Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Chất lượng thể chế và một số cách đánh giá thể chế thông qua các bộ so sánh chỉ số về chất lượng thể chế ( ví dụ từ đông âu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (684.27 KB, 18 trang )

Nhóm 9. Chất lượng thể chế và một số cách đánh giá thể chế thông qua các bộ so
sánh chỉ số về chất lượng thể chế (-ví dụ từ Đông Âu)
I. Một số khái niệm và vai trò của đánh giá chất lượng thể chế
Thể chế là một phạm trù lớn, xét trên nhiều mặt của đời sống kinh tế-xã hội, góp
phần to lớn vào việc hình thành trật tự xã hội chung của một quốc gia. Vì vậy, việc phân tích
các giá trị tác động, đo lường mức độ tác động ảnh hưởng của một thể chế nhất định là việc
làm cần thiết. Việc phân đích và đánh giá được coi là cần thiết không chỉ cho các nhà lãnh
đạo của một địa phương mà còn của một quốc gia và các chính trị gia giữa các nước với
nhau. Hiểu rõ và đánh giá đúng tác động của một thể chế cho phép nhà cầm quyền đưa ra
những chính sách và xây dựng những khuôn khổ thể chế phù hợp phục vụ cho quá trình phát
triển. Vì vậy, đánh giá chất lượng thể chế có vai trò: Lượng hóa cụ thể và mang tính so sánh
được giữa các quốc gia, tỉnh, thành phố về chất lượng của các thiết chế thực hiện được; Đưa
ra nhìn nhận tổng quan chung về sự tác động và mối quan hệ đồng thời giữa các nhóm thể
chế, chính sách; Là một trong những cơ sở thực chứng cho các nhà lãnh đạo, nhà cầm quyền
xây dựng, cải cách khung thể chế phù hợp.
Chất lượng của thể chế phản ánh trình độ chính trị, bản chất chính trị của quốc gia
và đó cũng là cơ sở để xã hội quyết định lựa chọn hoặc không lựa chọn nhà cầm quyền.
Đánh giá chất lượng thể chế là một quá trình kiểm tra, đánh giá một hệ thống thể
chế để tìm ra các điểm phù hợp hay không phù hợp của một hệ thống thể chế trong một tổ
chức, một quốc gia.
Kết quả đánh giá là các thông tin, đầu vào quan trọng cho việc cải tiến chất lượng của
thể chế.
Việc đánh giá chất lượng có thể tiến hành bởi một đoàn đánh giá nội bộ hoặc một tổ
chức đánh giá độc lập.
II. Một số bộ tiêu chí đánh giá chất lượng thể chế. Minh họa
1. Chỉ số chất lượng thể chế (IQ)
Chỉ số IQ đo lường chất lượng thể chế được đưa ra bởi một số các nhà khoa học
Kaufmanm, Kraay, Lobaton (1999). Nhóm tác giả đã đưa ra một bộ chỉ số để đánh giá chất
lượng thể chế của một số nước, đặc biệt là so sánh giữa các quốc gia châu Âu, Nam Á và
các nước châu Phi.
Chỉ số “chất lượng thể chế” (Institutional Quality- IQ) tổng hợp là mức độ trung


bình của 5 chỉ số(tiêu chí), bao gồm: “Trách nhiệm giải trình”, “Hiệu lực của chính phủ”,
“Chất lượng luật lệ”, “Nhà nước pháp quyền”, “Kiểm soát tham nhũng”.Sau này, khi so
1
sánh các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi, ngoài 5 chỉ số kể trên, chỉ số “Chất lượng thể
chế” còn được đánh giá thông qua chỉ số “Sự ổn định về chính trị”.
1.Trách nhiệm giải trình
Là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích, làm rõ các thông tin về thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao và trách nhiệm của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn đó (quy định của Nghị định 90/2013/NĐ-CP). Người yêu cầu giải trình là cơ
quan, tổ chức, cá nhân có yêu cầu cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền giải trình về
những nội dung liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Người giải trình
là người đứng đầu cơ quan nhà nước hoặc người được người đứng đầu cơ quan nhà nước
ủy quyền việc thực hiện giải trình.
2.Hiệu lực của chính phủ
Tính hiệu lực của chính phủ thể hiện thông qua kết quả đạt được của các chính sách
và pháp luật hiệu quả như thế nào, tác động đến xã hội ra sao.
3.Chất lượng luật lệ
Bao gồm quá trình soạn thảo, ban hành, sửa đổi và thực thi. Hệ thống luật pháp rõ
ràng, cụ thể và được thực hiện công bằng nghiêm minh phản ánh một chất lượng thể chế ở
mức độ cao hơn.
4.Nhà nước pháp quyền
Pháp quyền là nguyên tắc chính quyền chỉ thực thi quyền hành một cách hợp pháp
theo các luật được soạn thảo ra và phát hành rộng rãi. Những luật đó được thông qua và thực
thi theo đúng các bước được gọi là thủ tục pháp lí. Nguyên tắc này nhằm mục đích ngăn
ngừa sự cai trị độc đoán dù cho đó là lãnh đạo chuyên quyền hay quần chúng lãnh đạo.
Chính vì vậy, pháp quyền chống lại cả chế độ độc tài lẫn tình trạng vô chính phủ.
Nhà nước pháp quyền là hình thức mà trong đó nhà nước xây dựng nên pháp luật để quản lí
xã hội và tự đặt mình dưới pháp luật. Mọi công dân, cơ quan nhà nước đều phải được tổ
chức và chỉ được phép hoạt động trong khuôn khổ quy định của pháp luật. Quyền công dân
được pháp luật ghi nhận và bảo vệ.

Điều kiện để có xây dựng một nhà nước pháp quyền là phải có một hệ thống pháp
luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và kịp thời. Dân chủ là nền tảng để hoàn chỉnh pháp luật.
5. Kiểm soát tham nhũng
Tham nhũng, về bản chất, đó là sự lạm dung quyền lực nhà nước, tha hóa quyền lực
bởi người có chức vụ quyền hạn trong bộ máy nhà nước nhằm đạt được lợi ích riêng.
Do đó, kiểm soát tham nhũng chính là vấn đề kiểm soát quyền lực. Trong thực tế, người
ngoài rất khó xác định một chính sách của một ngành hay một địa phương ra đời nhằm phục
vụ “tham nhũng cơ chế” hay không bởi tác động của bất kỳ chính sách nào cũng có thể có
lợi cho một số người này và bất lợi cho một số người khác. Và đó chính là điểm nguy hiểm
2
nhất của loại tham nhũng này vì chúng diễn ra công khai, thường núp dưới những mỹ từ nếu
được cố tình đánh bóng
Tình trạng tham nhũng có thể nói lên chất lượng thể chế, vì chính nó phản ánh được
hệ thống thực hiện pháp luật chặt chẽ hay vẫn để kẽ hở, phản ánh việc đảm bảo chất lượng,
vai trò của từng cơ quan, bộ phận trong nhà nước.
Các chỉ số trên (theo Kaufmanm, Kraay và Lobaton, 1999) được tính toán theo thang
điểm dao động từ -20 đến +20 (giá trị càng cao thì chất lượng thể chế càng cao). Chỉ số
“Chất lượng thể chế” được tính toán tổng hợp là mức độ trung bình của năm chỉ số nêu trên.
• Một số ví dụ minh họa từ các nước Đông Âu
- So sánh giữa các nhóm nước trên thế giới
Bảng: So sánh chỉ số IQ được điều chỉnh theo thu nhập đầu người (1997-1998)
IQ trung
bình
Nhà nước
pháp
quyền
Kiểm soát
tham
nhũng
Chất

lượng luật
lệ
Trách
nhiệm giải
trình
Hiệu lực
của Chính
phủ
Các nước chuyển đổi
Liên Xô cũ, Trung và
Đông Âu
(- 0,55) (-0,79) (-2,8) (-1,11) (0,86) (-1,08)
Các nước chuyển đổi
châu Phi
0,92 0,13 (-0,80) 1,00 1,81 2,19
Châu Phi (-1,10) (-0,71) 0,00 (-0,62) (-1,44) 0,15
Các nước công nghiệp 1,06 0,18 1,09 0,01 1,93 1,45
Đông Á (-0,57) (-0,36) (-0,22) 2,06 (-1,64) 0,37
Mỹ Latinh 0,89 (-1,91) (-1,18) 3,91 2,36 0,80
Từ bảng so sánh các chỉ số IQ (mặc dù đã được điều chỉnh theo mức thu nhập
bình quân đầu người), kết quả cho thấy IQ trung bình của các nền kinh tế chuyển
đổi ở Trung và Đông Âu có giá trị âm, tức chất lượng thể chế thấp hơn so với các
nước có thu nhập bình quân đầu người tương đương. Trong đó, IQ của các nước
công nghiệp vẫn cao nhất, mức thấp nhất thuộc về các nước châu Phi không trong
quá trình chuyển đổi.
- So sánh giữa các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi
Bảng : Chất lượng thể chế của các nước có nền kinh tế chuyển đổi (Weder-2001)
Nhóm có IQ cao
nhất
Nhóm có IQ cao

thứ hai
Nhóm có IQ ở
giữa
Nhóm có IQ cao
thứ tư
Nhóm có IQ
thấp nhất
Ba Lan
Estonia
Hungary
Bungary
Croatstia
Latvia
Abanni
Acmenia
Giôcgia
Azécbaijan
Bê la rus
Tuốc mê nistan
Tajikistan
3
Séc
Slovenia
Luytva
Rumani
Slovakia
Kazắcstan
Kirghidistan
Macxedonia
Mondova

Nga
Ucraina
Udơbêkistan
Kết quả tính toán ở trên cho thấy, các nước có IQ cao nhất đã xích gần với IQ của
các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức, Pháp… Trong đó
cũng cho thấy IQ của Nga chỉ tương đương với một số nước kém phát triển như Bê-
la- ruts; Ucairna… còn nhiều nước khác thuộc Liên Xô trước đây thuộc nhóm nước
có IQ kém nhất.
2. Chỉ số cạnh tranh toàn cầu ( GCI)
Hiện nay, xếp hạng năng lực cạnh tranh trên thế giới được thực hiện theo hai hình thức.
Một là các báo cáo thường niên đánh giá các yếu tố khác nhau của năng lực cạnh tranh. Hình
thức này chủ yếu do các tổ chức quốc tế thực hiện nhằm xếp hạng các quốc gia. Các báo cáo
thuộc loại này bao gồm Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Report)
của Diễn đàn kinh tế thế giới; Báo cáo Môi trường kinh doanh (Doing Business) của Ngân
hàng Thế giới; Báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh của Tạp chí Forbes; Báo cáo về chỉ số
tự do kinh tế của Quỹ hỗ trợ di sản và Tạp chí phố Wall; Báo cáo tham nhũng của Tổ chức
minh bạch quốc tế; Chỉ số Quản trị toàn cầu (Worldwide Governance Indicators) của Ngân
hàng Thế giới.
Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu là một báo cáo thường niên do Diễn đàn kinh tế
thế giới (World Economic Forum - WEF) thực hiện, xuất bản lần đầu vào năm 1979. Từ năm
2005, Diễn đàn kinh tế thế giới sử dụng Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global
Competitiveness Index - GCI) như một công cụ để đo lường các yếu tố kinh tế vi mô và vĩ mô
ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh quốc gia; những điểm mạnh, điểm yếu của nền kinh tế các
nước. Xếp hạng của WEF cũng phản ánh các nhân tố ảnh hưởng tới môi trường kinh doanh của
một quốc gia, vốn cũng là các yếu tố cơ bản đối với tăng trưởng kinh tế bền vững.
Theo WEF, năng lực cạnh tranh là một tập hợp các yếu tố về thể chế, chính sách và
các nhân tố quyết định năng suất của một quốc gia; trên cơ sở tiến bộ về năng suất sẽ xác
lập mức độ thịnh vượng mà một nền kinh tế có thể đạt được. Năng suất cũng quyết định tỷ lệ
lợi tức thu được từ đầu tư trong nền kinh tế, và đó là động lực cơ bản của tăng trưởng kinh tế.
Hay nói cách khác, một nền kinh tế cạnh tranh hơn thì tăng trưởng bền vững hơn.

4
WEF đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu trên cơ sở tính bình quân gia quyền
của các chỉ số thành phần khác nhau, mỗi chỉ số đo lường các khía cạnh khác nhau của năng
lực cạnh tranh.
GCI dựa trên 12 chỉ số thành phần (12 trụ cột), với mỗi cột trụ đại diện cho một khu
vực được coi như là một yếu tố quyết định của khả năng cạnh tranh. 12 chỉ số thành phần
không độc lập mà có tác động ảnh hưởng lẫn nhau, chẳng hạn như cải cách (yếu kém) trong
lĩnh vực này ảnh hưởng tích cực (tiêu cực) tới lĩnh vực khác. Điểm và xếp hạng đối với mỗi chỉ
số thành phần dựa trên điểm của các chỉ số con. Tất cả các chỉ số, gồm chỉ số con, chỉ số thành
phần, chỉ số nhóm và chỉ số tổng hợp GCI được cho theo thang điểm từ 1-7 với 1 là kém nhất
và 7 là tốt nhất.
a) Mô tả về GCI và phương
pháp tính điểm.
12 trụ cột được xếp và 3 nhóm:
A- Nhóm chỉ số về các yêu cầu cơ bản
1. Thể chế 25%
2. Cơ sở hạ tầng 25%
3. Ổn định kinh tế vĩ mô 25%
4. Y tế và giáo dục tiểu học 25%
B- Nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả
5. đào tạo và giáo dục ở bậc cao hơn
17%
6. hiệu quả của thị trường hàng
hóa 17%
7. hiệu quả của thị trường lao động 17%
8. sự phát triển của thị trường tài chính 17%
9. công nghệ tiên tiến 17%
10. quy mô thị trường 17%
C- Nhóm chỉ số về sự đổi mới và sự phát triển của các nhân tố
11. sự phát triển của hệ thống kinh doanh 50%

12. đổi mới công nghệ 50%
Bảng tỉ trọng các nhóm chỉ số đối với các nhóm nước
Nhóm nước kém
phát triển(%)
Nhóm nước đang phát
triển(%)
Nhóm nước phát
triển(%)
Nhóm chỉ số về các yếu tố cơ bản60 40 20
Nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả 35 50 60
Nhóm chỉ số về sự đổi mới và sự
phát triển
5 10 30
5
Phương pháp tính điểm
B1: dựa trên kết quả phản hồi của phiếu điều tra khảo sát ý kiến, diễn đàn kinh tế
B2: dùng phương pháp cho điểm các chỉ số thành phần theo thang điểm 7.
B3: tính trung bình cộng các điểm của chỉ số thành phần tính được ở B2 ta được
kết quả là giá trị của chỉ số lớn.
B4: tính GCI theo công thức:
- Đối với nhóm nước kém phát triển:
GCI= 60%*(25%*(1+2+3+4))+35%*(17%*(5+6+7+8+9+10))+ 5%*(50%*(11+12))
- Đối với nhóm nước đang phát triển
GCI= 40%*(25%*(1+2+3+4))+50%*(17%*(5+6+7+8+9+10))+ 10%*(50%*(11+12))
- Đối với nhóm nước phát triển
GCI= 20%*(25%*(1+2+3+4))+60%*(17%*(5+6+7+8+9+10))+ 30%*(50%*(11+12))
Table1: the global competitiveness index 2014 - 2015
Overall index Basic requirements Efficiency
enchancers
Innovation and

sophistication
factor
Country/economy rank score rank score rank score rank score
Switzerland 1 5.70 4 6.17 5 5.49 1 5.74
Singapore 2 5.65 1 6.34 2 6.68 11 5.13
United States 3 5.54 33 5.15 1 5.71 5 5.54
Finland 4 5.50 8 5.97 10 5.27 3 5.57
Germany 5 5.49 11 5.91 9 5.28 4 5.56
Japan 6 5.47 25 5.47 7 5.35 2 5.68
Hong Kong 7 5.46 3 6.19 3 5.58 23 4.75
Netherlands 8 5.45 10 5.95 8 5.28 6 5.41
United Kingdom 9 5.41 24 5.49 4 5.51 8 5.21
Sweden 10 5.41 12 5.86 12 5.25 7 5.38
Norway 11 5.35 6 6.05 13 5.24 16 5.08
UnitedArab Fmirates 12 5.33 2 6.20 14 5.24 21 4.83
Denmark 13 5.29 13 5.85 17 5.11 9 5.19
Taiwan, China 14 5.25 14 5.75 16 5.14 13 5.11
Canada 15 5.24 18 5.70 6 5.37 24 4.72
Quatar 16 5.24 5 6.12 20 4.98 15 5.09
New Zealand 17 5.20 9 5.96 11 5.26 25 4.61
Belgium 18 5.18 22 5.53 18 5.07 12 5.11
Luxembourg 19 5.17 7 6.02 22 4.97 18 4.93
Malaysia 20 5.16 23 5.53 24 4.95 17 4.95
Vietnam 68 4.23 79 4.44 74 3.99 77 3.53
Source: WEF- global competitiveness report
6
Ngoài ra, còn có một số bộ chỉ số khác được dùng để đánh giá năng lực cạnh tranh như
Năng lực cạnh tranh quốc gia; Năng lực cạnh tranh doanh nghiệp và Năng lực cạnh tranh sản phẩm,
dịch vụ. Ba yếu tố có mối quan hệ qua lại, mật thiết với nhau hình thành nên tính cạnh tranh của
một quốc gia so với các quốc gia khác trên thế giới.

3. Chỉ số tự do kinh tế IEF (Indices of Economical Freedom)
Chỉ số tự do kinh tế (Indices of Economic Freedom) đo lường chính sách tự do kinh
doanh ở các quốc gia trên thế giới. Chỉ số tự do kinh tế đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi
nền kinh tế, được công bố thường niên bởi tạp chí The Wall Street Journal và Quỹ Di sản
(The Heritage Foundation) có ảnh hưởng gián tiếp đến nguyên tắc luật lệ, chính sách thuế
cũng như các chính quyền.
Định nghĩa chỉ số tự do kinh tế như sau: "Môi trường tự do kinh tế cao nhất cho
người ta quyền tư hữu tuyệt đối, hoàn toàn tự do hoạt động về lao động, tiền bạc, hàng hóa,
và hoàn toàn không có chèn ép hay giới hạn tự do kinh tế ngoại trừ những giới hạn tối thiểu
cần thiết để bảo đảm người dân được tự do".
Chỉ số cho điểm dựa trên 10 yếu tố tổng quát sau đây về tự do kinh tế
1. Tự do buôn bán (Business Freedom)
2. Tự do thương mại (Trade Freedom)
3. Tự do tiền tệ (Monetary Freedom)
4. Độ lớn của nhà nước (Government Size)
5. Tự do công khố (Fiscal Freedom)
6. Quyền tư hữu (Property Rights)
7. Tự do đầu tư (Investment Freedom)
8. Tự do tài chánh (Financial Freedom)
9. Tự do không bị tham nhũng (Freedom from Corruption)
10. Tự do lao động (Labor Freedom)
Mỗi tự do trên được cho điểm từ 0 đến 100, mà 100 là tượng trưng cho nhiều tự do
nhất. Điểm 100 có nghĩa là có một môi trường kinh tế hay chính sách kinh tế có ích lợi nhất
dẫn đến tự do kinh tế. Tổng số điểm được tính trung bình bằng cách cộng 10 số điểm của
mỗi tự do và chia cho 10.
Hình: Đánh giá mười yếu tố tự do kinh tế toàn cầu 2012
7
Bảng số liệu về
chỉ số tự do kinh tế
của một số nước Đông

Âu và Nga (1995-
2014)
4. Chỉ số thuận lợi kinh doanh
( EDBI)
Chỉ số thuận lợi
kinh doanh , (EBDI - Ease
of Doing Business Index) là
chỉ số được đề ra bởi Ngân
hàng thế giới WB. Thứ hạng
cao chỉ ra rằng các quy tắc cho kinh doanh tốt hơn, đơn giản hơn và bảo vệ quyền sở hữu
mạnh hơn. Nghiên cứu thực nghiệm được tài trợ bởi Ngân hàng thế giới chỉ ra rằng ảnh
hưởng của việc hoàn thiện những điều chỉnh này đối với tăng trưởng kinh tế là rất mạnh mẽ.
Chỉ số này được đưa ra dựa trên những nghiên cứu luật pháp, quy tắc bằng việc
phỏng vấn & xác minh bởi 3500 viên chức nhà nước, các luật sư, cố vấn doanh nghiệp, kế
8
toán viên và các nhà chuyên môn có hoạt động trong lĩnh vực cố vấn quản lý chung thực thi
luật pháp.
Chỉ số thuận lợi kinh doanh nói lên đánh giá các quy tắc ảnh hưởng trực tiếp
đến kinh doanh, không phản ánh trực tiếp những trạng thái chung như quốc gia ở cạnh một
thị trường lớn, đặc trưng cơ sở hạ tầng, lạm phát hoặc tội phạm. Thứ hạng của một quốc gia
được đánh giá dựa trên giá trị trung bình của 10 chỉ số sau:
1. Khởi sự doanh nghiệp: thủ tục pháp lý, thời gian, vốn và giá trị doanh nghiệp cực tiểu
theo quy định
2. Đăng ký giấy phép kinh doanh: thủ tục pháp lý, thời gian và chi phí của việc xác minh
& cấp giấy phép kinh doanh (xây dựng công nghiệp)
3. Chi phí thuê nhân công & tình trạng khan hiếm lao động: mức độ khó khăn về giá
nhân công và chỉ số mềm dẻo về thỏa ước thời gian lao động.
4. Đăng ký quyền sở hữu: thủ tục, thời gian và chi phí khi đăng ký các tài sản là bất
động sản thương mại như đất đai thực.
5. Mức khấu trừ tín dụng: chỉ số hiệu lực của các quy định luật pháp, chỉ số công khai

thông tin tín dụng.
6. Mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư: phạm vi quyền hạn cũng như trách nhiệm pháp
lý của người quản lý doanh nghiệp & các đại cổ đông.
7. Gánh nặng thuế phải trả: các khoản thuế phải nộp, thời gian tiêu tốn cho thủ tục hành
chính trong thanh toán thuế, tỉ lệ thuế phải trả so với tổng số lợi nhuận ròng.
8. Hoạt động thương mại dọc & xuyên biên giới: số lượng các tài liệu, số lượng chữ ký
và thời gian cần thiết để thực hiện cho mỗi thương vụ xuất hoặc nhập khẩu.
9. Mức thực thi các hợp đồng: thủ tục, thời gian & chi phí để bắt buộc thực thi một thỏa
ước vay nợ chưa thanh toán.
10. Chấm dứt kinh doanh: thời gian & chi phí khi tuyên bố đóng cửa kinh doanh hoặc phá
sản & mức bồi hoàn thuế
9
Hình. Mức độ giảm rào cản kinh doanh của các quốc gia trong từng khu vực từ năm
2005-2011
2. Chỉ số môi trường kinh doanh của thế giới
Bảng xếp hạng môi trường kinh doanh của một số quốc gia năm 2014 (Theo WorldBank )
STT Country
1 Singapore
2 New Zealand
3 HongKong SAR, China
4 Denmark
5 Korea, Rep
6 Norway
7 United States
8 United Kingdom
9 Finland
… ….
179 Guinea- Bissau
180 Haiti
181 Angola

182 Venezuela, RB
183 Afghanistan
184 Congo. Den.Rep
185 Chad
186 South Sudan
187 Central African Republic
10
188 Libya
189 Eritrea
Singapore được xếp hạng cao nhất thế giới về môi trường kinh doanh thuận lợi, tiếp
sau là khu tự trị hành chính New Zealand, HongKong (Trung Quốc), Đan Mạch, Hàn Quốc,
Na-uy… nằm trong số 10 nước đứng đầu. Như ta thấy thì các nước này đều là các nước có
nền kinh tế phát triển, tình hình chính trị ổn định và nhà nước đầu tư nhiều cho phúc lợi xã
hội.
Còn các nước xếp vị trí thấp nhất như Libia, Haiti, Central African Republic, Central
African Republic…là các nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu.
Trong năm qua cũng phải kể đến sự phát triển về kinh tế, ổn định về chính trị ảnh
hưởng đến chỉ số hoạt động thương mại quốc tế cũng như việc thực hiện đúng đắn các chính
sách của một số quốc gia đã đưa chỉ số môi trường kinh doanh của họ tăng vượt bậc.Phải kể
đến các quốc gia như; Sri Lanka tăng 6 bậc (155-99),Togo tăng 15 bậc (164-149),Uzbekistan
tăng 8 bậc (149-141)…
Trong năm 2013-2014 có rất nhiều biến động như tình hình chiến tranh, các chính
sách sai lệch về điều chỉnh môi trường kinh doanh của chính phủ…dẫn đến chỉ số môi trường
cạnh tranh giảm đáng kể ở các nước Irad 146 (2013) xuống 156 (2014), Syrian Arab
Republic từ 165 (2013) xuống 175 (2014).
5. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI
PCI là chữ viết tắt của ba từ tiếng Anh: Provincial Competitiveness Index và được
dịch sang tiếng Việt là “Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh”. Đây là chỉ số đánh giá và xếp
hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất lượng điều hành kinh tế và xây dựng
môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh. Đây là dự án

hợp tác nghiên cứu giữa phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và dự án sáng kiến
cạnh tranh Việt Nam (là dự án do cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ - USAID, tài trợ. Chỉ
số này được công bố thí điểm lần đầu tiên vào năm 2005 đối với 42 tỉnh, thành thành phố
trực thuộc Trung ương và lần thứ hai là từ năm 2006 trở đi, tất cả các tỉnh, thành phố ở Việt
Nam đều được đưa vào xếp hạng, đồng thời các chỉ số thành phần cũng được tăng cường
thêm.
Phương pháp xây dựng PCI
11
Lần đầu tiên được công bố vào năm 2005, PCI khi đó mới chỉ gồm có tám chỉ số
thành phần, mỗi chỉ số thành phần lý giải sự khác biệt về phát triển kinh tế giữa các tỉnh,
thành phố của Việt Nam. Năm 2006, có thêm hai lĩnh vực quan trọng của môi trường kinh
doanh được bổ sung vào để xây dựng chỉ số PCI là: Thiết chế pháp lý và đào tạo lao động.
Năm 2009, phương pháp luận PCI được điều chỉnh để phản ánh kịp thời sự phát triển năng
động của nền kinh tế và các thay đổi trong môi trường pháp lý tại Việt Nam. Sau khi loại bỏ
chỉ số ưu đãi doanh nghiệp nhà nước, hiện nay, PCI còn 9 chỉ số thành phần, gồm:
1) Chi phí gia nhập thị trường; 2) Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất đai và có mặt
bằng kinh doanh ổn định; 3) Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, doanh nghiệp có
cơ hội tiếp cận công bằng các thông tin cần cho kinh doanh và các văn bản pháp luật cần
thiết; 4) Chi phí không chính thức ở mức tối thiểu; 5) Thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để
thực hiện các thủ tục hành chính và thanh tra kiểm tra hạn chế nhất; 6) Lãnh đạo tỉnh năng
động và tiên phong; 7) Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, do khu vực nhà nước và tư nhân cung
cấp; 8) Có chính sách đào tạo lao động tốt; và 9) Hệ thống pháp luật và tư pháp để giải
quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
Hình. Chỉ số cạnh tranh cấp tỉnh PCI của Hưng Yên (2010-2011)
12
Ý nghĩa của chỉ số PCI
Bằng cách chuẩn hóa điểm số xung quanh các thực tiễn điều hành kinh tế, chỉ số PCI
khuyến khích chính quyền các tỉnh cải thiện chất lượng công tác điều hành.
Và với việc loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố cơ bản đóng góp vào tăng trưởng
kinh tế trong một tỉnh như vị trí địa lý, cơ sở hạ tầng, quy mô của thị trường và nguồn nhân

lực…, chỉ số PCI giúp xác định và hướng vào các thực tiễn điều hành kinh tế tốt có thể đạt
được ở cấp tỉnh.
Bằng cách so sánh đối chiếu giữa các thực tiễn điều hành với kết quả phát triển kinh
tế, chỉ số PCI giúp lượng hóa tầm quan trọng của các thực tiễn điều hành kinh tế tốt đối với
thu hút đầu tư và tăng trưởng.
Đồng thời, PCI Nghiên cứu chỉ ra được mối tương quan giữa thực tiễn điều hành
kinh tế tốt với đánh giá của doanh nghiệp và sự cải thiện phúc lợi của địa phương.
Bên cạnh đó, PCI còn cho thấy các chính sách và sáng kiến thân thiện với doanh
nghiệp khuyến khích họ hoạt động theo hướng đem lại lợi ích cho cả chủ doanh nghiệp,
người lao động và cộng đồng thông qua tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho cả nền kinh
tế.
Các chỉ tiêu cấu thành chỉ số PCI được thiết kế theo hướng dễ hành động, đây là những chỉ
tiêu cụ thể cho phép các cán bộ công chức của tỉnh đưa ra các mục tiêu phấn đấu và theo dõi
được tiến bộ trong thực hiện. Các chỉ tiêu này cũng rất thực chất vì được doanh nghiệp nhìn
nhận là các chính sách then chốt đối với sự thành công của công việc kinh doanh.
PCI được xây dựng trên cơ sở đánh giá của các doanh nghiệp, do vậy chỉ số này sẽ phản
ánh một cách khách quan và trung thực về môi trường đầu tư và kinh doanh của địa phương.
PCI phản ánh được thực trạng điều hành kinh tế của chính quyền các tỉnh, các điểm mạnh
điểm yếu, cũng như xác định được chính quyền nào có chất lượng điều hành kinh tế tốt và
các doanh nghiệp hài lòng. Từ đó, chính quyền tỉnh sẽ nhận biết được môi trường kinh
doanh của mình hiện đang còn những yếu kém gì cần phải khắc phục để đáp ứng yêu cầu
của doanh nghiệp và tỉnh trở nên cạnh tranh hơn so với các tỉnh thành khác của Việt Nam.
Vì thế, PCI được xem là “tiếng nói” quan trọng của các doanh nghiệp dân doanh về môi
trường kinh doanh địa phương, là kênh thông tin tham khảo tin cậy về địa điểm đầu tư, là
một động lực cải cách quan trọng đối với môi trường kinh doanh cấp tỉnh.
6. Chỉ số cảm nhận tham nhũng
- Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI):
Là chỉ số được công bố hàng năm bởi Tổ chức Minh bạch Quốc tế, chỉ số CPI xếp hạng
các quốc gia, vùng lãnh thổ trên cơ sở cảm nhận về tham nhũng trong khu vực công tại các
quốc gia, vùng lãnh thổ đó. Đây là một chỉ số tổng hợp, một sự kết hợp giữa các cuộc thăm

13
dò ý kiến và đánh giá tham nhũng do các tổ chức có uy tín thu thập. CPI là chỉ số về tham
nhũng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới.
- CPI dựa trên các cuộc thăm dò:
Tham nhũng nói chung bao gồm các hoạt động bất hợp pháp, được cố tình che giấu và
chỉ được đưa ra ánh sáng khi có các vụ bê bối, điều tra hay truy tố. Vì vậy, rất khó có thể
đánh giá mức độ tuyệt đối của tham nhũng tại các quốc gia hay vùng lãnh thổ trên cơ sở các
dữ liệu “cứng” mang tính thực chứng. Những nỗ lực nhằm đánh giá tham nhũng như:
so sánh các vụ hối lộ được báo cáo, số lượng các vụ truy tố hay nghiên cứu các vụ xét xử ở
tòa án liên quan trực tiếp đến tham nhũng đều không thể coi là những chỉ số chính xác thể
hiện mức độ tham nhũng. Những số liệu này, đúng hơn, chỉ thể hiện hiệu quả hoạt động của
các công tố viên, của toà án hay giới truyền thông trong việc điều tra và phát hiện tham
nhũng. Vì vậy, xem xét cảm nhận về tham nhũng của những người ở vị trí có thể đưa ra
đánh giá về tham nhũng trong khu vực công là phương pháp đáng tin cậy nhất để so sánh
mức độ tham nhũng một cách tương đối giữa các quốc gia.
- Thực tế cho thấy, tham nhũng diễn ra ở tất cả các nước có chế độ chính trị - xã hội khác
nhau, ở cả các nước chậm phát triển, các nước đang phát triển và các nước phát triển, ở cả
nước giàu cũng như nước nghèo.
Ngày 3.12.2014, Tổ chức Minh bạch
quốc tế (TI) công bố Chỉ số nhận thức tham nhũng
khu vực công 2014 với 175 nước và lãnh thổ, theo
đó Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ và Angola là
những nước trượt sâu về tham nhũng trong dịch vụ
công năm 2014 so với năm trước đó. Đan Mạch là
nước ít tham nhũng nhất, đội sổ là Somalia,
Triều Tiên. Trong số các quốc gia ở khu vực
Đông Nam Á, Việt Nam đứng thứ 6, chỉ xếp hạng
trên Lào, Campuchia, và Myanmar. Đây là năm
thứ ba liên tiếp (2012- 2014), chỉ số cảm nhận tham nhũng của Việt Nam vẫn giữ nguyên
31/100 điểm. Hình. Chỉ số tham nhũng Eurozone (2009)

7. Chỉ số cải cách hành chính PAR INDEX
14
PAR Index là công cụ quan trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động cải cách hành
chính được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, gồm: cải cách thể chế; cải cách tổ chức bộ
máy hành chính; đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách hành
chính công và hiện đại hoá nền hành chính.
PAR Index (viết tắt tiếng Anh: Public Administration Reform Index) là công cụ quan
trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động cải cách hành chính (CCHC); sử dụng thang điểm 100
để đo lường mức độ hài lòng về cải cách hành chính.
Chỉ số cải cách hành chính được xác định là công cụ quản lý mới trong triển khai
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, khắc phục được
tính chủ quan, định tính, một chiều trong việc theo dõi, đánh giá cải cách hành chính; bảo
đảm việc theo dõi, đánh giá một cách khoa học, hệ thống, định lượng và dựa trên kết quả,
huy động sự tham gia của các tổ chức trong bộ máy nhà nước, của người dân và doanh
nghiệp vào quá trình đánh giá kết quả, tác động của cải cách hành chính một cách thực chất,
khách quan hơn, tạo cơ sở để gắn kết quả cải cách hành chính với công tác thi đua, khen
thưởng, giúp cho có được tiêu chí rõ ràng, định lượng để khen đúng những đơn vị đạt được
kết quả cao trong cải cách hành chính và giúp các đơn vị còn hạn chế có khả năng tự nhìn
nhận, đánh giá quá trình triển khai cải cách hành chính của mình để có giải pháp nhằm cải
thiện tình hình trong những năm tiếp theo.
Hình: Chỉ số cải cách hành chính ở một số cơ quan ngang Bộ
15
Đối với PAR INDEX cấp Bộ: trong 7 lĩnh vực, 31 tiêu chí và 89 tiêu chí thành phần
7 lĩnh vực gồm:
(1) Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính - 16 điểm;
(2) Xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ - 16.5
điểm;
(3) Cải cách thủ tục hành chính - 14 điểm;
(4) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước - 12.5 điểm
(5) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức, viên chức - 16.5 điểm;

(6) Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập 10.5
điểm;
(7) Hiện đại hóa hành chính - 14 điểm)
Trong đó, cụ thể ở lĩnh vực thứ 2 - lĩnh vực xây dựng và tổ chức thực hiện thể chế thuộc
phạm vi quản lý nhà nước của bộ có 6 tiêu chí và 17 tiêu chí thành phần, tỷ lệ số điểm của
lĩnh vực trong tổng số điểm chấm chiếm 16.5%. Cụ thể là với 6 tiêu chí chấm:
- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
16
- Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
- Kiểm tra việc thực hiện VBQPPL do bộ, ngành khác và địa phương ban hành có liên quan
đến chức năng quản lý nhà nước của bộ.
- Thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà
nước của bộ.
- Thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
- Chất lượng thể chế, cơ chế, chính sách thuộc phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Đối với PAR INDEX cấp tỉnh: trong 8 lĩnh vực, 8 chỉ số thành phần, 34 tiêu chí và 104 tiêu
chí thành phần.
8 lĩnh vực gồm:
(1) Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính - 14 điểm;
(2) Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh - 10 điểm;
(3) Cải cách thủ tục hành chính – 10 điểm;
(4) Cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước - 12.5 điểm;
(5) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức - 14.5 điểm;
(6) Đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập - 13
điểm;
(7) Hiện đại hóa hành chính - 12.5 điểm
(8) Thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông - 13.5 điểm
Đặc biệt, trong lĩnh vực Xây dựng và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật tại tỉnh
có 3 tiêu chí và 12 tiêu chí thành phần, tỷ lệ số điểm của lĩnh vực trong tổng số điểm chấm
chiếm 10%. Cụ thể là với 3 tiêu chí chấm:

- Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật của tỉnh.
- Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật.
- Tổ chức và kiểm tra việc thực hiện văn bản QPPL tại tỉnh.
17
Như trên, có thể thấy rằng, với thực tế cơ cấu điểm như hiện nay có thể thấy rằng
tổng số điểm cho lĩnh vực cải cách thể chế trong mối tương quan chung với tổng số điểm ở
cấp bộ và cấp tỉnh của PAR INDEX còn chưa thực sự phù hợp với mục tiêu và trọng tâm cải
cách hành chính của Chính phủ đã đề ra từ năm 2011, cần phải được tăng thêm số điểm để
khẳng định và bám sát trọng tâm hàng đầu của cải cách hành chính trong thời gian tới.
Về mặt cụ thể, cần nghiên cứu, sửa đổi ở một số tiêu chí, tiêu chí thành phần chưa
phù hợp từ thực tiễn thấy được qua 02 năm triển khai vừa qua, mặt khác, cũng cần bổ sung
các tiêu chí, tiêu chí thành phần mới để đảm bảo sự thống nhất với chỉ đạo chung của Chính
phủ về vị trí, vai trò và định hướng cho công tác cải cách thể chế trong thời gian tới, nhất là
trong xu hướng hiện nay là chuyển dần hướng trọng tâm từ xây dựng thể chế sang nâng cao
chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật (cả hoạt động tổ chức thi hành ở
cấp bộ và cấp tỉnh); đồng thời, chỉ đạo sát sao, quyết liệt hơn công tác soạn thảo và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, có biện pháp đảm bảo các cơ quan được giao hoàn thành đúng
tiến độ và nâng cao chất lượng soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhất là các
văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh đã có hiệu lực pháp
luật./.
18

×