Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

khóa luận tốt nghiệp tang ma của người tày ở xã châu sơn, huyện đinh lập, tỉnh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.07 MB, 79 trang )

KhóaluậntốtnghiệpSinhviên:NôngThịLinh
0

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI
KHOA VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ




KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TANG MA CỦA NGƯỜI TAY Ở XÃ CHAU SƠN, HUYỆN ĐINH LẬP, TỈNH
LẠNG SƠN

Giảng viên hướng dẫn : TH.S NGUYỄN THANH VÂN
Sinh viờn thực hiện : NÔNG THỊ LINH
Lớp : VHDT




HÀ NỘI - 2015


KhóaluậntốtnghiệpSinhviên:NôngThịLinh
1

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành khóa luận tốt nghiệp với đề tài : “Tang ma của người Tày ở xó
Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn’’, tôi xin tỏ lũng biết ơn: Thạc sỹ Nguyễn
Thanh Vân, người đó trực tiếp hướng dẫn, chỉ đạo, đóng góp ý kiến cho tụi trong


suốt quỏ trỡnh làm khúa luận tốt nghiệp.
Các thầy cô trong khoa Văn Hóa Dân Tộc Thiểu Số
trường Đại học Văn hóa Hà
Nội đó nhiệt tỡnh giỳp đỡ tôi trong suốt quá trỡnh học và làm khúa luận tốt nghiệp.
Nhân đây xin bày tỏ lũng cảm ơn sâu sắc tới các Chú, các Bác, cỏc Anh, cỏc
Chị cụng tỏc tại UBND xó, Phũng Văn hóa xó và thụng tin huyện Đỡnh Lập, Trung
tõm Văn hóa và thể thao huyện, Thư viện huyện và toàn thể nhân dân đang sinh sống
và làm việc trên địa bàn xó đó nhiệ
t tỡnh giỳp đỡ tôi trong suốt quá trỡnh khảo sỏt
và quỏ trỡnh thực địa tại cơ sở.
Do khả năng có hạn nên khóa luận viết không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi
mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp cho khóa luận được hoàn thiện hơn
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Sinh viờn thực hiện
Nông Thị Linh
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
0

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
2
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Lịch sử nghiờn cứu
3
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

5
5. Phương pháp nghiên cứu
5
6. Đóng góp của đề tài
5
7. Bố cục của khúa luận
6
Chương 1
7
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN
7
1.2. Khái quát về người Tày ở Châu Sơn
10
1.2.1. Lịch sử tộc người
11
1.2.2. Đặc điểm văn hóa của người Tày ở xó Châu Sơn
12
Chương 2
19
TANG MA CỦA NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN
19
2.1. Quan niệm của người Tày về cái chết
19
2.2.Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn trong truyền thống
19
2.2.1. Công tác chuẩn bị cho một đám tang
20
2.2.2. Các nghi thức trong tang ma
21
2.3. Cỏc lễ cỳng sau mai tỏng

34
2.3.1. Lễ mở cửa mả (khay tu mả)
34
2.3.2. Lễ hũi thang (người chết về thăm lại nhà)
35
2.3.3. Lễ cỳng 40 ngày, 100 ngày (lễ tốt khốc là thụi khúc)
35
2.3.4. Lễ Oóc khuốp (Cúng giỗ đầy năm), Lễ Oóc tang (Lễ món tang- ba
năm) 36
2.4. Cỏc hỡnh thức tang ma khỏc của người Tày ở xó Chõu Sơn
36
2.5. Sự giống và khác nhau trong tang ma giữa người Tày và người Dao ở
xó Chõu Sơn. 40
Chương 3
42
GIÁ TRỊ VĂN HÓA VÀ MỐI QUAN HỆ XÃ HỘI ĐƯỢC BIỂU HIỆN
TRONG TANG MA CỦA NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN 42
3.1. Những giá trị văn hóa
42
3.1.1. Gía trị đạo đức nhân văn
42
3.1.2. Gía trị văn hóa tộc người
43
3.1.3. Gía trị xó hội
45
3.2. Các quan hệ xó hội
47
3.2.1. Quan hệ, ứng xử giữa người sống và người chết
47
3.2.2. Quan hệ ứng xử giữa người sống và người sống

48
3.2.3. Quan hệ giữa con người với thế giới tâm linh (Các thần, các ma…)
50
3.3. Một số biến đổi trong tang ma của người Tày ở Châu Sơn hiện nay
51
3.4. Nguyên nhân biến đổi
54
3.4.1. Tác động từ cỏc chớnh sỏch phỏt triển kinh tế
54
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
1

3.4.2. Tác động từ nhận thức của người dân 56
3.4.3. Tác động từ sự giao thoa văn hóa
57
3.5. Giải phỏp bảo tồn các giá trị văn hóa trong tang ma ở xó Châu Sơn
58
KẾT LUẬN
62

Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
2

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc bao gồm 54 dân tộc cùng cư trú
trên mọi miền đất nước. Mỗi dân tộc có những giá trị văn hóa riêng, phản ánh
truyền thống lịch sử lâu đời. Tất cả các dân tộc anh em trong đại gia đỡnh
Việt Nam đó gỡn giữ, bồi đắp và phát huy sắc thái văn hóa riêng của mỡnh.
Cỏc sắc thỏi đó

đó ảnh hưởng lẫn nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bức tranh
văn hóa Việt Nam đa dạng và phong phú.
Tang ma là một trong những nghi lễ quan trọng bậc nhất trong chu kỡ
đời người, của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn.
Tang ma phản ánh về nhiều khía cạnh của cuộc sống. Nghiên cứu tang lễ,
giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ quan, nhân sinh quan, các quy tắc ứng xử giữa
con người v
ới con người trong gia đỡnh, cũng như trong cộng đồng xó hội,
cộng đồng tộc người, Ngoài giá trị giáo dục đạo đức, tập quán tang ma cũn
mang trong nú nhiều ý nghĩa và giỏ trị to lớn khỏc. Trong đó có các giá trị về
bảo tồn văn hóa truyền thống; giá trị về văn học, nghệ thuật; tác dụng cố kết
cộng đồng.
Chính v
́
thế, nên tập quán tang ma luôn là vấn đề
được các nhà nghiên
cứu trú trọng nghiên cứu về các tộc người nói chung và nghiên cứu dân tộc
Tày nói riêng. Mặc dù vậy, cho đến nay tập quán tang ma của cộng đồng
người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn vẫn chưa được
quan tâm, nghiên cứu đầy đủ. Đó chính là khoảng trống trong nghiên cứu về
cộng đồng người Tày ở Châu Sơn, cần được khỏa lấp.
Tập quán tang ma của các tộ
c người nói chung và của người Tày ở xó
Chõu Sơn nói riêng, luôn chứa đựng trong nó các giá trị đích thực, song nó
cũng ẩn chứa cả những yếu tố lỗi thời và các hủ tục. Bởi vậy, không chỉ có tác
động tích cực, mà nó cũng mang đến nhiều tác động tiêu cực, đối với sự phát
triển của địa phương. Để phát huy được các tác động tích cực, hạn chế tối đa
các yếu tố tiêu c
ực, của tập quán tang ma đối với sự phát triển chung của
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh

3

người Tày ở Châu Sơn không thể không nghiên cứu tường tận về tập quán
tang ma của người Tày ở đây.
Trong bối cảnh hôi nhập, giao lưu văn hóa mạnh mẽ như hiện nay, văn
hóa truyền thống của người Tày nói chung và người Tày ở Châu Sơn nói
riêng cũng đang biến đổi theo nhiều xu hướng, trong đó có phong tục tang ma
cũng không ngoại lệ. Phong tục tang ma của người Tày nơi đây vừa hộ
i nhập
thêm những giá trị văn hóa mới, nhưng đồng thời cũng làm mai một không ít
các giá trị văn hóa truyền thống quý bỏu của tộc người.
Với cỏc lý do trờn, tụi chọn “Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn,
huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân,
ngành Văn hóa dân tộc thiểu số.
2. Lịch sử nghiờn cứ
u
Về văn hóa Tày – Nùng ở Việt Nam hiện nay đó cú nhiều cụng trỡnh
nghiờn cứu về cỏc lĩnh vực văn hóa vật thể, và văn hóa phi vật thể đó được
công bố, xuất bản, trong đó phải kể đến các công trỡnh sau:
- Ló Văn Lô, Hà Văn Thư: Văn hóa Tày Nùng, Nhà xuất bản văn hóa,
Hà Nôi, 1984.
- Hoàng Quyết, Ma Khánh Bằng, Hoàng Phách, Cung Văn Lược,
Vương Toàn: Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nhà xuấ
t bản Văn hóa dân
tôc, Hà Nội, 1993.
- Hoàng Quyết, Tuấn Dũng: Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt
Bắc, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1994.
- Hoàng Tuấn Nam: Việc tang lễ cổ truyền của người Tày, NXB Văn
hóa dân tộc, Hà Nội, 1999.
Qua tỡm hiểu chỳng tụi nhận thấy trong cỏc cụng trỡnh nghiờn cứu

xuất bản văn hóa người Tày, trong phần văn hóa phi vật thể, khi tỡ
m hiểu về
nghi lễ chu kỳ đời người, tang ma chỉ được đề cập khái quát, chẳng hạn: Cuốn
Văn hóa Tày Nùng của tác giả Ló Văn Lô, Hà Văn Thư dành 4 trang viết về
đám tang, trong mục nghi lễ vũng đời người. Trong đó ngoài việc giới thiệu
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
4

trỡnh tự trong một đám tang, phần cũn lại là bài đăng các bài văn than của
con cháu, họ hàng, bè bạn khóc người chết, hương ước của bản đó có những
quy định ứng xử với tang ma.
Viết về tang ma của người Tày ở Lạng Sơn có luận án tiến sỹ của tác
giả Vi Thanh Hoài với đề tài Tang lễ của người Tày ở xó Bỡnh La, huyện
Bỡnh Gia, tỉnh Lạng S
ơn. Trong cụng trỡnh này tỏc giả viết về cỏc quan niệm
cỏi chết, cỏc hỡnh thức cỏi chết và quỏ trỡnh tổ chức trỡnh tự của một đám
tang từ khi chết cho đến khi kết thúc của người Tày ở xó Bỡnh La, huyện
Bỡnh Gia, tỉnh Lạng Sơn.
Như vậy, các nghiên cứu về văn hóa Tày trước đó chưa có công trỡnh
nào viế
t về tang ma, cỏc giỏ trị và cỏc mối quan hệ trong tang ma của người
Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn, trong truyền thống
cũng như biến đổi hiện nay. Tuy nhiên, những nguồn tài liệu quý bỏu trờn
cũng là những tư liệu quý báu để chúng tôi tham khảo, so sánh trong quá
trỡnh hoàn thành bài khúa luận này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiờn cứu
Mục đích nghiên cứu của
đề tài là tỡm hiểu về tập quan tang ma của
người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn, truyền thống và
biến đổi, cũng như những giá trị và mối quan hệ xó hội được thể hiện trong

đó. Từ đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các
giá trị văn hóa mang bản sắc tộc người trong tang ma của ng
ười Tày ở Châu
Sơn.
Để thực hiện mục đích trên, đề tài khóa luận phải thực hiện các nhiệm
vụ nghiên cứu sau:
- Khái quát về người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lõp, tỉnh Lạng
Sơn.
- Nghiên cứu về tập quán trong tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn,
huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn trong truyền thống cũng như hiện nay.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
5

- Khái quát những giá trị văn hóa và các quan hệ xó hội được thể hiện
trong tang ma truyền thống của người Tày ở Châu Sơn, đề xuất giải pháp bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người trong tang ma của người Tày nơi
đây.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: dân tộc Tày, tang ma và các vấn đề liên quan đến tang ma
của người Tày, từ khi trong gia đỡnh có người già yếu, cho đến khi qua đời,
trỡnh tự nghi l
ễ trong một đám tang bỡnh thường hay những trường hợp tang
ma đặc biệt ở xó Chõu Sơn.
- Phạm vi nghiờn cứu
+ Phạm vi thời gian: Khóa luận đi tỡm hiểu và nghiờn cứu về cỏc quan
niệm và cỏch ứng xử với người chết do tuổi cao, có đầy đủ con cháu bố mẹ đó
qua đời và tang ma của những trường hợp khác, như chết trẻ, chết do tai n
ạn,
chết chưa lập gia đỡnh, chết trước bố mẹ trong truyền thống cũng như hiện
nay.

+ Phạm vi không gian: đia bàn nghiên cứu tại xó Châu Sơn, huyện
Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành khóa luận này chúng tôi sử dụng 2 phương pháp chủ yếu
sau: sưu tầm tài liệu (điền dó dõn tộc học trong đó việc quan sỏt, ghi chộp, là
quan trọng nhất: s
ưu tầm tư liệu đó cụng bố, xuất bản ) và phõn tớch tài liệu,
tổng hợp, viết bỏo cỏo.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài bước đầu tập hợp, hệ thống hóa tư liệu về nghi lễ trong một đám
tang truyền thống của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng
Sơn. Đồng thời làm rừ, nổi b
ật những giỏ trị văn hóa của đám tang trong đời
sống tinh thần của người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng
Sơn.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
6

Từ những kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ góp phần định hướng
trong việc bảo tồn phát huy những giá trị văn hóa tiêu biểu của tộc người Tày
ở Châu Sơn được thể hiện trong tang ma, góp phần quan trọng trong công
cuộc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
7. Bố cục của khúa luận
Chương 1: Khái quát về người Tày ở xó Chõu S
ơn
Chương 2: Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn
Chương 3: Gía trị văn hóa và các quan hệ xó hội thể hiện trong tang ma
của người Tày ở xó Chõu Sơn





















Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
7



Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN
1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội ở xã Châu Sơn
Châu Sơn là một xó miền nỳi nằm ở phớa Đông Nam của huyện Đỡnh
Lập, tỉnh Lạng Sơn, cỏch trung tõm huyện 15km, chạy dọc theo Quốc lộ số
4B.
Phía Đông giáp xó Hà Lõu, huyện Tiờn Yờn, tỉnh Quảng Ninh

Phớa Tõy giỏp xó Đồng Thắng và xó Cườ
ng Lợi, huyện Đỡnh Lập
Phớa Nam giỏp xó Bắc Lóng, huyện Đỡnh Lập
Phớa Bắc giỏp xó Kiờn Mộc, huyện Đỡnh Lập
Tổng diện tớch tự nhiờn của toàn xó là 97,277km2, cú 11 thụn bản, tổng
số 375 hộ dõn với 1.675 nhõn khẩu. Toàn xó cú 163/375 hộ nghốo, chiếm
43,46% hộ cận nghốo 60/375 hộ, chiếm 16%. Xó cú 5 dõn tộc anh em: Tày,
Dao thanh phỏn, Cao Lan, Sỏn Chỉ cùng sinh sống trong đó dân tộc Tày
chiế
m 70%, chiếm 1.116 nhõn khẩu, dõn tộc Dao chiếm 28%, cỏc dõn tộc
khỏc chiếm 2%.
Lĩnh vực kinh tế
Xó Chõu Sơn vẫn lấy nông nghiệp làm kinh tế trọng điểm. Đảng ủy đã
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo MTTQ và các đoàn thể tuyên truyền vận động
đoàn viên, hội viên, nhân dân đẩy mạnh sản xuất vụ đông xuân và vụ mùa.
Tổng diện tích các loại cây trồng năm 2014 đạt 157,8 ha, trong đó diện tích
trồng lúa là 140 ha, tổng sản lượng cây lúa đạt 555,72 tấn. Cây ngô cú diện
tích đạt 57,1 ha, tổng sản lượng ngô
đạt 244,97 tấn.Các loại cây trồng khác
tổng diện tích đạt 58,8 ha, bao gồm: cây có củ, cây hạt chứa dầu, cây hàng
năm khác. Tổng sản lượng cây lương thực có hạt đạt 800,69 tấn đạt 86,2% kế
hoạch, bình quân lương thực có hạt đạt 470kg/người/năm. Công tác cung ứng
giống, phân bón, chuyển giao khoa học kĩ thuật áp dụng vào sản xuất được
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
8

quan tâm; UBND xã căn cứ thông báo của phòng Nông nghiệp huyện, thông
báo cho các hộ dân chủ động đến trạm giống của huyện mua các loại giống
lúa, ngô cho nên đáp ứng đủ giống cho cả 2 vụ sản xuất. Vật tư phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật được nhân dân tự chủ động đến đại lý phân bón và trạm

bảo vệ thực vật mua. Triển khai thành công mô hình cánh đồng mẫu lớn vụ
đông xuân tại x
ứ đồng Nà mù, diện tích 04ha, đạt năng suất 220ha/tạ.
Chăn nuôi : Thực hiện tốt công tác phòng, chống dịch bệnh ; phòng
chống rét cho gia súc, gia cầm nên không có trâu, bò bị bệnh chết ; đàn trâu
theo số liệu thống kê thời điểm 01/4/2014 có 137 con trâu ; đàn bò 82 con ;
đàn lợn 430 con ; đàn gia cầm 5.437 con; tổ chức phun tiêu độc khử trùng
11/11 thôn ; tiêm vắc xin phòng bệnh dại ở chó được 86 con.
Lâm nghiệp: tuyên truyền, chỉ đạo nhân dân trồng rừng mới năm 2014,
trồng rừng được 146ha chủ yếu là cây Keo và cây Thông. Khai thác gỗ rừng
trồng 816 mét vuông (gỗ Keo). Công tác chăm sóc bảo vệ rừng, phũng chỏy
chữa chỏy rừng được tuyên truyền thực hiện tốt, ý thức bảo vệ rừng của các
tầng lớp nhân dân được nâng lên, đến nay trên địa bàn xó khụng cú chỏy rừng
xảy ra.
Kết quả tổ chức ra quân đầu xuân đạt được: Nạo vét mương được
4.007m dài.
Đào đắp được: 52 mét vuông đất, đá. Khơi thông rãnh được:
2.205 m dài, san lấp mặt đường được: 6,5 mét vuông, phát quang hai bên
đường 2.900 m dài đảm bảo nước tưới phục vụ cho sản xuất.
Lĩnh vực văn hóa xã hội
Công tác giáo dục: Thường xuyên lãnh đạo chỉ đạo các trường duy trì ổn
định nề nếp dạy và học, thực hiện tốt các quy định của ngành giáo dục đề ra,
nâng cao chất lượng đạy và học. Thực hi
ện tốt phong trào, hoạt động ủng hộ
giúp đỡ các học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh nghèo vượt khó. Chỉ
đạo các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân phối hợp với nhà trường thường
xuyên động viên con em đến trường, đầy đủ, duy trì sĩ số học sinh; duy trì
được phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
9


sở và phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi. Kết quả năm học 2013- 2014:
Cấp THCS 109 học sinh lên lớp 100%; cấp tiểu học 16 lớp với 155 học sinh,
lên lớp 100%; Cấp Mầm non tổng số 115 trẻ, trong đó: Mẫu giáo: 69 trẻ, Nhà
trẻ 46 trẻ, trẻ được lên lớp 1 là 24/24 trẻ đạt 100%.
Thực hiện chương trình hóa giáo dục về xây dựng Trường Tiểu học đạt
chuẩn quố
c gia trong năm học 2014, Đảng ủy xã phát động cán bộ và nhân
dân trên địa bàn xã quyên góp, ủng hộ bằng tiền mặt để xây dung một số hạng
mục chưa đạt. Qua đợt vận động nhân dân ủng hộ được: 43.846.000 đồng.
Công tác y tế: Lãnh đạo thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe và
khám chữa bệnh cho nhân dân trên địa bàn, tổng số lần khám bệnh và cấp
phát thuốc được 1.622 lượt người; kết hợ
p điều trị y học cổ truyền được 518
người; bệnh nhân chuyển tuyến trên 131 người; Tiêm chủng phòng các loại
bệnh cho trẻ được 284 lượt; trong năm trên địa bàn không có dịch bệnh lớn
xảy ra. Thường xuyên thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y
tế theo kế hoạch.
Công tác DS - KHH gia đình: Luôn được cộng tác viên DS - KHH Gia
đình tuyên truyền các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ dùng các biện pháp
tránh thai và tiêm phòng v
ắc xin phòng chống các dịch bệnh nhiễm khuẩn cho
các bà mẹ và trẻ em. Tổng số sinh 36 trẻ, trong đó: sinh con thứ 3 trở lên 11
trường hợp = 30,55% so với tỷ lệ.
Văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao: Chỉ đạo tổ chức các hoạt động VH-
VN -TDTT vui chơi trong dịp tết mừng Đảng, mừng xuân, tổ chức giao lưu
búng đá giữa các thôn bản. Tổ chức 01 đêm giao lưu văn ngh
ệ trong đợt huấn
luyện dân quân cụm 2 năm 2014.
Thực hiện các chính sách xã hội: Tổ chức tặng quà cho các đối tượng

chính sách, gia đình đặc biệt khó khăn và các hộ gia đình nghèo trong dịp tết
được kịp thời đúng đối tượng. Tổng các xuất quà đã trao là 233 xuất; Trong
đó: Qùa của Trung ương hỗ trợ các gia đình nghèo 205 xuất. Qùa của Huyện,
Tỉnh Lạng Sơn 28 xuất. Xét trợ cấp thiếu đ
ói trong dịp tết cho 19 hộ với 73
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
10

nhân khẩu, tổng số gạo 1.095. Hỗ trợ cứu đói giáp hạt II cho 56 hộ 234 nhân
khẩu, tổng số gạo 3.510 kg.
Công tác xóa đói giảm nghèo: Được quan tâm chỉ đạo thực hiện ngay
từ đầu năm, theo kết quả rà soát năm 2013: Số hộ nghèo 43 hộ = 12%; công
tác cấp thẻ BHYT cho các đối tượng đã được quan tâm triển khai thực hiện và
kịp thời, tổng số thẻ BHYT 1,289 thẻ; Trong đó đối tượ
ng nghèo 677 thẻ,
DTTS 612 thẻ. Hỗ trợ cho hộ nghèo về tiền điện 04 quý số tiền 82.584.000
đồng. Triển khai hỗ trợ trực tiếp cho hộ nghèo theo Quyết định 102/2009/QĐ
- TTg số tiền 78.100.000 đồng; Quyết định 28/2013/QĐ - UBND ngày
24/3/2013 của UBND tỉnh cho 82 hộ số tiền 82.000.000 đồng. Vốn hỗ trợ 174
triệu, hỗ trợ phân lân tổng hợp được 11.100kg.
1.2. Khái quát về người Tày ở Châu Sơn
Trong cộng
đồng 54 dân tộc Việt Nam, người Tày có số dân đứng thứ
hai sau người Việt (Kinh), là dõn số cú số dân đông nhất trong các tộc người
thiểu số 1.626.392 người theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009. Địa
bàn cư trú chính của người Tày chủ yếu ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà
Giang,Tuyên Quang, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Yên Bái…Ngoài ra còn có một
bộ phận sống ở Quảng Ninh, Bắc Giang, Lào Cai. Gần đây một bộ ph
ận đã
chuyển vùng vào các tỉnh Tây Nguyên: Đắc Lắc, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon

Tum. Đây là một nét mới trong việc mở rộng địa bàn cư trú của người Tày từ
các thung lũng miền núi phía Bắc tới vùng cao nguyên đất đỏ phía nam.
Người Tày sinh cơ lập nghiệp ở vùng miền núi, trong những thung lũng
có ruộng bậc thang xung quanh, có rừng cây, suối nước, đồi cỏ, khí hậu trong
lành, thuận tiện cho việc cấy trồng cây lúa nước, chăn nuôi gia súc, gia cầ
m,
và các loại hoa màu, các loại cây công nghiệp, cây ăn quả. Như vậy các yếu tố
cơ bản của vùng sinh thái cư dân người Tày sinh sống là: rừng, núi, nương,
sông, suối.
Sống trong điều kiện tự nhiên như vậy, từ lâu người Tày đã hình thành
nên những đặc trưng sinh thái tộc người và kho tàng tri thức bản địa rất phong
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
11

phú đa dạng. Sống định cư thành bản từ rất lâu đời, mỗi bản của người Tày
đều có tên gọi riêng gắn với địa danh sinh sống, gắn với đặc điểm địa lý, với
truyền thống hay gắn với gốc tích của làng bản ấy. Trong một thôn bản số
lương nóc nhà từ khoảng 40 đến 100 tùy thuộc vào nơi đất đai thuận lợi, giao
thông đi lạ
i thuận tiện.
1.2.1. Lịch sử tộc người
Dõn tộc Tày cũn cú cỏc nhúm: Thổ, Ngạn, Phộn, Thu Lao, PaDớ. Tiếng
núi người Tày thuộc hệ ngụn ngữ Thỏi, nhúm ngụn ngữ Tày- Nựng (nhúm
ngụn ngữ Thỏi phớa đông). Về lịch sử cư trú của dân tộc Tày đó được nhiều
nhà dân tộc học đề cập trong nhiều cụng trỡnh nghiờn cứu khỏc nhau. Nhiề
u
ý kiến thống nhất rằng, người Tày và người Nùng là những cư dân có chung
một nguồn gốc lịch sử, cùng thuộc khối Bách Việt xưa. Tày là tên gọi đó xuất
hiện từ lõu đời, có thể là vào cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên.
Người Tày cổ đó tham gia vào việc thành lập nước Âu Lạc, hiệu là An Dương

Vương đóng đô ở Cổ Loa, huyện Đông Anh, ngoại thành Hà Nội. Mặ
c dù
quốc gia Âu Lạc tồn tại không bao lâu, nhưng có vai trũ quan trọng trong lịch
sử hỡnh thành cộng đồng người Tày - sự liên minh ngày càng vững chắc của
các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam để cùng nhau xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.
Từ xưa đến nay, cỏc cư dõn thuộc ngụn ngữ Tày - Thái đó giữ được vai
trũ rất quan trọng trong lịch sử miền Nam Trung Quốc và cỏc n
ước ở Đông
Nam Á. Những người Tày- Thỏi cổ đó góp phần sáng tạo nên nền văn húa
bản địa ở vựng này. Trong lỳc nhà Mạc gặp lúc khó khăn, đó chạy lờn Cao
Bằng một thời gian dài nờn một số cứ liệu cho rằng người Tày mang họ Ma,
sinh sống ở Cao Bằng, Lạng Sơn, chính là con cháu nhà Mạc ngày xưa. Mặt
khác, do người Tày cùng cư trú lâu đời với người Nùng và một s
ố lưu quan
người Kinh nờn việc giao lưu kinh tế, văn hóa, quan hệ hôn nhân giữa ba dân
tộc này diễn ra mạnh mẽ. Hệ quả là một số người Kinh bị đồng hóa thành
người Tày và ngược lại, tựy theo từng vựng.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
12

Khảo cứu nhiều dũng họ người Tày ở Châu Sơn cho thấy, nhiều dũng
họ người Tày tại đây có nguồn gốc khác nhau, có thể là người Tày cổ trước
đây, cũn gọi là người Thổ (cư dân bản địa đó sinh sống từ lõu đời), có thể là
Tày lưu quan (từ nơi khác lên làm quan và ở lại), cũng có thể là người Kinh từ
miền xuôi lên, người Hoa từ Trung Quốc sang, …Điề
u đó chứng tỏ rằng,
người Tày ở Châu Sơn ngày nay cú nhiều nguồn gốc và sinh sống hũa hợp.
Những người dân ở xó Chõu Sơn cho biết họ đó đến đây sinh sống được
khoảng 6 đời (tức là khoảng 300 năm cỏch ngày nay).

1.2.2. Đặc điểm văn hóa của người Tày ở xó Chõu Sơn
*Văn hóa vật chất
Nhà cửa: Để thích hợp với vùng địa lý miền núi, m
ưa lắm, nắng nhiều,
độ ẩm dữ, nhà sàn chính là kiểu dạng truyền thống xuất phát từ điều kiện cư
trú đầu tiên được người Tày lựa chọn. Nhà sàn có cả ba mặt bằng (gác, sàn,
mặt đất), sân phơi trước nhà. Không gian ba tầng bao gồm: Tầng đất, mặt sàn
và gác. Tầng đất để nhốt trâu bò, lợn, gà. Mặt sàn là mặt bằng sinh hoạt của
cả gia đình, trong đó nơi trang trọ
ng nhất ở gian giữa là nơi thờ cúng tổ tiên,
phía bên phải của nhà thờ là nơi ngủ của chủ nhà, phía bên trái ban thờ là nơi
tiếp khách và là nơi nghỉ ngơi của khách, có cầu thang phụ dẫn vào bếp. Bếp
của người Tày là không gian đầm ấm trong gia đình bởi người Tày có thói
quen sau một ngày lao động vất vả, tối đến mọi người quây quần bên bếp lửa
để ăn uống, trò chuyện. Gần b
ếp lửa là buồng ngủ của con dâu. Các sàn là nơi
chứa các vật của gia đình. Tuy nhiên hiện nay tập quán nhốt trâu, bò, lợn, gà
dưới gầm sàn hầu như không cũn bởi lý do gây mất vệ sinh, đồng bào đã di
chuyển vật nuôi ra xa nhà, gầm sàn dùng làm nơi cất giữ dụng cụ sản xuất.
Ngoài nhà sàn là ngôi nhà truyền thống, người Tày còn có dạng nhà
nửa sàn, nửa đất thường được dựng ở những khu đất bằng ph
ẳng, kiểu nhà
nãy đỡ tốn kém trong khi làm và thuận tiện trong công việc hàng ngày. Một
kiểu nhà khác có ở vùng người Tày là nhà đất trình tường (bốn bức tường từ
đất lên đến nóc bao quanh nhà đều bằng đất sét nện chặt dài hai gang, các
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
13

phòng ngủ trong nhà được ghép bằng ván). Tuy nhiên khoảng 7 năm trở lại
đây nhà của người Tày ở Châu Sơn đã dần chuyển qua nhà xây như: nhà

cấp bốn, nhà mái bằng, nhà cao tầng…
* Trang phục: Trong ngày thường cũng như lễ tết, trang phục truyền
thống của người Tày có màu xanh chàm, màu trắng chỉ dùng trong tang lễ. Họ
tự dệt vải, tự trồng cây chàm để chế thành thuốc nhuộm vải và tự cắt may
trang phụ
c của mình. Trang phục phụ nữ Tày kín đáo với quần (hoặc váy), áo
ngắn, áo dài, khăn đội đầu, thắt lưng và cùng các đồ trang sức bằng bạc, làm
nổi bật đường nét cơ thể, tạo dáng thanh gọn và đặc biệt làm tôn nước da
trắng của người phụ nữ, chiếc vòng bạc óng ánh đeo ở cổ, và vòng tay, xà tích
trên nền của màu chàm tạo nên nét độc đáo tinh tế duyên dáng của bộ y phục.
Trong cuố
n Văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, nhà nghiên cứu văn hóa
Ngô Đức Thịnh nhận xét rằng: “ Bộ nữ phục Tày mang vẻ đẹp thâm trầm,
mới đầu không gây cảm giác choáng ngợp, nhưng vẻ đẹp và nét độc đáo của
nó cứ dần dà thu hút sự chú ý, âm thầm chinh phục thờm mỹ của người chiêm
ngưỡng nó ”. Hiện nay ở nhiều vùng, người Tày không còn nhuộm chàm nữa
mà họ mua vải công nghiệp màu xanh để may trang phụ
c cho mình, phụ nữ
chỉ mặc trang phục truyền thống vào những dịp lễ tết trọng đại, ngày thường
họ thường dùng trang phục may bán sẵn như người Kinh. Đàn ông hầu như đã
không còn mặc trang phục truyền thống của người Tày là quần áo chàm mà
mặc theo người Kinh, chỉ còn rất ít những người tuổi cao là còn giữ bộ trang
phục truyền thống.
*Ẩm thực: người Tày chủ y
ếu ăn cơm tẻ. Hàng ngày, người Tày ăn
bốn bữa ăn: sớm, trưa, chiều, tối, trong đó bữa trưa và chiều là bữa ăn chính,
hai bữa còn lại gọi là ăn nhẹ, cũng có thể thêm bữa khuya. Lúa nếp cũng được
đồng bào chú ý cấy trồng để chế biến thành nhiều loại xôi, bánh khác nhau
dùng trong các dịp lễ tết. Các món ăn chế biến từ thịt lợn, gà, vịt, ngỗng,
ngan) và cá khá phong phú. Người Tày có nhiều kinh nghiệm trong việc chế

biến và bảo quản thịt và cá để ăn lâu ngày như ướp thịt, cá, cá thính, mắm
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
14

chua, mắm ngọt. Các món nướng và phơi khô ở gác bếp dùng để bảo quản thịt
trâu, bò, lợn…Các loại rau và măng chế biến thành nhiều món ăn ngon được
đồng bào ưa thích . Nói chung do điều kiện sinh sống ở miền núi, ngoài
những vật nuôi, cây trồng, cây lương thực là nguồn cung cấp thức ăn chính,
đồng bào còn khai thác được trong tự nhiên nhiều loại thức ăn mùa nào thức
đó, vừa giàu chất dinh dưỡng vừa có tác dụng ch
ữa bệnh.
Người Tày có nhiều món ngon, có món được dùng hàng ngày, có món
chỉ có thể chế biến tại thời điểm nhất định trong năm. Trong dịp tết nguyên
đán bánh chưng là món ăn đặc trưng. Ngoài ra đồng bào còn chế biến nhiều
loại bánh mứt, kẹo từ gạo nếp như khẩu sli, phồng phềnh, thốc théc, bánh
khảo, chè lam…và những món ăn được chế biến từ thịt như: Gà sống thiế
n, từ
thịt lợn như: Lợn quay, khâu nhục, lạp xưởng, nem chua, giò thủ, thịt
lạp…Nhiều món ăn của đồng bào được chế biến trong dịp tết có thể dùng hết
tháng giêng đến tháng hai. Trong tiết thanh minh (tháng ba) có các loại măng
trên rừng, lá ngải làm bánh ngải, các loại lá trên rừng chế biến thành xôi ngũ
sắc. Dịp tết Đoan Ngọ (5/5) có món bánh tro, rượu nếp. Tháng bảy với rằm
tháng bảy đồng bào ăn t
ết rất lớn với nhiều món ăn như: Vịt, gà, ngỗng, làm
bún, làm bánh tải. Tháng tám với trám đen, cùng nhiều loại hoa quả chín
trong vườn. Tháng chín với món cốm để mừng cơm mới. Tháng mười với
món bánh cóng phù (trôi tàu)…
Cơm tẻ được dùng thường ngày nờn lúa tẻ được cấy trên diện rộng,
nhưng đồng bào luôn chú ý cấy trồng lúa nếp dể dùng vào các dịp lễ tết, cưới
xin, ma chay… Có lẽ xưa kia lỳa nế

p là nguồn lương thực chính của đồng
bào, được thể hiện qua món cơm lam- cách nấu ăn cổ xưa nhất, nên ngày nay
nếp không thể thiếu được trong các nghi lễ liên quan đến tín ngưỡng tâm linh,
lễ nghi nông nghiệp.
* Văn hóa xã hội
Hiện nay xó Chõu Sơn có 11 thôn, trong đó 3 thôn vùng cao với tổng
diện tích toàn xó là 97,277km
2
, tổng số 375 hộ dân với 1,675 nhân khẩu.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
15

Người Tày canh tác không gắn với những cánh đồng nên không cư trú tập
trung thành bản lớn mà thường chỉ vài ba chục nóc nhà. Thôn bản thường ở
sườn đồi, chân núi hoặc những bói bằng ở ven suối, và dọc theo đường Quốc
lộ 4b. Quanh nhà ở của người Tày thường trồng dăm ba loại cây như: lê, mận,
đào, cam, quýt…và những đám rau gia vị.
Trong thôn thường có nhiều họ khác nhau cùng sinh sống như họ Nông,
họ Lý, họ Hoàng, họ
Ló… Dự cựng họ hay khỏc họ, người dân bao giờ cũng
đoàn kết giúp đỡ nhau trong lao động sản xuất, đặc biệt là trong ma chay,
cưới xin. Mỗi thôn thường có một miếu thờ thổ công riêng được dựng ở đầu
thôn, dưới gốc cõy to. Trong thụn ở xó Chõu Sơn không có hội hiếu và hàng
phe như ở các huyện hoặc xó khỏc của Lạng Sơn. Tuy nhiên trong làng có
tang ma, hay cưới hỏi thỡ trong làng, thỡ mỗi gia đỡnh ph
ải cú một người đến
tham gia giúp đỡ dưới sự phân công của trưởng thụn. Đây chính là sợi dây
giúp từng nóc nhà sống trong thôn luôn đoàn kết, gắn bó hũa thuận với nhau.
Về quan hệ dũng họ của người Tày khỏ rừ ràng, đó là con cái luôn lấy
theo hộ bố tức là bên họ nội. Trong họ nội và họ ngoại cũn phõn biệt họ gần

và họ xa. Tất cả những việc nh
ư cưới xin, ma chay,…đều được thông báo đến
những người họ gần và có trách nhiệm đến giúp đỡ. Trong họ của người Tày
cứ ai nhiều tuổi hơn thỡ được gọi là anh, chị không kể là con chú hay con bác.
Họ có thói quen ít khi gọi thẳng tên người ông, người bố mà thường gọi theo
tên của cháu đầu hoặc con đầu.
Gia đỡnh người Tày ở đây theo chế độ phụ hệ, trong mỗi gia đỡnh
thường có từ
hai đến ba thế hệ cùng chung sống. Trong gia đỡnh vai trũ của
người đàn ông là rất lớn, con trai là người kế thừa tài sản không kể là trưởng
hay út. Cũn con gỏi khi đi lấy chồng thỡ được cha mẹ cho của hồi môn thuộc
vào điều kiện kinh tế của từng gia đỡnh. Xưa kia trong gia đỡnh cũn cú sự
phõn biệt giữa con dõu và em dõu với bố chồng và anh chồng.
Hụn nhõn: Trước kia thanh niờ
n nam nữ tỡm hiểu nhau qua cỏc cuộc
hỏt Sli, Khi yờu nhau, người con có thể tặng người con gái bao đeo dao để
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
16

mỗi khi người con gái nhớ đến người con trai hoặc cũn cú thể tặng cụ gỏi
chiếc giỏ đựng bông (bắp lỳ) và giỏ đựng con sợi. Người con gái có thể tặng
người con trai áo, túi thêu. Thế nhưng việc dựng vợ gả chồng do bố mẹ quyết
định trên cơ sở môn đăng hộ đối giữa hai gia đỡnh, sự ưng thuận của con cái
và lá số của đôi nam nữ
. Một đám cưới phải trải qua rất nhiều những nghi lễ,
đó là: lễ dạm hỏi(khắm lựa), lấy lỏ số(au mỡnh, lễ bỏo số, lễ khả cỏy, lễ cưới
(kin lảu). Sau ngày cưới cô dâu chưa về ở hẳn bên nhà chồng mà chỉ có mặt
khi bên nhà chồng có công việc bận rộn, lễ tết và phải có người sang đón. Đến
lúc sắp sinh con người phụ
nữ mới về ở hẳn bờn nhà chồng.

* Văn hóa tinh thần
Ngôn ngữ: Người Tày thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái đã có quá trình
phát triển lâu dài. Do đó có vốn từ vựng phong phú và tương đối thống nhất
nên cho dù ở các địa phương khác nhau người Tày vẫn có thể nghe và hiểu
nhau dễ dàng.
Chữ viết của người Tày là chữ Nôm Tày. Theo các nhà nghiên cứu thì
chữ Nôm Tày được hình thành và phát triển gắn với quá trình truyền bá văn
hóa Hán từ ngườ
i Kinh vào khu vực người Tày, hưng thịnh nhất là vào
khoảng thế kỷ 17-18 với sự có mặt của quan quân nhà Mạc ở Cao Bằng …Vì
vậy có thể nói chữ Nôm Tày là một trong những sản phẩm thể hiện khá rõ đặc
điểm giao lưu văn hóa Kinh- Tày khu vực người Tày Việt Bắc’’. Chữ Nôm
Tày hiện nay được phổ biến trong các lĩnh vực tín ngưỡng tôn giáo.
Văn học- nghệ thuật : Văn học dân gian củ
a người Tày phong phú bao
gồm nhiều thể loại khác nhau như truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, dân ca,
ca nghi lễ, ca dao, tục ngữ, thành ngữ…Kho tàng cổ tích Tày kể về các sự tích
trong cuộc sống, khuyên bảo con người nên ở hiền gặp lành, ác giả ác báo, ít
đấu tranh. Kho tàng về truyện thơ và thơ ca nghi lễ của người Tày khá đặc
sắc, được sáng tạo từ ngàn xưa và lưu truyền từ đời này sang đời khác như
mộ
t báu vật tinh thần biểu hiện đời sống tâm hồn phong phú. Đối với người
Tày, “lượn, sli, hát pụt, hát then, văn than, văn tế, phong slư, quan lang, đồng
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
17

dao, hát ru…Nhiều như sao trên trời, ý tứ nhiều hơn nước chảy, đó là những
lời từ gió mà vọng ra thành tiếng, vọng vào núi, rền vào đá để dội vào lòng
người mọi buồn vui sướng khổ ở cõi người’’.
Lễ tết, hội hè : Trong năm người Tày có rất nhiều lễ tết, hội hè theo tiết

khí, như : Tết nguyên đán; Tết nguyên tiêu; Tiết thanh minh; Tết mùng 5
tháng 5, giết sâu bọ ; Mùng 6 tháng 6 tết cầu mùa màng; T
ết Rằm tháng Bảy
xá tội vong nhân (đối với đồng bào Tày tết dằm tháng Bảy là tết lớn thứ hai
trong năm) Tết Rằm Trung Thu; Mùng 9 tháng 9 Tết mừng lúa mới ; Mùng
10 tháng 10 …Lễ hội tiêu biểu nhất trong năm của người Tày là lễ hội Lồng
tồng (xuống đồng) được tổ chức sau Tết nguyên đán, tùy theo từng bản sao
cho không trùng ngày để các bản có thể tới dự với nhau cũng là dịp để th
ăm
hỏi gặp gỡ và giao lưu văn hóa. Hội Lồng tông nhằm cầu mong Thần Nông
ban cho mưa thuận gió hòa, việc đồng áng được thuận lợi, mùa màng bội thu,
người người được mạnh khỏe sống lâu, nhà nhà yên lành hạnh phúc. Trong lễ
hội, ngoài phần tế lễ Thần Nông là phần hội với nhiều trò chơi dân gian như:
đánh yến, tung còn, kéo co, chơi khăng, thi bắn cung, bắn nỏ, biểu diễn võ
thuật dân t
ộc… đặc biệt còn có hát then, đàn tính, nam nữ thanh niên hát sli,
hát lượn giao duyên.
Tiểu kết chương 1
Sinh sống trong điều kiện tự nhiên chủ yếu là đồi núi nên từ lâu người
Tày ở Châu Sơn đó hỡnh thành nờn những đặc trưng sinh thái tộc người và
kho tàng tri thức bản địa rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh đó, “Người Tày
có phong cách nhu mỡ giản dị, quý mến bạn bố và rất hiếu khỏch. Đ
ó là
những con người ở nhà sàn, mặc áo chàm, nói năng dịu dàng, tính tỡnh kớn
đáo, giản dị khiêm nhường, ít khoa trương đặc biệt là tớnh hiếu thảo, mến mộ
và tuyệt đối tin cậy khi có niềm tin. Bản sắc ấy chính là yếu tố quyết định sự
hỡnh thành những thuần phong mỹ tục ngàn năm của đồng bào”. Đó là khái
lược những đặc trưng văn hóa vật thể và v
ăn hóa phi vật thể nhằm phác họa
nên bức chân dung của người Tày, từ đó có thể định dạng được văn hóa Tày

cho dù ở địa phương khác nhau. Những đặc điểm chung trên đây sẽ là tiền đề
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
18

để tỡm hiểu cỏc khớa cạnh trong văn hóa tinh thần của người Tày nói chung,
người Tày ở xó Chõu Sơn, huyện Đỡnh Lập, tỉnh Lạng Sơn nói riêng mà
trong đó tang ma là một biểu hiện cụ thể.
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
19

Chương 2
TANG MA CỦA NGƯỜI TÀY Ở XÃ CHÂU SƠN
2.1. Quan niệm của người Tày về cái chết
Con người sinh ra ai cũng phải theo quy luật sinh, lão, bệnh, tử, như
vậy mới hợp với lẽ trời. Con cái rất muốn cha mẹ sống trường thọ với cháu
con Nhưng đã là quy luật có ngày cha mẹ phải từ giã cõi trần để về miền cực
lạc Cũng bởi xuất phát từ quan niệm này nên khi
đã làm tròn bổn phận của
mình với cuộc đời, họ yên tâm thanh thản và chuẩn bị những điều cần thiết
cho mình ở cuộc sống bên kia thế giới. Đối với người Tày, khi cha mẹ bước
vào tuổi già (từ 50 trở lên) con cái thường chuẩn bị áo quan cho cha mẹ. Quan
tài phải được đóng cẩn thận. Khi định làm quan tài chủ nhà nhờ thầy chọn
ngày lành tháng tốt đối chiếu với ngày tháng năm sinh c
ủa bố mẹ của nhà chủ.
Khi đóng xong thường kê ở nhà kho, quy định rõ cái nào của bố cái nào của
mẹ, và tránh không được bán hay cho mượn. Người Tày quan niệm việc con
cháu lo hậu sự cho ông bà, cha mẹ là thể hiện sự hiếu thuận, hành động này
khiến ông bà cha mẹ yên tâm. Ngoài ra, ngay từ khi còn khỏe người Tày cũng
đã chọn cho mình một khu đất cao ráo như gò đồi, trước mắt có dòng suối,
cánh đồng, xa xa tầm mắt là ngọn núi, đồi có đỉnh nh

ọn, phía sau là núi rừng
để đặt mộ. Việc xem đất cát, phần mộ là ảnh hưởng thuật cho phong thủy
trong Đạo giáo.
2.2.Tang ma của người Tày ở xó Chõu Sơn trong truyền thống
Trước đây, người Tày thường quản xác người chết trong nhà từ 5, 7, 9
đêm có đám để 13, 15 ngày cũng có đám kéo dài cả thỏng. Nhưng phổ biến
nhất vẫn là để ma kéo dài 3 ngày đêm. Việc quản xác luôn gắn với số lẻ
, vỡ
theo quan niệm của đồng bào: đêm lẻ là đêm ma, đêm chẵn là đêm của con
người (chẵn ở lẻ đi). Việc quản xỏc trong nhà cú nhiều nguyờn do: có thể
chưa được ngày đưa đám; có khi do con cái đi làm ăn xa chưa kịp về phải
quản xác đợi; hoặc gia đỡnh khỏ giả muốn phụ trương thân thế,…Dù để ma 3
ngày hay 15 ngày thỡ cỏc nghi lễ thực hiệ
n đều giống nhau, nếu thời gian
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
20

quản xác trong nhà ngắn thỡ trong một ngày đêm cú thể tiến hành nhiều nghi
lễ khác nhau, nhưng vẫn đảm bảo nội dung các nghi lễ; nếu quản xác lâu thỡ
mỗi ngày đêm thỡ chỉ cần thực hiện 1, 2 nghi lễ vỡ vậy cỏc thầy tào khi hành
lễ cũng chậm rói, thong thả hơn.
2.2.1. Công tác chuẩn bị cho một đám tang
Sở dĩ công tác chuẩn bị trong một đám tang là rất quan trọng bở
i cú
cõu“ tang gia bối rối” hay “ma chê cưới trách”…Nếu điều kiện kinh tế đầy đủ
giao thụng thuận lợi, gần chợ thỡ việc chuẩn bị cú thể sẽ đơn giản hơn nhiều
nhưng đối với đồng bào cỏc dõn tộc núi chung, đồng bào Tày ở Châu Sơn nói
riêng điều kiện mọi mặt cũn rất thiếu thốn, kinh tế chủ đạo là tự cấp t
ự túc nên
công tác chuẩn bị cho một đám tang là vô cùng quan trọng.

Người già trong nhà tuy vẫn khỏe mạnh nhưng con cái luôn chuẩn bị
một số thứ phũng khi cha mẹ qua đời, như chủ động trong công việc khâm
liệm ban đầu: 20m vải trắng dùng làm phượn (chăn, quần, áo, hài, mũ, khăn,
chiếu, cho người chết (nam bảy bộ, nữ chín bộ), giấy màu đỏ để dán quan tài,
giấy ngũ sắc làm nhà táng, để lót mâm cúng, giấy bả
n gấp làm tiền vàng rắc
đường đưa người chết đến mộ. Ngoài ra cũn chuẩn bị gà, lợn, rau xanh, gạo
nếp, gạo tẻ, để làm các lễ vật dâng cúng và dùng làm thủ tục trong đám tang.
Do điều kiện sống ở vựng hẻo lỏnh nếu gia đỡnh khụng chuẩn bị kịp thụn bản
cú thể giỳp nhau qua hỡnh thức cho vay khụng lấy lói, giả sử khi gia đỡnh cú
tang m
ượn hàng xúm, họ hàng con lợn năng 100kg nhưng 10 năm sau gia
đỡnh cho mượn cú việc cần dựng thỡ người mượn cũng chỉ phải trả như trước
không được tính lói mà cả hai bờn đều vui vẻ. Đây là một trong những nét
đẹp đáng trân trọng của cộng đồng người Tày ở xó Chõu Sơn.
Tỡnh làng nghĩa xúm ấm ỏp nhất thể hiện qua sự đoàn kết của hàng xóm
trong thôn. Khi gia đỡnh cú ng
ười chết, gia chủ báo cho trưởng thôn. Trưởng
thôn sẽ phân công cho người đến làm việc trực suốt ngày đêm, cắt cử bộ
phận phục vụ: sửa nhà chống đỡ nhà, lo củi nước, làm cơm cho gia đỡnh,
phục vụ thầy cỳng, làm nhà tỏng, đào huyệt, khiờng quan tài, đắp mộ…
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
21

Người nào được phân công nhiệm vụ gỡ thỡ theo đó mà nghiờm tỳc thực
hiện, khụng ai trốn trỏnh khụng chấp nhận vắng mặt với bất kỳ lý do nào.
Đón thầy cỳng: Đối với người Tày ở xó Chõu Sơn, khi gia đỡnh cú
người tắt thở, trong nhà cử người đi mời thầy Tào về chủ trỡ thực hiện cỏc
nghi lễ trong đám tang. Gia đỡnh ph
ải có nén hương đến nhà thầy, đứng trước

bàn thờ trỡnh bày lý do đến đây và mời thầy đến giúp. Nếu thầy đồng ý thỡ
thắp hương lên bàn thờ, thống nhất với gia đỡnh về thời gian, cách đi và các
việc liờn quan khỏc Thầy tào cũng gọi thờm bốn học trũ (lục sở) cùng đi để
giúp việc cho thầy đồng thời cũng là để nâng cao tay nghề cho chính họ
. Xin
được nói thêm về tục lệ đón thầy tào trong đám tang của người Tày ở địa
phương khác tại huyện Quảng Hũa (Cao Bằng), việc mời thầy là do con
trưởng, khi đó mang theo một con gà trống nhỏ, một ống gạo, nếu thầy đồng ý
thỡ mổ gà cầu khẩn, nếu khụng thỡ người nhà lại mang con gà đó đến mời
thầy khác. Người Tày ở Đồng Mu (huyện B
ảo Lạc, Cao Bằng) khi đi mời
thầy tào người con trai trưởng đội úp lên đầu một chiếc rế nồi hay một vũng
dõy rừng. Đến nhà thầy Tào nhỡn thấy như vậy thầy sẽ chuẩn bị mọi thứ để
cùng đi. Trước khi đi thầy lấy dây chuối khô bện thành dây thừng buộc ngang
lưng người con trai trưởng [38, tr 214].
2.2.2. Các nghi thức trong tang ma
Tang ma là một chuỗi các nghi thức biểu hiệ
n những quan niệm, thế
giới quan của con người, đồng thời nó cũng thể hiện nét đẹp tỡnh người, về
mối quan hệ giữa người sống với người chết và người sống với người sống.
Đám tang của người Tày ở xó Chõu Sơn thông thường trải qua những nghi
thức sau. Lễ tắm rửa, lễ khõm liệm, lễ nhập quan, lễ khay tang lũ…
Lồng Phượn, lâm kh
ốc (tắm rửa, khõm liệm)
Khi gia đỡnh cú người qua đời, đầu tiên con cháu phải dâng cúng người
chết một bát cơm đầy, cắm đôi đũa bông đặt giữa một quả trứng luộc với ý
nghĩa nhắc đến sự sinh sôi sau sự chết, sự biến hóa âm dương để sinh ra con
người. Hỡnh tượng bát cơm tượng trưng cho quả đất (õm) và cũn gợi lờn sự
Khóa luận tốt nghiệp Sinh viên: Nông Thị Linh
22


thiờng liờng của hạt gạo, tua bụng đầu đũa thể hiện mây trời (dương), quả
trứng có đủ cả âm dương. Ngoài ý nghĩa sõu sắc trờn việc dõng cỳng bỏt cơm
quả trứng đối với đồng bào Tày ở xó Chõu Sơn cũn cú ý nghĩa bỡnh dị hơn
nhưng cũng rất nhân văn đó là bát cơm như gói lèng, đồng bào thường ngày
đi làm xa vẫn gói lèng mang theo như vậ
y.
Sau đó họ đun một nồi nước lá thơm (lá đào, lá bưởi) để rửa mặt và lau
mỡnh cho người chết (vuốt mắt nhắm lại), với ý nghĩa tẩy sạch bụi trần để về
với cừi tiờn. Đồng bào cho rằng tắm rửa bằng lá thơm vừa có ý nghĩa tẩy uế,
vừa làm cho linh hồn người chết được thơm tho mát mẻ. Sau khi tắm cho
người chết xong, đưa xuống đặt tại chiếc chiếu mới trải dưới nền nhà và thay
quần áo mới chuẩn bị tư thế ngay ngắn để về với tổ tiên, nếu là nam thỡ mặc
bảy bộ, nữ chớn bộ, trải tóc sửa râu, đi găng tay, đi hài… Kộo chõn thẳng,
buộc hai ngón chân cái lại, kéo tay thẳng và đặt bàn tay lên bụng, trong mỗi
bàn tay đặt một đồng tiền, b
ỏ vào miệng một đồng bạc để làm lộ phí cho
người chết và buộc người chết phải ăn nói thận trọng, khụng núi những gỡ cú
hại đến con chỏu.
Sau đó họ lấy vải trắng để lót và đắp cho người chết gọi là lồng phượn
theo quy tắc: Con dâu cả (phượn chang rườn) dài 4 mét khổ nhỏ gấp thành hai
phần không đều nhau để lót dưới lưng người ch
ết, mặt vải ngắn sẽ chạm cổ,
cũn mảnh dọc theo lưng qua đầu gập lại che mặt. Tiếp theo là đến các con dâu
thứ nhưng chỉ cần đắp đến cổ. Đắp một chiếc chăn nền đen có hoa lên người
và cuộn người kín lại, dùng dây vải trắng bắt đầu buộc bắt đầu từ cổ chân cho
tới vai là năm nút. Sau đó đến bên ngoại củ
a người chết đắp một tấm phượn,
cuối cựng là con gái, các cháu, người thân đắp phượn cho đủ nam 7 tấm, nữ 9
tấm Việc làm này thể hiện sự đền ơn người đó sinh thành và nuụi dưỡng

mỡnh, con chỏu biếu chăn để đắp, vải để che mưa nắng. Nếu họ hàng anh em
ruột thịt có vải trắng đem đến thỡ con dõu cả nhận lấy và có lời thông báo v
ới
người quá cố với ý rằng: Cha (mẹ) ơi, có em Anh mang vải chăn đến báo hiếu
cho cha mẹ đây, mẹ nhớ xếp đếm cho kỹ, cất cẩn mang theo để làm chăn đắp

×