Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Thực trang pháp luật cạnh tranh việt nam về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.89 KB, 15 trang )

MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN
ĐỀ……………………………………………………………………...Error:
Reference source not found
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Khái quát về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh………………………………………1
1. Kháiniệm………………………………………………………………………...1
2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (TTHCCT)……………………….2
3.Phân loại…………………………........................................................................3
II.Thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam……………………….…
Error: Reference source not found
1.Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh…………………………………….4
2.Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm……………………………..………...7
3.Các trường hợp miễn trừ………………………………………………………….8
III.Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện thiện
hệ thống pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh……………………..…….….9
1. Về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm……………………….…………..9
2. Các trường hợp miễn trừ …………………………..………………....………..11
3.Về việc điều tra, xử lý các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh………….…12
KẾT THÚC VẤN ĐỀ…………………………………………………………….13
1


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………14

ĐẶT VẤN ĐỀ
Cạnh tranh là một quy luật tất yếu trên nền kinh tế thị trường. Quá trình cạnh
tranh buộc các doanh nghiệp phải nỗ lực để đạt được lợi thế hơn so với các đối thủ.
Sự tồn tại của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh vì thế cũng là một điều tất yếu.
trong những biến dạng tiêu cực của cạnh tranh thì hành vi hạn chế cạnh tranh được


coi là đặc biệt nguy hiểm bởi nếu khơng được kiểm sốt sẽ đi đến thủ tiêu cạnh
tranh, gây hại cho người tiêu dùng và đồng thời là cả nền kinh tế. Để hiểu rõ hơn
về vấn đề này em xinh chọn đề tài: “Thực trang pháp luật cạnh tranh Việt Nam về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh”
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.
Những vấn đề chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1. Khái niệm
Thỏa thuận theo từ điển Tiếng Việt được định nghĩa là “hoạt động giữa hai hay
nhiều người với nhau bằng hành vi hoặc không bằng hành vi để nhằm đạt được
một cùng mục đích nhất định”
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được coi là hành vi giữa các các chủ thể thống
nhất ý chí để nhằm đạt được mục đích kinh doanh nhất định. Khái niệm thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, cho ta cái nhìn
tồn diện về thuật ngữ này:
Dưới góc độ kinh tế học, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự
thống nhất cùng hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ
2


sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các
đối thủ cạnh tranh.
Dưới góc độ khoa học pháp lý có thể hiểu thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là
sự thống nhất ý chí của từ 2 chủ thể kinh doanh trở lên được thể hiện dưới bất kỳ
hình thức nào, có hậu quả làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, có thể hiểu, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là sự thống nhất cùng hành
động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh
hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh
2. Đặc điểm của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thứ nhất, về chủ thể tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh

nghiệp hoạt động độc lập. Theo Điều 2 Luật Cạnh tranh 2004 thì Doanh nghiệp
bao gồm tổ chức, cá nhân kinh doanh. Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận phải
hoạt động độc lập với nhau và hoàn toàn khơng phụ thuộc với nhau về tài chính.
Thứ hai, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ được hình thành khi có sự thống
nhất ý chí của các bên tham gia thỏa thuận. Sự thống nhất cùng hành động giữa các
doanh nghiệp tham gia thỏa thuận được thể hiện công khai hoặc không công khai.
Nội dung thỏa thuận thường là về việc ấn định giá, phân chia thị trường tiêu thụ,
hạn chế nguồn cung. Pháp luật Việt Nam chỉ ghi nhận một thỏa thuận vi phạm một
trong các hình thức vi phạm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh khi đã có đủ bằng
chứng kết luận giữa họ đã tồn tại một hợp đồng chính thức bằng văn bản; hoặc có
thể bằng hình thức khơng thành văn bản như: các cuộc gặp mặt, họp bàn… nhưng
phải có sự ghi nhận ở những tài liệu liên quan.
Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể nhằm cùng
một mục đích hoặc nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, dù với mục đích nào thì
doanh nghiệp đã có sự thống nhất ý chí về cùng thực hiện một hành động nào đó
đều bị coi là hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Yếu tố hành vi được coi là
3


điều kiện cơ bản, bởi nếu mới chỉ dừng lại ở ý định, ý tưởng những chưa có sự
thỏa thuận trên thực tế thì khơng thể coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ ba, hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là làm giảm sức ép cạnh
tranh, làm sai lệch hoặc cản trở cạnh tranh trên thị trường. Thỏa thuận cạnh tranh
gây ra cho thị trường sự xóa bỏ cạnh tranh, các đối thủ trên thị trường sẽ khơng
cịn cạnh tranh nữa. Hậu quả của nó có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của
người tiêu dùng và gây thiệt hại cho các doanh nghiệp không tham gia việc thỏa
thuận.
3. Phân loại
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể phân loại như sau:
Thỏa thuận theo chiều ngang là thỏa thuận giữa các doanh nghiệp có cùng

ngành hàng hoạt động trên cùng một thị trường liên quan như thỏa thuận giữa các
nhà sản xuất hay giữa những nhà những nhà bán buôn hoặc giữa những nhà bán lẻ
của những loại sản phẩm tương tự nhau. Nội dung của thỏa thuận liên quan đến ấn
định giá mua bán hàng hóa, dịch vụ, phân chia thị trường, ngăn cản doanh nghiêp
khác tham gia thị trường, thông đồng trong đấu thầu, hạn chế hoặc kiểm soát số
lượng, khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ.
Thỏa thuận theo chiều dọc là các thỏa thuận liên quan đến việc bán lại những
sản phẩm từ nhà sản xuất hay nhà cung cấp, do đó nó diễn ra giữa các doanh
nghiệp ở các cơng đoạn khác nhau trong q trình sản xuất, phân phối sản phẩm
như thỏa thuận giữa nhà sản xuất và nhà phân phối. Thỏa thuận theo chiều dọc
không tạo ra khả năng khống chế thị trường. Các thỏa thuận phổ biến theo chiều
dọc thường có các nội dung: phân phối độc quyền theo lãnh thổ, giao dịch độc

4


quyền, buộc các doanh nghiệp tham gia vào mạng lưới phân phối của nhà sản
xuất…; thỏa thuận ấn định giá bán lại.
II.

Thực trạng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam

1. Các hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Được quy định tại Điều 8 Luật cạnh tranh, bao gồm 8 loại TTHCCT:
a. Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp
Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hay gián tiếp là
việc thống nhất cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây: Áp dụng
thống nhất mức giá với một số hoặc tất cả khách hàng; tăng giá hoặc giảm giá ở
mức cụ thể; áp dụng cơng thức tính giá chung; duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản
phẩm liên quan; không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất;

dành hạn mức tín dụng cho khách hàng; khơng giảm giá nếu không thông báo cho
các thành viên khác của thoả thuận; sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các
cuộc đàm phán về giá bắt đầu.
b. Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng
dịch vụ
Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ là việc thống nhất về số lượng hàng
hóa, dịch vụ; địa điểm mua, bán hàng hóa, dịch vụ; nhóm khách hàng đối với mỗi
bên tham gia thỏa thuận.
Thoả thuận phân chia nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ là việc
thống nhất mỗi bên tham gia thỏa thuận chỉ được mua hàng hóa, dịch vụ từ một
hoặc một số nguồn cung cấp nhất định.

5


c. Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán
hàng hoá, dịch vụ
Thoả thuận hạn chế số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch
vụ là việc thống nhất cắt, giảm sốlượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan so với trước đó.
Thoả thuận kiểm soát sốlượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá,
cung ứng dịch vụ là việc thống nhấtấn định số lượng, khối lượng sản xuất, mua,
bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ ởmức đủ để tạo sự khan hiếm trên thị trường.
d. Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư
Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ là việc thống nhất mua
sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng cơng nghiệp để tiêu hủy hoặc không sử
dụng.
Thoả thuận hạn chế đầu tư là việc thống nhất không đưa thêm vốn để mở
rộng sản xuất, cải tiến chất lượng hàng hóa, dịch vụ hoặc để mở rộng phát triển
khác.

e. Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không
liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng
Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua,
bán hàng hoá, dịch vụ là việc thống nhất đặt một hoặc một số điều kiện tiên quyết
sau đây trước khi ký kết hợp đồng:

6


- Hạn chế về sản xuất, phân phối hàng hoá khác; mua, cung ứng dịch vụ khác
không liên quan trực tiếp đến cam kết của bên nhận đại lý theo quy định của pháp
luật về đại lý;
- Hạn chế về địa điểm bán lại hàng hóa, trừ những hàng hóa thuộc danh mục mặt
hàng kinh doanh có điều kiện, mặt hàng hạn chế kinh doanh theo quy định của
pháp luật;
- Hạn chế về khách hàng mua hàng hóa để bán lại, trừ những hàng hóa quy định tại
điểm b khoản này;
- Hạn chế về hình thức, sốlượng hàng hố được cung cấp.
Thoả thuận buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợpđồng là việc thống nhất ràng buộc doanh nghiệp
khác khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ với bất kỳ doanh nghiệp nào tham gia thoả
thuận phải mua hàng hoá, dịch vụ khác từ nhà cung cấp hoặc người được chỉ định
trước hoặc thực hiện thêm một hoặc một số nghĩa vụ nằm ngoài phạm vi cần thiết
để thực hiện hợp đồng.
f. Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh
Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:

- Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ khách hàng của mình khơng mua, bán hàng hố, khơng
sử dụng dịch vụ của doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận;

7


- Mua, bán hàng hóa, dịch vụvới mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận không thể tham gia thịtrường liên quan.
Thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, khơng cho doanh nghiệp khác phát triển
kinh doanh là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không tham gia
thỏa thuận hoặc cùng hành động dưới một trong các hình thức sau đây:
- Yêu cầu, kêu gọi, dụ dỗ các nhà phân phối, các nhà bán lẻ đang giao dịch với
mình phân biệt đối xử khi mua, bán hàng hóa của doanh nghiệp không tham gia
thỏa thuận theo hướng gây khó khăn cho việc tiêu thụ hàng hóa của doanh nghiệp
này;
- Mua, bán hàng hóa, dịch vụvới mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa
thuận không thể mở rộng thêm quy mô kinh doanh.
g. Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên
của thoả thuận
Thoả thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các
bên của thoả thuận là việc thống nhất không giao dịch với doanh nghiệp không
tham gia thỏa thuận và cùng hànhđộng dưới hình thức quy định tại điểm a khoản 1
và khoản 2 Điều 19 của Nghị định 116/2005/NĐ-CP này hoặc mua, bán hàng hóa,
dịch vụ với mức giá đủ để doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận phải rút lui
khỏi thị trường liên quan.
2. Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm tuyệt đối
Với quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật cạnh tranh, có 3 loại thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh sau đây bị cấm tuyệt đối, bao gồm: Thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm
8



không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh;
Thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của
thỏa thuận; Thông đồng để một hoặc các bên tham gia thỏa thuận thắng thầu trong
việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có điều kiện
Với quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật cạnh tranh, ngoài 3 thỏa thuận thuộc
trường hợp 2.1.1, những loại thỏa thuận sau đây bị cấm nếu các bên tham gia thỏa
thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên, bao gồm: (a)
thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; (b) thỏa
thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ;
(c) thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua bán
hàng hóa, dịch vụ; (d) thỏa thuận hạn chế phát triển kĩ thuật, công nghệ, hạn chế
đầu tư; (đ) thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng
mua, bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các
nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
Theo Khoản 1 Điều 11 Luật cạnh tranh, mức thị phần trên thị trường liên
quan từ 30% trở lên đã có thể trao cho doanh nghiệp sức mạnh thị trường bởi được
coi là doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, theo đó có khả năng tác động đến giá cả
thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. Và tất nhiên,
với việc thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp có khả năng tác động đến những yếu tố
của thị trường theo hướng có lợi cho bản thân doanh nghiệp. Và những doanh
nghiệp hay những nhóm doanh nghiệp cho dù có liên kết mà vẫn khơng có được
mức thị phần thống lĩnh thì sẽ khơng bị coi là có sức mạnh thị trường.
3. Các trường hợp miễn trừ
9


Theo quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh, các thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh có thể được hưởng quyền miễn trừ gồm các thỏa thuận quy định tại các
khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh 2004. Các thỏa thuận nói trên sẽ được
hưởng miễn trừ nếu như chúng được thực hiện nhằm hạ giá thành và đem lại
những lợi ích cho người tiêu dùng bằng các yếu tố sau:
Thứ nhất, chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển.
Thứ hai, chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều
kiện kinh doanh.
Thứ ba, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì có sự cân nhắc các lợi ích và chi
phí của các bên trong thỏa thuận đối với cạnh tranh, với người tiêu dùng và đối với
toàn xã hội để quyết định có nên cấm hay khơng, tức là sẽ có những thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh chỉ bị cấm khi đạt đến mức giới hạn cần thiết.
Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm có khả năng được hưởng
quyền miễn trừ theo quy định của pháp luật xuất phát từ quyền tự do kinh doanh
của các chủ thể. Về nguyên tắc, sự tự do được pháp luật tôn trọng và chỉ khi nào sự
tự do đó gây tổn hại đến quyền và lợi ích chính đáng của chủ thể khác thì pháp luật
mới can thiệt.
III.

Một số bất cập và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh

1. Về các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
1.1 Bất cập

10


Thứ nhất, hiện nay, pháp luật cạnh tranh Việt Nam chưa có định nghĩa hoặc
quy định chung về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Các quy định hiện hành chỉ

nhắm đến các hình thức biểu hiện bên ngồi một cách cứng nhắc, chưa nhắm vào
bản chất phản cạnh tranh của hành vi, đồng thời chưa bao quát được hết các dạng
thức kinh doanh mới với tính phức tạp ngày càng cao của doanh nghiệp.
Thứ hai, việc phân nhóm các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo hai mức
độ cấm đoán quy định tại Điều 9 Luật Cạnh tranh là chưa hoàn toàn hợp lý.
Thứ ba, thị phần là cơ sở duy nhất để phân biệt hai mức độ cấm đốn cũng gây
nên những bất cập trong q trình thực thi kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Trước hết, việc phân biệt các mức độ cấm đoán đối với các hành vi thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh phải dựa trên bản chất hạn chế cạnh tranh của hành vi, tính chất và
mức độ tác động trực tiếp hay gián tiếp đến các yếu tố cạnh tranh trên thị trường.
Việc ấn định một ngưỡng thị phần kết hợp 30% cho tất cả các thị trường, các
ngành nghề, lĩnh vực để xác định sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp tham
gia thỏa thuận là không hợp lý.
1.2. Giải pháp
Thứ nhất, xem xét điều chỉnh các hành vi thuộc nhóm bị cấm tuyệt đối và
cấm tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Cấm tuyệt đối đối với 4 dạng thỏa thuận bị coi là nghiêm trọng trong mọi
trường hợp gồm: thỏa thuận ấn định giá; thỏa thuận phân chia thị trường; thỏa
thuận hạn chế, kiểm soát sản lượng sản xuất, mua bán và; thông đồng đấu thầu.
Cấm theo từng trường hợp cụ thể đối với các dạng thỏa thuận khác tùy theo
đặc thù của từng ngành, đặc điểm của từng thị trường. Có như vậy, việc thực thi
các quy định của pháp luật cạnh tranh về hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
mới có thể phục vụ tốt cho mục tiêu tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển và
đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng Việt Nam.
11


Thứ hai, cần xem xét sửa đổi cách tiếp cận đánh giá thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh dựa theo tiêu chí duy nhất là thị phần như hiện nay.
Một số ý kiến cho rằng quy định như hiện tại (chỉ cần xem xét thị phần của

các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận) là dễ thực thi và phù hợp với các cơ quan
cạnh tranh cịn non trẻ. Ở một khía cạnh khác, một số ý kiến khác cho rằng việc ban
hành các quy định điều chỉnh hành vi chỉ vì mục tiêu tạo điều kiện dễ dàng cho cơ
quan thực thi luật mà làm sai lệch bản chất, ý nghĩa, mục đích của việc điều chỉnh là
cần phải xem xét lại bởi nếu không việc thực thi các quy định sẽ khơng cịn có ý
nghĩa, thậm chí trong một số trường hợp cịn phản tác dụng. Chính vì vậy, các nước
khi ban hành các quy định điều cấm đối hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đều
căn cứ vào bản chất gây hạn chế cạnh tranh của hành vi và thị phần chỉ là một trong
các yếu tố để cơ quan cạnh tranh có thể xem xét khi đánh giá về vụ việc.
2. Các trường hợp miễn trừ
2.1 Bất cập
Thứ nhất, pháp luật quy định về miễn trừ chưa đền cập đến nguyên tắc xác
định thời hạn cho hưởng quyền miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Cạnh tranh, việc miễn trừ đối với thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh là có thời hạn. Việc cho hưởng miễn trừ có thời hạn đối với thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh là hoàn toàn hợp lý bởi theo thời gian các thỏa thuận này
thường có xu hướng khơng cịn đáp ứng được các điều kiện cần thiết để hưởng
miễn trừ nữa.
Do đó, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền thụ lý hồ sơ, ra quyết định cho
hưởng miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có quyền đề xuất, quyết định
thời hạn miễn trừ.
Thứ hai, quy định về miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
có sự mâu thuẫn liên quan đến thỏa thuận về giá.
12


2.2 Giải pháp
Thứ nhất, pháp luật cần có quy định hướng dẫn về thời hạn miễn trừ đối với
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Điều 10 Luật Cạnh tranh đặt ra một số trường
hợp cho phép miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, tuy nhiên việc miễn

trừ này chỉ được áp dụng có thời hạn. Do đó, để cơ quan, cá nhân có thẩm quyền
có căn cứ và có thể áp dụng thống nhất trong việc giới hạn thời gian cho các chủ
thể tham gia thỏa thuận thì pháp luật cần phải có sự quy định phù hợp.
Thứ hai, pháp luật cần quy định không miễn trừ đối với các thỏa thuận ấn
định về giá để tránh sự mâu thuẫn với quy định tại điểm d khoản 1 Điều 10 Luật
Cạnh tranh. Đồng thời, tham khảo quy định của các nước đi trước, thì thỏa thuận
ấn định về giá là một trong những hành vi làm phương hại nghiêm trọng nhất đến
cạnh tranh. Do vậy các nước có xu hướng cấm nhóm hành vi này trong mọi trường
hợp và không xét miễn trừ đối với hành vi này.
3.Về việc điều tra, xử lý các vụ việc thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
3.1 Bất cập
Thẩm quyền giải quyết khiếu nại chống lại quyết định của Hội đồng xử lý vụ
cạnh tranh là Hội đồng cạnh tranh. Song trong luật không quy định Hội đồng cạnh
tranh khi giải quyết khiếu nại có bao gồm cả những thành viên đã tham gia hội
đồng xử lý các vụ việc cạnh tranh hay khơng? Ngồi ra, luật cũng khơng quy định
thủ tục giải quyết khiếu nạu bởi Hội đồng cạnh tranh; về việc giải quyết khiếu nại
chống lại quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh thì thẩm quyền
thuộc về Bộ trưởng Bộ Thương mại. Trong quá trình xem xét khiếu nại và khiếu
kiện, những nội dung của quyết định không bị khiếu nại hay khiếu kiện là có hiệu
lực thi hành.
3.2 Giải pháp
13


Thứ nhất, cần sửa đổi, quy định cụ thể trường hợp khi vụ việc cạnh tranh có
dấu hiệu tội phạm thì khi đó cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ có quyền ra quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ giải quyết vụ việc để chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra.
Thứ hai, liên quan đến các quy định về hình thức xử phạt và mức độ xử
phạt: Điều chỉnh quy định xác định mức phạt tiền dựa trên doanh thu trên thị
trường liên quan; quy định các mức nguyên tắc xác định mức phạt tiền; quy định

mức phạt tiền tối thiểu; quy định các hình thức xử lý vi phạm đối với cá nhân vi
phạm.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Cạnh tranh là quy luật vận động cơ bản, đồng thời là động lực thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế. Xét một cách tồn diện thì cạnh tranh là một xu hướng
chi phối mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Song cũng chính từ
q trình cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế lại xuất hiện
những yếu tố mà nếu không được pháp luật điều chỉnh thì sẽ dẫn đến triệt tiêu cạnh
tranh. Vì thế nên cần phải có những biện pháp cụ thể để xử lí các hành vi đó.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình luật cạnh tranh, đại học luật Hà nội
14


2. Luật cạnh tranh 2004
3. Nghị định 116/2005/NĐ-CP Quy định chi tiết thi hành một số điều của
Luật Cạnh tranh
4. Quyết định của Hội đồng xử lí vụ việc cạnh tranh số 14/QĐ-HĐXL ngày
29/07/2010 về xử lí vụ việc cạnh tranh số KNCT-HCCT-0009.
5. />6. Trường đại học kinh tế - luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, Giáo
trình luật cạnh tranh, 2010.

15



×