Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM EXIMBANK

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.46 KB, 4 trang )


PHÂN TÍCH CỔ PHIẾU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ
PHẦN XUẤT NHẬP KHẨU VIỆT NAM EXIMBANK TRÊN THỊ
TRƯỜNG OTC
1. Sơ lược về cổ phiếu ngành ngân hàng trên thị trường OTC
Trong giai đoạn điều chỉnh sau của TTCK Việt Nam thời gian qua, hàng loạt cổ
phiếu trong tất cả các ngành đều giảm giá rất mạnh, tuy nhiên cổ phiếu được đánh giá là
hấp dẫn nhất hiện nay là cổ phiếu ngân hàng được dự báo là vẫn tiếp tục thu hút các nhà
đầu tư. Hiện nay trên thị trường chứng khoán Việt Nam, mới có hai ngân hàng TMCP là
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) và Ngân hàng TMCP Á châu (ACB)
tham gia niêm yết, còn lại khoảng 20 Ngân hàng đã phát hành cổ phiếu đang giao dịch trên
thị trường OTC.Qua đợt điều chỉnh này, đã phân tốp thị trường (trên OTC) thành 2
nhóm,dẫn đầu vẫn là nhóm cổ phiếu của Techcombank, EIB, MB với mức giá cao gấp 10 –
17 lần mệnh giá. Kế đến là nhóm Habubank, VIB Bank, ABBank, VPBank, Southern Bank
với 6 – 9 lần mệnh giá...
Theo đánh giá của các chuyên gia, cổ phiếu ngân hàng luôn hấp dẫn hơn so với nhiều
loại cổ phiếu khác trước hết là nhờ khả năng sinh lời rất lớn. trong khi rủi ro thường được
cơ quan quản lý đứng ra chia sẻ nhằm tránh hiệu ứng xấu theo dây chuyền (lợi nhuận năm
2006 của các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc nhóm cao nhất trong nền kinh tế) cùng
theo đó là hầu hết các ngân hàng đều công bố những mức lãi vượt trội, về những kế hoạch
mở rộng kinh doanh đầy tham vọng và những phương án tăng vốn, chi trả cổ tức hấp dẫn
càng khiến CP của các NH này trở nên hấp dẫn.
Bên cạnh đó, các cam kết mở cửa khi gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực
ngân hàng được đánh giá là khá thận trọng khiến giới đầu tư nhận định, thay vì thành lập
các ngân hàng con tại Việt Nam, các ngân hàng nước ngoài muốn tham gia thị trường Việt
Nam sẽ tăng cường đầu tư vào hệ thống ngân hàng trong nước thông qua việc mua cổ phần.
2. Sơ lược về ngân hàng Eximbank
2.1. Lịch sử hình thành và phát triển:
Ngân hàng cổ phần thương mại xuất nhập khẩu Việt Nam-Eximbank là ngân hàng
thương mại cổ phần đầu tiên của Việt Nam, được thành lập vào ngày 24/04/1989 theo
quyết định số 140/CT của Chủ Tịch Hội Đồng Bộ Trưởng với tên gọi đầu tiên là Ngân


Hàng Xuất Nhập Khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Bank).
Ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động từ 17/01/1990. Ngày 06/04/1992, Thống
Đốc Ngân Hàng Nhà nước Việt Nam ký giấy phép số 11/NH-GP cho phép Ngân hàng hoạt
động trong thời hạn 50 năm với số vốn điều lệ đăng ký là 50 tỷ đồng với tên mới là Ngân
Hàng Thương Mại Cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam (Vietnam Export Import Commercial
Joint-Stock Bank) gọi tắt là Vietnam Eximbank. Đến tháng 12/2006 vốn điều lệ của
1

Eximbank tăng lên 1.212,371 tỷ đồng. Hiện nay, ngân hàng đang có kế hoạch tăng vốn điều
lệ lên 2.800 tỷ đồng.
Eximbank có địa bàn hoạt động rộng khắp cả nước với trụ sở chính đặt tại thành phố
Hồ Chí Minh và 29 chi nhánh, phòng giao dịch được đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang,
Cần Thơ, và Hồ Chí Minh. Ngân hàng cũng đã thiết lập được quan hệ đại lý với hơn 640
ngân hàng ở 65 quốc gia trên thế giới.
2.2. Các sản phẩm và dịch vụ:
Các nghiệp vụ chính mà Eximbank cung cấp bao gồm:
- tiết kiệm, tiền gửi
- tín dụng bảo lãnh
- thanh toán quốc tế, chiết khấu chứng từ
- dịch vụ tài chính du học
- kinh doanh ngoại tệ
- thẻ tín dụng và một số dịch vụ khác như: ngân quỹ, tư vấn tài chính tiền tệ, dịch
vụ địa ốc, truy vấn tài khoản, dịch vụ telephone-banking, home-banking, chuyển tiền từ
nước ngoài…
Trong đó, lĩnh vực mà Eximbank có thế mạnh và đã tạo được uy tín đó là: tài trợ xuất
nhập khẩu, kinh doanh ngoại hối và thanh toán quốc tế.
2.3. Phân tích SWOT
2.3.1. Điểm mạnh
- Đội ngũ lãnh đạo, cán bộ công nhân viên nhiệt huyết, được đào tạo bài bản, có trình
độ nghiệp vụ tốt.

- Về quan hệ trong nước: xây dựng được mối quan hệ tốt với ngân hàng nhà nước và
uy tín cũng như lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế
và tài trợ xuất nhập khẩu.
- Về quan hệ quốc tế: có hệ thống mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn (khoảng 640
ngân hàng) ở 65 quốc gia.
- Chi phí: chi phí bình quân đầu vào thấp, lãi suất cho vay là thấp nhất trong số các
ngân hàng TMCP.
2.3.2. Điểm yếu
- Quy mô vốn hoạt động còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển
- Mạng lưới hoạt động: mạng lưới chi nhánh và hệ thống bán lẻ còn hạn hẹp.
- Quản trị rủi ro: bộ phận quản trị rủi ro còn kiêm nghiệm tại các phòng nghiệp vụ.
2

2.3.3. Cơ hội
- Công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển và hiện đại hơn, đem lại nhiều thuận lợi
cho việc đa dạng hoá các sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ.
- Thị trường cho hoạt động ngân hàng nói chung và thị trường xuất nhập khẩu nói
riêng ngày càng phát triển cùng với việc nền kinh tế Việt Nam tiếp tục đạt mức tăn trưởng
cao, ổn định và hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng sôi động.
2.3.4. Thách thức
- Áp lực cạnh tranh trong và ngoài nước tăng: các ngân hàng Việt Nam xuất hiện
ngày càng nhiều, quy mô ngày càng được mở rông, sản phẩm ngày càng đa dạng và cạnh
tranh chủ yếu bằng chất lượng dịch vụ. Ngoài ra, việc Việt Nam chính thức trở thành thành
viên của WTO sẽ tạo cơ hội khai thác thị trường cho các ngân hàng nước ngoài vốn có thế
mạnh về vốn và công nghệ.
- Sản phẩm dịch vụ thay thế: sự phát triển của thị trường vốn sẽ ảnh hưởng tới nhu
cầu của các cá nhân, tổ chức về sản phẩm, dịch vụ ngân hàng.
2.4. Tình hình kinh doanh:
Cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á 1997-2000 cùng với những món nợ quá hạn mà
Eximbank phải đối mặt năm 1999, 2000 đã ảnh hưởng xấu tới hiệu quả hoạt động kinh

doanh của ngân hàng trong giai đoạn 1999-2003. Điều này được thể hiện qua việc các chỉ
số sinh lời luôn nhỏ hơn nhóm các ngân hàng TMCP và thường nhỏ hơn hoặc bằng 0.
Từ năm 2003, nhờ việc ý thức được điểm yếu của chính mình và huy động được
nhiều vốn để phục vụ kinh doanh thông qua việc phát hành cổ phiếu, kết quả hoạt động
kinh doanh đã được cải thiện đáng kể: tỷ lệ nợ xấu của Eximbank giảm mạnh nhất trong
các ngân hàng (trong quý 3 năm 2006 tỷ lệ này = 1,25% tổng dư nợ), tốc độ tăng trưởng tín
dụng tăng qua các năm (chứng tỏ EIB ngày càng được khách hàng tin tưởng), chi phí quản
lý chung giảm (phản ánh công tác quản lý chi phí, thu nhập có hiệu quả hơn)…
3. Phân tích cổ phiếu Eximbank
Ngân hàng eximbank đã có một thời gian dài khoảng 5 năm từ 2000 đến 2004 làm ăn
không có lãi, chính vì vậy trong thời điểm đầu cổ phiếu này xuất hiện trên thị trường, giá
không biến động nhiều. Sau đó, từ năm 2005 giá cổ phiếu bắt đầu có những biến động
mạnh mẽ và có lúc là cổ phiếu ngân hàng nóng nhất trên thị trường OTC.
Chính vì vậy bài viết sẽ phân tích giá cổ phiếu từ thời điểm đầu năm 2005 sau khi
Eximbank chính thức tăng vốn điều lệ từ 300 tỷ đồng lên 500 tỷ đồng thông qua đợt phát
hành cổ phiếu mới được bảo lãnh bởi VCBS ngày 20/12/2004.
3.1. Biến động giá của cổ phiếu Eximbank
Từ đầu 2005 tới nay, dù giá cổ phiếu eximbank rất biến động nhưng có thể phân chia
việc tăng giá của eximbank thành ba giai đoạn chính:
3

Giai đoạn 1 : từ đầu năm 2005 tới 31/12/2005
Đây là giai đoạn cuối trong kế hoạch 3 giai đoạn được nêu trong bản cáo bạch tăng
vốn năm 2004. Theo đó, năm 2005 sẽ là năm để xử lý hết những tồn đọng trong quá khứ để
mở ra một thời kỳ tăng trưởng mới.
Vào đầu năm 2005, giá cổ phiếu của eximbank là khoảng 1,1 triệu đồng/cổ phiếu
( mệnh giá 1 triệu đồng). Giá đó xấp xỉ với mức giá trúng trong đợt đấu giá cổ phiếu tăng
vốn điều lệ cuối năm 2004.
Đến tháng 8/2005, giá cổ phiếu tăng lên 1,5 triệu đồng/cổ phiếu. Cho tới thời điểm
đó, mặc dù kết quả kinh doanh đã có tiến triển nhưng dường như các nhà đầu tư vẫn chưa

thể tin tưởng vào ngân hàng mà suốt vài năm trời không thể trả cổ tức.
Sau đó, do kết quả kinh doanh khả quan với việc lần đầu tiên có cổ tức để chia cho
cổ đông, và có đợt tăng vốn mới từ 500 lên 700 tỷ đồng, cổ phiếu eximbank bắt đầu tăng
giá rất mạnh.Ngày 31/12/2005, giá cổ phiếu tăng lên 3,05 triệu đồng/cổ phiếu và đạt mức
tăng trưởng thị giá là khoảng 182%.
( Nguồn: Trang web của bộ công nghiệp : www.moi.gov.vn)
Giai đoạn 2: từ 1/1/2006 tới 31/12/2006
Sang tới đầu năm 2006, cổ phiếu eximbank tiếp tục giữ được tốc độ tăng trưởng thị
giá cao, 12/1/2006 giá là 3,9 triệu đồng, tới 16/2/2006 giá đã lên tới 5,2 triệu đồng và tới
25/2/2006 tức là ngay trước đại hội cổ đông năm 2005, giá của cổ phiếu eximbank đã tăng
lên khoảng 6 triệu đồng/cổ phiếu.
Vào ngày 26/2/2006, sau tin tức từ đại hội cổ đông giá cổ phiếu bắt đầu có xu hướng
giảm giá. Đợt giảm giá này kéo dài khoảng 1 tháng với hai nguyên nhân chính. Thứ nhất,
những kết quả kinh doanh dù rất ấn tượng so với quá khứ nhưng mức trả cổ tức của
eximbank lại thấp hơn so với các ngân hàng( mức trả cổ tức từ lợi nhuận chỉ là 3,1%). Thứ
hai là do thông tin ngoài luồng cho biết giá bán của eximbank cho ngân hàng nước ngoài là
khoảng 4x, thấp hơn nhiều mức giá trên thị trường. Tính tới đầu tháng 3 giá của eximbank
đã có lúc giảm xuống 5,2-5,3.
Tuy nhiên, 1 tháng sau đó, giá eximbank lại tiếp tục một chu kỳ tăng trưởng mới. Giá
liên tục tăng, vào tháng 4 là khoảng 6x, tới tháng 5 là khoảng 7,4-7,5, sau ngày chốt quyền
27/5/2006, giá giảm một chút còn khoảng 7,0-7,2. Sau đó giá của eximbank dao động trong
khoảng 7,8-8,0 trong một thời gian dài, có lúc giá lên tới 8,2. Trong gia đoạn đó, eximbank
liên tục nhận được những tin tức tốt mà trong số đó là những lời đồn đại về tổ chức nước
ngoài làm đối tác chiến lược của eximbank và giá mua của đối tác này.
Cuối tháng 7/2006, Eximbank lại trải qua một đợt giảm giá, giá có lúc hạ xuống 6,0
do giá cổ phiếu STB trên sàn chứng khoán Hostc giảm. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, giá của
eximbank lại tăng rất mạnh lên 7,4-7,5 do những thông tin về kết quả kinh doanh ấn tượng
70 tỷ đồng tiền lãi trong tháng 7 và đợt phát hành cổ phiếu mới để tăng vốn điều lệ.
4

×