Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Phát triển xuất nhập khẩu may của việt nam vào thị trường mỹ hậu WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 104 trang )



TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
***







KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
PHÁT TRIỂN DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG MỸ HẬU WTO


Sinh viên thực hiện : Đặng Thu Trang
Lớp : Anh 15
Khóa : 45
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS. Đỗ Thị Loan







Hà Nội, tháng 5 năm 2010





MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT
NAM 4
1.1. Quá trình phát triển ngành Dệt May Việt Nam 4
1.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam 6
1.2.1. Tình hình sản xuất 6
1.2.1.1. Nguyên liệu 6
1.2.1.2. Công nghệ 9
1.2.1.3. Lao động 11
1.2.1.4. Nguồn vốn 13
1.2.1.5. Chính sách và pháp luật 15
1.2.2. Tình hình xuất khẩu 17
1.2.2.1. Qui mô xuất khẩu 17
1.2.2.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu 20
1.2.2.3. Giá cả và chất lượng 23
1.2.2.4. Thị trường xuất khẩu 23
1.3. Môi trƣờng pháp lý cho các doanh nghiệp Dệt May xuất khẩu của
Việt Nam theo qui định về Dệt May của WTO 25
1.3.1. Hiệp định ngắn hạn về hàng dệt và bông 25
1.3.2. Hiệp định dài hạn về hàng dệt và bông 25
1.3.3. Hiệp định đa sợi (MFA) 25
1.3.4. Hiệp định Dệt May (ATC) 26
1.4. Sự cần thiết phải phát triển Dệt May xuất khẩu Việt Nam hậu
WTO 28
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT
NAM VÀO THỊ TRƢỜNG MỸ HẬU WTO 30



2.1. Tổng quan về thị trƣờng Mỹ 30
2.1.1. Khái quát 30
2.1.2. Đặc điểm thị trường 31
2.1.2.1. Qui mô thị trường 31
2.1.2.2. Mức chi tiêu 32
2.1.2.3. Xu hướng tiêu dùng 34
2.1.3. Môi trường pháp lý 36
2.1.3.1. Hệ thống hài hòa thuế quan (HTS) 36
2.1.3.2. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN) 36
2.1.3.3. Luật bồi thường thương mại 37
2.1.4. Hệ thống phân phối 38
2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam vào thị trƣờng Mỹ
hậu WTO 39
2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu 39
2.2.2. Hình thức xuất khẩu 41
2.2.3. Phương thức xuất khẩu 41
2.3. Thuận lợi và khó khăn 42
2.3.1. Thuận lợi 42
2.3.1.1. Chủ quan 42
2.3.1.2. Khách quan 43
2.3.2. Khó khăn 48
2.3.2.1. Chủ quan 48
2.3.2.2. Khách quan 52
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA
VIỆT NAM VÀO THỊ TRƢỜNG MỸ HẬU WTO 63
3.1. Định hƣớng phát triển Dệt May Việt Nam vào thị trƣờng Mỹ hậu
WTO 63



3.1.1. Giải pháp cho ngành dệt: 65
3.1.2. Giải pháp cho ngành may 67
3.2. Giải pháp phát triển Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trƣờng Mỹ 69
3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 69
3.2.1.1. Cải thiện hệ thống chính sách pháp luật Nhà nước 69
3.2.1.2. Hỗ trợ doanh nghiệp Dệt May xuất khẩu 72
3.2.1.3. Tăng cường vai trò của Hiệp hội Dệt May Việt Nam 73
3.2.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp 76
3.2.2.1. Tăng cường biện pháp liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp
Dệt May Việt Nam 76
3.2.2.2. Tăng cường xúc tiến thương mại: 77
3.2.2.3. Xây dựng tiêu chuẩn an toàn sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn của Mỹ
82
3.2.2.4. Đảm bảo các yếu tố của quá trình sản xuất: nguyên phụ liệu –
nguồn nhân lực – công nghệ 83
3.2.2.5. Giảm tỷ trọng hàng gia công, tăng dần tỷ lệ xuất khẩu trực tiếp
86
3.2.2.6. Tham gia chuỗi giá trị Dệt May toàn cầu 86
KẾT LUẬN 88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89
PHỤ LỤC 93


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TỪ VIẾT TẮT
TÊN TIẾNG ANH
TÊN TIẾNG VIỆT
WTO

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại
thế giới
GATT
General Agreement on
Tariffs and Trade
Hiệp định chung về
Thuế quan và Mậu dịch
MFN
Most favoured nation
Qui chế Tối huệ quốc
PNTR
Permanent Normal Trade
Relations
Qui chế Thương mại
bình thường vĩnh viễn
STA
Short-term agreement
regarding international in
cotton, textiles
Hiệp định ngắn hạn về
hàng dệt và bông
LTA
Long-term agreement
regarding international in
cotton, textiles
Hiệp định dài hạn về
hàng dệt và bông
MFA
Multifiber agreement

Hiệp định đa sợi
ATC
Agreement on Textiles and
Clothing
Hiệp định dệt may
SA 8000

Social Accountability 8000
Tiêu chuẩn trách nhiệm
xã hội
WRAP
Wordwide Responsible
Apparel Producers
Chương trình trách
nhiệm toàn cầu
HTS
Harmonized Tariff Schedule
Hệ thống hài hòa
thuế quan
CVD
Counterveiling Duty
Luật thuế bù giá


EU
European Union
Liên minh Châu Âu
CPSC
Consumer Product
Safety Commission

Ủy ban An toàn sản
phẩm tiêu dùng Mỹ
Vinatex
Vietnam National Textile
and Garment Corporation
Tập đoàn Dệt may
Việt Nam
Vitas
Vietnam Textile and
Apparel Association
Hiệp hội Dệt may
Việt Nam
FTC
Federal Trade Commission
Hội đồng Thương mại
liên bang
ODA
Official development
assistance
Hỗ trợ phát triển
chính thức


DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ

Bảng 1.1. Năng lực sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam năm 2009 6
Bảng 1.2. Kim ngạch xuất khẩu của Dệt May Việt Nam theo thị trường 19
Bảng 1.3. Kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam theo sản phẩm 20
Bảng 1.4. Chương trình nhất thể hóa hàng Dệt May 27
Bảng 2.1. Qui mô thị trường xuất nhập khẩu hàng hóa của Mỹ 31

Bảng 2.2. Thay đổi trong đơn vị mua sắm hàng Dệt May ở Mỹ 34
Bảng 2.3. Tỷ lệ người tiêu dùng sử dụng Internet để mua sắm quần áo 35
Bảng 2.4. Tỷ trọng chi phí do hạn ngạch gây ra trong tổng chi phí xuất khẩu
44
Bảng 2.5. Đầu tư nước ngoài vào ngành Dệt May theo năm 47
Bảng 2.6. Thuế suất hàng Dệt May vào Mỹ 48


Biểu đồ 1.1. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May Việt
Nam trong giai đoạn năm 2000 – 2009 7
Biểu đồ 1.2. FDI vào ngành Dệt May: số dự án và số vốn đầu tư trong 1988 -
2008 14
Biểu đồ 1.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May của Việt Nam qua các năm
18
Biểu đồ 1.4. Kim ngạch xuất khẩu Dệt May Việt Nam theo sản phẩm 22
Biểu đồ 2.1. Mức độ yêu thích mua sắm hàng may mặc và số lần mua sắm
hàng may mặc một năm của người tiêu dùng trên thế giới, năm 2006 33
Biểu đồ 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ 39

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngành Dệt May luôn là một trong những ngành đi đầu, có vai trò quan
trọng trong chiến lược xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam ra thị trường thế
giới. Theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020, Đảng và Chính phủ đã đề ra mục tiêu
tổng quát là “Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành
công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; và nâng cao khả năng cạnh
tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”. Hiện nay, triển vọng

của ngành Dệt May đang sáng dần, nhất là khi nền kinh tế thế giới đang có
dấu hiệu khởi sắc sau cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn
cầu. Cuối năm 2007, lần đầu tiên Việt Nam lọt vào đứng thứ 10 trong số các
nước xuất khẩu Dệt May lớn trên thế giới.
Là một trong những thị trường xuất khẩu truyền thống của hàng Dệt
May Việt Nam, Mỹ là thị trường tiềm năng nhất trong thời gian gần đây.
Hàng Dệt May Việt Nam đã có vị trí quan trọng tại Mỹ, nhưng kim ngạch
xuất khẩu vào đây vẫn còn ít so với năng lực xuất khẩu của Việt Nam; đồng
thời, Dệt May Việt Nam vẫn có nhiều khả năng gia tăng xuất khẩu vào thị
trường lớn đã có nền móng và thế mạnh này. Vì thế, việc đẩy mạnh xúc tiến
vào thị trường Mỹ, tiếp cận với các nhà nhập khẩu vẫn là cần thiết với các
doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay.
Từ sau khi trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại
Thế giới WTO vào năm 2007, hàng Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ
được đối xử bình đẳng theo Qui chế Tối huệ quốc như những quốc gia thành
viên xuất khẩu khác nên các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam có tiềm năng
thâm nhập sâu rộng hơn vào Mỹ. Tuy nhiên, Việt Nam cũng gặp không ít
những trở ngại từ những rào cản pháp luật, kỹ thuật và những biện pháp tự vệ

2

mà Mỹ áp dụng. Vì vậy, việc nghiên cứu những thuận lợi, khó khăn của hàng
Dệt May xuất khẩu nước ta vào thị trường lớn nhất thế giới này phải đặt lên
hàng đầu, từ đó đưa ra những giải pháp cụ thể để phát triển hơn nữa mặt hàng
này vào Mỹ.
Xuất phát từ thực tiễn đó, em đã chọn đề tài:
“Phát triển Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO”
2. Mục tiêu của đề tài:
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình nói chung về sản xuất và xuất khẩu
hàng Dệt May Việt Nam vào Mỹ, đề tài đưa ra:

- Khái quát về sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam;
- Phân tích những thuận lợi và khó khăn của hàng Dệt May xuất khẩu
Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO;
- Đề xuất những giải pháp để phát triển hàng Dệt May xuất khẩu Việt
Nam vào Mỹ trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động xuất khẩu Dệt May Việt Nam vào thị
trường Mỹ hậu WTO.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Hoạt động xuất khẩu Dệt May Việt Nam.
+ Thời gian: Từ sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
WTO.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

3

Để thu thập thông tin nhằm đưa ra các giải pháp, em đã sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu: Phương pháp nghiên cứu tại bàn, phương pháp
phân tích và phương pháp tổng hợp.
5. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, mục lục và phụ lục,
đề tài được chia làm 3 chương:
- Chương 1 : Tổng quan về Dệt May xuất khẩu của Việt Nam
- Chương 2: Thực trạng Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào thị
trường Mỹ hậu WTO
- Chương 3: Giải pháp phát triển Dệt May xuất khẩu của Việt Nam vào
thị trường Mỹ hậu WTO.
Trong thời gian hoàn thành khóa luận, do những hạn chế về thời gian,
sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm nghiên cứu nên đề tài không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô,

bạn bè và những người quan tâm để bài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn – PGS.TS. Đỗ Thị Loan
đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này.

4

CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ
DỆT MAY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

1.1. Quá trình phát triển ngành Dệt May Việt Nam
Là một trong những ngành nghề truyền thống lâu đời, lịch sử phát triển
của ngành Dệt May gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội người
Việt. Quá trình phát triển từ sản xuất thủ công lên sản xuất công nghiệp chỉ
diễn ra khi có sự chuyển giao công nghệ từ Châu Âu. Ngành công nghiệp Dệt
May nước ta bắt đầu phát triển với sự ra đời của nhà máy dệt Nam Định năm
1889. Kể từ đó, quá trình phát triển thành công ngành Dệt May cho đến khi
ngành trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn của cả nước như hiện nay
có thể được chia làm bốn giai đoạn như sau.
Trước năm 1975, ngành sản xuất Dệt May có qui mô nhỏ bé trong nền
kinh tế quốc dân. Ngành chỉ sản xuất sản phẩm Dệt May phục vụ khôi phục
kinh tế, xây dựng đất nước theo chương trình kinh tế tập trung vào sản xuất
hàng thiết yếu cho đời sống mà không phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Thời
gian này có một số nhà máy mới được xây dựng như nhà máy dệt 8-3, nhà
máy dệt Vĩnh Phú, nhà máy may Thăng Long, nhà máy may Chiến Thắng và
nhà máy may Đáp Cầu. Các làng nghề truyền thống được khuyến khích phát
triển.
Từ năm 1975 đến năm 1991, ngành công nghiệp tiếp tục hướng vào
mục tiêu chính là hàng tiêu dùng nội địa và sản xuất với công nghệ lạc hậu,
máy móc trang thiết bị cũ. Vào giữa những năm 80, ngành Dệt May cũng gặp
phải một số vấn đề khó khăn như doanh nghiệp hoạt động trì trệ do chỉ sản

xuất theo chỉ tiêu kế hoạch, chưa chú trọng nâng cao năng lực cạnh tranh của
sản phẩm nên sản xuất nội địa khủng hoảng và thiếu hiệu quả. Xuất khẩu sản
phẩm Dệt May trong giai đoạn này chỉ đạt vài trăm triệu USD và được thực

5

hiện trong khuôn khổ các nghị định được ký kết với một số nước Đông Âu.
Sản phẩm Dệt May được xuất khẩu đầu tiên sang các nước thuộc khối kinh tế
Comecon vào năm 1976 và xuất khẩu sang các nước Liên Xô cũ qua các hợp
đồng gia công.
Từ năm 1991 đến năm 2007, công cuộc đổi mới kinh tế đã mở ra thời
kỳ phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp Dệt May. Tham gia vào ngành
công nghiệp này không chỉ có các doanh nghiệp Nhà nước mà còn có các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh, công nghệ được đổi mới tiên tiến, máy móc
thiết bị hiện đại, thị trường xuất khẩu mở rộng như Mỹ, EU và Nhật Bản.
Trong giai đoạn này, ngành Dệt May đã khẳng định vị trí quan trọng trong
thời kỳ chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường và trở thành một trong những ngành công nghiệp xuất khẩu
mũi nhọn của cả nước.
Từ năm 2007 đến nay, sự phát triển của ngành Dệt May nước ta đánh
dấu bước ngoặt lớn với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo qui định của các cam kết quốc tế
mà Việt Nam đã ký kết, ngành Dệt May bước sang giai đoạn mới khi được
tham gia vào thị trường thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa các
nền kinh tế. Sản phẩm Dệt May xuất khẩu được nâng cao năng lực cạnh tranh
trên thị trường nước ngoài do những thuận lợi mà hội nhập quốc tế mang lại,
đồng thời, sản phẩm Dệt May nội địa gặp nhiều cạnh tranh gay gắt hơn từ các
nước xuất khẩu khác. Mặc dù không nằm ngoài những tác động của cuộc
khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ cuối năm 2007, ngành
Dệt May, đặc biệt là Dệt May xuất khẩu vẫn được chú trọng phát triển trở

thành ngành xuất khẩu hàng đầu của cả nước trong thời gian tới.
Như vậy, ngành công nghiệp Dệt May nước ta đã trải qua nhiều biến
động để đạt được những thành quả như hiện nay. Nhìn chung, sự thay đổi,
phát triển ở mỗi giai đoạn đã bộc lộ những điểm mạnh, điểm yếu của toàn

6

ngành. Đó là cơ sở để ta phân tích những thuận lợi, khó khăn khách quan và
chủ quan của ngành công nghiệp Dệt May, đặc biệt là Dệt May xuất khẩu để
từ đó có thể rút ra những bài học kinh nghiệm cho ngành này cho những phát
triển tiềm năng trong tương lai.
1.2. Tình hình sản xuất và xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam
1.2.1. Tình hình sản xuất
1.2.1.1. Nguyên liệu
Với tốc độ tăng trưởng trung bình là 20%/ năm, kim ngạch xuất khẩu
của hàng Dệt May chiếm khoảng 15% kim ngạch xuất khẩu của cả nước,
ngành công nghiệp Dệt May chứng tỏ là một trong những ngành xuất khẩu
chủ lực của Việt Nam. Năng lực sản xuất của ngành có thể thấy qua bảng sau:
Bảng 1.1. Năng lực sản xuất của ngành Dệt May Việt Nam năm 2009
Lĩnh vực
Số Doanh
nghiệp
Số máy móc
Năng lực sản
xuất
1. Tăng
Cán bông


60.000 tấn

Sợi
145
3.789.000
350.000 tấn
2. Không thay đổi
Dệt
401
21.800
1.000 triệu m
2
Dệt kim
105
3.800
200.000 tấn
Không dệt
7

5.000 tấn
Hoàn tất
94
1.109
700 triệu m
2

3. Giảm
May mặc
2.424
918.700
2.400 triệu m
2


Khăn bông có
vòng tuyết


62.000 tấn
(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)

7

Tuy nhiên, một trong những áp lực của ngành Dệt May hiện nay là
chưa tự tạo được nguồn nguyên liệu cho sản xuất nên còn phụ thuộc vào phụ
liệu nhập khẩu. Mỗi năm ngành may mặc trong nước cần khoảng 2 tỉ mét
vuông vải nhưng vải sản xuất trong nước mới chỉ đạt khoảng 700 triệu mét
vuông/năm. Do đó, nguyên liệu phục vụ cho ngành chủ yếu được nhập khẩu
tới 90% từ các nước và vùng lãnh thổ khu vực châu Á như: Trung Quốc, Hàn
Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Đài Loan và các nước Đông Nam Á nên mặc dù có
kim ngạch xuất khẩu cao nhưng tỷ lệ thu về lại thấp, chiếm khoảng 35-38%
tổng kim ngạch. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu của nước ta thể hiện
qua bảng sau:
Biểu đồ 1.1. Kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May
Việt Nam trong giai đoạn năm 2000 – 2009
Đơn vị: Triệu USD

(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)
Theo số liệu thống kê của biểu đồ 1.1, từ năm 2000 đến năm 2008, tổng
kim ngạch nhập khẩu nguyên phụ liệu cho ngành dệt tăng dần và tăng gấp gần

8


3 lần, từ 2,096 tỷ USD lên đến 7,064 tỷ USD. Có thể thấy, kim ngạch nhập
khẩu vải phục vụ may xuất khẩu là lớn nhất và tăng dần, tiếp đến là phụ liệu
nhưng có xu hướng giảm dần. Kim ngạch nhập khẩu bông, sợi duy trì tương
đối ổn định. Từ đó có thể thấy sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của ngành
may xuất khẩu và dệt may xuất khẩu Việt Nam dần chủ động về phụ liệu.
Ngoài ra, năm 2008, xuất khẩu Dệt May đạt 9,1 tỷ USD, nhưng nhập khẩu
các nguyên phụ liệu như vải, sợi, cúc, chỉ, khoá kéo lên tới 7,064 tỷ USD.
Điều này cho thấy ngành Dệt May xuất khẩu đang trên đà tăng trưởng nhanh
chóng nhưng bỏ xa ngành dệt và sản xuất nguyên liệu. Vì vậy, vấn đề nguyên
phụ liệu cho ngành công nghiệp chủ lực này của nước ta vẫn là một trở ngại
lớn.
Nguyên nhân của khó khăn trong khâu sản xuất nguyên phụ liệu này
xuất phát từ sự yếu kém của ngành dệt và ngành công nghiệp phụ trợ, chưa
theo kịp tốc độ phát triển của ngành may và chưa tương xứng nhu cầu của thị
trường. Thực tế cho thấy ngành dệt và ngành may chưa thực sự liên kết chặt
chẽ. Đây là vấn đề nan giải vì không chỉ nhập khẩu phần lớn nguyên liệu cho
ngành may, bản thân ngành dệt cũng hầu như phụ thuộc hoàn toàn vào các
nguồn cung cấp bên ngoài khi nhập khẩu đến 95% nguyên liệu bông, 100%
hóa chất và máy móc thiết bị. Đó mới là về mặt số lượng, ngay cả chất lượng,
ngành dệt cũng không đáp ứng được yêu cầu của ngành may xuất khẩu.
Tuy nhiên, gần đây, vấn đề nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May đã có
dấu hiệu tích cực. Tỷ lệ nội địa hóa trong ngành Dệt May đang tăng lên tại
không ít doanh nghiệp khi đã tự cân đối được nguyên liệu trong nước, giảm
thiểu sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Hiện nay, Việt Nam đã
chủ động đưa ra 8 dự án để kêu gọi các nhà đầu tư để phát triển ngành dệt ở
một số khu công nghiệp ở Đồng bằng Bắc bộ, duyên hải miền trung và Đông

9

Nam Bộ

1
. Tháng 4/2009, nguyên liệu vải dệt từ sợi bông ước đạt 22,1 triệu
m2, tăng 10,7% so với tháng 3, tính chung 4 tháng ước đạt 66,5 triệu m2, chỉ
bằng 76,3% cùng kỳ (3 tháng chỉ bằng 66,9% so với cùng kỳ)
2
. Như vậy, sản
xuất nguyên phụ liệu bắt đầu chuyển biến. Nhập khẩu vải và nguyên phụ liệu
Dệt May trong năm 2009 giảm mạnh so với năm 2008. Nhập khẩu vải đạt
4,17 tỷ USD (giảm 6,4%), nguyên phụ liệu đạt 1,081 tỷ USD (giảm 20%),
trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu không giảm, chứng tỏ ngành Dệt May đã
tạo ra giá trị tăng thêm nhiều hơn trước.
Mặc dù vậy, nguyên phụ liệu cho ngành Dệt May vẫn còn là vấn đề
nan giải của ngành Dệt May Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu
hóa và tự do hóa hiện nay. Ngành công nghiệp này sẽ phải đối mặt với sự
cạnh tranh khốc liệt từ phía các nước có nền công nghiệp phụ trợ Dệt May
phát triển như Trung Quốc và Thái Lan. Vì thế, để đảm bảo năng lực cạnh
tranh của mặt hàng Dệt May của Việt Nam trên thị trường toàn cầu trong thời
gian tới, một chiến lược dài hạn và đồng bộ để phát triển ngành dệt và ngành
may là rất cần thiết để phát huy tiềm lực sản xuất và xuất khẩu của ngành
công nghiệp Dệt May Việt Nam.
1.2.1.2. Công nghệ
Đổi mới công nghệ và máy móc thiết bị trong ngành Dệt May đã được
các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam đặt ra và thực hiện mạnh mẽ. Các dây
chuyền công nghệ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của các thị trường xuất
khẩu lớn như Mỹ, EU và Nhật Bản đã bắt đầu được đầu tư nâng cấp. Đến nay,
hầu hết các doanh nghiệp Dệt May xuất khẩu đã lắp đặt dây chuyền công


1
Hải Châu (2007), Dệt may Việt Nam kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực nguyên liệu,

[truy
cập ngày 20/02/2010]
2
Bộ Công Thương (2010), Ngành dệt may vẫn chưa hết khó khăn,
[truy cập ngày
25/02/2010]


10

nghệ mới, đổi mới máy móc thiết bị, có những trang thiết bị ở một số doanh
nghiệp lớn đã đạt trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới.
Tuy nhiên, sự mất cân đối giữa ngành may và ngành dệt thể hiện ngay
cả ở các trang thiết bị.
3
Công nghệ và thiết bị của ngành dệt may mới thay thế
được 30% công nghệ và thiết bị hiện đại, còn lại 70% công nghệ, thiết bị đã
sử dụng trên 20 năm và hầu như đã hết khấu hao. Trong số 30% công nghệ và
thiết bị hiện đại có một số dây chuyền ứng dụng công nghệ hiện đại, tự động
hóa trong điều khiển, tuy nhiên mới chỉ đạt hiệu suất 50 – 60%. Trong từng
khâu cụ thể đang tồn tại thực trạng: thiết bị kéo sợi 70% ở trình độ trung bình
và dưới trung bình, công nghệ và thiết bị kéo sợi Việt Nam ở mức trung bình
so với thế giới; công nghệ và thiết bị dệt thoi: với 15% là máy mới, 55% cần
tu bổ cải tạo, và 30% cần thanh lý hoặc chuyển cho khu vực hợp tác xã và tư
nhân cho thấy bức tranh công nghệ và thiết bị ngành dệt thoi Việt Nam đang
ở mức dưới trung bình. Thiết bị công nghệ dệt kim: các thiết bị dệt kim gần
đây chủ yếu từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Đức… nên tương đối hiện
đại; Xử lý hoàn tất: thiết bị cũ đã sử dụng trên 35 năm cần thay thế chiếm tỷ
trọng 35%, thiết bị đầu tư giai đoạn 1970 – 1985 cần khôi phục, thay thế dần
c hiếm 30%; Thiết bị ngành may: các thiết bị may hầu hết là hiện đại tương

đương các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Việc đổi mới máy móc,
lắp đặt công nghệ hiện đại diễn ra khá chậm chạp ở ngành dệt, hầu hết trình
độ công nghệ thấp, thiết bị cũ và lạc hậu.Từ đó đã làm cho thực trạng ngành
Dệt May nước nhà có những tồn tại yếu kém về trang thiết bị.
Như vậy, mặc dù đã đạt được những tiến bộ nhất định về đổi mới công
nghệ, tạo ra những sản phẩm Dệt May đã dần đáp ứng nhu cầu của thế giới và
trong nước thì hiện trạng trình độ công nghệ còn thấp và mất cân đối là những
trở ngại lớn để ngành Dệt May phát triển.


3
Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến, Vũ Thị Hiền (2007), Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam,
Nhà xuất bản Thống kê, tr.162-164.

11

1.2.1.3. Lao động
Ngày nay, trong bối cảnh cách mạng công nghiệp diễn ra ở hầu hết các
ngành công nghiệp, ngành Dệt May đã được trang bị rất nhiều các trang thiết
bị chuyên dụng, nhưng không vì thế mà làm giảm sút vai trò quan trọng của
người lao động. Đặc biệt là đối với ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam,
các trang thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng
của khách hàng còn thiếu nên một số các công đoạn như thiết kế, cắt, may
mang tính thẩm mỹ và thể hiện sự khéo léo của một sản phẩm may thì rất cần
có bàn tay của con người.
Dệt May hiện nay là một trong những ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động nhất nước ta. Theo Hiệp hội Dệt May Việt Nam (Vitas), toàn
ngành có khoảng 2 triệu lao động đang làm việc trên tổng số 2.000 doanh
nghiệp Dệt May, chiếm hơn 20% lao động trong khu vực công nghiệp và gần
5% trong tổng lực lượng lao động toàn quốc

4
.
Nguồn nhân lực của ngành Dệt May Việt Nam có những đặc thù sau
5
:
 Gần 80% là lao động nữ, trình độ văn hoá của người lao chủ yếu là
đã tốt nghiệp trung học cơ sở và phổ thông trung học. Đa số lao động trực
tiếp của ngành tuổi đời còn rất trẻ nên sẽ là lợi thế cho việc đào tạo và nâng
cao năng suất lao động.
 Lao động trong ngành Dệt May hiện nay tăng nhanh và tập trung
chủ yếu trong các doanh nghiệp tư nhân hay công ty cổ phần, sau đó là doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài. Hai loại hình doanh nghiệp này hiện nay đang
thu hút 2/3 lao động của toàn ngành Dệt May.
 Các doanh nghiệp Dệt May Việt Nam hiện nay đang phân bổ theo
các cụm công nghiệp Dệt May. Hai vùng tập trung nhiều lao động ngành Dệt


4
Phong Cầm (2007), Xuất khẩu dệt may Việt Nam: Lọt vào tốp 10 thế giới,
[truy cập ngày
02/02/2010]
5
Nguyễn Thị Bích Thu, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn
nhân lực hướng đến sự phát triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam.

12

May và có sự tăng trưởng nhanh trong những năm qua là Vùng Đông Nam Bộ
(chiếm gần 62% lao động của toàn ngành) và Đồng bằng sông Hồng (hơn
22%). Các tỉnh thành tập trung nhiều lao động Dệt May là thành phố Hồ Chí

Minh, tỉnh Bình Dương, tỉnh Đồng Nai, Hà Nội, Thái Bình, Nam Định
 Mặc dù người lao động rất chăm chỉ, cần cù nhưng phần lớn chưa
có tay nghề cao để đáp ứng thị hiếu cho các khách hàng khó tính, chưa có
trình độ kỹ thuật cao để có thể vận dụng có hiệu quả các công nghệ may mặc
hiện đại hơn. Tuy là ngành sử dụng nhiều nhân công nhưng tỷ lệ lao động có
trình độ cao đẳng trở lên chỉ chiếm khoảng 4%, là tỷ lệ tương đối thấp. Lao
động có trình độ thạc sĩ và đại học của toàn ngành hầu hết cũng tập trung ở
hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Hai vùng này cũng tập
trung hầu hết các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cấp độ đại học, cao đẳng của
ngành. Còn lại phần lớn chưa có thói quen nghiên cứu để sáng tạo ra các sản
phẩm thời trang theo kịp xu hướng trên thế giới, chưa tận dụng internet có
hiệu quả việc để tạo lợi thế trong tiếp cận khách hàng ở các nước và
marketing cho công ty và sản phẩm
 Về năng suất lao động, cả kéo sợi, dệt thoi và may mặc của ta đều có
năng suất lao động còn thấp hơn so với khu vực. Cùng một ca làm việc - năng
suất lao động bình quân của một lao động ngành may Việt Nam chỉ đạt 12 áo
sơ mi ngắn tay hoặc 10 quần thì một lao động Hồng Kông năng suất lao động
là 30 áo hoặc 15 - 20 quần.
 Đặc trưng của sản phẩm Dệt May là mang tính thời vụ, có những thời
điểm tạo ra công ăn việc làm cho rất nhiều lao động nhưng cũng có những thời
điểm trong năm lại thiếu các đơn đặt hàng nên việc chuyển biến lao động trong
ngành diễn ra thường xuyên. Đặc biệt là thời điểm cuối năm và sau tết Nguyên Đán
luôn diễn ra tình trạng thiếu lao động, thậm chí có những doanh nghiệp thiếu đến
40% nhân công. Hơn nữa, hiện nay, mối quan hệ giữa lao động và tiền lương rất
phức tạp. Mức lương trung bình trong ngành khoảng 1,5 triệu đồng/tháng, trong khi

13

giá các mặt hàng tiêu dùng đang có chiều hướng tăng, đã khiến cho người lao động
chưa thực sự chuyên tâm vào công việc. Họ có xu hướng đi làm các công việc khác

và có thể kiếm được khoản tiền tương đương nên không thực sự có ý định làm việc
lâu dài trong các nhà máy may. Vì thế, điều này đã trở thành nỗi lo thường trực cho
các doanh nghiệp.
Theo Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam đến
năm 2015, định hướng đến năm 2020, để đạt được một số mục tiêu tổng quát
là: “Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp
trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội
nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới”, ngành phải đạt được chỉ tiêu sử
dụng đến 3 triệu lao động trong năm 2020 để có thể là ngành công nghiệp
xuất khẩu chủ lực của đất nước.
Như vậy, mặc dù nước ta nhìn chung có nguồn lao động dồi dào với chi
phí nhân công thấp, người lao động lại vốn tỉ mỉ, chịu khó nhưng việc khắc
phục tình trạng những tồn tại về nhân công như nâng cao tay nghề và trình độ
cho người lao động, nâng cao năng suất lao động cần được ưu tiên khắc phục
để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh và phát huy hết tiềm năng sản xuất và
xuất khẩu của ngành Dệt May trong thời gian tới.
1.2.1.4. Nguồn vốn
Nguồn vốn đầu tư đóng vai trò quan trọng thiết yếu đối với sự mở rộng
phát triển sản xuất của một ngành kinh tế. Nhìn chung, vốn đầu tư là toàn bộ
giá trị nhân lực và tài lực được bỏ thêm vào hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một thời gian nhất định.
Với mục tiêu là phát triển ngành dệt - may trở thành một trong những
ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; thoả mãn ngày càng
cao nhu cầu tiêu dùng trong nước; tạo nhiều việc làm cho xã hội; nâng cao
khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới, Đảng và
Nhà nước đã đề ra những chính sách đúng đắn về vốn đầu tư cho ngành công

14

nghiệp này như hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với một số

nhóm dự án trong ngành.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước, nguồn vốn đầu tư nước ngoài đóng
vai trò quan trọng đối với ngành Dệt May. Từ năm 2000-2007, đầu tư trực
tiếp nước ngoài có xu hướng tăng dần như bảng sau:
Biểu đồ 1.2. FDI vào ngành Dệt May: số dự án và số vốn đầu tƣ
(triệu USD) trong 1988 - 2008

(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)
Biểu đồ 1.2 cho thấy, nhìn chung, ngày càng có nhiều số vốn và số dự
án đầu tư vào ngành công nghiệp Dệt May. Từ năm 2000 trở đi có xu hướng
tăng vọt về cả vốn và dự án, đặc biệt từ năm 2004, cả số vốn đầu tư và dự án
tăng liên tục. Trong đó, các năm hầu như không đủ vốn để phân bổ đầu tư cho
các số dự án ngày càng tăng nhanh, duy nhất năm 2007 có số vốn nhiều nhất
(1.200 triệu USD) đáp ứng được số dự án (160 dự án). Tuy nhiên, do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính ở Mỹ dẫn đến suy thoái kinh tế toàn
cầu vào cuối năm 2007 nên đầu tư FDI vào ngành công nghiệp này giảm rõ
rệt. Năm 2008, chỉ có gần 60 dự án đầu tư với khoảng 400 triệu USD.
Ngoài ra, xu hướng chung trong các dự án đầu tư có vốn nước ngoài
vào ngành Dệt May Việt Nam là chủ yếu đầu tư vào ngành may, sau đó là

15

ngành dệt, cuối cùng là phụ liệu. Cụ thể,
6
đứng đầu là Đài Loan đã đầu tư
1,690 tỷ USD vốn đăng ký với 45 dự án đầu tư vào ngành dệt, 93 dự án đầu
tư vào ngành may và 18 dự án đầu tư vào ngành phụ liệu. Đứng thứ hai là
Hàn Quốc đăng ký số vốn là 1,003 tỷ USD với 40 dự án cho ngành dệt, ngành
may 122 dự án, còn lại 15 dự án là đầu tư vào ngành phụ liệu. Điều này cũng
dễ hiểu bởi Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm may mặc, nên các

nước tập trung đầu tư vào ngành này. Còn ngành phụ liệu, xu hướng ở Việt
Nam chủ yếu là nhập khẩu nguyên vật liệu cho ngành Dệt May (trên 80%)
nên các nhà đầu tư chưa tập trung mạnh vào lĩnh vực này vì lợi nhuận không
cao bằng ngành may.Vì thế, trong thời gian tới, nếu không có chính sách đầu
tư thích đáng vào nguyên phụ liệu thì sự mất cân đối giữa hai ngành dệt và
may ngày càng lớn, từ đó có thể ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển bền
vững trong dài hạn của ngành công nghiệp Dệt May nước ta.
Ngoài ra, Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách cho hoạt
động nghiên cứu, đào tạo và vốn đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật nhằm nâng
cao năng lực cho các Viện nghiên cứu và các cơ sở đào tạo cho ngành Dệt
May. Các dự án đầu tư xử lý môi trường của các doanh nghiệp trong ngành
Dệt May được vay vốn tín dụng của nhà nước, vốn ODA và vốn của quỹ môi
trường.
1.2.1.5. Chính sách và pháp luật
Để ngành công nghiệp Dệt May phát triển bền vững với định hướng
đúng đắn trong dài hạn, Nhà nước cần thể hiện vai trò lãnh đạo của mình
thông qua việc ban hành các chính sách liên quan đến việc sản xuất và xuất
khẩu của ngành công nghiệp chủ lực này của nước nhà.


6
Lệ Trần (2008), Thu hút đầu tư nước ngoài vào dệt may – Những chuyển động tích cực,
[truy cập ngày 23/03/2010]

16

Cụ thể, năm 2001, Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển và một số
cơ chế, chính sách hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát triển ngành dệt - may
Việt Nam đến năm 2010. Trong đó, Chính phủ đã đề ra một số biện pháp như:
Hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với một số nhóm dự án trong

ngành, chẳng hạn như quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, xử lý nước thải;
Bảo lãnh, cấp tiền thu sử dụng vốn trong giai đoạn 2001-2005 để tái đầu tư,
cấp bổ sung vốn lưu động với một số doanh nghiệp nhà nước trong ngành; và
dành toàn bộ nguồn thu phí hạn ngạch và đấu thầu hạn ngạch dệt - may cho
việc mở rộng thị trường xuất khẩu. Nhằm hỗ trợ thực hiện Chiến lược phát
triển ngành công nghiệp Dệt May trong giai đoạn 2001-2010, Bộ Tài chính đã
ban hành Thông tư số 106/2001/TT-BTC ngày 31/12/2001. Cùng với quá
trình cải cách thể chế và xây dựng luật nhằm chuẩn bị cho việc gia nhập
WTO, các biện pháp trên cũng đã được điều chỉnh và thay thế.
Được sự phê duyệt của Thủ tướng, Bộ Công Thương cũng đã ban hành
Quyết định số 42/2008/QĐ-BCT ngày 19/11/2008 và được Chính phủ phê
duyệt ngày 14/03/2008 về Quy hoạch phát triển ngành Công nghiệp Dệt May
Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020. Trong đó, Chính phủ đề
ra quan điểm phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại
hóa, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững, hiệu quả; phát triển tối
đa thị trường nội địa đồng thời với việc mở rộng thị trường xuất khẩu; lấy
xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành…Bên cạnh đó, Chính phủ
cũng đề ra qui hoạch phát triển sản phẩm và bố trí qui hoạch. Đồng thời, hệ
thống giải pháp và biện pháp thực hiện kế hoạch cũng được đề ra tạo thành
kim chỉ nam cho hướng giải quyết những vấn đề còn tồn tại của ngành Dệt
May trong thời gian tới như đưa ra các chính sách về đầu tư, về cung ứng

17

nguyên liệu, về thị trường, về khoa học công nghệ, tài chính và giải pháp về
bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng có một số biện pháp khác nhằm khuyến
khích xuất khẩu nói chung và xuất khẩu hàng Dệt May nói riêng. Chẳng hạn,
Việt Nam thực hiện Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Ngân hàng
Phát triển Việt Nam cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp với lãi suất

ưu đãi.
Ngoài ra, cũng như các doanh nghiệp khác, doanh nghiệp Dệt May
cũng nhận được hỗ trợ lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn được ký kết và
giải ngân trong năm 2009 để làm vốn lưu động sản xuất - kinh doanh (theo
quyết định số 131/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 23/01/2009), và
đối với các khoản vay trung và dài hạn để đầu tư mới sản xuất kinh doanh
(theo quyết định số 443/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 04/04/2009).
Thủ tướng Chính phủ cũng ban hành Quyết định số 30/2009/QĐ-TTg về việc
hỗ trợ lao động mất việc làm trong các doanh nghiệp do suy giảm kinh tế, qua
đó giảm bớt gánh nặng cho doanh nghiệp
7
.
1.2.2. Tình hình xuất khẩu
1.2.2.1. Qui mô xuất khẩu
Kể từ khi mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã thiết lập và mở rộng quan
hệ kinh tế với nhiều quốc gia trên thế giới, từ đó, thúc đẩy việc trao đổi hàng
hóa, đặc biệt là hàng Dệt May. Là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của nước ta, Dệt May xuất khẩu đã không ngừng lớn mạnh với kim ngạch
không ngừng gia tăng. Tổng kim ngạch xuất khẩu qua các năm và theo thị
trường của hàng Dệt May xuất khẩu Việt Nam thể hiện qua sơ đồ sau:



7
Tài liệu nghiên cứu tác động của việc gia nhập WTO đối với xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam - Dự án
VIE/61/94

18

Biểu đồ 1.3. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May

của Việt Nam qua các năm
Đơn vị: Triệu USD


(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)
Biểu đồ 1.3 cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng Dệt May Việt
Nam không ngừng gia tăng qua các năm với tốc độ tăng trưởng ngày càng
nhanh. Chỉ trong gia đoạn gần 10 năm từ năm 1998 đến năm 2009, tổng kim
ngạch dệt may xuất khẩu Việt Nam tăng gần 7 lần, từ hơn 1,3 tỷ USD lên đến
hơn 9 tỷ USD. Sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO
năm 2007 đã đánh dấu sự tăng nhanh về kim ngạch, đạt 7,78 tỷ USD, tăng
33,44% so với năm 2006, đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất từ năm 2003
(tăng19,6% năm 2004, 10,27 % năm 2005, 20,7% năm 2006). Kim ngạch
xuất khẩu hàng Dệt May giai đoạn năm 2008 – 2009 ở mức trên 9 tỷ USD,
giữ tốc độ tăng trưởng trung bình 16-17%.



×