TÌM HIỂU VỀ CÁC CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI DÀI HẠN
Ở VIỆT NAM
Mở đầu
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở... Để thỏa
mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm
cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao.
Trong thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện
về sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành
nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi
ro, bất hạnh như ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm
do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt
cũng như các tác nhân xã hội khác... Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu
cầu thiết yếu của con người không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng
lên, thậm chí còn xuất hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con
người và xã hội loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải
quyết khác nhau. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho
bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải
được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội. Sự tương trợ dần dần được mở rộng
và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hướng
thiện đó đã tác động tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà
nước dưới các chế độ xã hội khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc
biệt là từ sau cuộc cách mạng công nghiệp, hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH)
đã có những cơ sở để hình thành và phát triển. Quá trình công nghiệp hoá làm
cho đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên, cuộc sống của họ phụ thuộc
chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự hẫng hụt về tiền lương
trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc làm hoặc khi về
già..., đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình thường của những
người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải
đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những người làm
công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động tương thân, tương
ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn...); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và Nhà
nước phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.
Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh
tật. Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ
tham gia, dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trường hợp rủi
ro nghề nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở
ra hướng mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ người lao động đóng góp
mà giới chủ và Nhà nước cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba
bên). Tính chất đoàn kết và san sẻ lúc này được thể hiện rõ nét: mọi người,
không phân biệt già - trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật,
người khoẻ - người yếu mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích
chung.
Mô hình này của Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh
thế giới thứ hai, BHXH đã lan rộng sang các nước giành được độc lập ở châu
á, châu Phi và vùng Caribê. Như vậy, sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu
khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải
tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. BHXH dần dần đã trở
thành một trụ cột cơ bản của hệ thống An sinh xã hội và được tất cả các nước
thừa nhận là một trong những quyền con người.
I/GIỚI THIỆU CHUNG:
1. BHXH là gì?
Như đã nêu, BHXH có lịch sử khá lâu và đã có nhiều thay đổi về chất với
nhiều mô hình phong phú, được thực hiện ở hàng trăm nước trên thế giới. Tuy
nhiên, cho đến nay, định nghĩa thế nào là BHXH vẫn là vấn đề còn nhiều
tranh luận vì được tiếp cận từ nhiều giác độ khác nhau với những quan điểm
khác nhau.
- Từ giác độ pháp luật: BHXH là một chế độ pháp định bảo vệ người lao
động, sử dụng tiền đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động,
người lao động và được sự tài trợ, bảo hộ của Nhà nước, nhằm trợ cấp vật
chất cho người được bảo hiểm và gia đình trong trường hợp bị giảm hoặc mất
thu nhập bình thường do ốm đau, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
(TNLĐ& BNN), thai sản, hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật (hưu)
hoặc chết.
- Từ giác độ tài chính: BHXH là quá trình san sẻ rủi ro và tài chính giữa
những người tham gia bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
- Từ giác độ chính sách xã hội: BHXH là một chính sách xã hội nhằm
đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động khi họ không may gặp phải các
“rủi ro xã hội”, nhằm góp phần đảm bảo an toàn xã hội….
- Theo luật BHXH Việt Nam năm 2006: BHXH là sự bảo đảm thay thế
hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH.
Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau, song bản chất của BHXH lại được thể
hiện khá rõ ràng và cụ thể.
2. Bản chất của BHXH:
BHXH ra đời, tồn tại, phát triển là một tất yếu khách quan cùng với sự
phát triển, ra đời của xã hội loài người. Bản chất của BHXH được thể hiện
ở những nội dung chủ yếu sau:
- BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất
là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường,
mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nhất định.
Kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có
thể nói kinh tế là nền tảng của BHXH.
- Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh trên cơ sở quan hệ
lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia BHXH, bên BHXH và bên
được BHXH. Bên tham gia BHXH có thể chỉ là người lao động hoạc cả
người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH thông thường là
cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là
người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết.
- Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm
trong BHXH có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan
của con người như: ốm đau, TNLĐ& BNN... Hoặc cũng có thể là những
trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản...
- Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải
biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập
trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia BHXH đóng góp
là chủ yếu, ngoài ra còn được hỗ trợ từ phía Nhà nước.
- Mục tiêu của BHXH la nhằm thỏa mãn những nhu cầu của người lao
động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu
này được ILO cụ thể hóa như sau:
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhập bị mất để đảm
bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dan cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
3. Chức năng của BHXH:
- Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia
BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm.
- Thực hiện phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham
gia BHXH.
- Góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất, nâng
cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội.
- Gắn bó lợi ích giữa người lao động với người sử dụng lao động và giữa
người lao động với xã hội.
}}}}}}}}}
4. Các chế độ BHXH:
Theo khuyến cáo của tổ chức ILO trong Công ước 102, BHXH bao gồm 9
chế độ:
- Chăm sóc y tế
- Trợ cấp thất nghiệp
- Trợ cấp TNLĐ& BNN
- Trợ cấp tuổi già
- Trợ cấp gia đình
- Trợ cấp sinh đẻ
- Trợ cấp khi tàn phế
- Trợ cấp cho người còn sống
- Trợ cấp ốm đau
Tùy theo điều kiên từng nước mà hệ thống chế độ BHXH có thể thực hiện
được toàn bộ hoặc chỉ một số chế độ nào đó.
Ở Việt Nam, tùy theo từng thời kỳ khác nhau mà các chế độ BHXH được
đưa vào thực hiện cũng khác nhau.
Sau đây tôi xin đi vào tìm hiểu và phân tích các chế độ BHXH dài hạn
của Việt Nam qua các thời kỳ.
II/ BHXH DÀI HẠN Ở VIỆT NAM:
BHXH Việt Nam trải qua 3 thời kỳ:
- từ 8/1945 đến 1960
- từ 1961 đến 1995
- từ 1/1995 đến nay
1. Giai đoạn từ 8/1945 đến 1960:
BHXH là một trong những nội dung quan trọng của chính sách xã hội,
nên ngay từ sau Cách mạng Tháng 8 thành công, mặc dù gặp muôn vàn khó
khăn nhưng Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc ban hành và sửa đổi bổ sung
chính sách BHXH và trợ cấp xã hội để áp dụng cho người lao động phù hợp
với điều kiện kinh tế- xã hội ở từng thời kỳ. Riêng đối với công nhân viên
chức Nhà nước và quân nhân, Chính phủ đã nhiều lần ban hành các chính
sách BHXH gồm các chế độ trợ cấp ốm đau, sinh đẻ, TNLĐ, già yếu và chế
độ trợ cấp gia đình khi công nhân viên chức từ trần để đảm bảo đời sống cho
họ và gia đình, góp phần đảm bảo ổn định xã hội. Như vậy, ngay trong những
năm đầu, Nhà nước ta đã cho thực hiện các chế độ BHXH dài hạn như hưu trí,
tử tuất, TNLĐ. Thực tế này được nhận thấy ngay từ những năm đầu của
kháng chiến chống Pháp, Chính phủ ta đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp
để giải quyết quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau
đố theo kháng chiến nay đã già yếu. Sau khi Cách mạng Tháng 8 thành công,
do điều kiện kinh tế khó khăn nên chế độ này được thực hiện đến năm 1949
thì không còn nữa.
Đến năm 1050, Hồ Chủ Tịch đã ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban
hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy
chế công nhân. Theo chế độ này thì quyền lợi công chức, công nhân về chế độ
hưu trí như sau:
- Sắc lệnh số 76/SL: điều 92 ghi rõ: " Công chức của ngạch thuộc hạng
thường trú được về hưu khi đủ 30 năm công tác hay đủ 55 tuổi; đối với công
chức thuộc hạng lưu động được về hưu khi đủ 50 tuổi hay 25 năm làm việc.
- Sắc lệnh số 77/SL: điều 42 quy định: công nhân làm việc được 30 năm
hoặc đủ 55 tuổi được về hưu.
Do tình hình kinh tế, tài chính giai đoạn này khó khăn nên việc những quy
quy định trên được thực hiện cho công nhân viên chức già yếu về nghỉ chỉ
được hưởng trợ cấp 1 lần, với mức 1 năm công tác được 1 tháng lương và phụ
cấp, tối đa không quá 6 tháng lương theo điều 35 (77/SL) quy định.
Đối với người bị mất sức lao động, sau ngày hòa bình lập lại (7/1954)
công nhân viên chức mất sức lao động do ốm yếu được trợ cấp 1 lần theo quy
định tại Nghị định số 594/TTg ngày 11/12/1957.
Nhìn lại các chế độ BHXH nói chung và các chế độ BHXH dài hạn nói
riêng ta thấy rằng:
Do chính sách BHXH đã được ban hành ngay sau khi giành được độc lập
và sau ngày hòa bình lập lại, trong hoàn cảnh kháng chiến, kinh tế còn nhiều
thiếu thốn nên chưa được thực hiện đầy đủ, chỉ mới được một số chế độ cơ
bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo mức sống tối thiểu cho công nhân
viên chức Nhà nước. Mức hưởng còn mang tính bình quân với tinh thần đồng
cam cộng khổ, chưa có tính chất lâu dài.
2. Giai đoạn từ 1961 đến 1995:
Sau ngày hòa bình lập lại, từ năm 1960, sau khi hoàn thành kế hoạch 3
năm cải tạo và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hôi, miền Bắc đã bước vào kế
hoạch dài hạn 5 năm lần thứ nhất. Lực lượng công nhân viên chức lúc này
ngày càng nhiều để phục vụ cho yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc, trước tình hình này, Nhà nước đã bổ sung chính sách BHXH cho phù
hợp với tình hình và đáp ứng mục tiêu không ngừng cải thiện đời sống cho
công nhân viên chức. Ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời
theo Nghị định số 218/CP về các chế độ BHXH cho công nhân viên chức Nhà
nước. Điều lệ quy định:
- đối tượng tham gia BHXH là công nhân viên chức Nhà nước, lực lượng
vũ trang.
- hình thành nguồn để chi trả các chế độ BHXH trong ngân sách Nhà