Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

pháp luật về hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.48 KB, 52 trang )

MỤC LỤC
A. LỜI MỞ ĐẦU….…………………………………………………………………
B. NỘI DUNG………………………………………………………………………...
I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán ..............................
1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán ....................
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán ............................................................................
1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán ....................................................................
2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán ....................
2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán. ..................................................................................................................................
2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market): ..................................................................
2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market): .............................................................
2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán.. .............
2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp
Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần. ....................................................................
2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán
sơ cấp. ..................................................................................................................................
2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp. ..................
2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch vụ
này được thực hiện theo hai cách. .......................................................................................
2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán. .............................................................
2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ .........................................................................................
2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán ..........................................................
3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng
khoán ...................................................................................................................................
1. Trên thị trường sơ cấp ..................................................................................................
1
1.1. Vai trò phát hành .........................................................................................................
1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp ................................................................................................
1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành ......................................................................
2. Trên Thị trường thứ cấp ..............................................................................................


2.1. Kinh doanh trái phiếu ..................................................................................................
2.2. Sản phẩm phái sinh ....................................................................................................
2.3. Cho vay chứng khoán ..................................................................................................
II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam ........................
1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ..............................................
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam ...........
1.2. Thực trạng của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay ...................................
2. Sự tham gia của Ngân hàng thương mại trên Thị trường chứng khoán ...............
2.1. Ngân hàng thương mại tham gia với tư cách là tổ chức cung cấp dịch vụ thông
qua các các công ty chứng khoán của mình .....................................................................
2.2. Ngân hàng thương mại tham gia vào thị trường chứng khoán với tư cách là chủ
thể phát hành chứng khoán ...............................................................................................
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động của Ngân hàng thương mại
trên thị trường chứng khoán ..............................................................................................
III. Một số giải pháp và phương hướng hoàn thiện ......................................................
1. Đối với Nhà nước và các Cơ quan quản lý thị trường .............................................
2. Các giải pháp đối với các Ngân hàng thương mại ....................................................
C. KẾT LUẬN ...................................................................................................................
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
2
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC VÀ ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THAM GIA
CỦA CÁC THÀNH VIÊN
1. Tiêu chuẩn đánh giá sự tham gia của các thành viên trong việc xây dựng bài tập
nhóm:
Điểm Đánh giá mức độ tham gia Ghi chú
A Tốt – Nhiệt tình “ + ” : Rất
tốt
B Khá
C Trung bình
D Không tham gia

2. Bảng đánh giá:
TÊN THÀNH VIÊN NHIỆM VỤ ĐIỂM
ĐÁNH GIÁ
Lê Thị Hương (Nhóm
trưởng)
Phân công, tổng hợp, đánh giá bài,

A
Lê Thi Dung B.II.2. Sự tham gian của NHTM
trên thị trường chứng khoán
A+
Trần Thị Huyền Trang B.I.3. Mối quan hệ giữa hoạt động
của NHTM và hoạt động của TTCK
A+
Nguyễn Thị Thơ B.III. Một số giải pháp và phương
hướng hoàn thiện
A+
Nguyễn Thi Như Quỳnh B.II.1. Sự phát triển của thị trường
chứng khoán Việt Nam
A+
Hoàng Thị Hồng Nhung B.I.1. Thị trường chứng khoán và
hoạt động của TTCK
A+
Đinh Thị Thương B.I.2. 2. Hoạt động của Ngân hàng
Thương mại trên TTCK
A+
Trương Thị Hương Giang Tìm tài liệu, làm phần Mở đầu, kết
luận
A+
3

A. LỜI MỞ ĐẦU
Xây dựng và phát triển thi thường chứng khoán (TTCK) là một xu thế tất yếu của
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước phát triển cũng như các nước đang
phát triển trong đó có Việt Nam. Đó cũng chính là chủ trương lớn của Đảng và Nhà
nước ta nhằm tạo lập kênh huy động vốn dài hạn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
4
đại hoá đất nước. Định hướng này tiếp tục được khẳng định trong văn kiện Đại hội X
của Đảng: "Phát triển mạnh thị trường vốn theo hướng phát triển vững mạnh hệ thống
ngân hàng thương mại thuộc các thành phần kinh tế, phát huy vai trò của các ngân
hàng trong việc huy động và cho vay vốn đầu tư; đồng thời khẩn trương nâng cấp và
thực hiện các biện pháp đồng bộ để phát triển nhanh TTCK thành một kênh huy động
vốn dài hạn quan trọng trong nền kinh tế. Đẩy nhanh và mở rộng diện cổ phần hóa
doanh nghiệp Nhà nước (DNNN), khuyến khích hình thành các công ty cổ phần thuộc
mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh nghiệp FDI, niêm yết cổ phiếu và huy động
vốn qua TTCK. Hình thành đồng bộ thể chế về TTCK; tăng cường hỗ trợ của Nhà
nước về kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực, phổ cập kiến thức, tạo điều
kiện thuận lợi cho công chúng tham gia thị trường này".
Với trên 5 năm hình thành và hoạt động, thị trường chứng khoán (TTCK) Việt
Nam đã có những bước phát triển đáng kể. Riêng trong năm 2005, chỉ số VNIndex đã
tăng từ 237,23 lên 307,5, tức 30%. Tổng giá trị thị trường đạt 26.878 tỷ đồng, trong
đó cổ phiếu chiếm 10,4%, trái phiếu chiếm 88,7% và chứng chỉ quỹ chiếm 0,9%.
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan
trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường
cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua
hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc
thù của nền kinh tế Việt Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có
sự tham gia của các NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có
những bước phát triển ngoạn mục hơn nữa. Bên cạnh đó việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về hoạt động của NHTM trên TTCK đang là một vấn đề khá nóng
hổi, cần thiết. Làm được điều đó, chúng ta đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho sự

hoạt động và phát triển của NHTM và TTCK.
Chính vì những lý do nêu trên mà nhóm em đi tìm hiểu hệ thống pháp về hoạt
động của NHTM trên TTCK ở Việt Nam hiện nay.
5
B. NỘI DUNG
I. KQC về Ngân hàng Thương mại và Thị Trường chứng khoán
1. Thị trường chứng khoán và hoạt động của thị trường chứng khoán
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, 1992 các tổ chức thuộc nghiên cứu BTC và ngân
hàng nhà nước Việt Nam đã triển khai nghiên cứu đề án hinhg thành phát triển thị
trường vốn ở Việt Nam. Ngày 28/11/1996 Chính phủ ban hành nghị định số 75/CP
thành lập UBCKNN – là cơ quan thuộc chính phủ quản lý các hoạt động về chứng
khoán và TTCK ở Việt Nam.
Ngày 11/07/1998, Nghị định số 48/1998/ NĐ-CP của chính phủ về chứng khoán
và TTCK và Quyết định số 127/1998/QĐ-TTH của thủ tướng chính phủ về việc
thành lập TTGDCK ở HN và TPHCM được ban hành. Ngày 19/02/2004, theo nghị
định 66/2004/NĐ-CP của Chính phủ. UBCK được chuyển về dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Bộ tài chính. Ngày 08/03/2005, TTGDCK HN chính thức được khai trương.
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về thị trường chứng khoán.
- Quan điểm thứ nhất cho rằng thị trường chứng khoán và thị trường vốn là một.
Nếu xét về mặt nội dung, thì thị trường vốn biểu hiện các quan hệ bản chất bên trong
của các quá trình mua bán chứng khoán. TTCK là biểu hiện bên ngoài, là hình thức
giao dịch vốn cụ thể. Do đó, các thị trường này không thể phân biệt, tách rời nhau mà
thoongd nhất phản ánh các quan hệ bên trong và bên ngoài của thị trường thư bản.
- Quan điểm thứ hai của đa số các nhà kinh tế cho rằng : “ Thị trường chứng
khoán được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không đồng nhất là một”. Như vậy, theo
quan điểm này, TTCK và thị trường vốn khác nhau, trong đó TTCK chỉ giao dịch,
mua bán các công cụ tài chính trung và dài hạn như trái phiếu chính phủ, cổ phiếu và
trái phiếu công ty. Các công cụ tài chính ngắn hạn được giao dịch trên thị trường tiền
tệ, không thuộc phạm vi hoạt động của TTCK.

6
- Quan Điểm thứ ba, dựa trên những gì quan sát được đại đa số các Sở giao dịch
chứng khoám cho rằng “Thị trường chứng khoán là thị trường cổ phiếu”, hay là nơi
mua bán cổ phần được các công ty phát hành ra để huy động vốn. Theo quan điểm
này, thị trường chứng khoán đặc trưng bởi thị trường mua bán các công cụ tài chính
mang lại quyền tham gia sở hữu.
Các quan điểm trên đều được khái quát dựa trên những cơ sở thực tiễn và trong
từng điều kiện lịch sử nhất định.
Tuy nhiên quan điểm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp với sự phát triển chung của
TTCK hiện nay, được trình bày trong giáo trình là:
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động phát hành mua bán chuyển
nhượng chứng khoán của các chủ thể trong nền kinh tế như: phát hành, mua bán,
chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán (tặng cho...làm ở trung tâm lưu ký chứng
khoán).
1.2. Hoạt động của thị trường chứng khoán
Hoạt động của thị trường chứng khoán được thể hiện qua hoạt động của thị trường
tập trung, thị trường phi tập trung và một số thị trường chứng khoán khác.
- Sở giao dịch chứng khoán hay còn gọi là thị trường tập trung, nơi diễn ra giao
dịch mua bán, trao đổi chứng khoán của các công ty lớn. Tại đây người mua và người
bán (đại lý,môi giới) gặp nhau tại một địa điểm nhất định để tiến hành giao dịch trao
đổi chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán được quản lý một cách chặt chẽ bởi Ủy
ban chứng khoán quốc gia, các giao dịch này chịu sự điều tiết của Luật chứng khoán
và thị trường chứng khoán. Những thị trường chứng khoán được biết đến là sở Giao
dịch chứng khoán Luân Đôn, Sở giao dịch chứng khoán Mỹ, Sở giao dịch chứng
khoán Pa Ri.
- Thị trường chứng khoán phi tập trung: hoạt động của mô hình giao dịch này
thông qua quầy, là thị trường của các nhà buôn, những người tạo thị trường. Các nhà
buôn có một có một danh mục chứng khoán và họ sẵn sàng mua và bán với các nhà
7
buôn khác cũng như các nhà đầu tư khi những người này chấp nhận giá cả của họ. Thị

trường chứng khoán phi tập trung không có địa điểm giao dịch chính thức mà có thể
diễn ra tại các quầy, sàn giao dịch của các thành viên thông qua điện thoại hay mạng
máy diện rộng. Khối lượng giao dịch của thị trường này lớn hơn rất nhiều lần so với
Sở giao dịch.
Ngoài hai thị trường nêu trên, người ta còn nói đến thị trường thứ ba, thị trường
dành cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn để giao dịch trên thị trường tập trung
và thị trường OTC.
2. Hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán
NHTM có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển TTCK, cả đối với
thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
2.1 Các mô hình hoạt động của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng
khoán.
2.1.1 Trên thị trường sơ cấp (primary market):
- Các ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách là người phát hành và bán cổ
phiếu của mình (ngân hàng cổ phần). các ngân hàng cổ phần phát hành cổ phiếu để
tạo nguồn vốn khi mới thành lập hoặc tăng vốn bổ sung them trong quá trình hoạt
động. ngoài ra, tất cả các ngân hàng (không phân biệt thành phần sở hữu) cũng phát
hành trái phiếu để huy động vốn từ nền kinh tế. Những việc làm này (phát hành cổ
phiếu, trái phiếu) đã tạo cho TTCK một khối lượng hàng hóa rất lớn ở thị trường sơ
cấp.
- Ngân hàng cung cấp các dịch vụ về tư vấn phát hành chứng khoán, làm đại lý
phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán. Các doanh nghiệp muốn
phát hành cổ phiếu (đối với công ty cổ phần) hoặc trái phiếu (đối với tất cả các doanh
nghiệp) để tạo vốn, hoặc bổ sung hay tăng vốn, có thể nhờ ngân hàng làm các dịch vụ:
8
+ Tư vấn về vấn đề phát hành (lựa chọn loại chứng khoán phát hành, lợi suất, thời
hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác);
+ Nhờ ngân hàng làm đại lý phát hành chứng khoán hưởng phí hoa hồng hoặc bao
tiêu toàn bộ chứng khoán của một đợt phát hành và hưởng phí bao tiêu.
2.1.2 Trên thị trường thứ cấp (secondary market):

Các ngân hàng thực hiện các dịch vụ với tư cách là một trung gian môi giới chứng
khoán như:
+ Mua bán chứng khoán hộ cho khách hàng để hưởng phí hoa hồng.
+ Bảo quản hộ chứng khoán.
+ Thu hồi vốn, nhận lãi chứng khoán hộ cho khách hàng cũng như dịch vụ thanh
toán các chứng khoán…Nói ngắn gọn, ngân hàng làm dịch vụ đại diện cho khách
hàng hàng trong việc lưu giữ và quản lý chứng khoán, ghi có vào tài khoản của họ
( khi thu hồi vốn chứng khoán đến hạn, thu lãi chứng khoán, cổ tức…) gửi tại ngân
hàng.
+ Tư vấn mua bán chứng khoán, tư vấn về mặt giá cả chứng khoán khi mua bán
hoặc ngân hàng có thể mua bán chứng khoán cho chính mình để hưởng lợi hoặc
hưởng giá thặng dư hoặc vì nhiều mục đích khác.
Về mặt lý thuyết NHTM có thể thực hiện được tất cả các nghiệp vụ đã nêu trên
nhưng thực tế làm được hay không là do điều kiện cụ thể mỗi ngân hàng trong từng
nước.
Ngày nay, ở các nước, trên TTCK các Ngân hàng tham gia hoạt động với tư cách
là người phát hành và bán các cổ phiếu của mình ( Ngân hàng cổ phần), hoặc mua cổ
phiếu của các doanh nghiệp, của các Ngân hàng khác và của nhà nước, tức là với tư
cách của một khách hàng bình thường trên thị trường. Đồng thời và quan trọng hơn,
các ngân hàng tham gia thị trường với chức năng môi giới ăn hoa hồng hoặc chức
năng kinh doanh chứng khoán.
9
Trong trường hơp làm chức năng môi giới, ngân hàng trên thực tế chỉ thực hiện
yêu cầu của khách hàng là lấy danh nghĩa của mình để mua bán chứng khoán cho
khách hàng và được hưởng một khoản hoa hồng theo thỏa thuận. với chức năng này,
ngân hàng không hề phải bỏ ra một đồng vốn nào, mọi khoản chi phí khách hàng phải
chịu trách nhiệm cung cấp. Hơn nữa, lợi dụng quyền thay mặt mình và quyền không
phải thông báo cho khách hàng biết đã mua chứng khoán của ai hoặc bán cho ai, ngân
hàng có thể bán ngay số chứng khoán của mình cho khách hàng hoặc mua luôn số
chứng khoán của khách hàng cho mình, nếu thấy có lợi. Chẳng hạn, khi một khách

hàng ủy quyền cho ngân hàng mua cổ phiếu của một công ty nào đó với giá “rẻ nhất”
tại thời điểm quy định, thì ngân hàng sẽ không nhất thiết phải mua các cổ phiếu đó ở
Sở GDCK, mà có thể lấy chứng từ dự trữ của mình để bán cho khách hàng. Tất nhiên,
trong trường hợp như vậy, ngân hàng phải nắm vững tỷ giá chính thức để xác định
mức giá bán cho khách hàng.
Các ngân hàng cũng tích cực sử dụng chức năng kinh doanh chứng khoán, tức là
chức năng mua đi bán lại các loại chứng khoán bằng vốn của mình bỏ ra. Đặc điểm
của hình thức kinh doanh này là ngân hàng luôn luôn mua chứng khoán của khách
hàng bằng tiền mình và bán cho khách hàng từ dự trữ của mình. Đồng thời việc thực
hiện các nghiệp vụ này đối với khách hàng không vì mục đích ăn hoa hồng, mà lợi
nhuận chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Nghĩa là ngân hàng sẽ tìm cách mua các
chứng khoán với giá thấp nhất, bán chúng với giá cao nhất.
Một dạng khác của hoạt động kinh doanh trên TTCK của ngân hàng là hoạt động
đầu cơ chứng khoán. ở Sở GDCK khác nhau thị giá của cùng 1 loại chứng khoán cũng
GDCK có mối liên hệ về thông tin rất chặt chẽ. Do đó, các ngân hàng sẽ mua các
chứng khoán ở nơi có thị giá thấp để bán ở nơi có thị gía cao để kiếm lời cho tới khi
thị giá được cân bằng giữa các thị trường.
2.2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán..
10
2.2.1 Ngân hàng là nhân tố góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa các doanh
nghiệp Nhà nước và hình thành các công ty cổ phần.
Ngân hàng tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần hoặc cổ phần hóa các
doanh nghiệp Nhà nước với 1 tỷ lệ cổ phiếu đáng kể để có đủ điều kiện tham gia quản
trị kinh doanh, tín nhiệm. Công ty cổ phần dù mới thành lập hay cổ phần hóa, vốn vẫn
còn hạn hẹp so với yêu cầu của kỹ thuật và công nghệ hiện đại, do đó ngân hàng phải
là trợ thủ đắc lực cho các Công ty cổ phần, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần vay
tín dụng. Như vậy, chính chế độ tín dụng và ngân hàng đã xã hội hóa các nguồn vốn,
giải quyết mâu thuẫn trong sự vận động của nguồn vốn giữa các thành phần kinh tế,
xóa bỏ tính chất tư nhân cá biệt của nguồn vốn trong công ty cổ phần. một doanh
nghiệp có thể bắt đầu hoạt động của mình bằng một món nợ vay ngân hàng. Vay ngân

hàng là một cơ sở hoat động của các doanh nghiệp và năng lực kinh doanh của họ.
các ngân hàng là người đầu tiên đã lập ra việc kiểm tra các hoạt động của công ty, họ
quyết định có nên cho vay hay không và có nên tiếp tục cung cấp tín dụng hay không.
Ngân hàng sẽ cung cấp kinh doanh nếu biết được rằng một Công ty thành công cuối
cùng có thể hoạt động kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Như vậy kỷ cương tài
chính của Ngân hàng sẽ đưa Công ty vào TTCK, sau đó TTCK sẽ bổ sung một kỷ luật
tài chính đối với Công ty.
2.2.2 Ngân hàng giúp các Công ty phát hành chứng khoán trên thị trường chứng
khoán sơ cấp.
Khi những nhà sáng lập một công ty nào đó muốn phát hành chứng khoán để thu
hút vốn, họ có thể dựa vào uy tín và kinh nghiệm của Ngân hàng để ký hợp đồng về
việc phát hành và bán các chứng khoán của mình. Như vậy, Ngân hàng thực hiện
chức năng môi giới phát hành chứng khoán giữa những người muốn bán và những
người mua chứng khoán. Khi đảm nhận vai trò này, Ngân hàng sẽ giúp cho những
người sáng lập công ty chọn lựa loại chứng khoán phát hành, tư vấn về các vấn đề
như lãi suất chứng khoán, thời hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Trong
những trường hợp đặc biệt, như sẽ phát hành khá lớn, các ngân hàng có thể cùng nhau
11
chia sẻ việc dự định số phát hành này nhằm giảm thiểu rủi ro, hoặc mua toàn bộ các
cổ phiếu, trái phiếu phát hành mới và sau đó bán lại cho công chúng. Như vậy, Ngân
hàng đã đóng vai trò quan trọng trên thị trường sơ cấp.
2.2.3 Ngân hàng làm trung gian mua bán chứng khoán ở thị trường thứ cấp.
Đây là dịch vụ ngân hàng rất phát triển ở các nước trên thế giới và ở nước ta sau
này, gọi là dịch vụ trung gian chứng khoán (Brokerate service). Hoạt động loại này
của ngân hàng trên thị trường thứ cấp cần phải có luật pháp đảm bảo với các quy định
chặt chẽ, nhằm tránh những trường hợp đầu cơ gây lộn xộn trên thị trường chứng
khoán.
Ở nước ta, khi thành lập Sở giao dịch chứng khoán, có thể nói ngân hàng là ứng cử
viên có nhiều ưu thế nhất vào chức danh người môi giới chứng khoán, bởi lẽ:
- Ngân hàng là người hiểu biết khá tường tận về các doanh nghiệp phát hành

chứng khoán (thông qua các quan hệ tín dụng, thanh toán…).
- Ngân hàng là người sẵn có những phương tiện kỹ thuật cần thiết phù hợp với yêu
cầu của người môi giới.
- Ngân hàng có đội ngũ cán bộ, nhân viên có nghiệp vụ chuyên môn liên quan chặt
chẽ và gần gũi với những nghiệp vụ về chứng khoán.
2.2.4 Cung cấp các dịch vụ lưu giữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng. Dịch
vụ này được thực hiện theo hai cách.
Ngân hàng có thể lưu giữ các chứng khoán được sử dụng như vật thế chấp cho một
khoản vay của khách hàng; các ngân hàng nhỏ không có đủ điều kiện để giữ chứng
khoán cho khách hàng, có thể giữ chứng khoán tại một ngân hàng lớn; các doanh
nghiệp công ty cũng có thể có yêu cầu này; những cá nhân có nguồn tiền lớn cũng có
thể nhờ ngân hàng quản lý sinh lời tài sản của họ và giao chứng khoán cho ngân hàng
quản lý.
12
Mặt khác, ngân hàng cũng được yêu cầu bởi những người có chứng khoán thực
hiện những dịch vụ có liên quan đến chứng khoán khi họ vắng mặt trong một thời
gian dài, như thu hồi vốn các chứng khoán đến hạn, hoặc thu lãi cổ tức và ghi có vào
tài khoản của họ. Đối với các ngân hàng, đây là dịch vụ ngày càng có khả năng mở
rộng và là một nguồn lợi đáng kể. Còn đối với những người mua bán chứng khoán,
việc ngân hàng sẵn sàng cung cấp loại dịch vụ này đã giúp cho họ đỡ tốn kém chi phí,
thời gian, được an toàn và hưởng lợi hơn nhờ kinh nghiệm và chuyên môn của ngân
hàng.
2.2.5 Thực hiện việc thanh toán các chứng khoán.
Nghiệp vụ thanh toán tiếp nối dịch vụ quản lý chứng khoán đã nêu trên. Ngân
hàng có thể mở cho khách hàng của mình các tài khoản chứng khoán để theo dõi việc
mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán của khách hàng, kể cả việc thu lãi, thu cổ tức.
Rõ ràng những tài khoản chứng khoán sẽ giúp ích rất nhiều cho những hoạt động mua
bán chứng khoán trên thị trường. Các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán, các
trung gian, môi giới không phải bận tâm với việc lưu giữ và theo dõi việc mua bán
một số lượng khổng lồ các cổ phiếu, trái phiếu hằng ngày. Ngân hàng sẽ đảm bảo cho

khách hàng công việc này. Nhờ ngân hàng tổ chức thực hiện việc thanh toán các
chứng khoán, hoạt động mua, bán cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK sẽ thực hiện nhanh
chóng, dễ dàng hơn và không phải di chuyển qua lại một số lượng lớn các cổ phiếu,
trái phiếu rất cồng kềnh, tốn kém.
Cần lưu ý là, chứng khoán lúc đầu chỉ là phương tiện huy động vốn nhưng về sau
cũng trở thành mặt hàng kinh doanh, một sản phẩm đặc biệt, từ đó việc mua bán sản
phẩm đặc biệt này tạo ra một luồng tiền tệ đi ngược chiều. Chính nhờ có hệ thống
ngân hàng, mà hầu hết các giao dịch chứng khoán thực hiện bằng chuyển khoản qua
hệ thống ngân hàng, nên nhu cầu tiền mặt không lớn lắm.
2.2.6 Công tác thanh toán bù trừ
13
Hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra liên tục trên sở giao dịch chứng khoán,
bên cạnh đó là sự luân chuyển của vốn phải làm sao để theo kịp với sự luân chuyển
của chứng khoán. Chúng ta biết rằng hoạt động trên thị trường chứng khoán hết sức
sôi động, nếu tất cả các khoản thanh toán đều thực hiện bằng tiền mặt thì sẽ mất đi sự
sôi động của thị trường, vì người mua, người bán chỉ lo trả tiền và nhận tiền, thu lệ
phí cũng đã mất hết thời gian, đặc biệt là với các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên
nghiệp, các nhà đầu cơ chứng khoán phải có cả một hệ thống người giúp việc mới hy
vọng đáp ứng được công việc thu và trả tiền mặt, và có lẽ sở giao dịch lại biến thành
một “Ngân hàng” và hoạt động giao dịch tiền mặt ngày càng tăng lên theo sự gia tăng
của giao dịch chứng khoán. Để giải quyết được nhược điểm này, người ta áp dụng
thanh toán bằng chuyển khoản, đã giảm đi một gánh nặng lớn, theo đó tất cả ngân
hàng, khi các giao dịch mua bán kết thúc thì mỗi người đều nhận được các giấy báo
Nợ, báo Có mà không cần phải quan tâm đến tiền mặt nữa, đây là một bước tiến lớn
giúp cho thị trường chứng khoán hoạt động được trôi chảy hơn. Do đó, chúng ta cần
phải khẩn trương thúc đẩy mở tài khoản cá nhân để tạo thuận lợi cho hoạt động của
thị trường chứng khoán, khi thực hiện thanh toán bằng chuyển khoản đã giảm bớt thời
gian cho các khoản giao dịch, trong khi đó các nhà đầu tư, các nhà môi giới, các
chuyên gia chứng khoán phải thực hiện rất nhiều giao dịch trong ngày do đó để giản
tiện người ta áp dụng việc thanh toán bù trừ để đơn giản hóa việc thanh toán.

Việc thực hiện công tác thanh toán đều do các ngân hàng đảm nhận, nếu công tác
này được tiến hành tốt sẽ là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự thành công của một thị
trường chứng khoán. Thanh toán và thanh toán bù trừ được thực hiện theo các trình tự
sau:
+ Người mua, người bán, nhà môi giới đều có tài khoản tại một ngân hàng.
Sau khi các lệnh mua bán được các nhà môi giới thực hiện lúc này sẽ có một hóa
đơn được lập để xác định việc mua bán (số lượng, giá cả) để gửi đến ngân hàng nhờ
thanh toán hộ, căn cứ vào hóa đơn ngân hàng sẽ ghi Nợ cho người mua và ghi Có cho
người bán và những người được hưởng hoa hồng, đây là trường hợp thanh toán đơn
14
giản nhất, tất nhiên theo yêu cầu của khách hàng thì có thể được thanh toán ngay hoặc
sau một thời gian nhất định, thường thì sau từ một đến hai ngày vì không thể tất cả
các giao dịch đều thanh toán được ngay, nếu khách hàng muốn thanh toán “nóng” thì
phải trực tiếp mang hóa đơn đến ngân hàng còn thường thì do các người môi giới
chuyển đến ngân hàng để thanh toán, khách hàng có thể nhận báo Nợ, báo Có tại
Ngân hàng hay tại các Công ty chứng khoán.
+ Người mua, người bán, người môi giới không mở tài khoản tại một ngân hàng,
lúc này phải tham gia thanh toán bù trừ qua ngân hàng nhà nước, các hóa đơn mua
bán đều được gửi về ngân hàng người mua và người bán mở tài khoản để thanh toán
sau đó ngân hàng bên mua và bán tham gia thanh toán bù trừ, trong trường hợp này
thì phải mất từ hai đến ba ngày khách hàng mới có thể nhận được giấy báo Nợ, báo
Có.
Nói chung tất cả các trường hợp mua bán chứng khoán đều có tài khoản tại ngân
hàng mới đảm bảo cho giao dịch được diễn ra nhanh chóng, việc muabans bằng tiền
mặt hầu như không còn xuất hiện ở thị trường chứng khoán ngày nay, ở nước ta trong
trường hợp khách hàng chưa có tài khoản tại ngân hàng thì chưa thể tham gia vào hoạt
động ở thị trường được. Lúc này đương nhiên khách hàng phải mở ngay tài khoản ở
một ngân hàng nào đó.
2.2.7 Tư vấn về phát hành và mua bán chứng khoán
a. Phát hành chứng khoán

Vai trò của khâu phát hành chứng khoán rất quan trọng, đó là nơi cung ứng chứng
khoán vào lưu thông - đáp ứng nhu cầu vốn cho chủ thể phát hành – là nơi đầu tiên và
duy nhất các chứng khoán được định giá để “nhảy” vào thị trường. Có thể nói khâu
phát hành chứng khoán giúp cho cỗ máy giao dịch chứng khoán bắt đầu vận hành,
cũng từ đây hình thành thị trường chứng khoán sơ cấp tương lai. Xuất phát từ vai trò
của khâu phát hành chứng khoán và mục đích bảo vệ các nhà đầu tư, nêu ngay từ
khâu đầu tiên là phát hành chứng khoán cần phải được quản lý chặt chẽ.
15
Trong giai đoạn phát hành, tức là đưa chứng khoán ra bán ở thị trường là một
trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình gọi vốn của công ty, hiện tượng
các nhà đầu tư mua chứng khoán có ý nghĩa tán thành hay bác bỏ sự ra đời, tồn tại
hay phát triển của công ty, các công ty cổ phần không chỉ cạnh tranh trên thị trường
hàng hóa, dịch vụ mà còn cạnh tranh trên thị trường vốn để giành được các nhà đầu tư
sẵn sàng cung ứng vốn cho công ty. Việc phát hành có thể chọn những cách sau:
+ Bán riêng cho các nhà đầu tư lớn, hình thức này các nước phát triển đã áp dụng
vì hệ thống các định chế tài chính trung gian phát triển mạnh, đa dạng, nhưng ở nước
ta lại quá ít, chủ yếu tập trung vào ngành ngân hàng tài chính, các công ty tài chính thì
quá nhỏ bé, quĩ bảo hiểm chỉ kinh doanh đơn thuần, quĩ đầu tư, quĩ hưu trí chưa hình
thành. Hình thức phát hành này vừa có lợi cho khách hàng vì huy động được nguồn
vốn nhanh, tập trung, giảm được chi phí phát hành, còn với các nhà đầu tư thì chỉ cần
đầu tư mua cổ phiếu của các tổ chức tài chính trung gian mà không cần phải quan tâm
đến người phát hành.
+ Bán trực tiếp cho các nhà đầu tư cuối cùng, đây là hình thức đang áp dụng phổ
biến nhất ở nước ta hiện nay, các công ty cổ phần mới thành lập phát hành cổ phiếu
lần đầu hoặc phát hành bổ sung đều thực hiện bằng cách thông báo trực tiếp đến các
nhà đầu tư, để họ đăng ký mua cổ phần, sau khi số lượng đăng ký mua đủ thì tổ chức
đại hội cổ đông và chuẩn bị các bước chuẩn bị cho phát hành cổ phiếu, với hình thức
này công ty phát hành sẽ giảm được chi phí qua trung gian, nhưng thực tế việc huy
động vốn chậm, kéo dài và có khi không huy động đủ số vốn cần huy động, nhất là
với các công ty mới thành lập sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn từ các

nhà đầu tư. Với các nhà đầu tư thì phải chịu nhiều rủi ro vì trình độ có hạn, lại không
thể tự nhờ vào một trung gian nào giúp đỡ trong việc quyết định đầu tư.
+ Phát hành thông qua sở giao dịch chứng khoán: Tức là có các định chế tài chính
trung giant ham gia bảo lãnh phát hành, đây là hình thức áp dụng phổ biến nhất hiện
nay ở các nước, vì các công ty cổ phần lớn muốn huy động trong thời gian ngắn đủ số
vốn cần thiết, việc làm này chỉ có thể thực hiện được thông qua các định chế tài chính
16
trung gian bảo lãnh phát hành, tuy chi phí phát hành tăng them nhưng lại thu được
hiệu quả lớn. Hình thức này ở nước ta chưa được áp dụng bởi vì hầu hết các công ty
cổ phần tổ chức dưới dạng công ty cổ phần nội bộ, chưa đạt được là công ty cổ phần
đại chúng. Hình thức này được tiến hành như sau:
Khi công ty làm xong các thủ tục về thành lập công ty thì phải tìm kiếm được các
nhà bảo lãnh, bảo đảm bao tiêu toàn bộ số chứng khoán phát hành, sau đó bán lại cho
các nhà đầu tư cuối cùng để hưởng hoa hồng hay lệ phí phát hành, nó thường được
tính từ 3% đến 10% so với giá bán trực tiếp cho các nhà đầu tư.
b. Giao dịch mua chứng khoán
Việc giao dịch mua bán chứng khoán nói chung được thực hiện thông qua các
công ty chứng khoán thành viên của sở giao dịch chứng khoán, kể cả các công ty
chứng khoán không phải là thành viên cũng phải mua bán thông qua các công ty
thành viên.Về nguyên tắc các công ty chứng khoán thành viên không được thực hiện
giao dịch mua bán ngoài sở giao dịch đã đăng ký. Các công ty chứng khoán thực hiện
giao dịch mua bán chứng khoán với cương vị là người môi giới nên phải tuân thủ lệnh
của khách hàng, hiện nay có thể phổ biến dung ba loại lệnh cơ bản sau: lệnh thị
trường – lệnh giới hạn – lệnh dừng để mua hoặc bán. Tất nhiên trong điều kiện hiện
nay, các nhà đầu tư khó mà lựa chọn được một loại lệnh có lợi nhất, với loại lệnh thị
trường thường được áp dụng khi chỉ số giá chứng khoán ổn định trong một thời gian
dài, người ta mua chứng khoán để hưởng lợi tức là chính và đây cũng là loại lệnh
thông dụng nhất cho các nhà đầu tư sử dụng, tất nhiên đối với các nhà môi giới vẫn
phải thận trọng tính toán để sao cho việc mua bán cho khách hàng là có lợi nhất, có
như vậy các nhà môi giới mới mới thu hút được khách hàng, tạo ra uy tín lớn trong

công chúng. Với loại lệnh giới hạn nó thường được sử dụng cho các nhà đầu tư có sự
hiểu biết về kinh tế, biết phân tích, nhận định tình hình tương lai của loại chứng khoán
đó để ra mức giới hạn, theo đó các nhà môi giới thực hiện theo lệnh của khách hàng,
thường lệnh này không được thực hiện ngay, cần phải có thời gian. Còn với lệnh dừng
17
để mua bán thường áp dụng cho các nhà đầu cơ ngắn hạn, nhằm hạn chế các mức rủi
ro mà họ gặp phải, nên thường họ tính trước một mức lời theo đó giá lên cao hoặc
xuống thấp đến một mức nào đó thì phải bán ra hoặc mua vào.
Nói chung các loại lệnh này còn tùy thuộc tình hình thực tế để lựa chọn và trong
thời gian đầu thị trường mới đi vào hoạt động thì sự giúp đỡ của các nhà môi giới rất
quan trọng, sự giúp đỡ đó sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư lựa chọn cho mình một
loại lệnh tốt nhất, tất nhiên đây cũng là sự giúp đỡ mà thôi, cái chính vẫn do các nhà
đầu tư quyết định.
Đi kèm với các loại lệnh là định chuẩn lệnh, nó là khoảng thời gian có hiệu lực để
các nhà môi giới thực hiện lệnh của khách hàng, khách hàng có thể lựa chọn một
trong các loại định chuẩn lệnh như: lệnh có giá trị trong ngày; lệnh có giá trị đến khi
hủy bỏ lệnh với giá mở cửa; lệnh với giá đóng cửa; lệnh thực hiện nay tức khắc hoặc
hủy bỏ.
Sau khi khách hàng và công ty chứng khoán đã thống nhất được một số điểm
chính như lựa chọn loại chứng khoán, lựa chọn lệnh và định chuẩn lệnh thì tiến hành
ký kết một bản hợp đồng về mua bán chứng khoán, đây sẽ là cơ sở pháp lý để công ty
chứng khoán thực hiện lệnh của khách hàng.
Sau khi hợp đồng được ký kết, công ty chứng khoán sẽ lập phiếu lệnh để chuyển
đến nhà môi giới ở sở giao dịch chứng khoán thực hiện.
Để sớm hình thành TTCK và phát triển các hoạt động của thị trường này, việc
hoàn thiện hệ thống ngân hàng có công nghệ ngân hàng cao là yêu cầu cấp thiết hiện
nay. Điều này đòi hỏi các Ngân hàng thương mại phải nâng cao và mở rộng các
nghiệp vụ của mình, phát triển công nghệ ngân hàng và đòi hỏi ngân hàng Nhà nước
phải hoàn thiện các chính sách tiền tệ của mình để tạo môi trường thích hợp cho việc
hình thành và phát triển TTCK ở nước ta.

Như vậy, qua quá trình phân tích trên, chúng ta có thể rút ra khái quát về các
nghiệp vụ của ngân hàng thương mại trên thị trường chứng khoán như sau:
18
Đối với hoạt động ngân hàng đầu tư, được chia thành 2 nhóm nghiệp vụ, nhóm
được trực tiếp thực hiện hoặc phải triển khai thông qua các công ty con. Ngân hàng
thương mại được phép trực tiếp tư vấn tài chính doanh nghiệp, mua bán, sáp nhập
doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán; lưu ký chứng khoán, mua bán trái phiếu
chính phủ.
Với các nghiệp vụ như bảo lãnh phát hành chứng khoán; tự doanh chứng khoán
bao gồm cả mua bán cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp; môi giới chứng khoán; quản
lý, phân phối chứng chỉ quỹ đầu tư; quản lý danh mục đầu tư chứng khoán… ngân
hàng không được trực tiếp thực hiện mà phải thông qua các công ty con của mình.
* Trên thị trường sơ cấp
- Vai trò phát hành: Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn
thông qua phát hành trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát
hành trái phiếu của các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy
nhiên, đợt phát hành trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương
(NHNT) đã chứng tỏ mối quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng,
đặc biệt là các NHTM hoạt động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế,
yêu cầu về mở rộng quy mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các
NHTM phát hành trái phiếu có ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng
hoá cho thị trường chứng khoán, mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các
NHTM cho mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế
- Vai trò đầu tư trực tiếp: Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn
ngắn hạn đầu tư dài hạn, các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường
trái phiếu, đặc biệt là đối với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung
và dài hạn. Trên thực tế, một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do
NHTM mua. Trong năm 2005, tổng lượng trái phiếu Chính phủ phát hành là 17.226
tỷ đồng, trong đó các NHTM mua 12.058 tỷ đồng, chiếm khoản 70%.
19

- Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành: Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế
giới, các trung gian tài chính, trong đó có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị
trường trái phiếu với tư cách là đại lý sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát
hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu
Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế
lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được
chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống
đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa
trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
*Trên thị trường thứ cấp: Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có
thể thực hiện các nghiệp vụ sau:
- Kinh doanh trái phiếu:
Mới đưa vào hoạt động từ tháng 8/2005, hoạt động kinh doanh trái phiếu của
NHNT với 13 đối tác là các NHTM và các công ty chứng khoán đã có những kết quả
hết sức khả quan. Tính đến hết năm 2005, tổng doanh số giao dịch đạt khoảng 2.700
tỷ đồng, trong đó chiếm phần lớn là hoạt động bán mua lại (chiếm khoảng 2.670 tỷ
đồng, tức là khoảng 99%). Do vậy có thể thấy rõ ràng hoạt động kinh doanh trái phiếu
của NHNT thực chất là hoạt động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường.
Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ
cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp.
20
Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh này là không bị giới hạn bởi thời gian
giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
- Sản phẩm phái sinh:
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền
chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết
hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho

các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời
tăng tính thanh khoản của thị trường.
- Cho vay chứng khoán:
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại Mỹ,
Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với trái
phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường, mặt
khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt.
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả
về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế
chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài
sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính
thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với
các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán
đi vay hoặc nhận thế chấp.
3. Mối quan hệ giữa hoạt động của NHTM và hoạt động của thi trường chứng
khoán
Với khoảng thời gian hình thành và hoạt động còn non trẻ song TTCK Việt Nam
đã có những bước phát triển đáng kể.
21
Tuy còn non trẻ, nhưng TTCK Việt Nam đã chứng tỏ là một kênh dẫn vốn quan
trọng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Người ta thường
cho rằng, khi TTCK có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ thì lượng chu chuyển vốn qua
hệ thống NHTM bị giảm sút và ngược lại. Tuy nhiên, đặc thù của nền kinh tế Việt
Nam với tiềm năng về vốn trong dân cư còn rất lớn thì nếu có sự tham gia của các
NHTM vào TTCK sớm hơn và mạnh mẽ hơn thì TTCK còn có những bước phát triển
ngoạn mục hơn nữa.
Sau đây, nhóm em có tìm hiểu về vai trò của các NHTM trên thị trường chứng
khoán. Từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia của các
NHTM vào TTCK.
1. Trên thị trường sơ cấp

1.1. Vai trò phát hành
Nhằm phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng, nhu cầu vốn dài hạn thông qua phát hành
trái phiếu của các NHTM là rất lớn. Cho đến nay, hoạt động phát hành trái phiếu của
các NHTM chưa phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên, đợt phát hành
trái phiếu tăng vốn vừa qua của Ngân hành Ngoại thương (NHNT) đã chứng tỏ mối
quan tâm lớn của thị trường đối với trái phiếu ngân hàng, đặc biệt là các NHTM hoạt
động tốt có uy tín. Nhằm phục vụ cho tăng trưởng kinh tế, yêu cầu về mở rộng quy
mô vốn của các NHTM càng đặt ra bức thiết. Việc các NHTM phát hành trái phiếu có
ý nghĩa quan trọng: một mặt, nó góp phần tăng hàng hoá cho thị trường chứng khoán,
mặt khác nó là một kênh dẫn vốn quan trọng cho các NHTM cho mục tiêu tăng
trưởng của nền kinh tế.
1.2. Vai trò đầu tư trực tiếp
Với tiềm lực tài chính mạnh và khả năng sử dụng vốn ngắn hạn đầu tư dài hạn,
các NHTM có thể đóng vai trò là nhà đầu tư trên thị trường trái phiếu, đặc biệt là đối
22
với trái phiếu Chính phủ, vốn đòi hỏi tầm nhìn đầu tư trung và dài hạn. Trên thực tế,
một số lượng lớn trái phiếu Chính phủ và công trái là do NHTM mua.
1.3. Vai trò phân phối, bảo lãnh phát hành
Tại một số thị trường tài chính lớn trên thế giới, các trung gian tài chính, trong đó
có các NHTM đóng vai trò quan trọng trên thị trường trái phiếu với tư cách là đại lý
sơ cấp (Primary Dealers) hoặc bảo lãnh phát hành.
Tại Việt Nam, bảo lãnh phát hành là phương thức phổ biến nhất đối với trái phiếu
Chính phủ. Với độ tín nhiệm cao và tiềm lực tài chính mạnh, các NHTM có ưu thế
lớn khi tham gia bảo lãnh phát hành. Bên cạnh đó, trái phiếu Chính phủ còn được
chào bán qua Trung tâm giao dịch chứng khoán và bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà
nước.
Tuy nhiên, Việt Nam chưa có hệ thống các đại lý sơ cấp. Việc hình thành hệ thống
đại lý sơ cấp với sự tham gia của các NHTM sẽ góp phần đẩy nhanh và hiệu quả qúa
trình phân phối trái phiếu Chính phủ.
2. Trên Thị trường thứ cấp

Với vai trò là trung gian trên thị trường, các NHTM có thể thực hiện các
nghiệp vụ sau:
2.1. Kinh doanh trái phiếu
Có thể thấy rõ rằng hoạt động kinh doanh trái phiếu của NHNT thực chất là hoạt
động chiết khấu, tạo thanh khoản cho thị trường. Bên cạnh đó, hoạt động kinh doanh
trái phiếu, công trái với các nhà đầu tư nhỏ lẻ cũng có tiềm năng phát triển lớn, nhưng
chưa được tổ chức thật sự chuyên nghiệp. Một ưu điểm nữa của hình thức kinh doanh
này là không bị giới hạn bởi thời gian giao dịch của thị trường chứng khoán tập trung.
2.2. Sản phẩm phái sinh
23
Các NHTM có thể thực hiện các sản phẩm phái sinh như: hoán đổi, kỳ hạn, quyền
chọn, hợp đồng tương lai đối với các trái phiếu, cổ phiếu trên thị trường. Ở đây, sự kết
hợp liên thị trường giữa thị trường tiền tệ với thị trường chứng khoán sẽ cung cấp cho
các nhà đầu tư nhiều công cụ để kinh doanh (đầu cơ) và bảo hiểm rủi ro, đồng thời
tăng tính thanh khoản của thị trường.
2.3. Cho vay chứng khoán
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán rất phổ biến đối với các TTCK phát triển. Tại
Mỹ, Cục dự trữ liên bang (Fed) thực hiện nghiệp vụ này với các đại lý sơ cấp đối với
trái phiếu Chính phủ. Nghiệp vụ này một mặt làm tăng thanh khoản của thị trường,
mặt khác giúp Fed điều tiết được lượng cung tiền. Tài sản thế chấp thường là tiền mặt.
Nghiệp vụ cho vay chứng khoán giữa các trung gian tài chính có phạm vi rộng hơn cả
về danh mục chứng khoán cho vay cũng như danh mục tài sản thế chấp. Bên vay thế
chấp tài sản khi nhận chứng khoán và phải trả lại chứng khoán, đồng thời nhận lại tài
sản thế chấp khi đáo hạn. Việc cho vay chứng khoán thực sự góp phần làm tăng tính
thanh khoản của thị trường, đồng thời có thể giúp các bên tham gia (đặc biệt là đối với
các trung gian tài chính) tìm kiếm lợi nhuận thông qua việc kinh doanh chứng khoán
đi vay hoặc nhận thế chấp.
Từ đó ta thấy rằng: NHTM có vai trò rất lớn trong việc phát triển thị trường
chứng khoán; (i) Vai trò của Ngân hàng thương mại trong việc tạo hàng hoá cho thị
trường chứng khoán, (ii) vai trò trung gian chứng khoán, (iii) vai trò điều chỉnh cung

cầu chứng khoán trên thị trường chứng khoán, (iv) vai trò trong việc cung cấp thông
tin trên thị trường chứng khoán, (v) vai trò về định chế quản lý thị trường chứng
khoán.
II/ Hoạt động cua NHTM trên thi trường chứng khoán ở Việt Nam
1. Sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam
24
Sau nhiều năm chuẩn bị và chờ đợi, ngày 11-7-1998 Chính phủ đã ký Nghị định
số 48/CP ban hành về chứng khoán và TTCK chính thức khai sinh cho Thị trường
chứng khoán Việt Nam ra đời. Cùng ngày, Chính phủ cũng ký quyết định thành lập
Trung tâm Giao dịch Chứng khoán đặt tại TP.HCM và Hà Nội.
VN - Index là ký hiệu của chỉ số chứng khoán Việt Nam. VN - Index xây dựng
căn cứ vào giá trị thị trường của tất cả các cổ phiếu được niêm yết.Với hệ thống chỉ số
này, các nhà đầu tư có thể đánh giá và phân tích thị trường một cách tổng quát hơn.
Chỉ số Việt Nam – Index so sánh giá trị thị trường hiện hành với giá trị thị trường cơ
sở vào ngày sốc 28/7/2000, khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động.
1.1.1 Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn chập chững biết đi của thị trường chứng
khoán
Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào
vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000
và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ở thời điểm lúc bấy giờ,
chỉ có 2 doanh nghiệp niêm yết 2 loại cổ phiếu (REE và SAM) với số vốn 270 tỷ đồng
và một số ít trái phiếu Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho đến 2005, thị
trường luôn ở trong trạng thái không phát triển. Ngày 8/3/2005, Trung tâm giao dịch
chứng khoán Hà Nội (TTGDCK HN) chính thức đi vào hoạt động. Từ năm 2005 khi
tỷ lệ nắm giữ của nhà đầu tư nước ngoài được nâng từ 30% lên 49%, cho thấy rằng thị
trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước khởi sắc mới. Trong 5 năm đầu tiên,
dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông đảo công
chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội mở rộng
để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống của

người dân.
1.1.2 Giai đoạn 2006 : Sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam.
Mốc thời gian kể từ đầu năm 2006 được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”,
tạo cho thị trường chứng khoán Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động
25

×