Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KINH DOANH MÁY TÍNH THƯƠNG HIỆU VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (969.04 KB, 67 trang )


- 1 -
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH, HỘI NHẬP
QUỐC TẾ VÀ THƯƠNG HIỆU 1

1.1. Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế 1
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế 1
1.1.2. Những hàng rào thương mại áp dụng trong hội nhập 2
1.1.3. Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam 3
1.2. Lý thuyết về Lợi thế cạnh tranh quốc gia của MICHAEL PORTER 7
1.2.1. Mô hình “kim cương” 7
1.2.2. Cải thiện môi trường doanh nghiệp 10
1.2.3. Các giai đoạn tham gia cạnh tranh 11
1.2.4. Đánh giá về mô hình “kim cương” của Porter 12
1.3. Thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương hiệu 13
1.3.1. Khái niệm 13
1.3.2. Vai trò thương hiệu và giá trị tài sản thương hiệu 13
1.3.3. Đăng ký bảo hộ thương hiệu 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 18
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KINH DOANH MÁY TÍNH THƯƠNG
HIỆU VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ 19

2.1. Hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam 19
2.1.1. Thị trường máy tính Việt Nam 19
2.1.2. Hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam 24
2.2. Những ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến kinh doanh máy tính
thương hiệu Việt Nam 27
2.2.1. Thuế nhập khẩu và VAT 27
2.2.2. Sở hữu trí tuệ 28



- 2 -
2.2.3. Sự quyết tâm và gia nhập mới của các máy tính thương hiệu nước ngoài 30
2.3. Phân tích SWOT kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam 31
2.3.1. Những cơ hội 31
2.3.2. Những nguy cơ 33
2.3.3. Những điểm mạnh 34
2.3.4. Những điểm yếu 36
2.4. Kinh nghiệm phát triển của máy tính DELL 38
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 39
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN
KINH DOANH MÁY TÍNH THƯƠNG HIỆU VIỆT NAM 40

3.1. Xu hướng và dự báo thị trường máy tính Việt Nam 40
3.2. Định hướng phát triển ngành máy tính thương hiệu Việt Nam 41
3.2.1. Định hướng sản xuất - lắp ráp của ngành 41
3.2.2. Định hướng về các phần mềm kèm theo máy 43
3.2.3. Định hướng phát triển thương hiệu 44
3.3. Một số giải pháp phát triển ngành máy tính thương hiệu Việt Nam 45
3.3.1. Xác định thị trường mục tiêu và xây dựng chiến lược hợp lý 45
3.3.2. Hình thành những liên doanh trong ngành 47
3.3.3. Các giải pháp về phát triển thương hiệu 48
3.4. Các kiến nghị đối với Nhà nước 52
3.4.1. Xác định cơ quan có thẩm quyền chứng nhận máy tính thương hiệu
Việt Nam với những tiêu chí cụ thể, minh bạch 52
3.4.2. Xây dựng lộ trình cho việc thực thi các cam kết về sở hữu trí tuệ 53
3.4.3. Một số kiến nghị khác 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 55
PHẦN KẾT LUẬN 56
Tài liệu tham khảo

Phụ lục


- 3 -
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Máy tính là một thành phần cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng của ngành công nghệ
thông tin (CNTT), có vai trò quan trọng trong việc ứng dụng CNTT vào đời sống
kinh tế - xã hội và mang lại những hiệu quả có ý nghĩa to lớn.
Thị trường máy tính Việt Nam đang rất sôi động với hàng trăm nhà cung cấp
để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Ngoài máy tính thương hiệu nước
ngoài đã xây dựng được một sự nhận biết khá rộng rãi, người tiêu dùng rất bối rối
trước quá nhiều lựa chọn của những máy tính lắp ráp trong nước được cho là ngang
bằng nhau, họ chưa nhận biết được sản phẩm với thương hiệu nào sẽ mang lại chất
lượng ổn định, dịch vụ chu đáo.
Máy tính thương hiệu Việt Nam với sự cam kết về chất lượng, dịch vụ của
các doanh nghiệp Việt Nam đã hình thành từ cuối những năm 1990, qua quá trình
phát triển đã đạt được một thị phần khá khiêm tốn, ước chừng 15-20% thị trường
máy tính Việt Nam.
Với mong muốn máy tính thương hiệu Việt do những doanh nghiệp Việt
Nam có tâm huyết xây dựng sẽ phát triển vững chắc hơn, người tiêu dùng sẽ dễ
dàng ra quyết định trong việc mua sắm hơn với những máy tính Việt Nam có
thương hiệu nổi trội, tôi thực hiện đề tài “Một số giải pháp thúc đẩy phát triển
kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”
cho Luận văn cao học của mình.


2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :


- Mục đích nghiên cứu: Đề tài đặt ra mục đích là xác định hướng phát triển,
một số giải pháp để phát triển kinh doanh máy tính thương hiệu Việt trong điều kiện
ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế.

- 4 -
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích nêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu
của luận văn là nêu lên những cơ sở lý luận, phân tích đánh giá thị trường máy tính
Việt Nam, hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt, những tác động của
hội nhập, làm cơ sở cho việc định hướng, đề ra những giải pháp.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:

- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn nghiên cứu tình hình cung - cầu
máy tính ở Việt Nam trong những năm gần đây.
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài tập trung vào các doanh nghiệp làm máy tính
thương hiệu Việt, người tiêu dùng.

4. Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện đề tài, các phương pháp được áp dụng gồm:
- Phương pháp thu thập và xử lý thông tin: tiến hành thu thập thông tin, dữ
liệu từ các nguồn khác nhau như báo chí, thông tin trên mạng, các số liệu của doanh
nghiệp, các báo báo của các tổ chức chuyên ngành (IDG, Hội tin học thành phố Hố
Chí Minh,…), từ đó có sự phân tích, đánh giá tổng hợp.
- Phương pháp điều tra, thống kê: tiến hành điều tra ý kiến người tiêu dùng
về mặt hàng máy tính, đối tượng điều tra là những người đã đi làm ở thành phố Hồ
Chí Minh, đã có thời gian tiếp xúc, sử dụng với máy tính; tiến hành thống kê và xử
lý số liệu.
- Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: trực tiếp gặp gỡ, trao đổi với một số
chuyên gia trong ngành máy tính; với những cán bộ nhân viên phụ trách trực tiếp

việc kinh doanh, bảo hành, lắp ráp của một doanh nghiệp làm máy tính thương hiệu
Việt; với người sử dụng máy tính thông thường,…
- Các phương pháp khác: như phương pháp tổng hợp, phân tích, suy
diễn, logic, …




- 5 -

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:

- Tổng quát, đánh giá được tình hình cung - cầu của thị trường máy tính Việt
Nam, tình hình kinh doanh máy tính thương hiệu Việt, ….
- Phân tích những ảnh hưởng của hội nhập, phân tích SWOT của kinh doanh
máy tính thương hiệu Việt.
- Đề xuất được các định hướng và giải pháp cụ thể để phát triển kinh doanh
máy tính thương hiệu Việt.

6. Hạn chế của đề tài:

Luận văn chưa tiến hành điều tra được nhiều các doanh nghiệp làm máy tính
thương hiệu Việt để hiểu được những khó khăn, thuận lợi cụ thể của họ trong quá
trình kinh doanh; chưa điều tra đầy đủ các nhóm khách hàng là các doanh nghiệp,
các cơ quan chính phủ,… để có đánh giá tốt hơn về yêu cầu của người sử dụng đối
với mặt hàng máy tính, để có cơ sở làm cho đề tài hoàn thiện hơn.

7. Kết cấu nội dung:

Nội dung luận văn gồm có 3 phần chính với kết cấu theo 3 chương như sau:

Chương 1. Cơ sở lý luận về cạnh tranh, hội nhập quốc tế và thương hiệu
Chương 2. Đánh giá hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam và ảnh
hưởng của hội nhập quốc tế
Chương 3. Một số giải pháp thúc đẩy phát triển kinh doanh máy tính thương hiệu
Việt Nam

*****




- 6 -
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CẠNH TRANH,
HỘI NHẬP QUỐC TẾ VÀ THƯƠNG HIỆU

1.1. Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế:
1.1.1. Khái niệm và các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế:
Hội nhập kinh tế quốc tế là việc tham gia vào hệ thống thgương mại quốc tế,
thiết lập những luật lệ và nguyên tắc vượt phạm vi một quốc gia để cải thiện thương
mại kinh tế và sự hợp tác giữa các quốc gia.
Có năm mức độ hội nhập:
- Khu vực mậu dịch tự do: là một thỏa hiệp hội nhập kinh tế trong đó
những rào chắn về thương mại giữa các nước thành viên được tháo dỡ. Mỗi thành
viên tham gia sẽ kiếm lợi trong việc chuyên về sản xuất những hàng hóa và dịch vụ
mà họ có những thuận lợi tương đối và nhập những hàng hóa và dịch vụ mà họ
không có những ưu điểm.
- Liên minh thuế quan: là một hình thức hội nhập kinh tế mà trong đó tất cả
những thuế quan giữa những nước thành viên đều được bỏ đi, chính sách thương
mại chung đối với những nước không thành viên được thực hiện. Các nước bên
ngoài liên minh sẽ phải đương đầu với hàng rào thuế quan giống nhau đối với việc

xuất khẩu cho bất cứ thành viên nào trong nhóm.
- Thị trường chung: là một hình thức hội nhập mang các đặc tính:
• Không có hàng rào thương mại giữa các thành viên
• Một chính sách thương mại chung đối với những nước bên ngoài
• Tính chuyển động của những yếu tố sản xuất giữa các nước thành viên
Một thị trường chung cho phép xác định thực những tiềm lực của sản xuất
như vốn, lao động, kỹ thuật dựa trên cơ sở lý thuyết của những lợi thế tương đối.
- Liên minh kinh tế: là một hình thức sâu hơn của hội nhập kinh tế có đặc
tính là việc di chuyển hàng hóa, dịch vụ và những yếu tố sản xuất giữa các nước
thành viên và một sự hội nhập đầy đủ về chính sách kinh tế.
- Liên minh chính trị: thường có từ những sự hội nhập kinh tế đầy đủ, trong
đó tất cả các chính sách kinh tế đều giống hệt nhau và có một chính phủ đơn nhất.

- 7 -
Điều này cho phép một sự hội nhập toàn diện, xảy ra khi các nước thành viên từ bỏ
những quyền lực quốc gia thông qua việc lãnh đạo của một chính quyền duy nhất.
Một điển hình thành công là nước Mỹ, họ đã liên kết các bang độc lập thành một
liên hiệp chính trị.
Một số vấn đề cần được xem xét khi hội nhập:
Thứ nhất, một quốc gia sẽ chọn mức độ hội nhập kinh tế thích ứng trên cơ sở
những nhu cầu về kinh tế và chính trị, chứ không cần thiết phải trải quaWSQW tuần
tự các hình thức từ việc tham gia một khu vực thương mại tự do, đến liên minh thuế
quan, tiến dần lên thị trường chung hay một liên minh kinh tế.
Thứ hai, sự hội nhập kinh tế trong hình thức thương mại tự do đưa đến kết
quả đặc trưng là việc thành công cho tất cả các thành viên trong khối, khi mà mỗi
thành viên có thể chuyên môn hóa về những hàng hóa và dịch vụ mà họ làm ra hiệu
quả nhất và trông cậy vào các thành viên khác trong khối để cung cấp các hàng hóa
còn lại. Sự cạnh tranh gia tăng giữa các nước thành viên trong khối sẽ mang đến kết
quả sản xuất hiệu quả, giá cả thấp hơn và xuất khẩu qua các nước không thành viên
sẽ tăng lên.

Ba là, việc kinh doanh của những nước thành viên có thể đạt được những
thuận lợi về kinh tế nội bộ và những thuận lợi về kinh tế ở ngoài nước do có thể tiếp
cận với những nguồn tài nguyên trong các nước thành viên để nâng cao hiệu quả
kinh doanh của mình.
Thứ tư, về ngắn hạn, vài nước trong khối sẽ chịu tổn thất vì những nước
thành viên khác có khả năng đạt được hiệu quả cao hơn và sẽ thống trị nhiều ngành
công nghiệp và thị trường nào đó. Điều này dẫn đến một giai đoạn hiệu chỉnh khi
mà các nước nghèo trong khối tiến đến cải thiện kỹ thuật của họ, huấn luyện nguồn
lao động của họ, và định hướng lại nền kinh tế của họ hướng đến những thị trường
nơi mà họ có thể giành được và duy trì những ưu điểm của họ đối với các nước
thành viên trong khối.
1.1.2. Những hàng rào thương mại áp dụng trong hội nhập:
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu nhưng không vì thế mà các
quốc gia mở cửa hoàn toàn nền kinh tế của mình để đón nhận hàng hóa và dịch vụ

- 8 -
từ các quốc gia khác xâm nhập vào. Trong quá trình hội nhập, tùy vào đặc điểm của
từng nền kinh tế mà các nước áp dụng một số hàng rào thương mại để bảo vệ nền
kinh tế trong nước, khuyến khích sản xuất trong nước.
- Thuế: Những hàng hóa nhập khẩu sẽ bị đánh thuế nhập khẩu, thường dựa
trên giá trị hàng hóa. Thuế làm tăng nguồn thu cho chính phủ, hạn chế nhập khẩu và
làm hàng hóa trong nước hấp dẫn hơn.
- Giới hạn số lượng: Giới hạn số lượng hay còn gọi là hạn ngạch, để hạn chế
số lượng có thể nhập khẩu hay thị phần được cho phép. Nếu hạn ngạch bằng không
gọi là cấm vận.
- Cố định giá quốc tế: Trong một số trường hợp nhiều công ty quốc tế sẽ cố
định giá hoặc số lượng bán bằng nỗ lực kiểm soát giá, cho phép các nhà cạnh tranh
liên hiệp lại với mục đích thích ứng với sự cạnh tranh quốc tế.
- Những hàng rào phi thuế quan: Là những quy định, luật lệ, sự quan liêu
làm chậm trễ hoặc cản trở việc mua bán hàng hóa nước ngoài. Một số hình thức cụ

thể như tiến trình chậm chạp của việc cho phép nhập khẩu, xây dựng những tiêu
chuẩn chất lượng nhằm loại trừ nhà sản xuất nước ngoài, chính sách mua trong
nước,…. Những hàng rào này giới hạn nhập khẩu và bảo vệ hoạt động bán hàng nội
địa.
- Giới hạn tài chính: Một số cách phổ biến nhất là những kiểm soát ngoại
tệ, hạn chế sự dịch chuyển tiền tệ, sử dụng tỷ giá hối đoái theo cách có lợi cho quốc
gia,…
- Kiểm soát đầu tư nước ngoài: Là những giới hạn về đầu tư trực tiếp của
nước ngoài, sự chuyển đổi hoặc chuyển tiền, bao gồm các hình thức: quy định một
số ngành chỉ cho phép đầu tư trong nước, quy định những nhà đầu tư nước ngoài
chỉ được giữ một tỷ lệ nhất định trong vốn sở hữu, giới hạn sự chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài, cấm trả tiền bản quyền cho công ty mẹ nhằm ngăn chặn sự kiệt quệ về
vốn sau này.
Những hàng rào này có thể giới hạn nhiều hoạt động thương mại và đầu tư
quốc tế và chúng được áp dụng ngày càng tinh vi.
1.1.3. Cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam:

- 9 -
Việt Nam đã và đang hội nhập vào nền kinh tế thế giới, từng bước ký kết các
hiệp định thương mại song phương, khu vực và đa phương. Đến nay, Việt Nam đã
là thành viên của Tổ chức khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và của Diễn
đàn kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), đã ký hiệp định song phương với
Mỹ, chuẩn bị gia nhập Tổ chức thương mại thế giới. Các quan hệ thương mại với
Nhật Bản, EU, Nga, Trung Quốc,… tiếp tục được mở rộng.
Là một nước đang phát triển tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam sẽ
có thêm nhiều cơ hội để phát triển, cụ thể là:
- Tạo khả năng mở rộng thị trường ra nước ngoài trên cơ sở các hiệp định
thương mại đã ký kết với các nước, trong khu vực và toàn cầu. Khi gia nhập WTO,
nước ta sẽ được hưởng những ưu đãi dành cho nước đang phát triển theo qui chế tối
huệ quốc trong quan hệ với tất cả các nước thành viên của tổ chức này, nhờ thế

hàng hóa của ta sẽ xuất khẩu vào các nước này sẽ dễ dàng hơn.
- Có cơ hội mở rộng thu hút các nguồn vốn từ nước ngoài. Tham gia hội
nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị trường nước ta được mở rộng, kéo theo cơ hội
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để thúc đẩy các doanh nghiệp
trong nước huy động và sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
- Tranh thủ được kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước đi trước để
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật cho
công cuộc xây dựng đất nước. Thông qua thị trường trong nước được mở rộng, các
kỹ thuật, công nghệ mới có điều kiện du nhập vào, tạo cơ hội để chúng ta lựa chọn
kỹ thuật – công nghệ phù hợp nhằm phát triển năng lực kỹ thuật, công nghệ quốc
gia. Trong cạnh tranh quốc tế, công nghệ này có thể là cũ đối với các nước phát
triển nhưng lại là mới và hiệu quả đối với một nước đang phát triển như Việt Nam.
- Tạo cơ hội mở rộng giao lưu các nguồn lực của nước ta với các nước.
Hội nhập kinh tế quốc tế tạo cơ hội để nguồn nhân lực nước ta khai thông với các
nước. Chúng ta có thể xuất khẩu lao động, đồng thời nhập khẩu lao động kỹ thuật
cao, các công nghệ mới, các phát minh sáng chế mà ta chưa có.
Bên cạnh những cơ hội trên, hội nhập kinh tế quốc tế cũng đặt nước ta trước
những khó khăn và thách thức nhất định.

- 10 -
- Việt Nam trở thành thị trường tiêu thụ hàng nước ngoài. Hội nhập kinh
tế quốc tế cho phép mở rộng thị trường nhưng khả năng mở rộng thị trường hàng
hóa của nước ta ra khu vực và thế giới còn hạn chế và phải đối đầu, cạnh tranh gay
gắt với các nước có trình độ phát triển cao hơn, đặc biệt là các nước ASEAN và
Trung Quốc. Những sản phẩm hàng hóa của ta phần lớn đồng dạng với các quốc gia
này. Phải thừa nhận rằng, trong hội nhập hàng hóa của Việt Nam rất khó mở rộng
chiếm lĩnh được thị trường mà ngược lại chúng ta trở thành thị trường tiêu thụ hàng
hóa của các nước.
Tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, chúng ta chấp nhận tư cách thành
viên cạnh tranh ngang bằng với các nước khác trong khi khả năng cạnh tranh của

nước ta còn hạn chế. Theo đánh giá mới nhất của Diễn đàn kinh tế thế giới, năng
lực cạnh tranh của Việt Nam đã tụt xuống 17 hạng: từ vị trí 60/102 năm 2003 tụt
xuống hàng 77/104 năm 2004. Sự tụt hàng này diễn ra trong cả ba lĩnh vực chính
dùng làm tiêu chí xếp hạng là chất lượng môi trường kinh tế vĩ mô, tình trạng của
các định chế quốc gia và sự sẵn sàng tiếp cận công nghệ cao.
- Thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng giảm. Hội nhập kinh tế quốc tế mở
ra nhiều cơ hội cho thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Cạnh tranh thu hút đầu tư
nước ngoài đang diễn ra quyết liệt giữa các nước trong khu vực và thế giới. Thu hút
đầu tư nước ngoài của Việt Nam không cao và xu hướng giảm vì các nước trong
khu vực Đông Nam Á có một số mặt lợi thế hơn ta. Khi hàng rào thuế quan của các
nước ASEAN bị bãi bỏ, các công ty đa quốc gia sẽ tập trung sản xuất tại những
nước có phí tổn thấp trong khu vực AFTA. Thách thức của Việt Nam là làm sao giữ
được các cơ sở hiện có của các công ty đa quốc gia và tạo cơ hội để các công ty đa
quốc gia đầu tư vào nước ta.
- Việt Nam trở thành bãi thải công nghệ. Thực tiễn trong khu vực thu hút
đầu tư FDI của nhiều nước trên thế giới cho thấy các nhà đầu tư nước ngoài chỉ
chuyển sang các nước nhận đầu tư các máy móc thiết bị và công nghệ thứ hai và thứ
ba. Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, đang lo ngại bị biến thành bãi
thải công nghệ cho các nước phát triển, đặc biệt là những thiết bị đã qua sử dụng.

- 11 -
Một nghiên cứu mới đây về chất lượng công nghệ chuyển giao vào Việt Nam
cho thấy, trên 727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu trong 42 xí nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài thì có 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 1950 – 1960,
50% là các máy móc đã qua sử dụng. Những con số này thể hiện chất lượng thấp
của công nghệ nhập khẩu. Mặt bằng chung về trình độ công nghệ và trang thiết bị
của Việt Nam lạc hậu từ 2-3 thế hệ so với các nước công nghiệp phát triển, tỷ lệ
trang thiết bị kỹ thuật cũ, công nghệ lạc hậu và trung bình chiếm 60-70%.
- Chảy máu chất xám. Cán bộ khoa học kỹ thuật chạy từ cơ quan nhà nước
sang các công ty nước ngoài, các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi là nguồn tuyển dụng

của các công ty nước ngoài, trí thức Việt kiều không về nước làm việc, học sinh đi
học nước ngoài không về nước mà ở lại làm việc nước sở tại. Hiện tượng chảy máu
chất xám là rõ ràng do cơ chế chính sách còn nhiều bất cập về lương, điều kiện làm
việc, cơ chế hành chính trói buộc, đòi hỏi khoa học đáp ứng ngay yêu cầu của thực
tiễn,… Trong khi các công ty nước ngoài tại Việt Nam đã đa dạng hóa phương thức
thu hút nhân tài.
- Cơ cấu kinh tế không hợp lý. Các công ty đa quốc gia phát triển mạnh định
ra chiến lược phát triển kinh tế toàn cầu, hình thành hệ thống phân công lao động
kiểu mới theo chiều hướng là các nước công nghiệp phát triển sẽ chiếm giữ quyền
độc tôn sản xuất và làm chủ các sản phẩm công nghệ kỹ thuật cao, các nước đang
phát triển sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều lao động, giá trị thấp, tốn nhiều
nhiên liệu, khai thác tài nguyên.

Ngành (%) 1990 1995 2000 2004
Nông, lâm nhiệp – thủy sản 38.7 27.2 24.5 21.8
Công nghiệp – xây dựng 22.7 28.7 36.7 40.1
Dịch vụ 18.6 40.3 38.7 32.2
Bảng 1. Cơ cấu ngành qua các năm (1990 – 2004)
Nguồn: Kinh tế 2004 -2005, Việt Nam & Thế Giới (Thời báo kinh tế Việt Nam)
Tỷ trọng dịch vụ trong GDP giảm liên tục, các ngành dịch vụ có tính chất
động lực như giáo dục, khoa học công nghệ, tài chính tín dụng có tỷ trọng thấp.

- 12 -
Ngành công nghiệp của ta chủ yếu là gia công, thiếu sự phát triển các ngành công
nghiêp hỗ trợ và liên quan, các ngành sản xuất tư liệu sản xuất.
Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này làm cho nền kinh tế nước ta tăng trưởng
không hiệu quả, kém bền vững, chất lượng tăng trưởng thấp, khoảng cách giữa
nước ta và các nước ngày càng rộng ra. Bài học quan trọng là phải xây dựng được
một cơ cấu kinh tế hợp lý, một cơ cấu kinh tế phải tự sản xuất các tư liệu sản xuất
cung cấp cho toàn bộ nền kinh tế.

- Chấp nhận những chấn động có thể xảy ra trong hệ thống kinh tế toàn
cầu. Khi đấy, nếu năng lực quản lý kinh tế vĩ mô kém, hệ thống tài chính – ngân
hàng không hiệu quả, tệ tham nhũng và quan liêu hoành hành, không phòng vệ tích
cực thì nền kinh tế khó tránh khỏi sự đổ vỡ, khủng hoảng. Đây là một thách thức
lớn đối với ta.
Ngoài ra, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế còn có thể gặp phải các thách
thức khác do tác động tiêu cực của thị trường từ nước ngoài dội vào, sự xung đột
giữa các nền văn hóa,…
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu của thời đại. Nhưng không vì
thế mà chúng ta thúc ép mở cửa thị trường một cách vội vã, bởi hệ quả sẽ là sự phá
hoại quá trình công nghiệp hóa củac các nước đang phát triển do các ngành công
nghiệp thay thế nhập khẩu bị sụp đổ trong cuộc cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa
của các nước phát triển. Chúng ta cần có sự chuẩn bị đầy đủ, tiến trình hội nhập
thích hợp để tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tránh những tác động tiêu cực
nêu trên, tạo ra những cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao và
bền vững.
1.2. Lý thuyết về Lợi thế cạnh tranh quốc gia của MICHAEL PORTER:
Lý luận lợi thế cạnh tranh quốc gia của Porter ra đời năm 1990. Khi thiết lập
cơ sở cho lý luận này, Porter muốn mô tả tính đa dạng phong phú và sự phức tạp
của toàn bộ thế giới cạnh tranh hiện thực. Ông đã đi sâu nghiên cứu cơ sở kinh tế vi
mô - hoạt động của ngành, của các doanh nghiệp - do đó lý luận lợi thế cạnh tranh
quốc gia của ông có tính thực tế và được ứng dụng ở nhiều quốc gia.


- 13 -
1.2.1. Mô hình “kim cương”:
Mô hình “kim cương” của Porter đặt trên cơ sở bốn yếu tố xác định và hai
yếu tố biến thiên bên ngoài. Những yếu tố xác định bao gồm: điều kiện thâm dụng,
điều kiện nhu cầu, các ngành công nghiệp liên kết và hỗ trợ, và môi trường mà công
ty cạnh tranh.

1.2.1.1. Nhóm yếu tố thâm dụng: bao gồm,
- Số lượng, kỹ năng và những chi phí về nhân lực
- Sự phong phú, chất lượng và chi phí của những nguồn vật chất của quốc gia
như đất đai, nước, chất quặng mỏ, nguồn năng lượng thủy điện,….
- Vốn kiến thức của quốc gia bao gồm nền khoa học kỹ thuật, những am hiểu
thị trường ảnh hưởng đến chất lượng và số lượng hàng hóa và dịch vụ
- Số lượng và chi phí về vốn có sẵn đối với ngành công nghiệp tài chính
- Chủng loại, chất lượng và chi phí sử dụng các cơ sở hạ tầng, bao gồm hệ
thống giao thông vận chuyển quốc gia, hệ thống truyền thông, hệ thống chăm sóc
sức khỏe, và những yếu tố khác tác động trực tiếp đến chất lượng cuộc sống trong
nước.
Việc đạt được lợi thế cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng sử dụng một hoặc
vài yếu tố thâm dụng. Để cải tiến sản phẩm, công ty phải thường tiếp cận những
người có những kỹ năng cần thiết, những nhà cạnh tranh trong nước là những người
tạo áp lực cạnh tranh, tiếp cận khách hàng là những người muốn sản phẩm tốt hơn
hay rẻ hơn, và cả những nhà cung cấp là người gợi ý và cung cấp nguyên vật liệu
với giá thấp. Điều cần thiết cho một công ty gắn bó với ngành và để ra quyết định là
tìm ra phương cách giải quyết vấn đề thông qua những nổ lực đổi mới hơn là tìm
cách dễ nhất liên quan với những bất lợi.
1.2.1.2. Những điều kiện về nhu cầu: bao gồm,
- Sự cấu thành của các nhu cầu tại thị trường địa phương mà nó phản ánh bởi
các khía cạnh thị trường, tính chất tinh vi và nhu cầu của người mua tại thị trường
địa phương tốt như thế nào đối với những người mua khác tại thị trường nước khác
- Kích cỡ và mức phát triển về nhu cầu tại một nước

- 14 -
- Những cách làm cho nhu cầu nội địa được quốc tế hóa và đưa những sản
phẩm và dịch vụ ra nước ngoài
Porter cho rằng lợi thế cạnh tranh của một quốc gia sẽ mạnh hơn nếu có sự
gia tăng nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ. Việc hiểu nhu cầu người tiêu dùng cung

cấp cho người bán nhiều lợi ích. Nhu cầu giúp người bán hiểu những gì người mua
cần. Hơn nữa, khi những thay đổi trở nên cần thiết như nhu cầu của khách hàng
muốn sản phẩm nhỏ hơn hay tiết kiệm nhiên liệu hơn, những người bán địa phương
sẽ biết được và có thể cải tiến hoặc điều chỉnh cho phù hợp với thị trường trước khi
những nhà cạnh tranh ở xa có thể phản ứng.
1.2.1.3. Các ngành công nghiệp liên kết và hỗ trợ: bao gồm,
- Sự hiện diện của các ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế tạo nên sự ưu
việt trong các ngành công nghiệp hiệu quả hơn, tiến nhanh đến chi phí sản xuất hiệu
quả
- Những ngành công nghiệp liên quan mang tính cạnh tranh quốc tế có thể
phối hợp và chia sẻ các hoạt động trong chuỗi mắc xích khi nó cạnh tranh
Đây là những ngành công nghiệp dịch vụ chủ yếu. Khi nhà cung cấp ở gần
nhà sản xuất, những công ty này thường cung cấp nguyên vật liệu với chi phí thấp
mà những nhà cạnh tranh ở xa không có được. Hơn nữa, nhà cung cấp biết những gì
xảy ra trong môi trường công nghiệp để dự đoán và phản ứng với những thay đổi.
Bằng việc chia sẻ những thông tin này với nhà sản xuất, họ giúp nhà sản xuất duy
trì vị trí cạnh tranh.
1.2.1.4. Tổ chức, chiến lược công ty và sự cạnh tranh: bao gồm,
- Những cách để điều hành xí nghiệp và được chọn để cạnh tranh
- Những mục tiêu mà các công ty cũng như những nhân viên và các nhà quản
lý tìm kiếm để đạt được
- Những kình địch cạnh tranh nội địa và những sáng tạo và sự bền bỉ về
những ưu thế cạnh tranh trong từng ngành công nghiệp
Đây là hoàn cảnh mà công ty sáng tạo, tổ chức và quản trị cũng như bản chất
của sự cạnh tranh nội bộ. Không có một hệ thống quản lý nào là thích hợp cho tất
cả. Các quốc gia có khuynh hướng điều hành tốt các ngành công nghiệp là những

- 15 -
ngành mà sự thực hành quản lý môi trường quốc gia thuận lợi phù hợp với các
nguồn lực công nghiệp của lợi thế cạnh tranh. Ví dụ, ở Đức có khuynh hướng tổ

chức theo cấp bậc và chú trọng đến kỹ thuật làm hài lòng. Các ngành điện quang,
hóa chất và máy móc phức tạp là các ngành yêu cầu kỹ thuật sản xuất chính xác,
một tiến trình phát triển thận trọng, dịch vụ hậu mãi và một cơ cấu tổ chức có tính
kỷ luật cao.
Một yếu tố quan trọng là sự cạnh tranh trong nước. Cạnh tranh trong nước và
lợi thế cạnh tranh có mối liên hệ với nhau. Những quốc gia đứng đầu thế giới
thường có nhiều nhà cạnh tranh địa phương mạnh. Theo Porter, cạnh tranh trong
nước càng quyết liệt thì cạnh tranh quốc tế càng thành công. Sự thành công của
cạnh tranh toàn cầu là kết quả của sức cạnh tranh mạnh mẽ trong nước dưới áp lực
của các công ty trong việc cải tiến và đổi mới.
Tuy nhiên, hai yếu tố khác là những cơ hội, vận may rủi và chính phủ cũng
đóng vai trò quan trọng.
- Cơ hội và vận may rủi: những sự kiện về vận may rủi có thể xóa bỏ những
ưu thế của một số nhà cạnh tranh ở những vị thế cạnh tranh tổng thể bởi những phát
triển như những phát minh mới, những quyết định về chính trị của các chính phủ
nước ngoài, các cuộc chiến tranh, các thay đổi quan trọng trong các thị trường tài
chính thế giới hay tỉ giá hối đoái, việc ngưng trệ về chi phí đầu vào như các cú sốc
về dầu lửa, làn sóng nhu cầu trong khu vực và thế giới tăng lên, và những đột phá
về công nghệ trọng yếu.
- Vai trò của chính phủ: chính phủ có thể tác động đến tất cả bốn yếu tố xác
định qua các hành vi như trợ cấp, chính sách giáo dục, các quy định hay bãi bỏ các
quy định trong thị trường vốn, thành lập các tiêu chuẩn và quy định về sản phẩm địa
phương, mua các hàng hóa và dịch vụ, các luật thuế, và các quy định về chống độc
quyền.
Mỗi yếu tố xác định ảnh hưởng đến các yếu tố xác định khác và tất cả đến
lượt mình bị ảnh hưởng bởi vai trò của chính phủ và các vận may rủi.



- 16 -

1.2.2. Cải thiện môi trường doanh nghiệp:
Theo Porter, khái niệm tập hợp ngành là rất quan trọng và cần phải cải thiện
môi trường doanh nghiệp bằng cách tổ chức chúng lại theo ngành. Tập hợp ngành là
đặc trưng của những ngành có lợi thế cạnh tranh quốc tế.
Tập hợp ngành là một phương thức của hoạt động kinh tế, vừa là công cụ đẩy
mạnh cải cách kinh tế. Khái niệm tập hợp ngành chú trọng vào năng suất và quan hệ
giữa các công ty. Tập hợp ngành gắn kết chính phủ, công ty, các hãng cung ứng và
các thể chế địa phương với nhau quanh chương trình nghị sự chung có tính khả thi.
Biểu hiện chủ yếu của lợi thế cạnh tranh trong hình thức tổ chức ngành ở một số
điểm sau:
Thứ nhất, tồn tại hiệu ứng ngoại vi. Trong một vùng có nhiều công ty, các
công ty có quy mô không lớn, nhưng giữa chúng thực hiện sự phân công hợp tác ở
trình độ cao, do đó năng suất cao, sản phẩm không ngừng được tiêu thụ trên thị
trường nước ngoài. Cho nên, toàn bộ vùng tập hợp ngành có được lợi tức quy mô
ngoại vi.
Thứ hai, tiết kiệm được chi phí giao dịch, bao gồm chi phí vận tải, chi phí
thông tin, chi phí đàm phán,… Các công ty trong tập hợp ngành gần nhau về địa lý
dễ xây dựng lòng tin với nhau, dễ tìm kiếm nhân tài, có điều kiện thu thập thông tin,
do đó giảm được các khoản chi phí.
Thứ ba, hiệu ứng sáng tạo và học tập lan toả nhanh. Tập hợp ngành là cái nôi
đào tạo, huấn luyện để nâng cao trình độ nhân lực cho công ty. Các công ty ở gần
nhau, sức ép cạnh tranh mạnh mẽ, nhu cầu khắt khe của khách hàng nơi sở tại thúc
đẩy các công ty phải đổi mới công nghệ và trình độ quản lý. Đổi mới và sáng tạo ở
công ty này dễ lan tỏa sang các công ty khác. Hiệu ứng sáng tạo là nguyên nhân
quan trọng khiến tập hợp ngành có lợi thế cạnh tranh. Ngoài ra tập hợp ngành cũng
kích thích việc bồi dưỡng nhân tài cho các công ty mới.
Thứ tư, hiệu ứng thương hiệu hàng hóa và quảng cáo. Do ảnh hưởng tập hợp
ngành lan rộng, làm cho người tiêu dùng có ấn tượng tốt về nhãn hiệu hàng hoá,
làm tăng nhu cầu của khách hàng về loại hàng hóa có uy tín. Đôi khi ấn tượng này


- 17 -
lan tỏa sang những hàng hóa bổ trợ khác của công ty khác, do đó hình thành nên
nhóm công ty có lợi thế cạnh tranh.
1.2.3. Các giai đoạn tham gia cạnh tranh:
Porter cho rằng, quá trình tham gia cạnh tranh quốc tế ở các ngành trải qua 4
giai đoạn.
- Giai đoạn chạy đua các yếu tố sản xuất: Ở giai đoạn này, hầu như mọi
ngành có lợi thế cạnh tranh quốc tế đều được lợi từ những yếu tố sản xuất cơ bản
nào đấy. Tại các nước này, các công ty tham gia cạnh tranh quốc tế chỉ có thể giành
phần thắng nhờ giá rẻ. Ở giai đoạn này, các ngành tham gia cạnh tranh quốc tế rất
nhạy cảm với tính chu kỳ của nền kinh tế thế giới vì những yếu tố này ảnh hưởng
trực tiếp đến giá cả và nhu cầu tiêu dùng hàng hóa. Nền kinh tế ở giai đoạn chạy
đua các yếu tố sản xuất không thể tạo ra lực lượng sản xuất bảo đảm cho tăng
trưởng liên tục.
- Giai đoạn chạy đua đầu tư: Ở giai đoạn này, các công ty có được công
nghệ cao của nước ngoài bằng cách mua bản quyền phát minh sáng chế, góp vốn
liên doanh hoặc bằng nhiều hình thức khác. Các công ty không chỉ sử dụng công
nghệ của nước ngoài mà còn cải tiến công nghệ đó cho phù hợp với điều kiện sản
xuất trong nước. Lợi thế chủ yếu trong giai đoạn này là nguyện vọng và năng lực
đầu tư, chứ không phải là cung cấp cho thị trường loại sản phẩm nào hoặc sử dụng
công nghệ sản xuất sản phẩm nào. Các công ty vẫn tiến hành cạnh tranh trên thị
trường đã được tiêu chuẩn hóa, nhạy cảm với giá cả, trình độ công nghệ tiên tiến,
nhưng chưa phải là tiên tiến nhất, sản phẩm sản xuất ra lạc hậu so với sản phẩm
cùng loại tiên tiến nhất một thế hệ.
- Giai đoạn chạy đua sáng tạo: Các công ty bản địa không chỉ sử dụng
công nghệ nhập khẩu mà phải cải tiến, sáng tạo ra công nghệ mới. Đặc điểm nổi bật
của giai đoạn này là các ngành dịch vụ cao cấp và công nghệ cao thu được lợi
nhuận rất cao và chiếm vị thế độc quyền. Chính phủ sẽ phát huy vai trò gián tiếp
như khuyến khích sáng tạo các yếu tố sản xuất cao cấp, cải thiện chất lượng nhu cầu
trong nước, kích thích việc hình thành ngành mới, giữ vững cạnh tranh trong nước.


- 18 -
- Giai đoạn chạy đua của cải: Sức cạnh tranh ngành đã giảm, cuộc chạy đua
lúc này là tích lũy của cải đã làm ra. Các công ty mất dần lợi thế cạnh tranh. Hiện
tượng thôn tính, sát nhập giữa các công ty diễn ra rộng khắp là dấu hiệu chuyển
sang giai đoạn chạy đua của cải. Về khía cạnh xã hội, thời kỳ này xã hội suy thoái,
tỷ lệ thất nghiệp tăng, mức sống của người dân giảm.
1.2.4. Đánh giá về mô hình “kim cương” của Porter:
Lý luận về lợi thế cạnh tranh quốc gia của Porter được nhiều nhà nghiên cứu,
nhiều quốc gia đặc biệt quan tâm vì những lý do sau:
- Lý luận này thích nghi được với đòi hỏi của thời đại, ra đời vào lúc mọi
quốc gia trên thế giới đều tham gia vào cạnh tranh quốc tế. Trong thế giới ngày nay,
hàng rào thương mại đã giảm đi rõ rệt, thị trường thế giới được mở rộng, ngày càng
có nhiều quốc gia đi theo con đường phát triển kinh tế thị trường, các nước đang tìm
con đường phát triển phù hợp với mình. Trong bối cảnh đó, quan điểm cạnh tranh
của Porter đã cung cấp khuôn khổ lý luận khả thi, tạo tiền đề cho các quốc gia nâng
cao khả năng cạnh tranh.
- Lý luận của Porter chẳng những lấp đi những khoảng trống trong lĩnh vực
nghiên cứu kinh tế vi mô của cạnh tranh mà còn chỉ ra cho chính phủ những biện
pháp cần thực thi để ổn định và điều chỉnh kinh tế vĩ mô, tạo môi trường cạnh tranh
cho các công ty.
- Lý luận của Porter chỉ ra con đường khắc phục sự bất bình đẳng giữa các
công ty và chính phủ trong hoạt động cạnh tranh. Theo ông, nhà nước không nên
can thiệp sâu vào các hoạt động cạnh tranh cụ thể, không nên chiếu cố đặc biệt với
riêng ngành nào; nhà nước nên khuyến khích sáng tạo, cải tạo môi trường cho
doanh nghiệp hoạt động để có thể nâng cao năng suất. Nâng cao năng suất là mục
tiêu quan trọng nhất vì vừa khai thác được thị trường vừa đạt được phồn vinh về
kinh tế.
1.3. Thương hiệu và đăng ký bảo hộ thương hiệu:
1.3.1. Khái niệm:

Hiệp hội marketing Hoa Kỳ đã định nghĩa: “Thương hiệu là tên gọi, biểu
tượng, dấu hiệu, kiểu dáng hoặc sự phối hợp tất cả các yếu tố này để có thể nhận

- 19 -
biết hàng hóa hoặc dịch vụ của một người bán cũng như phân biệt nó với hàng hóa
hay dịch vụ của những người bán khác”.
1.3.2. Vai trò thương hiệu và giá trị tài sản thương hiệu:
1.3.2.1. Vai trò của thương hiệu đối với người tiêu dùng:
Thương hiệu ngày càng có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định mua
của người tiêu dùng.
Thứ nhất, thương hiệu giúp người tiêu dùng ra quyết định mua hàng nhanh
chóng, đơn giản hơn. Các thương hiệu giúp người mua nhận biết những sản phẩm
cụ thể, giúp họ dễ dàng mua những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của
họ, giảm thời gian cần thiết cho việc cân nhắc, lựa chọn sản phẩm. Nhiều người tiêu
dùng không thể phân tích và so sánh các sản phẩm cạnh tranh cùng loại trên cơ sở
các đặc điểm vật chất nếu không có nhãn hiệu/ thương hiệu gắn liền với sản phẩm.
Thứ hai, thương hiệu giúp khách hàng biểu đạt lối sống, địa vị xã hội của
mình. Việc mua các sản phẩm với thương hiệu nhất định còn có thể là một hình
thức tự khẳng định hình ảnh của người sử dụng. Mỗi thương hiệu không chỉ đặc
trưng cho những tính năng, giá trị sử dụng của sản phẩm mà còn mang trên nó cả
một nền tảng tượng trưng cho một dòng sản phẩm cung ứng cho những người có địa
vị xã hội. Ví dụ, người ta đi xe @, Dylan, hay Spacy không chỉ vì nó là chiếc xe
máy mà còn vì mong muốn biểu đạt thu nhập, cách sống hay muốn người khác
ngưỡng mộ mình.
Tuy nhiên, thương hiệu có tác động đến người mua khác nhau giữa các loại
sản phẩm và giữa các nhóm người mua. Một số khách hàng có thu nhập thấp, trình
độ văn hóa thấp sẽ có hành vi mua theo tiêu chuẩn giá cả nên vai trò thương hiệu ít
ảnh hưởng đến sự lựa chọn của họ. Những nhóm khách hàng có thu nhập cao, trình
độ văn hóa cao có hành vi mua theo tiêu chuẩn giá trị thì thương hiệu chi phối lớn
đến sự lựa chọn của họ. Ví dụ, tên thương hiệu quần áo có thể quan trọng đối với

thanh niên thành phố nhưng lại không có ý nghĩa gì đối với người nông dân.
Thương hiệu không chỉ quan trọng đối với thị trường hàng tiêu dùng cá nhân,
chúng cũng là trọng tâm của thị trường công nghiệp, dịch vụ. Đối với khách hàng tổ

- 20 -
chức, thương hiệu cũng là tiêu chuẩn quan trọng và là cơ sở chủ yếu để họ đánh giá,
lựa chọn nhà cung cấp.
1.3.2.2. Vai trò của thương hiệu đối với doanh nghiệp:

Các thương hiệu thành công tạo ra tài sản cho doanh nghiệp nhờ thu hút và
giữ được khách hàng trung thành. Khi một doanh nghiệp tạo ra được khách hàng
trung thành, họ có thể đạt được thị phần lớn, duy trì mức giá cao, đạt doanh thu và
lợi nhuận cao. Trong thế giới hàng hóa đa dạng và phong phú ngày nay, nhiều
người tiêu dùng sẽ chỉ chú ý lựa chọn những thương hiệu sản phẩm nổi tiếng, quen
thuộc và phù hợp với họ mà thôi.
Gắn thương hiệu giúp người bán phát triển các khách hàng trung thành nhờ
việc tạo nên việc mua lặp lại dễ dàng của khách hàng và thể hiện rằng công ty đứng
đằng sau các sản phẩm của họ. Các thương hiệu của các sản phẩm hiện tại đã đạt
được hình ảnh chất lượng sản phẩm cao có thể được doanh nghiệp sử dụng để giới
thiệu sản phẩm mới vì người tiêu dùng đã quen thuộc với nó. Gắn thương hiệu cho
sản phẩm cũng làm thuận lợi cho các hoạt động xúc tiến quảng bá vì khi quảng bá
cho một thương hiệu sẽ gián tiếp quảng bá cho tất cả các sản phẩm đã gắn thương
hiệu tương tự khác. Nhờ người mua trung thành với một thương hiệu cụ thể, thị
phần của công ty sẽ đạt được một mức chắn chắn nhất định, cho phép các công ty
sử dụng các nguồn lực của nó hiệu quả hơn. Một khi công ty đã phát triển được một
mức độ trung thành của khách hàng đối với thương hiệu, nó có thể duy trì mức giá
cao thay vì liên tục giảm giá để thu hút khách hàng.
Thương hiệu tạo được sự bền vững về mặt vị thế cạnh tranh. Một thương
hiệu đã có được lòng tin của khách hàng thì nó sẽ dễ dàng đạt được lòng trung thành
của khách hàng với thương hiệu. Địa vị thương hiệu mạnh cũng được chứng tỏ và

ngày càng được củng cố trên thị trường. Xây dựng và duy trì được những thương
hiệu nổi tiếng là một phương thức phòng vệ hữu hiệu nhất của các doanh nghiệp.
Một thương hiệu thành công sẽ ngăn cản các đối thủ cạnh tranh cũng như các
thương hiệu khác xâm nhập vào thị trường hiện tại của thương hiệu.


- 21 -

1.3.2.3. Thương hiệu – tài sản lớn nhất của doanh nghiệp:

Cựu chủ tịch công ty Quarter Oats đã nói: “Nếu phải chia đôi công ty thì tôi
sẽ chọn thương hiệu và danh tiếng của công ty, để lại cho bạn tất cả tài sản khác”.
Tài sản thương hiệu của một doanh nghiệp là phần chênh lệch giữa giá trị thị
trường của một doanh nghiệp và giá trị sổ sách trên bảng tổng kết tài sản của nó.
Tài sản thương hiệu là tài sản có giá trị nhất của doanh nghiệp. Tuy nhiên, tài sản
thương hiệu có thể là con số âm khi thương hiệu của một doanh nghiệp có hình ảnh
xấu đối với khách hàng tiềm năng.
Thương hiệu là một loại sở hữu trí tuệ, khác với sở hữu hàng hóa. Khi ra một
quyết định mua hàng, ngoài các yếu tố giá cả, chất lượng và thời gian giao hàng,
cảm giác phù hợp của sản phẩm do thương hiệu mang lại luôn là yếu tố không thể
thiếu được đối với nhiều khách hàng.
Như đã trình bày ở trên, giá trị thương hiệu có ảnh hưởng nhất định đến
quyết định mua của khách hàng. Thứ nhất, thương hiệu có hình ảnh tốt, cung cấp
lòng tin, sự bảo đảm về chất lượng giúp người mua giảm rủi ro và sự phức tạp khi
chọn lựa. Thứ hai, con người sử dụng thương hiệu để biểu hiện cách sống, mong
muốn, địa vị xã hội của mình. Khách hàng chọn các thương hiệu dựa trên sự đáp
ứng nhu cầu và mong muốn của họ.
Tài sản thương hiệu được quyết định bằng các yếu tố: sự nhận biết về thương
hiệu, sự trung thành với thương hiệu, chất lượng được cảm nhận, các liên kết và
hình ảnh thương hiệu, sự thỏa mãn khi sử dụng, các tài sản có thuộc sở hữu độc

quyền khác như bằng sáng chế, thương hiệu độc quyền và các mối quan hệ trong
kênh phân phối.
Tài sản thương hiệu đối với một tổ chức liên quan đến khả năng thu hút
khách hàng của thương hiệu trong hiện tại và trong tương lai. Các thương hiệu nổi
tiếng có thể có những đặc tính thu hút khách hàng cho các sản phẩm hay tập hợp
sản phẩm mới bổ sung được gắn thương hiệu này. Nhờ vậy doanh nghiệp nhận
được một chuỗi dòng thu nhập từ việc làm chủ sở hữu thương hiệu.

- 22 -


1.3.2.4. Sức mạnh thị trường của những thương hiệu mạnh:

Thương hiệu chỉ có giá trị đối với doanh nghiệp nếu nó là thương hiệu mạnh.
Đặc điểm cơ bản của một thương hiệu mạnh và thành công là nó không chỉ tăng
thêm khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng mà còn làm tăng giá trị cho sản phẩm
nhờ đáp ứng những nhu cầu tâm lý nhất định của họ. Giá trị tăng thêm được đo
bằng cảm giác lòng tin rằng thương hiệu có chất lượng cao hơn hoặc được người
tiêu dùng mong muốn nhiều hơn so với các sản phẩm tương tự của đối thủ cạnh
tranh.
Một số ưu thế mà một thương hiệu mạnh có thể mang lại cho doanh nghiệp
sở hữu nó:
- Thương hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp đạt được các vị thế dẫn đầu
trong ngành mà nó đang hoạt động.
- Thương hiệu mạnh có thể giúp doanh nghiệp sở hữu nó vượt qua những
thời kỳ khó khăn.
- Chu kỳ sống của sản phẩm mang thương hiệu mạnh thường dài hơn.
- Các thương hiệu mạnh có khả năng vượt ra khỏi biên giới các quốc gia.
- Các thương hiệu mạnh thường có khả năng phân phối rộng khắp và nhanh
hơn.

- Là động lực thúc đẩy cán bộ công nhân viên làm việc tích cực hơn, thu hút
nhiều nhân tài cũng như dễ dàng giữ lại những nhân viên làm việc hiệu quả.
- Các sản phẩm mang thương hiệu mạnh có thể được khách hàng xem xét
không chỉ đơn thuần là một hàng hóa.
Ngày càng có nhiều sản phẩm và dịch vụ gần như chẳng khác gì nhau và chỉ
có một cách duy nhất để phân biệt chúng là tạo thêm những giá trị khác nữa trong
tiềm thức của khách hàng về sản phẩm và dịch vụ. Đó chính là công việc của xây
dựng và phát triển những thương hiệu mạnh.


- 23 -
1.3.3. Đăng ký bảo hộ thương hiệu:

Thương hiệu mạnh là tài sản quan trọng nhất của doanh nghiệp. Thương hiệu
thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp chỉ khi nó được đăng ký bảo hộ và được pháp
luật thừa nhận. Mặc dù giá trị của thương hiệu không thể hiện trên bảng cân đối kế
toán của doanh nghiệp, song với khả năng bán hoặc chuyển giao tên thương hiệu,
một khoản ghi bằng tiền vẫn có thể xuất hiện trong bảng cân đối.
Các doanh nghiệp cần phải bảo vệ tài sản thương hiệu bằng cách đăng ký bản
quyền sử dụng thương hiệu của họ trên thị trường để được pháp luật bảo hộ. Một
thương hiệu khi đã đăng ký bản quyền trở thành một tài sản của doanh nghiệp được
pháp luật bảo hộ quyền sử dụng. Điều này đặc biệt quan trọng đối với những
thương hiệu mạnh, đã có tiếng tăm trên thị trường.
Những thương hiệu mạnh có uy tín trên thị trường nếu doanh nghiệp không
đăng ký bản quyền sẽ dẫn đến khả năng các công ty cạnh tranh không lành mạnh
khác có thể đăng ký bản quyền của họ và bán sản phẩm tương tự dưới các thương
hiệu này. Khi này, doanh nghiệp sẽ mất quyền sử dụng thương hiệu và phải đấu
tranh để đòi lại gây tốn kém thời gian, tiền bạc và công sức. Vì vậy, trong chiến
lược phát triển thương hiệu trên thị trường, các doanh nghiệp cần đăng ký bản
quyền theo quy định của luật pháp để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình.

Việc đăng ký bản quyền sử dụng thương hiệu là quan trọng nhưng quan
trọng hơn các doanh nghiệp phải biết xây dựng được các thương hiệu thành công
trên thị trường.



















- 24 -


KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu hướng toàn cầu, không một quốc gia nào
đứng ngoài vì những tác động, ảnh hưởng mà nó mang lại cho các quốc gia thành
viên. Điều đó không có nghĩa hội nhập kinh tế quốc tế chỉ mang lại những lợi ích

cho các nước thành viên, mà bên cạnh đó là cả những ảnh hưởng tiêu cực.
Vấn đề đặt ra là các quốc gia cần xác định vị trí của mình trên trường quốc
tế, những cơ hội và cả những nguy cơ mà hội nhập có thể sẽ mang lại để có lộ trình
hội nhập phù hợp, cũng như có những chính sách điều chỉnh, phát triển quốc gia
hợp lý. Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ tác động đến tổng thể của một quốc gia,
mà đến từng ngành, từng doanh nghiệp của quốc gia đó.
Với ý nghĩa trên, chương 1 của Luận văn tập trung trình bày những lý thuyết
về hội nhập kinh tế quốc tế, về cạnh tranh quốc tế và về thương hiệu, làm cơ sở lý
luận cho việc nghiên cứu, phân tích thực trạng kinh doanh máy tính thương hiệu
Việt Nam cũng như việc đưa ra những giải pháp phát triển cho ngành.
Những nội dung chính mà chương 1 đã trình bày:
- Lý thuyết về hội nhập kinh tế quốc tế: khái niệm và các hình thức hội nhập,
những hàng rào thương mại trong hội nhập, những cơ hội và thách thức trong hội
nhập kinh tế quốc tế đối với Việt Nam.
- Lý thuyết về cạnh tranh quốc tế: tập trung vào lý thuyết về lợi thế cạnh
tranh quốc gia của Michael Porter.
- Lý thuyết về thương hiệu: khái niệm, vai trò và giá trị tài sản của thương
hiệu, hoạt động đăng ký bảo hộ thương hiệu.








- 25 -
CHƯƠNG 2. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG KINH DOANH MÁY
TÍNH THƯƠNG HIỆU VIỆT NAM VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
HỘI NHẬP QUỐC TẾ


2.1. Hiện trạng kinh doanh máy tính thương hiệu Việt Nam:
2.1.1. Thị trường máy tính Việt Nam:
Thị trường máy tính bao gồm máy tính để bàn, máy tính xách tay và máy
chủ. Mức độ tăng trưởng hàng năm của thị trường máy tính Việt Nam vào khoảng
15 - 20%. Hiện nay ước chừng Việt Nam có 2 triệu máy tính.
Cùng với những ứng dụng của công nghệ thông tin, máy tính ngày càng đóng
một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện nay. Nhu cầu về máy tính
ngày càng tăng ở cả các khu vực người tiêu dùng, doanh nghiệp và các cơ quan nhà
nước.
+ Thị trường cá nhân/ hộ gia đình: nhu cầu ngày càng tăng do đòi hỏi từ học
tập, cho công việc, nhu cầu giải trí, tìm kiếm thông tin trên internet,…
+ Thị trường chính phủ: nhu cầu máy tính tăng từ định hướng công nghệ
thông tin của chính phủ với các đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước (đề
án 112), đề án tin học hóa của cơ quan Đảng, chính phủ điện tử, dự án của ngành
giáo dục/ dạy nghề/ bưu chính viễn thông/ …..
+ Thị trường doanh nghiệp: nhu cầu trang bị thiết bị làm việc chủ yếu của
doanh nghiệp hiện tại và doanh nghiệp mới, nhu cầu trang bị để đáp ứng các dịch vụ
mới như game trực tuyến,…
Ngoài ra còn có nhu cầu phát sinh từ các nguồn tài trợ của WB, ADB,…
Năm 2004, số lượng tổng thể máy tính tại Việt Nam tăng 15,6% so với 2003.
Thị trường có khoảng 309.933 bộ (không bao gồm máy tính đã qua sử dụng và các
phụ kiện nhập khẩu vào Việt Nam), tăng 41.998 bộ so với 2003 (267.935 bộ). Tổng
giá trị đạt khoảng 250 triệu USD.
Trong đó, máy tính nội địa lắp ráp trong nước chiếm hơn 70% thị phần. Do
vậy, dù số lượng tổng thể thị trường tăng 15.6% nhưng tổng giá trị giảm nhẹ (-

×