr.35]. Bài viết của Nguyễn Hữu Thông cho chúng ta hiểu và có cái nhìn đúng hơn về văn
hóa biển miền Trung nói riêng, văn hóa biển Việt Nam nói chung.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Nam Bộ
Nghiên cứu về lễ hội truyền thống ven biển Nam Bộ chủ yếu là các công trình
khoa học đề cập tới các thành tố của lễ hội truyền thống ven biển, có thể kể tới một số
công trình tiêu biểu:
Năm 1994, công trình đáng quan tâm về lễ hội truyền thống ven biển, đó là
cuốn: Văn hóa dân gian Nam Bộ, những phác thảo của Nguyễn Phương Thảo [62].
Cuốn sách tập hợp những bài tiểu luận của tác giả về văn hóa dân gian, trong đó có
những bài đề cập tới lễ hội truyền thống ven biển như lễ hội thờ cá Voi của cư dân
ven biển Bến Tre.
Năm 1999, trong luận án tiến sĩ lịch sử: Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ

14

(khía cạnh giao tiếp văn hóa dân tộc), chuyên ngành dân tộc học, Huỳnh Quốc Thắng
[59] đã nghiên cứu các lễ hội cụ thể và phân loại lễ hội: lễ hội thờ cúng thần Thành hoàng
và các nhân vật lịch sử, lễ hội nghề nghiệp, lễ hội thờ Mẫu - nữ thần. Tác giả đã nghiên

cứu, làm nổi bật các đặc điểm lễ hội dân gian của người Việt ở Nam Bộ qua khía cạnh
giao tiếp văn hóa dân tộc, qua đó xác lập nhận thức khoa học về mối quan hệ văn hóa -
lịch sử giữa dân tộc Việt và các tộc người khác ở nơi đây.
Ngoài ra, trong nhóm tài liệu về vùng biển Nam Bộ còn có nhiều công trình
khác, có thể kể đến: Nguyễn Thanh Lợi (2000) với Tục thờ cá Ông ở Cần Thạch (Cần
Giờ) và ven biển Nam Bộ [37]; Trần Quốc Vượng (2000) với Hát cầu ngư - nét đẹp
văn hóa làng biển [104], hay Nguyễn Chí Bền (2002) với Lễ hội Nghinh Ông ở xã
Bình Thắng, một cách tiếp cận [2].
Năm 2003, Nguyễn Thanh Lợi viết tiếp bài Thờ cá Voi ở thành phố Hồ Chí
Minh [38]. Trong bài viết tác giả đã bổ sung thêm một số nét độc đáo của tục thờ cá
Voi và có sự so sánh với tục thờ cá Voi ở một số tỉnh Nam Bộ. Công trình của Đinh
Văn Hạnh, Phan An (2004), Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa - Vũng Tàu [17] đã
nhấn mạnh đến tín ngưỡng thờ cá Ông (cá Voi) của ngư dân. Các lễ hội có liên quan
đến cá Ông được tác giả thống kê khá chi tiết và đầy đủ.
Năm 2008, Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam kết hợp với Viện Nghiên cứu văn
hóa, Sở Văn hóa - Thông tin Quảng Ngãi, Hội Văn học nghệ thuật Kiên Giang xuất
bản cuốn Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam Bộ [27]. Có thể nói đây
là một tài liệu đầu tiên khẳng định có văn hóa biển ở miền Trung và Tây Nam Bộ một
cách khoa học và khá đầy đủ. Trước đây, nhiều nhà nghiên cứu còn băn khoăn chưa
dám khẳng định ở Việt Nam có văn hóa biển ? Với tài liệu này cùng các bài khoa học
của nhiều nhà nghiên cứu trong nước, đã minh chứng cho sự tồn tại văn hóa biển ở
miền Trung và Tây Nam Bộ từ lâu đời.
1.1.4. Các công trình nghiên cứu về văn hóa vùng biển đảo Quảng Ninh
Riêng về văn hóa biển QN, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về khảo cổ
học khá nhiều. Trong nhóm này, cần phải kể đến một số công trình như: “Báo cáo khai
quật đợt II di chỉ Ngọc Vừng, Xích Thổ (QN)” [18], của Nguyễn Văn Hảo viết năm
1971 được in trong Tư liệu Viện Khảo cổ học. Tiếp theo là công trình của Nguyễn Trúc

15


Bình (1972): Về tộc danh Đản, Sín trong nhóm người Hoa ở vùng ven biển Quảng Ninh
[3]. Năm 1974, Nguyễn Văn Hảo, Hoàng Văn Sư, Nguyễn Đức Tùng có viết bài Di chỉ
Thoi Giếng (Quảng Ninh) - Phân tích thạch học và bào tử phấn hóa [19]. Trong các
công trình, bài viết này, nhóm tác giả đưa ra một số nhận định về niên đại thông qua các
kết quả phân tích thạch học và bào tử phấn hoa ở di chỉ Thoi Giếng, QN.
Nguyễn Lân Cường (1979), có nghiên cứu “Di cốt người ở hang Bái Tử Long
(QN)” và giới thiệu trong Những phát hiện mới về khảo cổ học năm 1978 [9]. Về mối
quan hệ của văn hóa Hạ Long trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn, tác giả Hà
Văn Phùng có bài: Văn hóa Hạ Long trong hệ thống Phùng Nguyên - Đông Sơn in
trên tạp chí Khảo cổ học, số 1 năm 1983 [44].
Điển hình trong việc sử dụng phương pháp khảo cổ học, có nhà nghiên cứu
Nguyễn Khắc Sử, năm 1986, ông có bài viết Di chỉ Cái Bèo với tiền sử vùng ven biển
Đông Bắc Việt Nam [52]. Năm 1997 tác giả lại công bố công trình Văn hóa biển tiền
sử Việt Nam: mô hình và giả thiết [54]. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra một
mô hình và giả thiết về sự hình thành, giao lưu, tiếp nối, lan tỏa và hội nhập của văn
hóa biển tiền sử Việt Nam. Đây là những công trình không chỉ có giá trị về khảo cổ
học mà còn có giá trị về lý luận văn hóa vùng biển đảo.
Nhiều công trình nghiên cứu về biển QN dưới góc độ khảo cổ học cũng đã phát
hiện ra nhiều giá trị văn hóa to lớn ở các vùng ven biển từ thủa sơ khai cho đến nay. Năm
1994, tác giả Cao Xuân Phổ công bố bài viết: Văn hóa biển Đông Nam Á. Trong tác
phẩm này, những chứng cứ lịch sử của Việt Nam liên quan đến QN được tác giả phân
tích khá cụ thể:
Năm 1149, cảng Vân Đồn được mở, tiếp nhận thương nhân của Trảo Oa,
Lộ Lạc, Xiêm La và buôn bán với các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông (Trung
Quốc) và cả Tam phật tề; vào thế kỷ XIII và XIV, các cảng ở Nghệ An,
Thanh Hóa bị cát đùn đầy, thuyền bè không vào được thì cảng Vân Đồn lại
càng quan trọng trên luồng hải thương của Đại Việt [43, tr.101].
Đây là một nghiên cứu khá sâu sắc về văn hóa biển trong mối tương quan, so
sánh với văn hóa biển của các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, và cũng là căn cứ
khoa học để lý giải về lễ hội truyền thống vùng biển đảo QN.


16

Năm 1995, Nguyễn Khắc Sử có bài viết: Biển với cư dân tiền sử vùng Đông
Bắc. Tác giả đã chỉ rõ vai trò, vị trí của biển với cư dân tiền sử vùng Đông Bắc Việt
Nam. Ông nhận định:
Biển với văn hóa tiền sử vùng Đông Bắc Việt Nam là một điểm sáng
trong văn hóa Việt Nam. Chúng phát triển liên tục, kế thừa và giao lưu
với thế giới bên ngoài bằng đường biển. Có thể xem vùng biển Đông
Bắc Việt Nam là vùng văn hóa biển đậm nét nhất trong các nền văn hóa
tiền sử nước ta [53, tr.12].
Năm 1996, tác giả Điền Nam - Trần Nhuận Minh có bài Những lễ hội độc đáo
ở tỉnh Quảng Ninh đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian [39]. Tác giả giới thiệu khá chi
tiết về 3 lễ hội truyền thống của QN: lễ hội làng Quan Lạn (huyện Vân Đồn), lễ hội
Tiên Công (thuộc 7 xã vùng nam sông Bạch Đằng thuộc huyện Yên Hưng), hội hái
hoa trong lễ cưới. Bài viết đi sâu giới thiệu những nét độc đáo, màu sắc riêng biệt của
các lễ hội kể trên.
Sách Văn hóa dân gian làng Vân viết về đảo Quan Lạn, h. Vân Đồn, tỉnh QN
của tác giả Nguyễn Quang Vinh được xuất bản năm 2002 [96] cũng giới thiệu đôi nét
về lịch sử, vị thế và cư dân vùng văn hóa làng Vân - một làng quê lâu đời trên đảo,
cách đất liền khá xa. Cuốn sách đề cập đến cuộc sống lao động, các ngành nghề, một
số phong tục, tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, đình, chùa, nghè, miếu và lễ hội, thơ ca
hò vè sưu tầm ở làng Vân.
Cuốn Dư địa chí Quảng Ninh xuất bản năm 2003 [42] gồm 3 tập. Trong đó tập
3, viết về Văn hóa xã hội, đề cập tới các vấn đề gia đình, dòng họ, làng xã, di tích,
danh thắng, văn học, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, công nghệ, môi trường, phong
tục tập quán, tín ngưỡng, lễ hội, lễ tết, tôn giáo, ăn, mặc, ở, y tế, thể dục thể thao, văn
hóa, báo, phát thanh truyền hình. Các nội dung trên đều được giới thiệu một cách khái
quát, cô đọng, giúp người đọc dễ nắm bắt được những ý cơ bản chứ không đi sâu
miêu tả tỉ mỉ. Giáo trình điện tử Lễ hội truyền thống tiêu biểu ở Quảng Ninh của Trường

Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật và Du lịch Hạ Long, năm 2008 [14] là giáo trình phục vụ
cho sinh viên, bước đầu giới thiệu các loại hình lễ hội ở QN, nêu được nguồn gốc, bản
chất, các thành tố cơ bản của lễ hội truyền thống nơi đây.

17

Năm 2009, Đàm Thị Uyên, Nguyễn Thanh Thủy có bài Tục thờ cúng trong đời
sống tâm linh của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đăng trên
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á [92]. Tác giả nghiên cứu phong tục thờ cúng khá
phong phú của ngư dân đảo Quan Lạn vào các dịp lễ hội trong năm.
Luận văn thạc sĩ Văn hóa học của Nguyễn Thị Phương Thảo năm 2008 về “Di
tích lịch sử - văn hóa và lễ hội trên đảo Quan Lạn (huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng
Ninh)” [63] đã nghiên cứu khá tỉ mỉ về hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa trên đảo
Quan Lạn và lễ hội đua thuyền (lễ hội Vân Đồn). Tác giả đã nêu ra được một số đặc
trưng cơ bản của người dân vùng biển nơi đây, đề xuất một số giải pháp bảo tồn và
phát huy những giá trị văn hóa. Năm 2009 trên Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 300
tác giả Nguyễn Thị Phương Thảo có bài viết về Lễ hội Quan Lạn, nét văn hóa độc đáo
của ngư dân biển đảo Vân Đồn [64]. Bài viết phân tích những giá trị cơ bản của lễ hội
Quan Lạn, từ đó khẳng định vị thế của vùng đất này không chỉ trong lịch sử mà trong
hiện tại vẫn là một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, đậm đà bản sắc xứ sở.
Như vậy, có thể thấy rằng, cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu nào về
văn hóa vùng biển đảo QN để tìm ra những đặc trưng cụ thể của tiểu vùng văn hóa
này qua nghiên cứu các lễ hội truyền thống. Do vậy, vấn đề nghiên cứu của luận án là
có tính mới. Luận án có kế thừa những nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước,
đồng thời trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn để làm sáng tỏ những vấn đề văn hóa của
vùng biển đảo QN.
1.2. Cơ sở lý luận về vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống
Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của một số học giả như Đinh Gia
Khánh, Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Tô Ngọc Thanh, Trần Ngọc Thêm
chúng tôi trình bày một số khái niệm nhằm xác định cơ sở lý luận cho luận án. Đó là

các khái niệm vùng văn hóa, văn hóa biển đảo và lễ hội truyền thống.
1.2.1. Vùng văn hóa
Vấn đề không gian văn hóa đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới quan
tâm từ cuối thế kỷ XIX. Các lý thuyết tiêu biểu của các nhà nghiên cứu thời kỳ này là:
L. Morgan và E. Taylor với thuyết Tiến hóa luận, A.L. Perxisk với thuyết Khuyếch
tán văn hóa của trường phái Tây Âu, các học giả Xô Viết như M. Lênin và N.N.

18

Trêbôxarốp với thuyết Loại hình kinh tế - văn hóa, C.L. Wisler với lý thuyết Vùng văn
hóa. Các lý thuyết này phản ánh những bước phát triển của nhận thức con người về
không gian văn hóa hay nói cách khác về sự tương đồng và khác biệt văn hóa.
Ở Việt Nam nghiên cứu về văn hóa vùng cũng đã được quan tâm từ lâu. Nhiều
nhà nghiên cứu có đóng góp to lớn trong lĩnh vực này như Ngô Đức Thịnh, Trần Quốc
Vượng, Đinh Gia Khánh, Lương Văn Hy Đáng chú ý hơn cả là cuốn Văn hóa vùng và
phân vùng văn hóa ở Việt Nam của GS. Ngô Đức Thịnh.
Khi nghiên cứu không gian văn hóa, không thể không đề cập tới vấn đề vùng
văn hóa, tức là tìm hiểu không gian nảy sinh, tồn tại, phát triển và diệt vong của các
nền văn hóa. Thông qua nghiên cứu văn hóa vùng, có thể thấy được sự đa dạng của
văn hóa các tộc người; sự giao lưu, tiếp biến văn hóa; sự tương đồng và khác biệt giữa
các hiện tượng văn hóa Từ đó góp phần vào việc nhận thức, kế thừa và phát huy
truyền thống văn hóa địa phương.
Vùng văn hóa là sự hợp thành của nhiều yếu tố văn hóa xét cả trên phương
diện không gian và thời gian. Nhân tố không gian thông thường là sự biểu hiện
thống nhất và đa dạng của văn hóa, còn nhân tố thời gian là biểu hiện của truyền
thống và biến đổi văn hóa. Vì vậy, khi nghiên cứu vấn đề này chúng tôi cố gắng tiếp
cận một số luận điểm quan trọng của lý thuyết vùng văn hóa như: ranh giới vùng,
vùng trung tâm
Theo Huỳnh Khái Vinh:
Vùng văn hóa là một không gian văn hóa được tạo thành bởi các đơn vị địa

lý dân cư địa phương nằm kề nhau liên tục; ở đó có một tập hợp (có khi là
hệ thống) các cơ cấu và đặc trưng văn hóa được hình thành trên cơ sở
tương đồng về quan hệ nguồn gốc và lịch sử; có một “mức tự chủ” nhất
định và được phân biệt rõ ràng giữa các vùng văn hóa với nhau [95, tr.96].
Trần Ngọc Thêm trên cơ sở phân tích, đánh giá thực tế đã đưa ra khái niệm:
Vùng văn hóa là một không gian lãnh thổ liên tục với hoàn cảnh tự nhiên
tương đối đồng nhất ở bên trong và khu biệt với các không gian lãnh thổ
liền kề bên ngoài, trong đó tồn tại một cộng đồng người thống nhất tương
đối (gồm một hay nhiều tộc/nhóm người), đã cùng cư trú và tiếp xúc giao

19

lưu đồng hướng với nhau trong một thời gian đủ dài để tạo nên được một
hệ thống giá trị chung đặc thù cho phép khu biệt nó với các hệ thống giá
trị của những vùng có liên quan [67, tr.47].
Theo Ngô Đức Thịnh:
Vùng văn hóa là một vùng lãnh thổ có những tương đồng về mặt hoàn
cảnh tự nhiên, dân cư sinh sống, ở đó từ lâu đã có những mối quan hệ
nguồn gốc và lịch sử, có những tương đồng về trình độ phát triển kinh tế -
xã hội, giữa họ đã diễn ra những giao lưu, ảnh hưởng văn hóa qua lại, nên
trong vùng đã hình thành những đặc trưng chung, thể hiện trong sinh hoạt
văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân, có thể phân biệt với
vùng văn hóa khác [75, tr.84].
Trần Quốc Vượng và các tác giả của giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam cũng
khẳng định: “Trong tâm thức dân gian Việt Nam, sự phân biệt về cái chung, nét riêng
giữa các vùng, miền luôn có một vị thế quan trọng. Cái chung, nét riêng này thường
được gắn với một địa danh, một giới hạn lãnh thổ nào đó” [101, tr.208]. Mỗi vùng,
miền, địa phương nhất định đều có môi trường tự nhiên, môi trường xã hội khác nhau.
Do đó, mỗi cá nhân văn hóa, hiện tượng văn hóa khi ra đời đều chịu sự tác động qua
lại lẫn nhau và tạo nên sắc thái văn hóa chung của vùng, tạo nên sự khác biệt của vùng

này so với vùng khác.
Như vậy, có thể nói vùng văn hóa do rất nhiều yếu tố hợp thành, các yếu tố đó
không tách rời nhau mà luôn gắn bó khăng khít, có khi cái nọ là tiền đề cho sự ra đời,
phát triển của cái kia và ngược lại. Tiêu biểu là các nhân tố: môi trường tự nhiên và các
hoạt động sản xuất của dân cư, tộc người và ngôn ngữ, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
giao lưu văn hóa. Xác định vùng văn hóa phải xác định nó là một vùng lãnh thổ có những
đặc điểm tương đối riêng biệt về đất đai, khí hậu, lịch sử, phong tục tập quán, tôn giáo, tín
ngưỡng, văn học dân gian, diễn xướng dân gian trong đó diện mạo của văn hóa vật thể
và văn hóa phi vật thể có thể đem ra để khu biệt với các vùng văn hóa khác. Điều đó,
không có nghĩa là chỉ không gian lãnh thổ mới có thể giúp ta định vị được vùng văn hóa
mà các thành tố văn hóa mới là yếu tố quan trọng, quyết định. Thực tế này đã được các
nhà khoa học chứng minh rằng: có sự thống nhất trong đa dạng của các vùng văn hóa.

20

Cách phân vùng văn hóa của các nhà nghiên cứu ở Việt Nam có những điểm
trùng nhau và cũng có những điểm khác biệt, song cách chia nào cũng có những lý do
hợp lý. Ngô Đức Thịnh, trong công trình Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt
Nam chia nước ta thành 7 vùng văn hóa. Đinh Gia Khánh chia nước ta thành 9 vùng
văn hóa. Trần Quốc Vượng chia thành 6 vùng văn hóa. Cũng theo các tác giả trên thì
mỗi vùng văn hóa lại có thể chia ra làm nhiều tiểu vùng, giữa các tiểu vùng cũng có
những nét tương đồng và khác biệt.
Trong các tiêu chí để phân loại vùng văn hóa, không phải mọi tiêu chí đều có giá
trị như nhau, một số tiêu chí trong đó có vai trò quan trọng hơn các tiêu chí khác.
Những biểu hiện của văn hóa vùng vô cùng phong phú và đa dạng, thể hiện trên
tất cả các mặt hoạt động của con người như:
Lối sống, nếp sống của cư dân, như việc làm lụng, nếp ăn mặc, đi lại giao
tiếp, nếp vui chơi giải trí, phong tục, lễ nghi, tín ngưỡng, lễ hội; các hoạt
động văn hóa - nghệ thuật, nhất là văn hóa nghệ thuật dân gian, âm nhạc,
dân ca, kiến trúc, trang trí dân gian, và chừng mực nào đó còn thấy ở

phong cách và tâm lý của con người ” [75, tr.92].
Khi nghiên cứu văn hóa vùng, những biểu hiện trên không phải lúc nào cũng rõ
ràng, mỗi vùng sẽ có những hiện tượng được coi là tiêu biểu nhất tạo nên đặc trưng văn
hóa riêng của vùng đó. Các cấp để phân vùng văn hóa có từ chung đến riêng, từ rộng
đến hẹp, nhưng nhìn chung phản ánh được sắc thái phong phú và đa dạng của tính
thống nhất và khác biệt của văn hóa vùng.
Theo Ngô Đức Thịnh, hệ thống các cấp bậc vùng văn hóa được phân chia với
mức độ rộng, hẹp như sau: miền (khu vực), tiểu khu vực, vùng, tiểu vùng Tương ứng
với mỗi cấp bậc phân loại như vậy, lại có tập hợp các tiêu chí phân vùng ở phạm vi
chung và riêng khác nhau.
Văn hóa vùng về cơ bản là liên văn hóa, hình thành cơ bản trên sự giao lưu,
tiếp biến văn hóa giữa các tộc người và nhóm dân cư khác nhau. Vùng văn hóa bao
giờ cũng là một phạm vi không gian liền nhau liên tục.
Trong phân vùng văn hóa, ranh giới giữa các vùng bao giờ cũng là điều khó
phân định. Khi phân vùng, nhà khoa học phải xác định ranh giới chủ quan trên thực

21

thể khách quan mà thực ra giữa chúng không có ranh giới rõ ràng. Nhiều trường hợp
ranh giới vùng văn hóa thường là các vùng chuyển tiếp rộng hẹp khác nhau, chứ
không giống như địa giới trên bản đồ hành chính. Do đó, vùng văn hóa không hoàn
toàn là vùng địa lý và càng không phải là vùng hành chính. Tuy nhiên cũng không thể
phủ nhận hoàn toàn vai trò của ranh giới hành chính, vì khi xem xét các nhân tố tác
động tới vùng văn hóa thì nhân tố hành chính một phần tạo nên sự khác biệt văn hóa
giữa các vùng, miền.
Vùng văn hóa thường gồm nhiều tiểu vùng. Tiểu vùng văn hóa thường dao
động trong một phạm vi địa giới nhất định, mặc dù không bao giờ trùng khít. Quy mô
của một tiểu vùng có thể là một xã, một huyện, một tỉnh hoặc lớn hơn. Ở đây tập trung
các hiện tượng văn hóa bản địa, hoặc được du nhập từ nơi khác đến nhưng đã được
"đồng hóa", thể hiện rõ nét đặc sắc riêng của tiểu vùng, tạo nên sự thống nhất trong đa

dạng của văn hóa vùng. Như vậy, trên cơ sở lý thuyết về vùng văn hóa của GS. Ngô
Đức Thịnh, tác giả luận án bước đầu đưa ra khái niệm văn hóa vùng biển đảo QN làm
cơ sở nghiên cứu:
Văn hóa vùng biển đảo QN là văn hóa của một vùng biển đảo có lịch sử lâu
đời, có sự tương đồng về dân cư, về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, có sự giao lưu
văn hóa. Trải qua quá trình lao động và sáng tạo, cư dân vùng biển đảo QN đã tạo
nên những đặc điểm văn hóa tiêu biểu (đó là: đậm yếu tố nội đồng, đậm tính lịch sử,
nhạt yếu tố biển…). Những đặc điểm văn hóa này được thể hiện qua sinh hoạt văn
hóa vật chất và tinh thần (đặc biệt qua các lễ hội truyền thống), có thể phân biệt với
văn hóa biển đảo các vùng khác.
Nhắc tới văn hóa vùng biển đảo QN là nhắc tới một vùng văn hóa gắn với các
địa danh như Vân Đồn, Trà Cổ, Hà Nam…; gắn với các trận đánh lịch sử như Vân
Đồn, Bạch Đằng, Cửa Ông…và gắn với các lễ hội tiêu biểu như: lễ hội Vân Đồn, lễ
hội đền Cửa Ông, lễ hội Bạch Đằng, lễ hội Tiên Công…
Nghiên cứu văn hóa vùng biển đảo QN, nghĩa là nghiên cứu văn hóa vùng, giới
hạn là vùng biển đảo QN. Văn hóa biển đảo có thể được coi là 1 thành tố của văn hóa
vùng. Vì vậy, việc nghiên cứu và đưa ra khái niệm về văn hóa biển đảo ở vùng biển
đảo QN là mong muốn góp phần nhận diện đầy đủ hơn văn hóa của một vùng.

22

1.2.2. Văn hóa biển đảo
Có thể nói, năm 1996, một loạt công trình về văn hóa biển có giá trị lý luận được
công bố. Trong số này, phải kể tới công trình do Trần Quốc Vượng và Cao Xuân Phổ
đồng chủ biên có tiêu đề Biển với người Việt cổ [102]. Cuốn sách gồm hai phần: phần 1
“Mấy nét khái quát lịch sử cổ xưa, cái nhìn về biển của người Việt Nam” và phần 2 “Các
nền văn hóa biển ở Việt Nam”. Trong công trình này, chúng tôi đánh giá cao phần lịch sử
cổ xưa, cái nhìn về biển của người Việt Nam. Các tác giả đã đưa ra những dẫn chứng rất
xác thực theo tiến trình lịch sử, từ đó giúp chúng ta có nhận thức sâu hơn về sự xuất hiện
của văn hóa biển đảo Việt Nam.

Năm 2006, Nguyễn Khắc Sử có bài: Văn hóa Hạ Long, văn hóa biển tiền sử Việt
Nam. Ngoài phần làm sáng tỏ những đặc trưng của văn hóa biển Hạ Long, bài viết còn
đưa ra khái niệm về văn hóa biển dưới góc độ khảo cổ học. Theo tác giả: “Văn hóa biển
là thuật ngữ khảo cổ dùng để chỉ các di tích hoặc văn hóa khảo cổ của các cộng đồng
người sống trong môi trường biển, khai thác biển và có mối giao lưu rộng rãi với xung
quanh, tạo dựng nên nền văn hóa mang đượm màu sắc biển” [55, tr.29].
Năm 2008, Nguyễn Khắc Sử tiếp tục hướng nghiên cứu khảo cổ học với bài:
Văn hóa biển tiền sử Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau những phác thảo, dẫn chứng khảo
cổ học, cuối bài viết, tác giả đưa ra kết luận về văn hóa biển tiền sử Cam Ranh:
Là một tiến trình chiếm lĩnh, khai phá và xác lập thế đứng của con
người trên vùng biển và hải đảo cực nam Trung Bộ. Đó là quá trình
thích ứng của con người với môi trường biển, nhất là sự dao động của
mực nước biển, sự thay đổi của sản vật biển. Quá trình ấy còn gắn liền
với sự tiến bộ về kỹ thuật chế tác công cụ lao động bằng đá, bằng đồng,
bằng sắt; kỹ thuật chế tạo đồ gốm và đặc biệt là kỹ thuật chế tạo thuyền
mảng và khai thác nguồn lợi của biển [56, tr.21].
Kết luận này đã thể hiện quan niệm của tác giả về văn hóa biển đảo. Tuy nhiên,
các khái niệm của Nguyễn Khắc Sử mới chỉ dừng lại ở góc độ khảo cổ học với những tập
hợp các chứng tích (chủ yếu mang tính vật thể), chưa đưa ra được khái niệm về văn hóa
biển đảo mang tính chất tổng hợp.

×