Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Rèn viết đúng chính tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.1 KB, 37 trang )


Giỏo viờn
Giỏo viờn
:
:


n V:
Nm Hc: -
A- Phần mở đầu
I - Lý do chọn đề tài
Từ xa xa, nhân dân ta đã có câu Nét chữ, nết ngời có nghĩa là nét chữ thể
hiện tính cách con ngời. Thông qua nét chữ ngời ta có thể đánh giá ngời viết là ng-
ời nh thế nào?
Cho đến nay, câu nói trên vẫn đợc coi là đúng. Tuy nhiên chúng ta cần phải
hiểu nét chữ không phải đơn thuần là nét thanh, nét đậm mà nó bao hàm cả việc
viết đẹp, viết đúng chuẩn mực Tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp.
Ngời xa nói Nét chữ, nết ngời không chỉ hàm ý nét chữ thể hiện tính cách
con ngời mà nó hàm ý rằng thông qua việc rèn luyện chữ viết mà giáo dục nhân
cách con ngời. Nh vậy việc rèn luyện cho học sinh viết chữ đẹp, viết đúng chuẩn
mực Tiếng Việt về ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp vừa là mục đích vừa là phơng tiện
của quá trình giáo dục toàn diện nhân cách học sinh.
Xuất phát từ nhận thức trên, ở bậc Tiểu học, phân môn chính tả có vị trí
quan trọng trong cơ cấu chơng trình môn Tiếng Việt nói riêng, các môn học ở tr-
2
ờng nói chung. Nó giúp học sinh hình thành năng lực và thói quen viết đúng chính
tả, nói rộng hơn là năng lực và thói quen viết đúng tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt
chuẩn mực. Ngoài ra, phân môn chính tả còn rèn cho học sinh một số phẩm chất
nh tính cẩn thận, óc thẩm mỹ, bồi dỡng cho học sinh lòng yêu quý tiếng Việt và
chữ viết của tiếng Việt.
Đối với ngời sử dụng tiếng Việt, viết đúng chính tả chứng tỏ đó là ngời có


trình độ văn hoá về mặt ngôn ngữ. Viết đúng chính tả giúp học sinh có điều kiện
sử dụng tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong việc học tập các bộ môn văn hoá, trong
việc viết các văn bản, th từ. Đồng thời viết đúng chính tả còn thể hiện sự tôn trọng
của ngời viết đối với ngời đọc và với chính bản thân mình.
Vấn đề chính tả của chữ Việt đã đợc bàn khá nhiều và đã đạt đợc những
thành tựu tốt. Song đến nay cha phải vấn đề đã đợc giải quyết hoàn toàn. Qua các
giờ dạy của giáo viên và kết quả học tập của học sinh trong dạy và học chính tả
hiện nay.Trong thực tế, học sinh còn viết sai nhiều lỗi. Tình trạng đó có nguyên
nhân từ cả nội dung và phơng pháp dạy học phân môn này.
Xuất phát từ thực tế trên mà tôi chọn đề tài nghiên cứu với nội dung Rèn
viết đúng chính tả cho học sinh lớp Năm.
II- Mục đích - phạm vi nghiên cứu
1- Mục đích nghiên cứu
Qua đề tài này tôi muốn mình thực sự nghiên cứu nội dung chơng trình môn
tiếng Việt ở tiểu học, cụ thể là phát hiện, tìm nguyên nhân và biện pháp sửa lỗi
chính tả cho học sinh lớp Năm. Từ đó tích luỹ kinh nghiệm cho bản thân, phục vụ
việc giảng dạy tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng ở tiểu học.
2- Phạm vi nghiên cứu : Đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở việc thống kê
phân loại các lỗi chính tả mà học sinh lớp Năm hay mắc phải, từ đó tìm nguyên
nhân và đa ra các biện pháp giúp học sinh sửa lỗi.
III- Phơng pháp nghiên cứu
3
Để thực hiện đề tài này tôi đã sử dụng các biện pháp nghiên cứu sau:
1- Phơng pháp nghiên cứu lý luận :
Trên cơ sở lý luận của các vấn đề nh tâm lý học, giáo dục học, phơng pháp
dạy bộ môn tôi nghiên cứu để rút ra các vấn đề có liên quan đến việc dạy học
chính tả ở tiểu học. Đồng thời kết hợp với việc nghiên cứu các tài liệu tham khảo
về chữa lỗi chính tả cho học sinh, từ đó tôi tìm ra phơng pháp chung cũng nh tìm
ra nguyên nhân và cách sửa lỗi chính tả thích hợp cho học sinh lớp Năm.
2- Phơng pháp điều tra khảo sát:

- Mục đích : Thông qua việc điều tra, khảo sát, tôi có thể nắm đợc thực tế
của việc dạy học môn tiếng Việt nói chung và phân môn chính tả nói riêng. Từ đó
tìm ra nguyên nhân và có các biện pháp thích hợp để sửa các lỗi chính tả cho học
sinh.
- Cách tiến hành: Điều tra và khảo sát học sinh tại trờng Tiểu học Cát Linh
qua hình thức
+ Phiếu điều tra.
+ Nói chuyện, trao đổi với học sinh.
3- Phơng pháp trò chuyện :
Sử dụng phơng pháp này tôi đã trực tiếp trao đổi, hỏi ý kiến của giáo viên
trong khối để tìm hiểu thực trạng việc dạy học chính tả, những khó khăn của học
sinh cũng nh của giáo viên khi dạy chính tả, những lỗi chính tả mà học sinh thờng
mắc và những biện pháp sửa lỗi cho học sinh của giáo viên.
4- Phơng pháp quan sát:
- Quan sát và dự giờ dạy chính tả của đồng nghiệp.
- Quan sát học sinh thực hiện các bài chính tả.
5- Phơng pháp thực nghiệm :
Tôi đã trực tiếp dạy các tiết chính tả để tìm ra các lỗi mà học sinh hay mắc,
tìm nguyên nhân và có biện pháp thích hợp kịp thời sửa lỗi cho các em.
4
B - Nội dung nghiên cứu
Chơng I
Cơ sở lý luận
I- Cơ sở ngôn ngữ học
Mọi sự vật, hiện tợng luôn luôn vận động và phát triển theo những quy
luật nhất định. Các quy luật này đợc phát hiện, đợc ý thức và trở thành các nguyên
tắc. Hiện tợng chính tả, trong quá trình vận động và phát triển cũng có quy luật
riêng và đợc ý thức thành các nguyên tắc. Muốn hiểu và viết đúng chuẩn mực
chính tả thì trớc tiên ta phải nắm vững các nguyên tắc này.
Nguyên tắc cơ bản của chữ Việt là nguyên tắc ngữ âm học. Nghĩa là phát

âm thế nào thì viết thế ấy, giữa chữ viết và phát âm có sự nhất trí cao. Nh vậy,
ngay từ nội dung của nguyên tắc này ta cũng thấy vai trò của việc phát âm là quan
trọng. Nếu nh thầy đọc đúng( phát âm đúng) thì học sinh sẽ viết đúng và ngợc lại
nếu nh thầy đọc sai thì học sinh sẽ viết sai. Có trờng hợp thầy đọc đúng nhng học
sinh nhận sai ( do qua một lần đọc lại của các em) nên vẫn viết sai. Vì vậy khi dạy
chính tả ta cần kết hợp với việc rèn luyện phát âm.
Ngoài nguyên tắc trên, chính tả còn nguyên tắc hình thái học và nguyên tắc
theo truyền thống.
Nguyên tắc hình thái học đặc biệt quan trọng với các ngôn ngữ biến hình.
Tiếng Việt không phải là ngôn ngữ biến hình. Theo nguyên tắc này, cách ghi một
từ tố bao giờ cũng viết nh nhau mặc dù cách đọc có khác nhau. Còn nguyên tắc
theo truyền thống chỉ dựa vào truyền thống chữ viết của bản ngữ hay của ngôn
ngữ mà nó mợn từ hoặc của hệ thống chữ viết đợc dùng làm cơ sở. Nguyên tắc
theo truyền thống này đã gây nhiều rắc rối, nhất là với trẻ em. Và ở mỗi địa ph-
ơng, ngời dân có những thói quen phát âm riêng, lệch chuẩn so với hệ thống. Dấu
5
này của phơng ngôn ảnh hởng rất lớn đến chính tả. Mỗi vùng có một số lỗi chính
tả đặc thù mà địa phơng khác, vùng khác không mắc phải.
II- Vấn đề chính tả trong nhà trờng
Cho đến nay cha có văn bản chính thức về chính tả tiếng Việt. Tuy nhiên để
có sự thống nhất thì Bộ đã có văn bản tạm thời về các hiện tợng chính tả.
ở Tiểu học không có các tiết dạy riêng về nguyên tắc chính tả mà học sinh
đợc hình thành dần qua các bài học cụ thể. Vấn đề quan trọng là với mỗi một
nguyên tắc giáo viên cần tập trung vào các vấn đề học sinh dễ mắc lỗi.
1- Yêu cầu về chính tả trong nhà trờng
Từ lâu, chính tả đã là một môn học chính thức trong nhà trờng, yêu cầu về
chính tả trong nhà trờng đòi hỏi phải thực hiện nghiêm khắc, cấp bách và triệt để
hơn, tuyệt đối không đợc tuỳ tiện. Học chính tả, học sinh phải nắm đợc các quy
tắc, rèn luyện để có kỹ năng và thói quen viết đúng chính tả. Mỗi giáo viên phải
có kỹ năng viết đúng, viết đẹp, viết nhanh.

2- Nội dung chính tả gồm có
- Xác định và thực hiện cách viết hoa đúng với từ ngữ.
- Xác định và thực hiện những nguyên tắc khác của chính tả nh viết hoa,
viết tắt, dùng dấu, phiên âm
3- Cách thực hiện
ở tiểu học hiện nay có thể dạy chính tả bằng hai phơng pháp: tích cực và
tiêu cực. Theo phơng pháp tích cực, giáo viên cho học sinh nhìn cách viết đúng,
nghe cách nói đúng để rồi bản thân sẽ viết đúng và nói đúng. Theo phơng pháp
tiêu cực, giáo viên tìm ra các lỗi chính tả của học sinh, rồi trên cơ sở đó chữa để
các em không còn phạm lỗi nh vậy nữa.
6
Từ hai phơng pháp trên, giáo viên thực hiện linh hoạt các kiểu bài chính tả
khác nhau :
- Tập chép (dành cho lớp 1 và 2)
- Chính tả nhớ - viết.
- Chính tả nghe - đọc.
- Bài tập chính tả.
Với nhiều loại bài tập chính tả nh :
- Bài tập điền phụ âm đầu, vần, thanh vào từ hoặc câu.
- Bài tập so sánh chính tả.
- Bài tập tìm các tiếng có cùng vần, thanh hoặc phụ âm đầu
Chơng II
Thực trạng việc dạy chính tả ở Tiểu học
I- Mục đích điều tra thực trạng
Thông qua việc điều tra, tôi có thể nắm đợc thực tế của việc dạy học phân
môn chính tả. Từ đó tìm ra nguyên nhân và có biện pháp thích hợp để sửa các lỗi
chính tả cho học sinh.
II- Phơng pháp điều tra
1-Trò chuyện với học sinh
2- Dự giờ, trao đổi với giáo viên

3- Kiểm tra vở, chấm bài chính tả của học sinh
4-Thực nghiệm, dạy các giờ chính tả
III- Nội dung điều tra
1-Phiếu khảo sát
2-Phiếu điều tra
7
Phiếu khảo sát
Đồng chí hãy cho biết :
- Họ và tên:
- Số năm công tác:
- Trờng :
* Đồng chí cho biết một số ý kiến của mình về các nội dung sau :
1. Trong môn tiếng Việt, phân môn nào cho đồng chí có hứng thú nhất khi
giảng dạy :
( ) Tập đọc ( ) Chính tả
( ) Từ ngữ ( ) Tập làm văn
( ) Ngữ pháp ( ) Kể chuyện
2. Suy nghĩ của đồng chí về vị trí của phân môn chính tả trong chơng trình
Tiểu học


3. Đồng chí có đầu t nhiều cho phân môn chính tả không ?
- Thời gian 40 phút có đủ cho 1 tiết dạy chính tả không?
- Không khí của lớp học trong những giờ chính tả ?



Những lỗi chính tả mà học sinh lớp đồng chí thờng mắc?

Đồng chí sử dụng biện pháp gì để phát hiện và sửa lỗi chính tả cho học sinh :

8
* Phát hiện :
* Sửa lỗi:
Những chuyển biến của học sinh sau khi đợc đồng chí sửa lỗi:

Những khó khăn khi dạy phân môn chính tả ?


Nguyện vọng và kiến nghị của đồng chí ?
.

Phiếu điều tra
Họ và tên học sinh :
Lớp : Trờng :
Trong các phân môn sau, con thích học phân môn nào nhất ?
( ) Tập đọc
( ) Từ ngữ
( ) Ngữ pháp
( ) Chính tả
( ) Tập làm văn
( ) Kể chuyện
Vì sao con thích phân môn đó ? .
Con có bị mắc lỗi chính tả hay không ?
Nếu có, con thờng mắc những lỗi gì ?
9
Cô giáo có giúp con sửa lỗi chính tả không ?
Cô giúp con bằng cách :
Từ khi cô giúp, con có còn mắc lỗi nữa không ?
IV- Kết quả điều tra và phân tích
1 - Tình hình dạy và học phân môn chính tả ở lớp 5 hiện nay :

1.1-Dạy:
Mỗi tuần có một tiết chính tả :
- Có 3 kiểu bài chính tả :Nhớ - viết, nghe đọc.
- Trong khi đọc, học sinh viết những cặp từ dễ lẫn lộn phụ âm đầu nh: (s/x;
v/d; tr/ch; l/n), vần ( ênh/ên; uôn/uông; ơu/u; iêu/êu), thanh ( ? ; ~ ;) và phân
biệt nghĩa các từ đó trong khi viết bài.
- Bài chính tả dài khoảng 120 chữ.
- Yêu cầu: Chữ viết đều nét, rõ ràng, sạch sẽ, không mắc lỗi chính tả thông
thờng. Tốc độ viết 80 chữ trong 15 phút.
b. Giáo viên tiểu học phải dạy đủ các môn nên thời gian để đầu t thực sự cho
các phân môn cụ thể là không có hoặc rất ít.
c. Giáo viên ít có tài liệu tham khảo hoặc ngại phải tìm tòi, tự nghiên cứu
trong khi tiếng Việt của ta đa dạng và phong phú.
d. Giáo viên thờng sử dụng phơng pháp diễn giải và phơng pháp đàm thoại.
Đôi khi lạm dụng quá hai phơng pháp này, do đó không phát huy đợc tính chủ
động tích cực của học sinh.
e. Đặc biệt việc sửa lỗi chính tả cho học sinh còn gặp khó khăn hơn. Giáo
viên ít có biện pháp để sửa lỗi cho học sinh, đồ dùng trực quan có thể sử dụng là
rất ít. Từ đó dẫn đến việc, trong các giờ chính tả, giáo viên thờng chú trọng đến
việc rèn chữ hơn là rèn chữ chính tả.
10
1.2- Học:
a. Từ tinh thần và phơng pháp trên của giáo viên dẫn đến việc kém hiệu quả
trong dạy học chính tả hiện nay. Trong thực tế học sinh khi viết còn mắc nhiều lỗi
chính tả.
b. Một số ý kiến của học sinh về phân môn chính tả:
Khi đợc hỏi, hầu hết học sinh đều nói thích học chính tả. Trong số liệu điều
tra tại lớp 5B trờng Cát Linh, 49/51 học sinh ( chiếm 96%) nói thích học chính tả.
Tuy nhiên các em cha ý thức đợc hết tầm quan trọng cũng nh khó khăn trong việc
học chính tả. 50 % học sinh nói thích học vì chữ các em đang xấu, em muốn viết

đẹp hơn. Em Nguyễn Minh Hiếu - lớp 5B, trờng Cát Linh: Em thích học chính
tả. Môn chính tả giúp em viết đẹp hơn, chữ em đang xấu
* Bên cạnh đó còn có ý kiến khác:
- Em Vũ Hải Nam - lớp 5B trờng tiểu học Cát Linh: Em thích học chính tả
vì chính tả chỉ cần viết, không cần phải nghĩ nhiều.
- Em Nguyễn Tuấn Trung - lớp 5C trờng tiểu học Cát Linh: Em không
thích học chính tả vì em thờng bị điểm kém, em bị mắc rất nhiều lỗi.
11
3. Thống kê lỗi chính tả mà học sinh thờng mắc.
Tôi đã sử dụng những bài chính tả sau để khảo sát học sinh :
Bài 1- Bác lái đò
Tôi làm nghề lái đò đã năm năm nay. Nhà tôi là chiếc thuyền gỗ lênh
đênh trên mặt nớc. Tôi nắm vững nơi nào nớc chảy xiết, nơi nào có đá ngầm. Lúc
đêm đến, trong khi con thuyền lớt nhẹ trên dòng sông phẳng lặng, tôi nhìn chỗ
này cây la tha, chỗ nọ nhà nổi lên nối tiếp nhau cũng đoán biết đợc thuyền đã đến
nơi nào.
(Trích trong sách Luyện phát âm- chính tả- Giáo trình trờng CĐSP Hà Nội)
Các loại lỗi Lớp 5B Trờng TH Cát
Linh ( 51 học sinh)
Lớp 5C Trờng TH
Cát Linh
(52 học sinh)
- Thừa, thiếu nét 11 11
- Thiếu chữ 12 14
- Sót dấu, sai dấu thanh 16 14
- Viết hoa tuỳ tiện 9 7
- Không viết hoa đầu câu 5 8
- Không viết hoa danh từ riêng 10 9
- Sai vần 17 16
- Sai phụ âm đầu

+ l - n 16 15
+ s - x 13 14
+ ch - tr 11 10
+ r - d - gi 15 14
+ Một số phụ âm khác 14 13
Ng/ ngh, g/ gh 11 12
12
Bài 2- Sáng nay em dậy sớm, sửa soạn sách vở, xem lại bài một lợt, ôn bài
xong, em soát lại bài tập rồi sang nhà bạn Trinh rủ bạn cùng đi học.Trờng em
không xa, xây bằng gạch, xinh xắn, sân xây bằng xi măng sạch sẽ. Ngoài sân có
cây xoài, cây bàng lá xum xuê. Dới bóng cây xanh học sinh xúm quanh cô giáo
trẻ, sung sớng, ríu rít nh đàn chim sáo.
(Trích trong sách Luyện phát âm- chính tả- Giáo trình trờng CĐSPHN)
Bài 3- Suối bắt nguồn từ đỉnh núi. Nớc chảy ri rỉ trên đỉnh núi cao, róc róc
qua rừng rậm, rào rào từ trên vách đá rơi xuống xen lẫn với tiếng lá rì rào. Khi có
cơn bão những cành cây đổ xuống răng rắc, thác nớc nh reo hò. Những ngọn suối
gặp nhau thành con sông rộng chảy ra mãi đến biển.
(Trích trong sách Luyện phát âm- chính tả- Giáo trình trờng CĐSP HN)
Ngoài phần chính tả trên, tôi còn chấm bài viết của học sinh qua các bài tập
chính tả và các môn học khác của các em.
4- Nguyên nhân mắc lỗi chính tả
Từ kết quả điều tra trên, tôi thấy rằng sở dĩ học sinh lớp 5B trờng tiểu học
Cát Linh mắc các loại lỗi trên là do một số nguyên nhân sau :
a- Lỗi do ảnh hởng của cách phát âm tiếng địa phơng:
ở đồng bằng Bắc Bộ các loại lỗi thờng mắc là: l/ n, ch/ tr, s/ x, d/ r/ gi. ở
Hà Nội việc phát âm các phụ âm trên là tơng đối chuẩn. Tuy nhiên còn một số học
sinh do phát âm sai dẫn đến viết sai chính tả.
VD: Do học sinh phát âm sai giữa l/ n nên viết sai chính tả
- Tôi làm nghề lái đò Tôi nàm nghề nái đò
- Tôi nắm vững Tôi lắm vững

- Đất cao lanh Đất cao nanh
13
Để phát hiện ra nguyên nhân này sau khi viết xong chính tả, trong phần
chữa bài, tôi có yêu cầu học sinh mắc phải lỗi trên phát âm lại (đọc lại) từ mà
mình viết sai.
b- Lỗi chính tả do không hiểu biết đầy đủ về các nguyên tắc chính tả và nội
dung ngữ nghĩa của từ.
Loại lỗi này thờng gặp khi viết các phụ âm đầu : d/ gi, ch/ tr, ng/ ngh, s/
x, học sinh không hiểu nghĩa của từ dẫn đến viết sai chính tả.
VD : Do không nắm vững quy tắc chính tả khi viết ch/ tr
tr đi với thanh huyền và nặng (trình độ, lập trờng, trịnh trọng, triệu phú)
còn ch thì không đi với hai thanh đó nên học sinh viết tròn trĩnh thành chòn
trĩnh, triều đại thành chiều đại hay do không nắm vững quy tắc ngh thờng
đi với các âm i, e, ê nên học sinh viết nghệ nhân thành ngệ nhân, nghĩ
ngợi thành ngĩ ngợi. Trờng hợp học sinh không hiểu nghĩa của từ dẫn đến viết
sai chính tả.
VD :
a- Điền vào chỗ trống tr hay ch?
Nh e mọc thẳng, con ngời không ịu khuất. Ngời xa có câu: úc dẫu
áy, đốt ngay vẫn thẳng. e là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, e lại là
đồng íiến đấu của ta. e vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh giặc.
Có một số học sinh do không hiểu nghĩa của từ nên đã điền âm ch vào từ
tre, hay trúc, vì vậy học sinh điền vào bài nh sau:
Nh che mọc thẳng, con ngời không chịu khuất. Ngời xa có câu: Chúc
dẫu cháy, đốt ngay vẫn thẳng. Tre là thẳng thắn, bất khuất! Ta kháng chiến, che
lại là đồng chí triến đấu của ta. Che vốn cùng ta làm ăn, lại vì ta mà cùng ta đánh
giặc.
14
(Theo bài của học sinh Nguyễn Trung Hiếu, Nguyễn Thanh Loan - lớp 5B-
trờng tiểu học Cát Linh)

c- Lỗi chính tả do không nắm vững cấu trúc âm tiết Tiếng Việt
Vì không hiểu cấu trúc nội bộ của âm tiết Tiếng Việt nên học sinh viết
thừa, viết sai từ.
VD : Quét sạch - quyét sạch Quanh co - qoanh co
Khúc khuỷu - khúc khuỷ Ngoằn ngoèo - ngoằn nghèo
d - Lỗi do cẩu thả của ngời viết
Nhiều học sinh khi viết bài chính tả ( nghe viết hay nhớ viết) thì viết thật
nhanh để ngồi chơi hay để thi với bạn bên cạnh, do đó khi viết thờng mắc một số
lỗi nh: thiếu chữ, thiếu nét, thiếu dấu thanh, sai phụ âm đầu, sai vần.
e - Lỗi do nhợc điểm của chữ quốc ngữ
* Bên cạnh sự tơng hợp giữa âm và chữ, chữ Việt còn có nhiều trờng hợp
không đảm bảo sự tơng hợp này. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn
đến lỗi chính tả của học sinh. Ví dụ ở các trờng hợp sau:
- Âm đệm lúc ghi u, lúc ghi o, học sinh rất lúng túng khi gặp trờng hợp
này. Cùng là vần oanh nhng lúc viết oanh lúc viết uanh, khi nghe giáo viên
đọc loanh quanh học sinh không biết ghi loanh quanh, luanh quanh hay
loanh qoanh.
Để viết đúng đợc các âm đệm này, học sinh cần nắm vững quy tắc chính tả
khi viết âm đệm. Đó là vấn đề rất khó và phức tạp đối với các em.
- Phụ âm k lúc ghi c, lúc ghi k, lúc ghi q.
Khi nghe cô giáo phát âm các tiếng đánh vần với c học sinh lúng túng.
Tuy đối với học sinh lớp 5 đây không phải là loại lỗi phổ biến nhng một số em vẫn
bị mắc lỗi khi viết chính tả
15
Hiện tợng bị đầy lỡi, ngắn lỡi dẫn đến trờng hợp học sinh phát âm không
chuẩn và viết sai chính tả. Ví dụ: Nói ngọng bảo thành bạo, nghĩ ngợi thành
nghí ngợi, mải mê thành mãi mê đến khi viết các em viết nh mình phát
âm. Đây là trờng hợp lỗi của 3 em học sinh lớp 5C trờng tiểu học Cát Linh ( Em
Nguyễn Anh Quân, Trần Minh Sang, Nguyễn Xuân Dơng).
Trên đây là những điều tra mà tôi thu thập đợc trong thời gian giảng dạy. Qua

phần điều tra tôi thấy rằng việc sửa lỗi chính tả cho học sinh của giáo viên cha đợc
quan tâm đúng mức. Trong thực tế học sinh còn nhiều em mắc lỗi chính tả.
Chơng III
Những đề xuất
Xuất phát từ cơ sở lý luận cũng nh thực trạng của việc dạy học chính tả hiện
nay, tôi thấy cần thiết phải có các hình thức tổ chức và biện pháp sửa lỗi chính tả
cho học sinh một cách kịp thời dựa trên các nguyên nhân mắc lỗi của chính bản
thân các em.
Cách chữa lỗi thờng nhắc đến là tập phát âm cho đúng. Cách thứ hai là nhớ
từng từ một và cách thứ ba là dùng mẹo.
Sau đây là một số biện pháp mà tôi sử dụng để sửa lỗi cho học sinh trong
quá trình tôi giảng dạy lớp 5 và qua một số gợi ý tham khảo về cách sửa lỗi chính
tả cho học sinh mà giáo viên có thể tiến hành trong khoảng thời gian dài hay ngắn
tùy vào điều kiện của lớp mình. Thực hiện các biện pháp này tôi dựa chủ yếu trên
tinh thần: Yêu cầu học sinh tự sửa lỗi chính tả, tự tìm ra kiến thức bằng chính
hành động của mình, tự đặt mình vào tình huống, nghiên cứu cách xử lý, tự đánh
giá, tự kiểm tra sản phẩm ban đầu., còn giáo viên là ngời hớng dẫn, tổ chức
cho học sinh học tập. Việc sửa lỗi đợc tiến hành mọi lúc, mọi nơi, trong tất cả các
môn học dới hình thức đơn giản, nhẹ nhàng học mà chơi, chơi mà học, và luôn
luôn tập trung chú ý tới ba đối tợng học sinh giỏi, khá, trung bình- yếu. Lấy học
sinh giỏi làm trung tâm.
16
I - Sửa lỗi phụ âm l, n
Hiện tợng lẫn lộn l và n là lỗi chính tả tơng đối phổ biến ở đồng bằng
Bắc Bộ. Qua điều tra, tôi thấy hiện tợng này xảy ra chủ yếu có sự lẫn lộn về từ
vựng và cách phát âm. Để khắc phục tình trạng này tôi đã dùng một số biện pháp
nh sau:
1- Giúp học sinh nắm vững quy tắc chính tả của cặp phụ âm l, n
* Mục đích: Trên cơ sở học sinh nắm vững các quy tắc chính tả, các em sẽ
viết đúng chính tả cho dù các em có phát âm sai.

- Thời gian thực hiện: Việc đa các quy tắc chính tả đợc thực hiện ngay trong
các tiết dạy chính tả. Tuy nhiên trong một khoảng thời gian 40 phút ta không thể
đa hết các quy tắc đợc mà phải kết hợp với các môn học khác nh tập đọc, luyện từ
và câu mỗi khi có hiện tợng chính tả liên quan.
* Nội dung quy tắc:
a) L đứng trớc âm đệm nhng N lại không đứng trớc âm đệm, ngoại lệ
duy nhất là noãn. Khi học sinh đã nắm đợc quy tắc này các em sẽ không bị
lúng túng khi viết các từ có âm đệm bắt đầu L.
Ví dụ: cái loa, loạc choạc
Đối với những học sinh trung bình và yếu, để giản tiện bởi chính các em
nhiều lúc còn lẫn lộn và không phân biệt đợc âm đêm, giáo viên có thể nói chữ
n không bao giờ đứng trớc một vần bắt đầu bằng oa, õa, oe, uê, uy, trái lại l
đứng trớc các vần ấy. Nh vậy, các em chỉ cần nhớ máy móc rằng: đi đôi với các
vần bắt đầu bằng oa, õa, oe, uê, uy thì phụ âm đầu luôn luôn là l chứ không
phải là n.
Ví dụ: chói lòa, loăn xoăn, túy lúy,
Để học sinh khắc sâu đợc kiến thức, mở rộng vốn từ giáo viên yêu cầu học
sinh tìm thêm các tiếng hoặc từ có phụ âm đầu là l và bắt đầu bằng các vần trên:
17
lóa mắt, lõa xõa, loại, loai choai, loài, loan báo, loạn, lở loét,.Ngoài ra còn có
các từ: lý luận, luật lệ, luyến tiếc,
Để cho học sinh đỡ căng thẳng thì phần tìm từ giáo viên có thể tổ chức
thành trò chơi ngắn( khoảng 2 phút) thi tìm từ nhanh( chơi tại chỗ).
b) Về mặt láy âm, vần l và n đối lập nhau:
* Vị trí 1:
- L láy vần rộng rãi trong tiếng Việt, láy vần với rất nhiều âm đầu: lõm
bõm, lạch cạch, lỉnh kỉnh, liên miên, lã chã, lạo xạo, liêu xiêu, lăn tăn, lai rai, lèo
nhèo, lom khom, lơ ngơ, lởn vởn, luýnh quýnh,.
- N thì không láy âm với âm đầu nào khác mà chỉ điệp âm đầu thôi: no
nê, nao núng, nờm nợp, náo nức, nơng náu, nuôi nấng,

- Không có hiện tợng L láy với N
Khi đa ra quy tắc này, giáo viên có thể yêu cầu học sinh khá giỏi tìm trong
bài những từ chứa hiện tợng chính tả trên.
Ví dụ: lẫn lộn, nở nang, lở loét, lo lắng, niềm nở, nức nở, nể nang,
Việc học sinh tự tìm ra các từ chứa hiện tợng chính tả đã học giúp các em
nhớ rất lâu, khi viết không bị lẫn lộn.
* Vị trí 2: ở vị trí này, trong bài học không có từ chứa hiện tợng chính tả cần
nói đến. Vì vậy, giáo viên có thể khéo léo cung cấp quy tắc chính tả này thông qua
các môn học khác. Đó là:
- N chỉ láy với gi và láy với nguyên phần vần mà không có âm đầu:
gian nan, gieo neo, giãy nảy, áy náy, ảo não,
- L láy với những âm khác gi : khéo léo, khoác loác, lăng nhăng, lặt vặt,
lai rai, lăn tăn, lộp độp, leng keng, làu bàu, lắp bắp,
c) Về những từ đồng nghĩa:
18
Có khoảng 40 từ đồng nghĩa thành cặp l - nh
Ví dụ: lặt nhặt, lầm nhầm, lỡ nhỡ, lố lăng, nhố nhăng, lanh lẹn, nhanh nhẹn,
lem luốc,
Phần này giáo viên không nhất thiết phải đa ra cho học sinh vì nh thế rất
phức tạp, học sinh sẽ bị rối ( đây là phần chuyên sâu cho những ngời nghiên
cứu). Giáo viên chỉ cần cho học sinh biết: những từ chỉ trỏ đều viết là n : nầy,
này, nọ, ni, nớ, nào, nó tơng ứng với các từ chỉ trỏ chính thức: đây, đó, đâu, đấy,

d) Về nghĩa từ:
- Những từ chỉ ẩn nấp viết n : né, nấp, nơng náu,
- Những từ chỉ phơng hớng viết n : nam, nồm,
Với các quy tắc này, học sinh phải nhớ máy móc. Giáo viên lu ý thờng
xuyên yêu cầu học sinh tìm ví dụ thực tế. Đặc biệt đối với học sinh trung bình,
mỗi hiện tợng chính tả giáo viên cần đa một ví dụ và phân tích ( có thể hỏi học
sinh), coi nh đây là việc trực quan cho học sinh. Dựa vào phần phân tích ví dụ của

cô giáo các em sẽ liên hệ sang các ví dụ khác.
2 - Giúp học sinh ghi nhớ chữ viết gắn liền với nghĩa từ- từ có vấn đề chính
tả
* Mục đích của phơng pháp này
Trong thực tế còn rất nhiều học sinh viết sai chính tả do không hiểu hoặc
hiểu sai nghĩa của từ. Với những trờng hợp này, giáo viên cần giúp các em ghi nhớ
chữ viết gắn liền với nghĩa của từ có vấn đề chính tả. Trên cơ sở học sinh đã
hiểu đợc nghĩa của từ, các em sẽ không viết sai từ đó.
Ví dụ: Nếu học sinh hiểu nghĩa của từ trí trong bố trí là bày đặt thì các
em sẽ không viết nhầm thành bố chí, hay chí trong chí hớng, bền chí là
19
lòng mong muốn, mục đích đi đến, thì các em sẽ không viết lẫn lộn thành trí h-
ớng hay bền trí.
Thực hiện phơng pháp này tốt nhất là cung cấp cho học sinh từ trong ngữ
cảnh. Mỗi tiết học có thể cung cấp cho học sinh nhiều từ trong một hoặc trong
nhiều ngữ cảnh, hoặc để học sinh tự tìm ngữ cảnh để giải nghĩa từ- ngữ cảnh có ý
nghĩa đặc biệt giúp học sinh nắm đợc nghĩa từ dễ dàng, nhẹ nhàng và làm điểm
tựa cho trí nhớ.
Ví dụ: Nó khóc nức nở.
Sự việc đã vỡ lở.
Ngoài vờn, những bông hoa đua nở.
(Dựa vào ngữ cảnh trên học sinh sẽ giải nghĩa đợc các từ : nức nở, vỡ lở,
đua nở)
Khi cần sử dụng từ, nếu còn phân vân về chữ viết các em sẽ liên tởng đến
ngữ cảnh và suy luận ra cách viết chữ. Làm sao trong một tiết học chính tả, phải
tạo điều kiện cho học sinh trở đi trở lại với những từ cần ghi nhớ nhiều lần. Chẳng
hạn, lần thứ nhất vào bài học, yêu cầu học sinh đọc thầm bằng mắt ngữ cảnh để
hiểu nghĩa từ và nhớ ngữ cảnh. Lần thứ hai, yêu cầu học sinh lựa chọn các từ trong
ngữ cảnh vừa cung cấp để điền từ vào một ngữ cảnh khác. Lần thứ ba, yêu cầu học
sinh đặt câu với từ vừa học, tìm từ ghép, từ láy với tiếng có vấn đề chính tả Nh

vậy trong một tiết học, học sinh đã đợc mắt nhìn, tay viết chữ có vấn đề chính
tả nhiều lần.
Ví dụ:
Lần 1: Em hãy đọc thầm các câu sau đây và tìm các từ có phụ âm đầu là l
và n
20
Không thể lẫn chị Chấm với bất cứ ngời nào khác. Chị có một thân hình nở
nang rất cân đối. Hai cánh tay béo lẳn, chắc nịch. Đôi lông mày không tỉa bao giờ,
mọc lòa xòa tự nhiên, làm cho đôi mắt sắc sảo của chị dịu dàng đi.
Lần 2: Tìm những chữ bỏ trống bắt đầu bằng l và n để điền vào câu sau:
- Khi viết chính tả, chúng ta không đợc.giữa l và n.
- Lý Đức là một vận động viên thể dục thể hình. Cơ thể anh ta rất cân
đối.
- Lần 3: Em hãy tạo từ ghép có tiếng lộn và nở
- Lộn: lẫn lộn, lộn xộn,
- Nở: nở nang, nức nở,.
Lần 4 : Em hãy đặt câu với mỗi từ nở nang, lẫn lộn.
Với học sinh giỏi, giáo viên yêu cầu các em về nhà viết đoạn văn có sử dụng
các từ trên. Những thao tác điền từ, đặt câu, tạo từ đều đợc thực hiện bằng tay,
bằng mắt, giảm nói và đọc. Với học sinh trung bình phần đặt câu coi nh là bài tập
chính tả về nhà cho các em.
Giáo viên tăng cờng giải nghĩa từ cho học sinh thông qua các môn học khác
đặc biệt là phân môn tập đọc và luyện từ và câu.
3- Tăng cờng thao tác phân tích âm tiết ở học sinh
Phân tích ngôn ngữ là một phơng pháp đặc thù trong dạy học tiếng Việt. ở
phân môn chính tả, phơng pháp này thể hiện cụ thể ở phân tích âm tiết (chữ viết).
Lỗi chính tả có thể xảy ra ở một hoặc nhiều bộ phận cấu tạo nên âm tiết (chữ
viết ) tiếng Việt. Vì vậy, phân tích âm tiết có tác dụng tăng cờng hiệu quả tri giác
chữ viết, khắc sâu cách viết đi liền với nghĩa từ mà nó biểu đạt. Cần phải để việc
phân tích cho học sinh làm. Khi tiến hành phân tích âm tiết, học sinh buộc phải

quan sát chữ viết một cách tờng tận (không còn nghe lơ mơ từ lời ngời khác đọc)
21
buộc phải tự tay viết ra chữ, thao tác nhiều, chữ và nghĩa sẽ gắn chặt vào trí nhớ,
chắc chắn lỗi sẽ giảm. Có thể đa một biểu bảng giáo viên làm mẫu một từ, còn lại
học sinh làm tiếp.
Ví dụ:
Từ hoặc cụm từ Tiếng Phụ âm đầu Vần Dấu thanh
Lẫn lộn Lẫn l ân ~
lộn . . .
Nở nang
Đối với học sinh trung bình, giáo viên làm mẫu cho các em từ 1- 2 từ. Với
học sinh còn yếu nhất thiết giáo viên phải làm mẫu tay đôi cho các em làm theo.
Có nh vậy, các em dựa vào bài mẫu của giáo viên và sẽ tiếp tục phân tích các từ
khác với sự trợ giúp của cô giáo.
Bài tập về nhà cũng yêu cầu học sinh làm kiểu này với các từ lo lắng, lở loét,
niềm nở, nức nở, nắng nôi, nể nang, lanh lợi, lành lặn, nông nổi,.và yêu cầu học
sinh tìm thêm một số từ khác để phân tích cho thành thạo.
4- Hớng dẫn học sinh thực hành luyện tập nhằm hình thành các kỹ xảo chính
tả
Yêu cầu luyện tập nhằm củng cố, trau dồi kỹ năng viết đúng chính tả tiếng
Việt nói chung cho học sinh một cách có hệ thống ( qua các bài tập giúp học sinh
ghi nhớ về quy tắc chính tả, phân biệt cách viết các cặp phụ âm đầu, vần, thanh dễ
lẫn do đặc điểm phát âm địa phơng). Đây cũng là bớc vừa rèn kỹ năng vừa củng
cố hoặc ôn tập kiến thức chính tả theo chơng trình của mỗi lớp. ở phần này, để
khẳng định cho học sinh trong việc làm các bài tập, giáo viên có thể làm mẫu và
tăng cờng gợi ý, hớng dẫn học sinh về cách làm, tránh thả nổi hoặc làm thay
học sinh. Giáo viên lu ý học sinh gắn từ ấy với phần bài tập đọc đã học và ngữ
cảnh.
22
Nhìn chung qua các kiểu bài tập về chính tả, mỗi bài phải đáp ứng nhiệm vụ

chữa một vài lỗi chính tả cụ thể, theo một mức độ cụ thể.
a) Viết chính tả
Ví dụ: Bài viết Luật bảo vệ môi trờng
Sau khi học sinh viết bài chính tả trên, giáo viên yêu cầu học sinh làm bài tập
2- SGK Tiếng Việt 5 tập 1- trang 104
* Tìm từ chứa tiếng có âm đầu là l hoặc n
M: lấm: lấm tấm.
nấm: nấm rơm .
Giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ chứa các tiếng cho sẵn có chứa âm đầu
l hoặc n
Thông qua bài tập trên giúp học sinh phân biệt so sánh l và n để viết
đúng các tiếng có phụ âm đầu viết là l và n.
* Giáo viên có thể đa thêm bài tập điền l hoặc n cho học sinh thực hành:
+ Điền l hoặc n vào chỗ trống:
- Đất cao anh
- Răng anh
- am ữ học sinh ớp em chăm o học tập.
- Con đờng ày ối iền Hà ội với am Định.
- Trời ắng to, ếu không đội mũ sẽ ốm.
- Hoa ở ấp ó giữa đám á rậm rạp.
- Cái ọ ục bìnhó ăn ông ốc.
+ Nối từng tiếng bên trái với tiếng thích hợp bên phải để tạo từ ngữ đúng:
tốt
lòng vòng
23
cột
nọc
nòng sông
súng
đỏ

b) Đa ra những câu trong đó có hai hay nhiều chữ viết khác nhau mà các em
hay lẫn lộn và yêu cầu học sinh điền những chữ đúng vào những chỗ trống:
- Một đạn nổ (loạt hay noạt).
- Nó để sách vở . xộn (nộn hay lộn).
- Sóng nớc . tăn (năn hay lăn).
- Nó đang húi đọc sách (lúi hay núi).
- Không đợc tung (nói lăng nung ; nói lăng lung; nói năng nung
hay nói năng lung).
c) Chỉ ra những chữ viết sai chính tả và viết lại cho đúng:
- Đừng ăn nói nộp chộp.
- Con thuyền nênh đênh trên mặt biển.
- Chỉ một nát bố tôi đã chặt phăng cây gỗ.
- Noáng một cái công việc đã xong.
- Chúng ta phải chăm nuyện tập thể thao.
- Nó đến nhng ló không nên tiếng.
d) Giáo viên đa ra những chữ viết sai lỗi chính tả theo cách viết thờng gặp
của học sinh và yêu cầu các em chữa chung cả lớp, đồng thời giải thích tại sao mà
sai. Việc giải thích chủ yếu do giáo viên hớng dẫn, gợi ý học sinh giỏi làm.
Ví dụ: Phát hiện những lỗi sai, giải thích tại sao sai và sửa lỗi
24
- Ai lấy đều chăm chú dõi nhìn theo con thuyền đang nênh đênh đi về hớng
lam. Trời nặng gió, sóng năn tăn, mọi ngời đều yên tâm, không áy láy, no nắng gì.
- Chỉ một lát, chú tôi chặt gẫy cây chà nà, tôi giãy lảy kêu lên, lớc mắt rơi
nã chã, tiếc công vun bón. Cả ngày tôi thật buồn và ảo lão, nhng đã nỡ rồi, biết khi
lào trồng lại đợc.
e ) Các em tự mình đặt ra những câu trong đó có sự đối lập giữa l và n
Ví dụ: Đặt câu trong đó có nó, ló.
Đặt câu trong đó có lắng, nắng.
Trên đây là một số kiểu bài tập tôi đã đa ra cho học sinh thực hành. Trong
một tiết dạy, giáo viên không thể đa hết các loại bài tập này, do vậy giáo viên cần

khéo léo lựa chọn các dạng bài tập cần thiết nhất để chữa trên lớp. Các dạng khác
có thể cho học sinh về nhà làm hoặc làm vào những giờ hớng dẫn học buổi chiều
hay bổ sung vào các tiết học khác.
5- Tăng cờng yêu cầu học sinh tự chữa lỗi chính tả
Các em tự chữa lấy bài chính tả của mình là chính; học sinh dùng bút chì
gạch chân dới những chữ viết sai và viết lại đúng ra lề cùng dòng, sau đó học sinh
tính lỗi và ghi nhỏ ở ngoài lề số lỗi mình mắc phải trong bài của mình. Học sinh
có thể đổi vở, tự soát lỗi cho nhau. Mỗi khi mắc lỗi, học sinh tự giác giơ tay để
giáo viên biết. Làm nh vậy, giáo viên nắm ngay những lỗi phổ biến trong lớp. Giáo
viên có thể yêu cầu học sinh về nhà viết lại những lỗi của mình đã mắc.
Khi chấm bài chính tả, giáo viên cần chỉ ra cho học sinh thấy loại lỗi mà
học sinh thờng mắc phải. Có thể yêu cầu những em thờng mắc lỗi chính tả trả lời
câu hỏi:
- Trong bài chính tả vừa qua em đã mắc những lỗi nào?
- Những lỗi đó thờng viết sai ở bộ phận nào của tiếng?
25

×