Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

Xây dựng hệ thống bài tập tiếng việt cho học sinh lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương đòng với văn bản trong sách giáo khoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.5 KB, 119 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
******


ĐỖ HỒNG PHÚC


XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
LỚP 3 TRÊN NGỮ LIỆU CÓ TÍNH TƢƠNG ĐỒNG
VỚI VĂN BẢN TRONG SÁCH GIÁO KHOA





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC








HÀ NỘI, 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
******


ĐỖ HỒNG PHÚC

XÂY DỰNG HỆ THỐNG BÀI TẬP TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
LỚP 3 TRÊN NGỮ LIỆU CÓ TÍNH TƢƠNG ĐỒNG
VỚI VĂN BẢN TRONG SÁCH GIÁO KHOA


Chuyên ngành: Giáo dục học (bậc Tiểu học)
Mã số: 60 14 01 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Anh Xuân








HÀ NỘI, 2014
LỜI CẢM ƠN

Luận văn được hoàn thành tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.
Có được kết quả này, trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới
TS. Lê Anh Xuân, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu, Phòng Sau đại học, các

thầy cô giáo trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã giảng dạy và trang bị
cho tôi những kiến thức chuyên ngành cần thiết và giúp đỡ tôi trong suốt
thời gian học tập tại trường.
Tôi xin cảm ơn Ban giám hiệu trường Tiểu học Đồng Tâm, quận
Hai Bà Trưng và trường Tiểu học Cầu Diễn, huyện Từ Liêm đã tạo mọi
điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng xin gừi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã quan tâm và
giúp đỡ tôi hoàn thành công trình nhỏ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!









LỜI CAM ĐOAN

Đề tài: Xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 trên
ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong sách giáo khoa được chúng
tôi nghiên cứu và hoàn thành trên cơ sở kế thừa và phát huy những công trình
nghiên cứu có liên quan của các tác giả khác cộng với sự nỗ lực, cố gắng của
bản thân.
Tôi xin cam đoan kết quả của đề tài này không trùng với bất cứ một
công trình nghiên cứu nào khác đã công bố.

Tác giả



Đỗ Hồng Phúc













MỤC LỤC

MỤC LỤC VÀ BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………… 1
NỘI DUNG……………………………………………………………. 8
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
1.1. Cơ sở lí luận……………………………………………………… 8
1.2. Cơ sở thực tiễn…………………………………………………… 20
Tiểu kết 1………………………………………………………………. 22
Chương 2: Hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 được xây dựng
trên ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong sách giáo khoa… 24
2.1. Tiêu chí lựa chọn ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong sách
giáo khoa……………………………………………………………… 24
2.2. Hệ thống bài tập cụ thể…………………………………………… 24
Tiểu kết 2……………………………………………………………… 79

Chương 3: Thực nghiệm sư phạm……………………………………. 80
3.1. Một số vấn đề chung……………………………………………… 80
3.2. Tiến trình triển khai thực nghiệm………………………………… 90
3.3. Kết quả thực nghiệm……………………………………………… 91
Tiểu kết 3……………………………………………………………… 95
KẾT LUẬN……………………….………………………….………… 96
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO…….……………… 99
PHỤ LỤC



BẢNG KÍ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1. Đối chứng ĐC
2. Giáo viên GV
3. Học sinh HS
4. Luyện từ và câu LTVC
5. Sách giáo khoa SGK
6. Tập đọc TĐ
7. Thực nghiệm TN
















1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tiểu học là bậc học nền tảng, cung cấp những cơ sở ban đầu về tri
thức, kĩ năng cho học sinh (HS). Những tri thức, kĩ năng này chính là hành
trang cần thiết giúp các em có thể học tốt hơn ở những bậc học sau. Mục tiêu
của giáo dục Tiểu học hiện nay là đào tạo con người phát triển toàn diện. Do
đó HS Tiểu học được học tập nhiều môn học, trong đó môn Tiếng Việt là
môn học quan trọng bậc nhất trong chương trình Tiểu học. Môn Tiếng Việt
giúp rèn luyện cho HS các thao tác tư duy như phân tích, tổng hợp… Vì vậy
nó được xem là môn học công cụ giúp HS học các môn học khác tốt hơn. Đây
cũng là môn học thực hành giúp hình thành và phát triển ở HS bốn kĩ năng cơ
bản (nghe, nói, đọc, viết). Thông qua các bài tập trong môn Tiếng Việt, cụ thể
là ở phân môn Tập làm văn, HS được tham gia vào những tình huống giao
tiếp cụ thể, từ đó các em có những kĩ năng giao tiếp phù hợp với lứa tuổi và
thực tiễn cuộc sống. Ngoài phân môn Tập làm văn, môn Tiếng Việt còn gồm
nhiều phân môn khác như Tập đọc (TĐ), Luyện từ và câu (LTVC), Kể
chuyện, Chính tả, Tập viết. Các văn bản cùng hệ thống bài tập trong các phân
môn này góp phần cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tự nhiên, xã
hội và con người. Từ đó nâng cao hiểu biết cho các em. Đặc biệt, qua các văn
bản nghệ thuật, HS được cảm nhận cái hay, cái đẹp của cuộc sống, cảm nhận
nét đẹp của ngôn ngữ mẹ đẻ. Qua đó hình thành và bồi dưỡng tình yêu Tiếng
Việt trong tâm hồn các em, giúp các em có thói quen giữ gìn và phát huy sự
trong sáng của Tiếng Việt.
1.2. Xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS là việc làm thiết thực.

Hệ thống bài tập luyện tập môn Tiếng Việt nếu được xây dựng trên ngữ liệu
là những văn bản có tính tương đồng với văn bản trong sách giáo khoa (SGK)
sẽ đạt được nhiều mục đích. Hệ thống bài tập Tiếng Việt sẽ giúp HS được ôn

2
luyện kiến thức đã học trong SGK, rèn luyện và nâng cao các kĩ năng. Những
ngữ liệu mới trong hệ thống bài tập Tiếng Việt không chỉ góp phần mở rộng
hiểu biết, vốn sống cho HS mà còn tạo tính hấp dẫn, khơi gợi sự hứng thú và
sáng tạo của các em bởi tính mới mẻ của ngữ liệu. Trong quá trình nghiên
cứu, thiết kế bài tập Tiếng Việt cho HS, giáo viên (GV) được tìm hiểu, nghiên
cứu thêm nhiều tài liệu, nhiều tác phẩm của các tác giả khác vì thế nó cũng
góp phần mở mang kiến thức, bồi dưỡng kĩ năng đọc và nghiên cứu của GV.
Đồng thời, việc xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cũng khuyến khích khả
năng sáng tạo của GV trong quá trình lựa chọn ngữ liệu, xây dựng các dạng
bài tập mới.
1.3. Hiện nay mô hình trường học mới Việt Nam (VNEN) đã được triển
khai thí điểm ở gần 2000 trường tiểu học trên địa bàn cả nước. Mô hình
trường học mới này chú trọng phát triển năng lực của từng cá nhân học sinh.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa mô hình trường học mới VNEN so với mô hình
truyền thống hiện nay là không yêu cầu, bắt buộc các HS phải hoàn thành bài
tập cùng một tiến độ như nhau. Vì thế khi tham gia giảng dạy theo mô hình
trường học mới, GV luôn phải chuẩn bị sẵn hệ thống các bài tập củng cố, ôn
luyện hoặc nâng cao kiến thức cho đối tượng học sinh khá, giỏi khi các em đã
hoàn thành xong bài học trong sách. Việc cung cấp cho HS hệ thống bài tập
môn Tiếng Việt trên những ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong
sách giáo khoa chính là một biện pháp giúp HS ôn luyện và mở rộng kiến
thức theo chủ điểm mà các em đang học. Vì vậy việc xây dựng hệ thống bài
tập Tiếng Việt cho HS chính là việc làm cần thiết đối với tất cả những GV
đang giảng dạy theo mô hình trường học mới Việt Nam.
Đó là những lý do chính dẫn đến việc hình thành đề tài: Xây dựng hệ

thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương
đồng với văn bản trong sách giáo khoa.

3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu “Xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho
HS lớp 3”
Tiếng Việt không chỉ là môn học công cụ giúp HS học tập các môn học
khác tốt hơn mà đây còn là môn học thực hành, giúp HS vận dụng kiến thức,
kĩ năng vào cuộc sống hàng ngày. Vì vậy để giúp HS học tốt môn Tiếng Việt,
nhiều nhà khoa học đã nghiên cứu và cho ra đời những cuốn sách bài tập để
bổ trợ cho HS như:
- Nguyễn Trí Dũng, Kiều Thúy Hiền, Lê Thị Kim Thanh (2012), Ôn tập
cuối tuần môn Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đại học sư phạm, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Hạnh (2008), Bài tập thực hành Tiếng Việt 3, Nhà xuất
bản Đại học sư phạm, Hà Nội.
- Dương Thị Hương (chủ biên) (2012), Luyện đọc và phát triển từ ngữ
Tiếng Việt 3, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, Hà Nội
- Lê Phương Liên (2008), Bài tập trắc nghiệm Tiếng Việt 3, Nhà xuất
bản Đại học sư phạm, Hồ Chí Minh.
Trong những công trình kể trên, các tác giả đều xây dựng hệ thống bài
tập theo từng tuần. Các văn bản được sử dụng trong các công trình này phần
lớn đều là văn bản trong SGK. Đặc biệt là ở phân môn TĐ, các tác giả thường
sử dụng ngay văn bản của phân môn TĐ trong SGK Tiếng Việt lớp 3 rồi viết
lại câu hỏi tìm hiểu bài dưới dạng bài tập trắc nghiệm. Một số tác giá khác thì
sử dụng văn bản trong SGK Tiếng Việt lớp 4, 5 để thiết kế bài tập phân môn
LTVC, Chính tả.
Các công trình nghiên cứu trên đều có tác dụng giúp HS củng cố, ôn
luyện kiến thức, kĩ năng môn Tiếng Việt. Tuy nhiên vì các công trình này đều
sử dụng văn bản trong SGK nên không khơi gợi được hứng thú với HS cũng

như không giúp mở rộng thêm vốn hiểu biết về văn học, cuộc sống cho HS.

4
2.2. Lịch sử nghiên cứu “Xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho
HS lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong SGK”
Thực tế đã có một số công trình sử dụng ngữ liệu khác với văn bản trong
SGK khi xây dựng bài tập Tiếng Việt cho HS lớp 3. Tiêu biểu là các cuốn
sách:
- Lê Phương Nga (2009), 35 đề ôn luyện Tiếng Việt lớp 3, Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
- Đặng Thị Trà, Trần Thu Thủy (2011), Bài tập Tiếng Việt nâng cao lớp
3, Nhà xuất bản Sư phạm, Hà Nội.
- Lê Phương Liên (2012), 39 đề Tiếng Việt lớp 3, Nhà xuất bản Đại học
sư phạm, Hồ Chí Minh
Các cuốn sách trên có hai điểm chung. Một là, hệ thống bài tập đều bám
sát các đơn vị kiến thức trong chương trình Tiếng Việt lớp 3 và được sắp xếp
theo từng tuần. Hai là, các tác giả đều sử dụng một văn bản để xây dựng tích
hợp bài tập ở nhiều phân môn như TĐ, LTVC, Chính tả, Tập làm văn.
Những công trình nghiên cứu trên chính là định hướng cần thiết cho
việc nghiên cứu luận văn Xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh
lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong sách giáo khoa.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xây dựng hệ thống bài tập Tiếng
Việt cho HS lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong SGK.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hệ thống bài tập luyện tập kiến thức
Tiếng Việt trong chương trình Tiếng Việt lớp 3. Tuy nhiên luận văn chỉ tập
trung xây dựng hệ thống bài tập cho hai phân môn: TĐ, LTVC bởi đây là hai
phân môn sử dụng nhiều văn bản nhất.


5
Giới hạn phạm vi thực nghiệm: Việc thực nghiệm (TN) được thực hiện
tại trường Tiểu học Đồng Tâm - Quận Hai Bà Trưng (nội thành Hà Nội) và
trường Tiểu học Cầu Diễn - Huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội)
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho
HS lớp 3.
- Làm rõ hiệu quả của hệ thống bài tập Tiếng Việt được xây dựng trên
ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong SGK trong việc dạy- học Tiếng
Việt lớp 3
- Xây dựng được hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS lớp 3 trên ngữ liệu
có tính tương đồng với văn bản trong SGK.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định những vấn đề lí luận làm cơ sở cho đề tài.
- Điều tra thực trạng việc dạy - học Tiếng Việt lớp 3 (các phân môn TĐ,
LTVC)
- Tìm các ngữ liệu tương đương với văn bản trong SGK và xây dựng hệ
thống bài tập Tiếng Việt cho HS lớp 3.
- Thực nghiệm.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
Phương pháp nghiên cứu lí luận được vận dụng khi:
- Nghiên cứu các tài liệu về ngôn ngữ học, văn bản để tìm ra cơ sở khoa
học trong việc xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS lớp 3.
- Nghiên cứu các tài liệu về chương trình, SGK môn Tiếng Việt để việc
xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS đạt hiệu quả cao.
- Nghiên cứu các tài liệu về tâm lí lứa tuổi, đặc điểm tư duy, ngôn ngữ


6
của HS Tiểu học để xác định tiền đề cho việc xây dựng hệ thống bài tập Tiếng
Việt phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi.
- Nghiên cứu các tác phẩm truyện, thơ,… phù hợp với lứa tuổi Tiểu
học để tìm ngữ liệu cho hệ thống bài tập Tiếng Việt.
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn được vận dụng trong quá trình quan
sát, dự giờ để tìm hiểu về chất lượng dạy- học, hoạt động dạy- học, xu thế
dạy- học môn Tiếng Việt (các phân môn TĐ, LTVC) ở Tiểu học, từ đó rút ra
những nhận định về thực trạng dạy học môn Tiếng Việt để có phương hướng
trong việc xây dựng hệ thống bài tập phù hợp với HS lớp 3.
5.3. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp thực nghiệm (TN) vận dụng trong quá trình thiết kế, xây
dựng hệ thống bài tập các phân môn TĐ, LTVC cho HS lớp 3; tổ chức TN ở
trường Tiểu học có đối chứng (ĐC), tổ chức kiểm tra, đánh giá kết quả học
tập của HS (bằng phiếu điều tra, bài kiểm tra) có so sánh với lớp ĐC.
5.4. Phương pháp thống kê
Phương pháp này được vận dụng trong quá trình thống kê chủ điểm các
tuần học trong chương trình Tiếng Việt lớp 3, phân loại các dạng bài tập,
phiếu điều tra, bài kiểm tra của HS để đưa ra những kết luận cần thiết của đề
tài.
6. Giả thuyết khoa học
6.1. Về lí luận
Nếu đề tài thực hiện thành công thì sẽ làm sáng tỏ hiệu quả và tính khả
thi của hệ thống bài tập Tiếng việt cho HS lớp 3 trên ngữ liệu có tính tương
đồng với văn bản trong SGK.
6.2. Về thực tiễn
- Xây dựng được hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS lớp 3 trên ngữ liệu

7

có tính tương đồng với văn bản trong SGK.
- HS yêu thích môn học Tiếng Việt, hình thành và bồi dưỡng cho HS
tình yêu tiếng mẹ đẻ, có ý thức giữ gìn và phát huy sự trong sáng của tiếng
Việt.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn
Chương 2: Hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh lớp 3 được xây
dựng trên ngữ liệu có tính tương đồng với văn bản trong sách giáo khoa.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm


















8
NỘI DUNG

Chƣơng 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ của môn Tiếng Việt
lớp 3
Chương trình Tiểu học mới xác định mục tiêu của môn Tiếng Việt ở bậc
Tiểu học là:
- Hình thành và phát triển ở HS các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe,
nói, đọc, viết) để giao tiếp và học tập.
- Cung cấp cho HS những kiến thức sơ giản về tiếng Việt, những hiểu
biết về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học của Việt Nam và nước
ngoài.
- Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn và phát
huy sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những mục tiêu trên được cụ thể hóa thành mục tiêu của môn Tiếng
Việt lớp 3 (phân môn TĐ, LTVC) như sau
1.1.1.1. Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ của phân môn Tập
đọc - môn Tiếng Việt lớp 3
Yêu cầu về kiến thức:
- Học sinh hiểu được nghĩa của các từ ngữ trong văn cảnh (bài đọc),
nắm được nội dung các câu, đoạn và ý nghĩa của bài đọc.
- Học sinh có khả năng trả lời các câu hỏi liên quan đến nội dung của
từng đoạn hay toàn bài đọc.
- Làm tích cực hóa vốn từ, vốn diễn đạt của học sinh.
- Mở rộng hiểu biết về văn học, về cuộc sống cho học sinh.

9
- Phát triển một số thao tác tư duy cơ bản như phân tích, tổng hợp,
phán đoán,…

Yêu cầu về kĩ năng:
Kĩ năng đọc:
- Kĩ năng đọc thành tiếng:
+ Phát âm đúng các tiếng có vần khó như oong, ooc, oeo, oao, uyu,
uênh, uêch.
+ Đọc đúng các tiếng, từ mà HS hay phát âm sai do ảnh hưởng của
phát âm địa phương.
+ Ngắt nghỉ hơi hợp lí. Ngắt hơi ở những chỗ có dấu phẩy, những chỗ
tuy không có dấu ngắt câu nhưng cần ngắt hơi để tách ý (trạng ngữ với chủ
ngữ và vị ngữ, các bộ phận song song), ở chỗ ngắt nhịp thơ.
+ Đọc đúng ngữ điệu các câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến và câu cảm
thán.
+ Cường độ đọc vừa phải (không quá to, không quá nhỏ)
+ Tốc độ đọc vừa phải (học kì 1 khoảng 60 chữ/phút, học kì 2
khoảng 70 chữ/phút) với văn bản có độ dài khoảng 200 chữ.
+ Đọc nhấn giọng ở những từ ngữ quan trọng trong câu, trong đoạn,
bài.
+ Điều chỉnh giọng đọc để phân biệt lời các vai khi đọc văn bản
truyện.
+ Thể hiện tình cảm vui buồn qua giọng đọc cho phù hợp với nội
dung của bài đọc.
+ Đọc thuộc và biết thể hiện tình cảm qua giọng đọc khi đọc các
đoạn hoặc bài thơ trong sách có độ dài khoảng 100 chữ.
- Kĩ năng đọc thầm và hiểu:
+ Biết đọc thầm, không mấp máy môi để tìm một số từ hoặc tìm câu

10
chốt đoạn. tìm một số ý trong đoạn.
+ Tốc độ đọc khoảng 80-100 chữ/phút
+ Hiểu nghĩa của từ và cụm từ quan trọng trong đoạn.

+ Phát hiện các từ mới chứa ý quan trọng trong đoạn.
+ Diễn đạt ý các câu quan trọng trong đoạn bằng cách diễn đạt khác
với diễn đạt nguyên văn.
+ Hiểu nghĩa hàm ẩn đơn giản của một số câu trong đoạn.
+ Tìm được ý chính của đoạn qua hoạt động đặt tên cho đoạn hoặc
tóm tắt lại đoạn.
+ Nêu được cảm xúc chủ đạo trong một đoạn hay bài thơ ngắn.
+ Phát hiện được một số từ, câu, chi tiết được dùng với dụng ý nghệ
thuật trong các văn bản văn chương.
+ Kể lại được tóm tắt văn bản ngắn (khoảng 150 chữ)
Kĩ năng nghe
+ Nghe và nắm được cách đọc đúng các từ ngữ, câu, đoạn, bài.
+ Nghe – hiểu các yêu cầu, câu hỏi của thầy cô.
+ Nghe – hiểu và có khả năng nhận xét ý kiến của bạn.
+ Nghe – hiểu các văn bản thuộc thể loại kể chuyện, miêu tả ở mức
độ: nhắc lại được tình tiết chính, nêu được ý chính của đoạn, liên hệ nội dung
văn bản với thực tế để rút ra bài học cho bản thân.
+ Nghe – hiểu các văn bản hành chính ở mức độ đơn giản: nhắc lại
đúng một thông tin quan trọng, nêu ý chính của văn bản.
Yêu cầu về thái độ:
- Học sinh có tình cảm yêu quý, kính trọng và biết ơn đối với ông bà,
cha mẹ, thầy cô; yêu trường lớp, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè; vị tha, nhân hậu.
- Xây dựng ý thức và năng lực thực hiện những phép xã giao tối thiểu.
- Từ những mẩu chuyện, bài văn, bài thơ hay trong SGK, học sinh có

11
ham muốn đọc sách, có khả năng cảm thụ văn bản văn học, cảm thụ vẻ đẹp
của Tiếng Việt; yêu quý và giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt.
1.1.1.2. Yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ của phân môn Luyện
từ và câu - môn Tiếng Việt lớp 3

Yêu cầu về kiến thức:
- Học sinh có vốn từ nhất định về các chủ điểm trong chương trình.
- Bước đầu học sinh được làm quen với các từ địa phương.
- Học sinh nắm vững các mô hình câu (Ai là gì ?, Ai làm gì ?, Ai thế
nào ?) và các thành phần câu (Ai ?, Là gì ?, Làm gì ?, Thế nào ?, Khi nào ?, Ở
đâu ?, Vì sao ? Như thế nào ?, Để làm gì ?, Bằng gì ?)
- Học sinh biết cách sử dụng các dấu câu cơ bản: dấu chấm, dấu phẩy,
dấu hỏi, dấu chấm than, dấu hai chấm.
- Học sinh có hiểu biết sơ giản về phép tu từ so sánh (nêu tên các sự
vật được so sánh với nhau, từ so sánh, kiểu so sánh)
- Học sinh có hiểu biết sơ giản về phép tu từ nhân hóa (nêu tên sự vật
được nhân hóa, cách nhân hóa)
Yêu cầu về kĩ năng:
- Học sinh có kĩ năng dùng từ, đặt câu
- Biết đặt câu theo mô hình: Ai là gì ?; Ai làm gì ?; Ai thế nào ?
- Biết đặt câu hỏi cho các bộ phận câu và mở rộng câu bằng các thành
phần phụ như trạng ngữ, phụ ngữ của cụm từ.
- Biết điền dấu câu thích hợp vào văn bản.
- Biết sử dụng biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa để đặt câu.
Yêu cầu về thái độ:
- Có ý thức, thói quen dùng từ đúng; nói, viết thành câu; có ý thức sử
dụng Tiếng Việt văn hóa trong giao tiếp hàng ngày.
- Yêu thích môn học tiếng Việt; yêu quí và giữ gìn sự trong sáng của

12
Tiếng Việt.
1.1.2. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập Tiếng Việt cho học sinh
1.1.2.1. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập Tiếng Việt trong việc đạt
mục tiêu về kiến thức cho học sinh lớp 3
Những ngữ liệu được chọn để thiết kế bài tập cho HS có tính tương

đồng với văn bản trong SGK (về thể loại, chủ đề) vì thế hệ thống bài tập này
luôn bám sát vào chương trình Tiếng Việt lớp 3, đảm bảo ôn luyện đúng kiến
thức trọng tâm trong chương trình. Do vậy việc xây dựng hệ thống bài tập
Tiếng Việt có vai trò quan trọng trong việc ôn luyện, khắc sâu kiến thức đã
học, giúp HS đạt được mục tiêu về kiến thức của môn Tiếng Việt.
1.1.2.2. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập Tiếng Việt trong việc đạt
mục tiêu về kĩ năng cho học sinh lớp 3
Hệ thống bài tập Tiếng Việt là tập hợp những dạng bài tập phong phú,
mới mẻ dành cho HS. Các bài tập này không chỉ nhằm mục đích ôn luyện
kiến thức đã học trong chương trình mà còn tạo cơ hội cho HS được rèn luyện
sâu hơn bốn kĩ năng cơ bản là nghe, nói, đọc, viết.
Ví dụ: Phân môn TĐ trong chương trình lớp 3 hiện nay chủ yếu chỉ rèn
luyện cho HS kĩ năng đọc thành tiếng, đọc thầm mà xem nhẹ việc rèn kĩ năng
đọc hiểu. Bởi lẽ hệ thống câu hỏi sau các bài tập đọc trong chương trình đa
phần là câu hỏi tự luận. Một giờ học chỉ có vài HS được tham gia trả lời nên
hầu hết các em có kĩ năng đọc hiểu kém. Trong khi đó, hệ thống các bài tập
của phân môn TĐ mà chúng tôi xây dựng có nhiều câu hỏi dưới hình thức trắc
nghiệm khách quan nên tạo cơ hội cho tất cả HS đều được trả lời câu hỏi tìm
hiểu về nội dung bài đọc. Nhờ đó mà kĩ năng đọc hiểu được nâng cao hơn.
Như vậy, hệ thống bài tập Tiếng Việt đã bổ sung, rèn luyện thêm những
kĩ năng mà HS còn yếu hoặc thiếu hụt qua chương trình học. Do đó nó có vai
trò rất quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu về kĩ năng cho HS lớp 3.

13
1.1.2.3. Tầm quan trọng của hệ thống bài tập Tiếng Việt trong việc đạt
mục tiêu về thái độ cho học sinh lớp 3
Trong quá trình xây dựng hệ thống bài tập Tiếng Việt, chúng tôi đã cân
nhắc và lựa chọn các ngữ liệu không những tương đồng với văn bản trong
SGK về thể loại và chủ đề mà các ngữ liệu này còn có nội dung hấp dẫn,
mang tính giáo dục, tính nghệ thuật cao. Vì thế hệ thống bài tập này không chỉ

có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo mục tiêu về kiến thức, kĩ năng cho
HS lớp 3 mà đây còn là nguồn tư liệu phong phú, bổ sung thêm những tri thức
về đời sống, văn học, nghệ thuật,… cho HS. Tính mới mẻ của ngữ liệu kích
thích trí tò mò và khơi gợi hứng thú học tập cho HS. Đồng thời, thông qua
những ngữ liệu này, HS được bồi dưỡng thêm tình yêu quê hương, đất nước,
yêu ngôn ngữ của tổ quốc mình, hình thành ý thức giữ gìn và phát huy sự
trong sáng của tiếng mẹ đẻ.
Như vậy, hệ thống bài tập Tiếng Việt thực sự cần thiết và quan trọng
trong việc đảm bảo mục tiêu về thái độ cho HS lớp 3.
1.1.3. Cơ sở tâm lí học
1.1.3.1. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 3
Lứa tuổi Tiểu học được chia thành hai giai đoạn. Giai đoạn một là học
sinh lớp 1, 2, 3. Giai đoạn hai là học sinh lớp 4, 5. Giai đoạn một được xem là
giai đoạn đầu của bậc Tiểu học, giai đoạn hai là giai đoạn sau của bậc Tiểu
học. Giai đoạn đầu của bậc Tiểu học là giai đoạn mà học sinh còn thiên về tư
duy cụ thể, cảm tính. Tuy vậy học sinh lớp 3 là lớp cuối của giai đoạn đầu bậc
Tiểu học vì vậy ở lứa tuổi này học sinh đã bắt đầu chuyển dần từ tư duy cụ
thể, cảm tính sang tư duy trừu tượng, khái quát hơn.
Bên cạnh đó, trí tưởng tượng của HS lớp 3 đã được hình thành và phát
triển thông qua các hoạt động học tập. Tưởng tượng tái tạo từng bước được
hoàn thiện gắn liền với những hình tượng đã tri giác trước hoặc tạo ra những

14
hình tượng phù hợp với những điều mô tả, sơ đồ, hình vẽ… Như vậy biểu
tượng của tưởng tượng dần trở nên hiện thực hơn. Tưởng tượng của HS đã
mất dần và thoát khỏi ảnh hưởng của ấn tượng trực tiếp. Tưởng tượng của HS
gắn liền với sự phát triển ngôn ngữ và tư duy. Trong dạy học ở Tiểu học, GV
cần rèn luyện và phát triển trí tưởng tưởng của HS thông qua việc hình thành
biểu tượng. GV cần sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ như một phương tiện trực
quan. Ngôn ngữ phải chính xác, giàu nhạc điệu, tình cảm; đặc biệt cần sử

dụng đồ dùng dạy học, tài liệu dạy học phong phú, sinh động. Điều này thêm
một lần nữa khẳng định vai trò của hệ thống bài tập Tiếng Việt trong việc góp
phần hình thành và phát triển tâm lí của HS.
Tuy nhiên, cùng một lứa tuổi nhưng trẻ em lại có đặc điểm tâm lí riêng
và khả năng tư duy cũng khác nhau. Vì thế trong quá trình dạy học hay thiết
kế bài tập cho trẻ, GV cũng cần chú ý đến đặc điểm tâm lí của HS để việc dạy
học cũng như việc thiết kế bài tập ôn luyện, củng cố đạt hiệu quả cao.
1.1.3.2. Đặc điểm ngôn ngữ của học sinh lớp 3
Ngôn ngữ là công cụ của giao tiếp và công cụ của tư duy. Ngôn ngữ
được chia thành hai loại: ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong.
Ngôn ngữ bên ngoài là ngôn ngữ hướng vào người khác, dùng để truyền
đạt hoặc tiếp thu tư tưởng, ý nghĩa. Ngôn ngữ bên ngoài tồn tại dưới dạng vật
chất là âm thanh và chữ viết. Vì thế ngôn ngữ bên ngoài gồm ngôn ngữ nói và
viết.
Ngôn ngữ bên trong là ngôn ngữ cho mình, hướng vào chính mình, dùng
để suy nghĩ, tự giáo dục và tự điều chỉnh bản thân. Ngôn ngữ bên trong chính
là phương tiện của tư duy.
Hai loại ngôn ngữ trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau và
chuyển hóa cho nhau.
Ngôn ngữ của HS tiểu học phát triển mạnh cả về ngữ âm, ngữ pháp và từ

15
vựng. Trên cơ sở nhận biết và phân tích các âm tố, vốn từ của trẻ tiểu học
chuẩn hơn so với trẻ trước khi đi học. Ở lứa tuổi HS lớp 3, vốn từ của trẻ tăng
lên một cách đáng kể do trẻ đã được học nhiều môn và phạm vi tiếp xúc được
mở rộng. Khả năng hiểu nghĩa của từ cũng phát triển. Từ chỗ trẻ chỉ hiểu một
cách cụ thể, cảm tính đến hiểu khái quát và trừu tượng nghĩa của từ. Tuy
nhiên HS lớp 3 mới dừng lại ở chỗ hiểu nghĩa của từ gắn với văn cảnh cụ thể.
Việc hiểu nghĩa bóng của từ còn khó khăn đối với HS.
HS lớp 3 cũng đã nắm được một số quy tắc ngữ pháp cơ bản, một số

mẫu câu đơn giản nhưng việc vận dụng vào ngôn ngữ nói và viết còn hạn chế,
chưa thuần thục nên các em còn mắc lỗi, nhất là khi viết.
Ngôn ngữ viết của trẻ đã được hình thành từ lớp 1, 2 và phát triển mạnh
hơn ở lớp 3. Tuy nhiên ngôn ngữ viết của trẻ nghèo nàn hơn ngôn ngữ nói do
trẻ rất khó chuyển ngôn ngữ bên trong thành hình thức viết. Hơn nữa, do hiểu
từ ngữ chưa chính xác, nắm ngữ pháp chưa chắc nên khi viết các em còn dùng
sai từ, viết câu chưa đúng, không biết chấm câu,…
Những cơ sở về đặc điểm tâm lí, đặc điểm ngôn ngữ trên cũng chính là
tiền đề, cơ sở khoa học cho việc thiết kế hệ thống bài tập Tiếng Việt cho HS
lớp 3.
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.4.1. Khái quát về văn bản
Khái niệm văn bản:
Văn bản là sản phẩm được tạo ra trong hoạt động giao tiếp, đồng thời
cũng là phương tiện để thực hiện hoạt động giao tiếp. [32; tr.11].
Văn bản không phải là phép cộng đơn thuần của các câu mà giữa các
câu trong văn bản có những sợi dây liên hệ chặt chẽ. Theo như K. Boost viết
năm 1949 “Những sợi dây này kéo dài từ câu nọ sang câu kia nhiều đến nỗi
tạo nên một mạng lưới dày đặc…, trong đó mỗi câu riêng biệt gắn bó chặt chẽ

16
với những câu còn lại”. [27; tr.13]
Những yêu cầu chung của một văn bản:
Văn bản phải đảm bảo tính mạch lạc và liên kết
Mạch lạc là sự liên kết về mặt nội dung của văn bản. Mạch lạc trong
văn bản thể hiện cụ thể ở sự thống nhất về đề tài, sự nhất quán về chủ đề và
sự chặt chẽ về lôgic. Trong văn bản, logic bao gồm logic khách quan và logic
trình bày. Logic khách quan phản ánh quy luật tồn tại, vận động và phát triển
của hiện thực. Logic trình bày phản ánh mối quan hệ, sự sắp xếp hiện thực
trong văn bản. Tính logic của văn bản thể hiện bằng hệ thống các từ quan hệ,

từ chuyển tiếp, trật tự từ, trật tự câu trong văn bản. Như vậy, mạch lạc chính
là sự thống nhất nội dung bên trong, là sự thống nhất và phát triển nghĩa của
văn bản. Nó được thể hiện ra nhờ những yếu tố hình thức, mang tính vật chất.
Đó chính là liên kết. Bởi vậy liên kết là sự thể hiện vật chất của mạch lạc.
Những yếu tố thể hiện sự liên kết trong văn bản là phương tiện ngôn ngữ. Các
phương tiện này có thể là danh từ, động từ, tính từ hoặc các kiểu cấu tạo câu.
VD: Tiết 8, tuần 9, SGK Tiếng Việt tập 1, trang 73
Mùa hoa sấu
(1) Vào những ngày cuối xuân, đầu hạ, khi nhiều loài cây đã khoác
màu áo mới thì cây sấu mới bắt đầu chuyển mình thay lá. (2) Đi dưới rặng
sấu, ta sẽ gặp những chiếc lá nghịch ngợm. (3) Nó quay tròn trước mặt, đậu
lên đầu, lên vai ta rồi mới bay đi. (4) Nhưng ít ai nắm được một chiếc lá đang
rơi như vậy.
(5) Từ những cành sấu non bật ra những chùm hoa trắng muốt, nhỏ
như những chiếc chuông tí hon. (6) Hoa sấu thơm nhẹ. (7) Vị hoa chua chua
thấm vào đầu lưỡi, tưởng như vị nắng non của mùa hè mới đến vừa đọng lại.
(Theo Băng Sơn)
Tính mạch lạc trong văn bản trên thể hiện ở chỗ các câu trong văn bản

17
đều xoay quanh đề tài tả về cây sấu thông qua hệ thống các danh từ và ngữ
danh từ: (1) cây sấu, lá, (2) rặng sấu, chiếc lá, (3) nó, (4) chiếc lá, (5) cành
sấu, chùm hoa, (6) hoa sấu, (7) vị hoa
Văn bản có sự thống nhất về chủ đề được thể hiện qua hệ thống các
động từ, tính từ, ngữ động từ, ngữ tính từ: (1) thay lá, (2) nghịch ngợm, (3)
quay tròn, đậu, bay đi, (4) rơi, (5) bật ra, trắng muốt, nhỏ, (6) thơm nhẹ, (7)
chua chua, thấm vào đầu lưỡi. Các từ ngữ này cùng hướng vào mô tả việc cây
sấu ra hoa đã được nêu trong tiêu đề của văn bản.
Sự sắp xếp các câu cũng theo trình tự lô gic từ lúc cây thay lá, lá rơi
đến cành cây bật ra những bông hoa sấu trắng muốt, vị hoa chua chua.

Chính sự đảm bảo thống nhất về đề tài, chủ đề, lô gic mà văn bản Mùa
hoa sấu có tính mạch lạc.
Tính liên kết của văn bản thể hiện ở chỗ giữa các câu trong văn bản có
sự gắn bó chặt chẽ với nhau nhờ sử dụng biện pháp điệp từ và biện pháp thế.
Các câu 1, 2 đều nhắc đến tên cây là sấu. Câu 3, từ “nó” đã được dùng để thay
thế cho từ “chiếc lá” ở câu 2. Đến câu 4, tác giả lại lặp lại từ “chiếc lá” và sử
dụng thêm từ “như vậy” để nói về “chiếc lá” ở câu 3.
Văn bản phải có mục đích giao tiếp thống nhất
Văn bản được tạo ra nhằm phục vụ hoạt động giao tiếp của con người
do vậy mục đích của văn bản vô cùng phong phú. Mỗi văn bản có thể thiên về
một mục đích nhất định nhưng toàn bộ văn bản phải có một mục đích nhất
quán. Mục đích giao tiếp của văn bản có thể biểu hiện trực tiếp hoặc gián tiếp.
VD: Văn bản Mùa hoa sấu có mục đích trao đổi thông tin, hiểu biết
(thời điểm cây sấu ra hoa, màu sắc, mùi thơm, vị của hoa sấu). Ngoài ra nó
còn có mục đích biểu lộ tình cảm, xúc cảm của tác giả (thấy chiếc lá tinh
nghịch, thích mùi vị của hoa sấu vì giống vị nắng non)
Văn bản phải có kết cấu rõ ràng

18
Kết cấu là cách thức tổ chức các yếu tố nội dung (sự kiện, hiện tượng,
luận điểm) theo một kiểu mô hình nhất định. Kết cấu không chỉ là sự sắp xếp
các yếu tố nội dung mà đó là việc tổ chức nghĩa của văn bản. Việc sắp xếp
các yếu tố nội dung theo cách này hay cách khác đều có ảnh hưởng không
nhỏ đến việc tiếp thu nghĩa của văn bản. Có nhiều kiểu kết cấu khác nhau.
Về cơ bản, kết cấu thường có hai phần: phần mở đầu và phần phát triển. Tuy
nhiên trên thực tế văn bản thường có kết cấu ba phần: phần mở đầu, phần phát
triển và phần kết thúc. Kiểu kết cấu ba phần này giúp cho văn bản có sự hoàn
chỉnh và rõ rệt đối với người đọc.
VD: Tiết 8, tuần 18, SGK tập 1, trang 150
Đường vào bản

(1) Đường vào bản tôi phải vượt qua một con suối nước bốn mùa trong
veo. (2) Nước trườn qua kẽ đá, lách qua những mỏm đá ngầm, tung bọt trắng
xóa như trải thảm hoa đón mời khách gần xa đi về thăm bản. (3) Bên đường
là sườn núi thoai thoải. (4) Núi cứ vươn mình lên cao, cao mãi. (5) Con
đường men theo một bãi vầu, cây mọc san sát, thẳng tắp, dày như ống đũa.
(6) Con đưởng đã nhiều lần đưa tiễn người bản tôi đi công tác và cũng đã
từng đón mừng cô giáo về bản dạy chữ. (7) Dù ai đi đâu về đâu, khi bàn chân
đã bén hòn đá, hòn đất trên con đường thân thuộc ấy, thì chắc chắn sẽ hẹn
ngày quay lại.
(Theo Vi Hồng)
Đây là văn bản có kết cấu ba phần. Phần mở đầu (câu 1) xác lập đề tài
của văn bản là tả con đưởng vào bản. Phần phát triển (câu 2 - 6) miêu tả cụ
thể, chi tiết quang cảnh của con đường vào bản. Phần kết thúc (câu 7) khép lại
văn bản bằng việc tác giả khẳng định những ai đã từng đi trên con đường vào
bản thì đều thấy gắn bó với con đường ấy và sẽ có ngày quay trở lại.
Văn bản phải có một phong cách ngôn ngữ nhất định

19
Khi nói hay viết đều phải biết lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ sao
cho phù hợp để vừa tạo được lời nói đúng ngữ pháp vừa phù hợp với người
nghe, người đọc để việc giao tiếp đạt hiệu quả cao. Việc lựa chọn ngôn ngữ
này chịu sự chi phối của các nhân tố ngoài ngôn ngữ như: mối tương quan
giữa người nói với người nghe (quan hệ giao tiếp), tình huống giao tiếp, mục
đích giao tiếp, nội dung giao tiếp. Chính những yếu tố này đã tạo ra sự khác
nhau trong phong cách ngôn ngữ văn bản. Phong cách ngôn ngữ văn bản là
một kiểu hình thức tương đối ổn định của một loại văn bản, được sử dụng
theo các thói quen lựa chọn cách thức, phương tiện diễn đạt thích hợp với
từng tình huống giao tiếp bằng ngôn ngữ.
VD: Phân môn Chính tả, tuần 22, SGK Tiếng Việt tập 2, trang 37
Một nhà thông thái

Ông Trương Vĩnh Ký là người có hiểu biết rất rộng. Nhà thông thái này
sử dụng thành thạo tới 26 ngôn ngữ, tham gia nhiều hội nghiên cứu quốc tế.
Ông để lại cho chúng ta hơn 100 bộ sách có giá trị về ngôn ngữ, lịch sử, văn
học, địa lí,… Người đương thời liệt ông vào hàng 18 nhà bác học nổi tiếng
thế giới.
(Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam)
Văn bản trên mang phong cách ngôn ngữ khoa học.

1.1.4.2. Đề tài – chủ đề của văn bản
Đề tài được hiểu là mảng hiện thực được tác giả nhận thức và thể hiện
trong văn bản. Đề tài của văn bản có thể rộng, ví dụ như đề tài về học sinh,
nhà trường,… Nhưng đề tài của văn bản cũng có thể hẹp. Chẳng hạn đề tài
nhà trường có thể được chia thành các đề tài nhỏ hơn như phương pháp dạy
học, phương pháp học tập của học sinh, thái độ học tập, nếp sống của học
sinh,… Một văn bản chỉ có thể được xem là thống nhất về đề tài khi tất cả các
câu trong văn bản đều tập trung nói về một phạm vi hiện thực duy nhất hoặc

×