Luận văn: Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật trong dạy học phần
“Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn Khuyến Tỉnh Hà
Nam
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong đời sống xã hội pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng. Nó là
phương tiện không thể thiếu đảm bảo cho sự tồn tại, vận hành bình thường
của xã hội. Pháp luật không chỉ là một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu,
mà còn tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của ý thức đạo đức, làm
lành mạnh hóa đời sống xã hội, bồi đắp nên những giá trị mới. Trong công
cuộc đổi mới đất nước hiện nay, việc tăng cường vai trò của pháp luật
được đặt ra như một tất yếu khách quan. Điều đó không chỉ nhằm mục đích
xây dựng một xã hội có trật tự, kỉ cương, văn minh mà còn hướng đến bảo
vệ và phát triển những giá trị chân chính.
Phần “Công dân với pháp luật” trong môn Giáo dục công dân nhằm
cung cấp cho học sinh những hiểu biết cơ bản về pháp luật nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó thực sự hữu ích cho thế hệ trẻ Việt Nam,
giúp họ hiểu biết và vận dụng những tri thức đã học vào cuộc sống.
Hiện nay, chúng ta thấy một thực trạng là số lượng vi phạm pháp luật
ngày càng gia tăng và mức độ ngày càng nghiêm trọng, trong số đó có một
số lượng không nhỏ là các vụ vi phạm pháp luật do học sinh THPT gây ra.
Chúng ta có thể thấy được tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận
học sinh THPT hiện nay còn nhiều bất ổn, từ thái độ học tập, ý thức chấp
hành nội quy, kỷ luật của nhà trường,chấp hành pháp luật đến những hành
vi tiêu cực trong học tập, thi cử của học sinh và sự xâm nhập các tệ nạn xã
hội vào học đường. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi vi phạm
1
1
pháp luật là trình độ hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật và kỹ năng thực
hành pháp luật còn rất hạn chế trước những tình huống mà thực tiễn đang
đặt ra.
Từ những lí do trên chúng tôi đã chọn đề tài: “Nâng cao kỹ năng
thực hành pháp luật trong dạy học phần “ Công dân với pháp luật” ở
trường THPT Nguyễn Khuyến Tỉnh Hà Nam”, làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu
Việc nâng cao kỹ năng vận dụng tri thức để giải quyết vấn đề thực tiễn
được xem như là nguyên tắc đảm bảo thống nhất giữa lí luận và thực tiễn
trong dạy học. Từ trước đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều
bài viết của nhiều tác giả nói về vấn đề này.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra nguyên tắc phải thống nhất giữa lí luận
và thực tiễn để chống lại bệnh kinh viện và bệnh giáo điều. Mác viết: “Vấn
đề tìm hiểu tư duy của con người có thể đạt tới chân lí khách quan hay
không, không phải là một vấn đề lí luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lí”. [14, 491].
Quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong nhận
thức khoa học và trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:
“Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Thực tiễn không có lí luận dẫn đường thì thành thực tiễn
mù quáng. Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận suông”. [41,
496].
Từ các quan điểm trên đặt ra yêu cầu : Việc nhận thức phải xuất phát
từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn. Khi nghiên cứu
lí luận phải liên hệ với thực tiễn; học phải đi đôi với hành; lí thuyết gắn liền
với thực tiễn; nhà trường phải gắn liền với xã hội. Yêu cầu vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực nhằm nâng cao kỹ năng thực hành cho học
sinh là vấn đề quan trọng của lí luận dạy học ngày nay.
2
2
Nhìn chung, có nhiều tài liệu trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề kỹ
năng thực hành của học sinh ở nhiều góc độ khác nhau:
Tài liệu giáo dục học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề thực hành
của học sinh trong dạy học nói chung dưới nhiều góc độ khác nhau:
Trong cuốn “Giáo dục học” tập II, tác giả T.A.Ilina – Nhà giáo dục học Xô
Viết đã đề cao vai trò của thực tiễn và các hoạt động thực tiễn. Thực tiễn
chính là cơ sở kiểm nghiệm tính chân thực của kiến thức lý luận. Tác giả cho
rằng, nhiệm vụ bắt buộc của dạy học không chỉ là trang bị kiến thức mà còn
rèn luyện các kỹ năng, kỹ xảo vốn là phương thức hành động mà HS phải thực
hiện trong thực tiễn học tập. Khái quát ngắn gọn quá trình hình thành, phát
triển của kỹ năng, kỹ xảo học tập gắn liền với các hoạt động thực hành mà HS
bắt buộc phải thực hiện trong suốt quá trình học tập, Ilina đã khẳng định
được sự cần thiết của các hoạt động thực hành đối với quá trình nhận thức
của học sinh. [34, 64].
Để phát triển tu duy logic, tu duy biện chứng cho HS, cuốn “Phát triển tư
duy học sinh” (M.Alêcxêep chủ biên, 1976) đã đề cập tới các phương pháp
thực hành như tổ chức HS đàm thoại tích cực, sử dụng bảng phân loại hay sử
dụng đồ dung trực quan (sơ đồ, biểu đồ, bản đồ); sử dụng phim ảnh. Tác giả
nêu lên ý nghĩa của biện pháp này là giúp ghi nhớ kiến thức một cách dễ dàng
và phát triển khả năng tu duy, sự liên tưởng, rèn luyện kỹ năng học tập cho
HS. [2].
Geopprey Petty nhà khoa học nước Anh – tác giả cuốn “Dạy học ngày
nay” cho rằng: “Phần lớn kỹ năng và khả năng của chúng ta thể hiện ở chỗ
hướng dẫn học sinh thực hành, vì thế đây là phương pháp giảng dạy bắt
buộc. Nó tạo cơ hội cho học sinh tự hình thành kỹ năng, còn giáo viên lại có
ngay thông tin phản hồi, qua đó phát hiện được là học sinh đã nắm được
bài hay chưa, và liệu việc dạy và học có cần cải tiến gì không… Thực hành
3
3
có hướng dẫn khiến cho học sinh làm việc tích cực hơn bất kỳ phương pháp
nào khác…
Hà Thế Ngữ, Đặng Vũ Hoạt – Viện khoa học giáo dục trong cuốn “Giáo
dục học” tập I đã nhấn mạnh: Trong dạy học nhất định phải gắn tri thức
học sinh đã học với thực tiễn bằng những hoạt động cụ thể, có như vậy mới
đảm bảo nguyên tắc thống nhất giữa lí luận với thực tiễn, một trong những
nguyên tắc cơ bản của lí luận dạy học.[46].
Tác giả Nguyễn Văn Cư, Nguyễn Duy Nhiên (Nxb Giáo dục, 2009) với:
“Dạy và học môn GDCD ở trường THPT- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”,
đề tài đã đi sâu vào khai thác những vấn đề mang tính lí luận và thực tiễn
của môn GDCD, từ đó tập trung đề ra các giải pháp đổi mới phương pháp
giảng dạy, hướng dẫn HS tự học môn GDCD để từ đó góp phần nâng cao
chất lượng và hiệu quả môn học.[15].
Theo tác giả Đinh Văn Đức, Dương Thị Thúy Nga, giảng viên trường
ĐHSP Hà Nội, trong cuốn “Phương pháp dạy học môn Giáo dục công dân ở
trường trung học phổ thông” cho rằng: “Những tri thức của môn Giáo dục
công dân rất gắn bó với đời sống con người xã hội. Vì thế, giáo viên cần
giúp cho học sinh biết vận dụng lí luận để giải quyết những vấn đề thực tế
liên quan đến cuộc sống của bản thân, của gia đình học sinh, của địa
phương và của đất nước, con người Việt Nam”.[28,41].
Như vậy, lí luận về phương pháp dạy học tích cực hướng tới kỹ năng
thực hành cho học sinh đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước đề cập
đến. Vấn đề này đặc biệt quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy
học ngày nay nói chung và dạy học môn GDCD nói riêng. Điều này càng trở
nên đặc biệt quan trọng hơn khi môn GDCD ở trường THPT có nhiều nội
dung cần được vận dụng vào trong thực tiễn, nhất là phần: “Công dân với
pháp luật”. Bởi vì giáo dục pháp luật đã trở thành vấn đề cấp thiết ở nước
4
4
ta trong giai đoạn hiện nay.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nền dân chủ XHCN, các
văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X, XI luôn nhấn
mạnh phải tăng cường pháp chế XHCN, nâng cao ý thức pháp luật cho học
sinh, sinh viên, thực hiện mục tiêu “Sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu nói trên đã nêu ra
những vấn đề cơ bản cả về lí luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục
pháp luật. Tuy nhiên, xét trong phạm vi các trường THPT và trung tâm
giáo dục thường xuyên trên địa bàn huyện Bình Lục- Tỉnh Hà Nam và
trường THPT Nguyễn Khuyến, việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật
trong dạy học môn Giáo dục công dân chưa một tác giả nào đề cập, nghiên
cứu tới.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, ứng dụng một số biện pháp sư phạm nhằm nâng cao kỹ
năng thực hành pháp luật nhằm bổ sung, hướng tới hoàn thiện việc dạy
học pháp luật trong môn Giáo dục công dân phần “Công dân với pháp luật”
trên địa bàn huyện Bình Lục- Tỉnh Hà Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu một số biện pháp sư phạm và điều kiện dạy học để
nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho học sinh trong dạy học phần
“Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn Khuyến- Tỉnh Hà Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ giới hạn của đề tài tác giả chỉ nghiên cứu một số biện
pháp sư phạm để nâng cao kỹ năng thực hành cho học sinh trong dạy học
phần “ Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn Khuyến Tỉnh Hà Nam.
5. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của tác giả
5.1. Những luận điểm cơ bản
Đề tài làm rõ cơ sở lí luận và thực tiễn của việc nâng cao kỹ năng thực
hành pháp luật cho học sinh trong dạy học môn GDCD.
5
5
Khẳng định vai trò của việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật với
việc phát huy khả năng vận dụng tri thức để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của học sinh THPT.
Vạch ra một số biện pháp sư phạm và điều kiện để nâng cao kỹ năng
thực hành cho học sinh, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy
của nhà trường.
5.2. Đóng góp mới của tác giả
Đề tài góp phần nhấn mạnh đến việc vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực và điều kiện trong môn GDCD đối với việc phát huy khả năng
chủ động chiếm lĩnh kiến thức và vận dụng tri thức vào thực tiễn một cách
linh hoạt và sáng tạo.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần vào việc vận dụng thành
công nhiều phương pháp dạy học tích cực, phát huy các điều kiện phục vụ
cho quá trình dạy học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
6. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lích sử Mác- Lênin, những chủ trương
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các công trình khoa học, đề
tài nghiên cứu trong và ngoài nước.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khác như: phương
pháp nghiên cứu lí thuyết (phân tích và tổng hợp tài liệu, logic và lịch sử,
nghiên cứu các vấn đề lí luận liên quan đến đề tài …)
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn (phương pháp điều tra, quan sát
các quá trình học tập, giảng dạy Giáo dục công dân phổ thông; trao đổi
kinh nghiệm; áp dụng bài thiết kế theo chuẩn kiến thức, kĩ năng vào dạy;
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh; phương pháp thực nghiệm
sư phạm…)
+ Phương pháp toán học dùng để xử lí và phân tích số liệu thống kê.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
6
6
phụ lục luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở khoa học của việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp
luật cho học sinh trong dạy học phần “Công dân với pháp luật”.
Chương 2: Biện pháp nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho học
sinh trong dạy học phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn
Khuyến Tỉnh Hà Nam.
Chương 3: Thực nghiệm các biện pháp nâng cao kỹ năng thực hành
pháp luật cho học sinh trong dạy học phần “Công dân với pháp luật” ở
trường THPT Nguyễn Khuyến Tỉnh Hà Nam.
Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC NÂNG CAO KỸ NĂNG
THỰCHÀNH PHÁP LUẬT CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC PHẦN “ CÔNG DÂN VỚI PHÁP LUẬT”
1.1. Cơ sở lý luận của việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho học
sinh trong dạy học phần “Công dân với pháp luật”
1.1.1. Quan niệm về kỹ năng, kỹ năng thực hành, kỹ năng thực hành pháp
luật và nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật.
1.1.1.1. Quan niệm về kỹ năng
Kỹ năng là một khái niệm phức tạp và được quan tâm nghiên cứu khá
nhiều.
Kỹ năng là sự biểu hiện kết quả thực thi hành động trên cơ sở những tri
thức có được đối với việc giải quyết những nhiệm vụ đặt ra cho phù hợp với điều
kiện cho phép. Kỹ năng là tri thức trong hành động. [31], [43, 125]. Hay kỹ năng
là “khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào
đó vào thực tế” [58, 520].
Kỹ năng bao giờ cũng gắn với một hành động hay một hoạt động nào đó
bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để
thực hiện hành động đó phù hợp với những mục tiêu và điều kiện thực tế đã cho.
7
7
Khái niệm kỹ năng có thể hiểu trên cơ sở các quan niệm về hoạt động, hành
động, thao tác.
Tóm lại trên cơ sở những khái niệm về kỹ năng, tôi quan niệm: Kỹ
năng là khả năng vận dụng những kiến thức đã tiếp thu được để thực hiện
công việc một cách có hiệu quả ở một cấp độ tiêu chuẩn xác định.
Việc tiếp thu kiến thức sẽ tạo nên nền tảng về lý luận để hình thành và
phát triển kỹ năng. Do đó, kỹ năng cũng có thể được hiểu là sự thể hiện của
kiến thức trong hành động. Ngược lại khi kỹ năng được hình thành và phát
triển sẽ làm sâu sắc hơn sự hiểu biết về kiến thức. Như vậy, mối quan hệ
giữa kiến thức và kỹ năng là hết sức chặt chẽ, là tiền đề và hiệu quả của
nhau.
1.1.1.2. Kỹ năng thực hành.
Theo từ điển tiếng Anh, thực hành (pratcise) là công việc thực hiện của
những người của những người mang tính chuyên nghiệp như luật sư, giáo
viên… Ở đây (pratcise) tương đương với (hành nghề) trong tiếng Việt – ý
muốn nhấn mạnh kỹ năng, kỹ xảo của chủ thể trong những hành động nhất
định.
Thực hành, hiểu theo tiếng Nga (npaktuka – danh từ), là một hoạt
động của con người có áp dụng lý thuyết vào thực tiễn sản xuất để tích lũy
kinh nghiệm. [53].
Theo từ điển tiếng Việt thì “thực hành” (nói khái quát): Là vận dụng lý
thuyết vào thực tế [50, 940].
Mặc dù cách định nghĩa câu từ có khác nhau nhưng hầu hết các quan
niệm đều cho “thực hành” là một động từ mà ở đó có hai điểm chính cần chú
ý:
- Một là: Thực hành gắn liền với những hành động, hoạt động của con người
được biểu hiện bằng những thao tác cụ thể, tác động lên đối tượng lao
động nào đó làm biến đổi chúng theo những mục đích đã định.
8
8
- Hai là: Thực hành là một biểu hiện của việc vận dụng lý thuyết vào thực
tiễn. Đây không phải là một hoạt động thuần túy của cơ bắp mà nó đòi hỏi
phải có sự tham gia của các hoạt động trí tuệ. Hoạt động trong thực hành
mang tính mục đích rõ rệt đó là kiểm nghiệm, nắm vững và vận dụng lý
thuyết vào thực tiễn.
Như vậy có thể hiểu: Thực hành là hoạt động của con người có áp
dụng lý thuyết vào thực tiễn để đáp ứng một nhu cầu nào đó.
Theo một số tác giả khi nghiên cứu về kỹ năng đã nêu hai vấn đề:
Một là: Quan niệm về kỹ năng có tính chất nguyên sinh [Nguyễn Đức
Minh, Phạm Gia Cốc, Đỗ Thị Xuân [42, 70]. Các tác giả cho rằng khái niệm
nguyên sinh được hình thành lần đầu tiên qua các hành động giản đơn; đó
là kỹ năng ban đầu, là cơ sở hình thành kỹ năng.
Hai là: Quan niệm về kỹ năng có tính chất thứ sinh [Theo quan niệm
của A.V.Petroxki [49], I.B.Intelsol, V.V.Trebuseva [59] Nguyễn Ánh Tuyết
[55, 157]… các tác giả của “Sơ thảo thường thức tâm lý học sư phạm và
lứa tuổi” [46, 80].
Theo các tác giả trên coi kỹ năng là cách thức hành động trên cơ sở tổ
hợp những tri thức và kỹ xảo. Kỹ năng được hình thành bằng con đường
luyện tập, tạo kỹ năng cho con người thực hiện hành động không chỉ trong
những điều kiện quen thuộc mà cả trong những điều kiện đã thay đổi.
K.K.Platonv và G.G.Gôlubev còn nhấn mạnh bất kỳ một kỹ năng nào
cũng bao hàm trong nó cái biểu tượng, khái niệm, vốn tri thức và những kỹ
xảo tập trung và phân phối; di truyền chú ý, kỹ xảo tri giác, quan sát, tư
duy, tự kiểm tra, điều chỉnh quá trình hoạt động cũng như kỹ xảo vận động.
Đây chính là kỹ năng phức hợp dựa trên một số kỹ năng bậc thấp và một số
kỹ xảo đã có trước.
Chúng ta tiếp tục xem xét hai quan niệm về kỹ năng có liên quan đến
việc xây dựng hệ thống kỹ năng và quy trình rèn luyện kỹ năng.
- Quan niệm thứ nhất xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của hành
9
9
động. Các tác giả V.A. Krutetxki, A.G. Kovalev, V.V. Trebuseva [59];
M.G.Janosevxki; A.V.Petrovxki [49], F. B. Abbatt [1, 80]; Hà Thế Ngữ và Phạm
Thị Diệu Vân [47] coi kỹ năng là cách thức thực hiện hành động mà con
người đã nắm vững.
- Quan niệm thứ hai xem xét kỹ năng nghiêng về góc độ năng lực của con
người. Các tác giả N.D. Levitop, X.I. Kixengor [37]; K.K. Platonov và G.G.
Gôlubev [59]; Nguyễn Ánh Tuyết [55, 157]; Trần Hiệp và Đỗ Long [33, 63];
Nguyễn Quang Uẩn và Ngô Công Hoàn [60]; Các tác giả “Bài giảng giáo dục
học tập 2” (Hội đồng bộ môn Tâm lý học (1975) – Đề cương bài giảng tâm
lý học đại cương, Đại học Sư phạm Hà Nội I, trang 92) đã coi kỹ năng là
năng lực của con người biết vận hành các thao tác là khả năng (trình độ
được chuẩn bị) thực hiện một hoạt động nào đó được dựa trê những tri
thức và kỹ xảo và được hoàn thiện cùng với chúng [59, 70] và [29].
Từ những quan niệm gần như thống nhất của các tác giả đã nêu,
chúng ta có thể quan niệm“kỹ năng thực hành” là khả năng thực hiện có
kết quả một số thao tác hay một loạt các thao tác phức tạp của một hành
động bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, những cách thức,
những quy tình đúng đắn.
Ở đây có mấy điểm cần chú ý
- Kỹ năng thực hành là sự vận dụng các tri thức (hiểu biết) và các kỹ xảo đã
có vào việc giải quyết một số thao tác hay một loạt các thao tác phức tạp
của hoạt động.
- Cách vận dụng tri thức vào thực tiễn này phải được tiến hành theo quy trình
hợp lý với cách thức đúng đắn không phải tiến hành theo kiểu thử và sai
không có kế hoạch. Vai trò của sự luyện tập và đặc biệt quan trọng trong việc
hình thành kỹ năng và kỹ xảo của sự luyện tập theo các giai đoạn chặt chẽ.
Trong kỹ năng thực hành thường chú ý hai loại: kỹ năng thực hành trí
tuệ và kỹ năng thực hành chân tay, cơ thể.
- Kỹ năng thực hành trí tuệ là các hoạt động trí óc, các thao tác trí tuệ.
- Kỹ năng thực hành chân tay, cơ thể là các lao động chân tay, cơ bắp
10
10
Kỹ năng thực hành trong luận văn được xem xét trong hoạt động thực
hành pháp luật. Vì vậy, khái niệm kỹ năng thực hành được hiểu là khả năng
thực hiện một hoạt động, một công việc nào đó trong những trường hợp cụ
thể để đạt được kết quả phù hợp với những mục tiêu trong các điều kiện khác
nhau.
1.1.1.3. Kỹ năng thực hành pháp luật
- Khái niệm về pháp luật:
Theo từ điển tiếng Việt thì “pháp luật” (nói khái quát) là: Những quy
phạm hành vi do Nhà nước ban hành mà mọi người dân buộc phải tuân
theo, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và bảo vệ trật tự xã hội. [50, 741].
Phạm Quốc Tuấn trong cuốn “Môn học pháp luật” cho rằng: “Pháp luật
là một hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra (hoặc thừa nhận) có
tính quy phạm phổ biến, tính chính xác chạt chẽ về mặt hình thức và tính
bắt buộc chung, thể hiện ý chí của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước và
được Nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội”
[54, 26].
Theo tác giả Mai Văn Bính (Tổng chủ biên kiêm chủ biên) trong cuốn
“Giáo dục công dân 12” thì: “Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung do
nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện bằng quyền lực nhà nước”. [6, 5].
Từ những quan niệm trên cho thấy vai trò của pháp luật:
Thứ nhất: Pháp luật là phương tiện để nhà nước quản lý mọi mặt đời
sống xã hội.
Thứ hai: Pháp luật là phương tiện thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mỗi công dân.
Do vậy, trách nhiệm của mỗi công dân trong xã hội pháp quyền là phải
sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Muốn làm được điều đó công
dân phải có kỹ năng sử dụng pháp luật vào thực tiễn. Do vậy có thể hiểu:
Kỹ năng thực hành pháp luật là khả năng vận dụng pháp luật vào
trong đời sống của con người.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Kỹ năng thực hành
pháp luật của học sinh qua học phần “Công dân với pháp luật” trong môn
11
11
GDCD lớp 12 là cách ứng xử, hành động của học sinh trên cơ sở vận dụng
kiến thức pháp luật để giải quyết những vấn đề trong học tập và thực tiễn
cuộc sống đặt ra một cách có hiệu quả ở cấp độ tiêu chuẩn xác đinh.
1.1.1.4. Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật.
“Nâng cao” – theo tiếng Anh (improve) – tức là trau dồi tư tưởng hay
mở mang kiến thức.
Trong từ điển tiếng Việt thì “nâng cao” được hiểu là: Đưa lên mức cao
[50, 802].
Trong tiếng Việt khái niệm nâng cao được sử dụng trong các tình
huống:
Tình huống thứ nhất: Khi người ta đưa vật gì đó lên cao về mặt
khoảng cách được tính bằng những đơn vị đo lường cụ thể.
Tình huống thứ hai: Mang tính trừu tượng và thường được sử dụng
khi người ta muốn biến đổi tăng lên về chất và ở mức độ này nâng cao gần
với khái niệm phát triển. Tuy nhiên, phát triển là một quá trình thay đổi
liên tục của đối tượng, còn nâng cao thường được sử dụng ở mức độ hẹp
hơn trong sự so sánh với mức độ hiện có của đối tượng. Khái niệm nâng
cao thường gắn liền với sự tiến bộ cho phù hợp của đối tượng.
Từ những phân tích ở trên có thể thấy: Nâng cao kỹ năng thực hành là
tăng cường, phát triển khả năng vận dụng lý thuyết vào thực tế cuộc sống
của con người. Cũng như vậy, nâng cao kỹ năng thực hành trong dạy học
nói chung là tăng cường, phát triển khả năng vận dụng lý thuyết vào thực
tế cho học sinh.
Trong giáo dục, chúng ta thường sử dụng khái niệm “nâng cao” để nói
lên yêu cầu, nhiệm vụ học tập mà học sinh phải đạt cao hơn mức hiện có
của các em. Chính vì thế, khi đặt ra yêu cầu nâng cao đòi hỏi phải có sự
chính xác những mức độ hiện có của học sinh và những tiêu chí cụ thể sau
khi đã có những tác động tích cực đến các em. Và như vậy, “nâng cao” là
một yêu cầu thường xuyên, không có điểm kết thúc trong quá trình học tập
12
12
của các em. Không bao giờ là đủ, đạt về mặt trình độ, tư duy của học sinh.
Đây chính là mục tiêu chính của giáo dục, bởi học là một quá trình tích lũy
không ngừng, và học sinh là chủ nhân của việc không ngừng chiếm lĩnh
những tri thức của nhân loại. Chính vì thế, khi đặt ra yêu cầu phát triển,
nâng cao đòi hỏi phải có sự chính xác những mức độ đã có của đối tượng
và những tiêu chí cụ thể sau khi đã có những tác động tích cực từ phía chủ
thể. Mức độ nâng cao tỉ lệ thuận với những tiêu chí đặt ra khi cải biến đối
tượng. Ngoài ra, chúng ta thấy “nâng cao” là một động từ chỉ hành động,
trạng thái, chính vì vậy, nó bao gồm hành động của con người. Muốn có kết
quả tốt, thì nâng cao cần đến sự kết hợp với hành động khoa học.
Căn cứ vào lý luận dạy học và những đặc trưng kiến thức môn GDCD
phần “Công dân với pháp luật” thì vấn đề thực hành pháp luật trong môn
GDCD lớp 12 bao gồm: Tất cả những công việc cần thiết mà học sinh phải làm
để hiểu và sử dụng tốt kiến thức pháp luật vào cuộc sống. Đó là những kỹ
năng cụ thể:
Thứ nhất: Hiểu, nắm vững các quy định của pháp luật, có thể xây dựng
được các tình huống pháp luật tương tự và đưa ra cách giải quyết. Từ đó rút
ra kết luận hành động đó có phù hợp hay không phù hợp với quy định của pháp
luật.
Thứ hai: Sử dụng kiến thức pháp luật đã học vào thực tiễn cuộc sống;
hình thành các hành vi tích cực, hợp pháp; không ngừng mở rộng, khuyến
khích và tăng cường hành vi, hoạt động tuân theo pháp luật, nghiêm chỉnh
chấp hành, tôn trọng và bảo vệ pháp luật.
Thứ ba: Có niềm tin, tình cảm thái độ đúng đắn đối với pháp luật; có
thái độ không khoan nhượng trong đấu tranh phòng và chống hành vi
thiếu tôn trọng pháp luật, vi phạm pháp luật, góp phần đẩy lùi các hiện
tượng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Vì vậy, có thể hiểu: Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật trong dạy
13
13
học phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT là phát triển những
hoạt động học tập, ứng xử của học sinh trên cơ sở nắm vững kiến thức
pháp luật để giải quyết những nhiệm vụ học tập và những vấn đề của thực
tiễn cuộc sống đặt ra một cách có hiệu quả ở cấp độ tiêu chuẩn xác định.
1.1.2. Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật là đòi hỏi của dạy học phần
công dân với pháp luật.
*Đặc điểm nội dung tri thức phần “Công dân với pháp luật”
Nội dung cơ bản của 10 bài như sau:
Bài 1: Pháp luật và đời sống (3 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Khái niệm pháp luật.
- Bản chất của pháp luật.
- Mối quan hệ giữa pháp luật với kinh tế, chính trị, đạo đức.
- Vai trò của pháp luật đối với đời sống của mỗi cá nhân, Nhà nước và xã hội.
Bài 2: Thực hiện pháp luật (3 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Khái niệm, các hình thức và các giai đoạn thực hiện pháp luật.
- Khái niệm vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lí; các loại vi phạm pháp
luật và trách nhiệm pháp lí.
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật (1 tiết) giúp học sinh hiểu
được:
- Thế nào là bình đẳng trước pháp luật.
- Thế nào là bình đẳng về quyền nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lí.
- Trách nhiệm của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền bình đẳng của công
dân trước pháp luật.
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một só lĩnh vực của
đời sống xã hội (3 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Khái niệm, nội dung một số quyền bình đẳng của công dân trong các lĩnh
vực của đời sống xã hội.
- Trách nhiệm của Nhà nước đối với việc đảm bảo cho công dân thực hiện
quyền bình đẳng trong các lính vực của đời sống xã hội.
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo (2 tiết) giúp học
sinh hiểu được:
- Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của quyền bình đẳng giữa các dân tộc, tôn
giáo.
- Hiểu được chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về quyền bình
14
14
đẳng giữ các dân tộc, tôn giáo.
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (4 tiết) giúp học sinh hiểu
được:
- Khái niệm, nội dung, ý nghĩa của một số quyền thự do co bản như: Quyền
bất khả xâm phạm về thân thể của công dân; quyền được pháp luật bảo hộ
về tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của công dân; quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở của công dân; quyền được bảo đảm an toàn và bí
mật thư tín, điện thoại, điện tín; quyền tự do ngôn luận.
- Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực hiện
các quyền tự do cơ bản của công dân.
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ (3 tiết) giúp học sinh hiểu
được:
- Khái niệm, nội dung, ý nghĩa và cách thực hiện một số quyền dân chủ của
công dân: Quyền bầu cử và ứng cử vào các cơ quan đại biểu của nhân dân;
quyền tham gia quản lí Nhà nước và xã hội; quyền khiếu nại, tố cáo của
công dân.
- Trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm và thực hiện
các quyền dân chủ của công dân.
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân (2 tiết) giúp học
sinh hiểu được:
- Khái niệm, nội dung, ý nghĩa các quyền học tập, sáng tạo và phát triển của
công dân.
- Trình bày được trách nhiệm của Nhà nước và công dân trong việc bảo đảm
và thực hiện các quyền học tập, sáng tạo và thực hiện các quyền học tập,
sáng tạo và phát triển của công dân.
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước (4 tiết)
giúp học sinh hiểu được:
- Vai trò của pháp luật đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
- Nội dung cơ bản của pháp luật trong việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội, bảo vệ môi trường và bảo vệ an ninh, quốc phòng.
Bài 10: Pháp luật với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân
15
15
loại (2 tiết) giúp học sinh hiểu được:
- Vai trò của pháp luật đối với hòa bình và sự phát triển tiến bộ của nhân
loại.
- Nhận biết được thế nào là điều ước quốc tế, mối quan hệ giữa điều ước
quốc tế và pháp luật quốc gia.
- Nêu được Việt Nam tham gia và thực hiện tích cực các điều ước quốc tế về
con người, về hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia, về hội nhập
kinh tế khu vực và quốc tế.
Như vậy, chúng ta có thể thấy những tri thức phần “Công dân với
pháp luật” có vai trò vô cùng to lớn đó là:
Một là: Cung cấp những kiến thức cơ bản về pháp luật.
Đó là: Khái niệm, bản chất, vai trò của pháp luật; vi phạm pháp luật,
trách nhiệm pháp lí…cho đến các quyền bình đẳng, các quyền tự do, các
quyền dân chủ, quyền học tập, quyền sáng tạo và phát triển; vai trò của
pháp luật đối với quốc gia, quốc tế.
Hai là: Có tác dụng giáo dục đạo đức, ý thức sống và làm việc theo
Hiến pháp và pháp luật.
Ba là: Tạo nên sự tin tưởng ở lẽ phải và sự công bằng; biết đấu tranh với
những hành vi vi phạm pháp luật góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã
hội.
Chính vì vậy việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật trong dạy học
môn GDCD phần “Công dân với pháp luật” là một tất yếu phù hợp với xu
hướng giáo dục của thời đại.
Tổ chức hoạt động thực hành trong dạy học môn GDCD không chỉ là
biện pháp phát triển toàn diện HS mà còn thực hiện đúng mục tiêu, nguyên
lí giáo dục: Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn.
Điều đó phù hợp với xu hướng giáo dục của thời đại: Học để biết, học
để làm, học để chung sống và học để tự khẳng định mình. Nhìn chung
hướng đào tạo ở nước ta hiện nay là phát huy tối đa tiềm năng của người
học, rèn luyện óc tư duy, sáng tạo, khả năng làm việc độc lập và thích nghi
của học với hòa cảnh sống.
16
16
Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật của chương trình GDCD lớp 12 có
vai trò vô cùng to lớn, góp phần hoàn thành mục tiêu dạy học đề ra. Cụ thể là:
- Về mặt kiến thức: Mục đích thực hành pháp luật là để củng cố, phát triển
những kiến thức có bản. Những kiến thức được lựa chọn cho các hoạt động
thực hành bao giờ cũng là những kiến thức cơ bản nhất của bài, do đó sẽ
làm khắc sâu kiến thức cơ bản.
- Về mặt kỹ năng: Kỹ năng thực hành pháp luật giúp HS hiểu biết về pháp
luật, được thực hành kiến thức pháp luật trong môi trường “an toàn”
trước khi các em vận dụng vào thực tiễn. Trong môi trường đó HS được
trang bị và rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn,
giúp các em có sự tự tin vững bước vào cuộc sống thực sự và trở thành
công dân có ích cho xã hội.
- Về thái độ: Kỹ năng thực hành tạo khả năng dễ dàng và mang lại hiệu quả
cao, kích thích, tạo hứng thú, niềm say mê, nhu cầu được tham gia vào các
hoạt động cụ thể. Thông qua hoạt động thực hành pháp luật điều chỉnh
thái độ, hành vi trong học tập và trong cuộc sống cho HS theo hướng tích
cực. Đồng thời rèn luyện sự nỗ lực, phấn đấu cao hơn góp phần hình thành
nhân cách toàn diện cho HS.
Nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật trong dạy học môn GDCD là
một tất yếu vì qua đó các kiến thức của môn học không chỉ dừng lại ở
những lí thuyết suông mà còn phải được ứng dụng vào trong thực tiễn. Có
như vậy, HS mới tạo ra được các quan hệ tốt đẹp trong xã hội, thấy được
giá trị của bản thân và của cộng đồng, góp phần làm lành mạnh hóa các
quan hệ xã hội và trở thành công dân có ích cho xã hội.
*Sự cần thiết của việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho học
sinh trong dạy học phần “Công dân với pháp luật”.
Nâng cao kỹ năng thực hành cho HS THPT là yêu cầu tất yếu và cần
thiết trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Trong quá trình xây
dựng nhà nước ta thành nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc nâng
17
17
cao kỹ năng thực hành pháp luật cho công dân nói chung và HS THPT nói
riêng là một đòi hỏi tất yếu và cấp thiết, nhất là trong tình hình tội phạm
đang có xu hướng trẻ hóa về độ tuổi, mức độ phạm tội ngày càng nghiêm
trọng.
Việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật là cần thiết cho HS vì các em
sẽ là người tiếp tục sự nghiệp đổi mới đất nước trong những năm tới, sẽ là
người sống, làm việc, lãnh đạo và điều hành đất nước theo Hiến pháp, pháp
luật. Để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới, việc đổi mới nội
dung, phương pháp dạy học pháp luật ở các trường THPT là một yêu cầu tất
yếu.
Thứ nhất, nước ta đang đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước, để
đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại và
hội nhập quốc tế. Theo tinh thần nghị quyết Đại hội XI Đảng cộng sản Việt
Nam, một trong năm điểm phát triển đất nước là “… phát huy tối đa nhân
tố con người…”, nêu bật giá trị con người; và một trong ba khâu đột phá
triển khai chiến lược 2011 – 2020 là “Phát triển nhanh nguồn nhân lực có
chất lượng cao, tập trung vào đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục
quốc dân…”. Quan điểm ấy đòi hỏi giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông
nói riêng phải có những nỗ lực mới, tiến bộ mới, góp phần xây dựng và
phát huy “vốn người” là nhân tố quyết định trong nội lực dân tộc. Nhưng
nguồn đào tạo ra vốn người là giáo dục đào tạo. Để quan điểm của Đảng về
chiến lược đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo được hiện thực
hóa thì cần có sự đổi mới hơn nữa cả về nội dung, phương pháp và thời
lượng để góp phần tạo ra những con người vừa “hồng”, vừa “chuyên” đáp
ứng với sự nghiệp phát triển của đất nước trong điều kiện mới, trong đó
một việc không thể thiếu là đổi mới phương pháp dạy và học.
Thứ hai, theo Đề án “Đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông
sau năm 2015” của Bộ GD&ĐT, việc đổi mới chương trình, SGK theo các
18
18
định hướng sau: tiếp cận theo hướng phát triển năng lực; đẩy mạnh đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục theo hướng phát triển
năng lực cho HS; đổi mới đánh giá kết quả giáo dục theo yêu cầu phát triển
năng lực; điều chỉnh hài hòa, cân đối giữa “dạy chữ”, “dạy người”, và từng
bước “dạy nghề”; nội dung giáo dục mang tính cơ bản, hiện đại, thực tiễn,
giúp hình thành và phát triển các năng lực học tập; đổi mới cấu trúc
chương trình, đảm bảo tính chỉnh thể của chương trình và SGK phổ thông;
xây dựng một chương trình, biên soạn một bộ SGK và các tài liệu hỗ trợ dạy
học. Như vậy, vấn đề cốt lõi, trung tâm của cuộc đổi mới này là tập trung
chuyển mạnh từ giáo dục chủ yếu là truyền thụ kiến thức sang giáo dục
hình thành nhân cách và phát triển năng lực người học.
Ở nước ta, lí do phải chuyển sang dạy học định hướng phát triển năng
lực của người học bởi vì thực tiễn dạy học hiện nay cho thấy hạn chế: nặng
về phân tích lý thuyết, không định hướng thực tiễn và hành động. Kết quả
là người học được trang bị kiến thức có tính hệ thống nhưng yếu về kỹ
năng thực hành, kỹ năng sống, hạn chế sự phát triển các năng lực cá nhân.
Dạy học theo định hướng phát triển năng lực là dạy học mở và tích cực hóa
người học, trong đó: người học có cơ hội không chỉ lĩnh hội tri thức và kỹ
năng mà còn thử nghiệm và sử dụng tri thức, kỹ năng trong những tình
huống ứng dụng gần với thực tiễn khiến họ không chỉ biết ghi nhớ mà phải
biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, biết sử dụng kiến thức đã học để
giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra, tức là người học không chỉ
biết cái gì mà còn biết làm gì từ những điều đã biết. Điều này đòi hỏi cần
phải đổi mới phương pháp dạy học đáp ứng việc hình thành những kỹ năng
ấy.
Thứ ba, hoạt động của lứa tuổi HS THPT có những nét khác biệt cơ
bản về nội dung và tính chất so với các lứa tuổi khác, như hoạt động học
tập lúc này đòi hỏi sự phát triển khả năng nhận thức cao, đòi hỏi tư duy lí
19
19
luận, sự suy đoán logic cũng như khả năng trừu tượng hóa, khả năng khái
quát hóa phát triển. Tính phân hóa trong hoạt động học tập thể hiện rõ
hơn, cao hơn do xu hướng chọn ngành, chọn nghề chi phối, bên cạnh hoạt
động học tập, ở những HS tuổi đầu thanh niên xuất hiện những nhu cầu,
những nguyện vọng, những đòi hỏi trực tiếp của một hoạt động mới. Đó là
hoạt động liên quan đến việc chọn nghề. Họ đang đứng trước một sự thúc
bách đối với việc lựa chọn cho mình một nghề cụ thể, một chuyên ngành
học xác định cho tương lai gần ngay sau khi tốt nghiệp THPT. Từ đây, đời
sống tâm lí của các em bị chi phối không nhỏ bởi các hoạt động này. Mặt
khác, HS ở lứa tuổi này còn tích cực tham gia các hoạt động xã hội nhất
định tùy thuộc vào hứng thú, sở trường, điều kiện cụ thể của cá nhân. Việc
HS THPT tham gia vào các hoạt động xã hội có ảnh hưởng tích cực đến sự
phát triển tâm lí, nhân cách của các em, theo nghĩa làm phong phú thêm
nội dung các trải nghiệm, phong phú thêm đời sống nội tâm của các em.
Nắm được những đặc điểm đặc trưng và quy luật phát triển về mặt sinh lí
và tâm lý xã hội của HS THPT đòi hỏi người GV phải có những phương
pháp giáo dục thích hợp.
Thứ tư, trước tình trạng vi phạm pháp luật ngày càng nghiêm trọng
của một bộ phận thanh, thiếu niên hiện nay, ngoài việc tìm ra nguyên nhân
của thực trạng, thì điều quan trọng hơn cả là phải tìm ra được cách chữa
trị cho những vấn đề mà xã hội đang phải đối mặt. Việc nhà trường tăng
cường những biện pháp giáo dục tích cực như dạy học lồng ghép giữa các
môn học với dạy đạo đức, dạy pháp luật, kỹ năng sống, giáo dục giới tính
cho HS…là một giải pháp quan trọng. Trong đó cần đặc biệt quan tâm tới
môn GDCD bởi xuất phát từ nhiệm vụ của môn học này. Đặc biệt, việc dạy
học môn GDCD không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ tri thức mà quan trọng
hơn là phát triển kỹ năng thực hành cho HS, để HS biến tri thức đã học
được thành hành động cụ thể, phù hợp với yêu cầu của xã hội. Qua các bài
20
20
học GDCD, giúp các em hiểu được những quy định pháp luật của Nhà nước
trong các mối quan hệ và hình thành nhu cầu thực hiện theo những quy
định của pháp luật đó ở HS.
Như vậy, với những nội dung như trên, môn GDCD cần phải được coi
trọng và đầu tư tốt. Tuy nhiên, qua điều tra tại trường THPT Nguyễn
Khuyến- Hà Nam, thì phần lớn HS không hứng thú với môn học nói chung
và với học phần “Công dân với phápluật” nói riêng. Nguyên nhân của sự
không hứng thú này có thể quy vào ba lí do chính: nội dung chương trình có
những phần chưa phù hợp với nhận thức của HS khiến HS chán nản, không
thích học; đội ngũ GV giảng dạy môn học này cũng còn có những hạn chế về
phương pháp truyền đạt tri thức cho HS, khiến môn học kém sức hấp dẫn;
với HS vì đây không phải là môn thi đại học, không gắn với lợi ích trước
mắt, thiết thực của các em nên không tạo ra được những động cơ học tập
đúng đắn.
Từ những lí do trên, chúng tôi thấy cần thiết phải đổi mới phương
pháp dạy học để nhằm nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho HS THPT.
1.2. Cơ sở thực tiễn của việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật trong
dạy học phần “Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn
Khuyến Tỉnh Hà Nam.
1.2.1. Vài nét về trường THPT Nguyễn Khuyến
Trường THPT Nguyễn Khuyến Hà Nam được thành lập vào năm 2010,
dưới sự quản lý trực tiếp của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nam. Trường
được xây dựng trên địa bàn xã Tiêu Động – Huyện Bình Lục – Tỉnh Hà Nam.
Năm 2015, trường có 16 lớp trong đó: khối 10 có 5 lớp, khối 11 có 5 lớp và
khối 12 có 6 lớp.
Trường THPT Nguyễn Khuyến Hà Nam đã có nhiều đóng góp nhiều
thành tích cho giáo dục của Huyện Bình Lục. Hằng năm, tỉ lệ học sinh tốt
nghiệp của trường từ 96% đến 99% và có nhiều học sinh đạt giải cao trong
các kì thi học sinh giỏi các cấp. Phát huy truyền thống hiếu học của quê
21
21
hương cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, ngày càng có nhiều học sinh
của trường thi đỗ vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước. Môn
GDCD của trường cũng được chú trọng, trong mấy năm gần đây đều có học
sinh giỏi cấp huyện và tỉnh. Tuy trường mới thành lập nhưng đã nhận được
nhiều bằng khen, giấy khen của Sở giáo dục và đào tạo của tỉnh.
Trường có đội ngũ giáo viên giàu kinh nghiệm, nhiệt huyết với nghề và
đang có nhiều người theo học thạc sĩ, tiến sĩ. Hầu hết các giáo viên thuộc
các bộ môn khác nhau của nhà trường đều đạt trình độ chuẩn, các giáo
viên đều có năng lực sư phạm tốt, đáp ứng được yêu cầu của nhà trường.
Tập thể nhà trường luôn đoàn kết, cùng nhau vượt qua những khó khăn để
nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
Hiện nay, trường đã và đang hoàn thiện cơ sở vật chất với nhiều
phòng học và trang thiết bị dạy học hiện đại đáp ứng yêu cầu dạy học theo
hướng đổi mới giáo dục.
1.2.2. Thực trạng việc nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật cho HS trong dạy
học phần “ Công dân với pháp luật” ở trường THPT Nguyễn Khuyến Tỉnh
Hà Nam.
Chúng tôi đã tiến hành phát phiếu điều tra (Phụ lục 1) cho 150 học
sinh lớp 12 và cho 4 giáo viên (Phụ Lục 2) của 2 trường : THPT A Bình Lục,
THPT Nguyễn Khuyến. Từ việc phân tích hệ thống câu hỏi trong phiếu điều
tra, thăm dò lấy ý kiến của giáo viên và học sinh, chúng tôi đi vào đánh giá
thực trạng dạy học môn GDCD ở những nội dung sau:
- Nội dung 1: Thực trạng dạy học môn GDCD
- Nội dung 2: Nhận thức của giáo viên và học sinh về nâng cao kỹ năng thực
hành pháp luật trong dạy học môn GDCD phần “ công dân với pháp luật”
- Nội dung 3: Mức độ sử dụng các phương pháp dạy học của giáo viên trong
quá trình dạy học nhằm nâng cao kỹ năng thực hành pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu: phỏng vấn giáo viên và học sinh trong
trường; dự giờ, quan sát hoạt động dạy và học; phát phiếu điều tra để thu
22
22
thập thông tin; thống kê toán học để đánh giá kết quả phiếu điều tra.
Kết quả thu được như sau:
Nội dung 1: Thực trạng dạy học môn GDCD
- Ý kiến của học sinh.
Bảng 1.1. Nhận thức của học sinh về vị trí của môn GDCD
( Câu hỏi 1 và 2- Phụ lục 2)
STT Nhận thức của học sinh về vị trí của môn GDCD Số HS Tỉ lệ
1 Là môn học cần thiết, thiết thực. 136 90,7
2
Môn học này trang bị hệ thống kiến thức, kỹ năng phổ thồng,
cơ bản, thiết thực cho người học
103 68,7
3
Trang bị thế giới quan, phương pháp luận cho học sinh để học
tập các môn khác tốt hơn, và có thái độ hành vi đúng đắn
trong cuộc sống
97 64,7
4
Môn học này liên quan đến nhiều lĩnh vực khác của đời sống
xã hội
86 57,3
5
Môn học nặng về lí luận, trừ tượng, khó hiểu, khó học, khó
nhớ.
96 64
Kết quả trên cho thấy, phần lớn HS trường THPT Nguyễn Khuyến có
nhận thức đúng về môn học và vị trí, vai trò của môn GDCD. Có đến 90,7%
các em cho rằng đó là môn học cần thiết thiết thực. Có đến 68,7% cho rằng
môn GDCD trang bị thế giới quan, phương pháp luận và hành vi đúng đắn
trong cuộc sống. Số các em cho rằng môn học này trang bị hệ thống kiến
thức và kỹ năng thiết thực cho người học là 68,7%. Tuy nhiên, có đến 64%
các em cho rằng đó là môn học nặng về lý luận, trừu tượng, khó hiểu, khó
nhớ, khó học. Do đó, dẫn đến tình trạng trong quá trình học tập môn GDCD
có những biểu hiện về thái độ học tập:
Bảng 1.2. Tinh thần,thái độ học tập môn GDCD của học sinh
( Câu hỏi 4- Phụ Lục 2)
STT Thái độ học tập Số HS Tỉ lệ %
1 Rất hứng thú 18 12
2 Hứng thú 34 22,7
3 Bình thường 84 56
4 Ít hứng thú 24 16
23
23
5 Không hứng thú 37 24,7
6 Khao khát học tập 16 10,7
7 Hay nêu thắc mắc 9 6
8 Không ghi bài, nghe giảng 16 10,7
9 Không tập trung 6 4
10 Làm việc riêng, không thích nghe 39 26
Qua bảng trên cho thấy: Phần lớn học sinh không mấy hứng thú với
môn học, chưa có thái độ tích cực học tập. Chỉ có 34,7% các em hứng thú
với môn học. Số các em ít hứng thú và không hứng thú có đến 40,7%, còn
lại là bình thường 56%. Do có số các em khao khát học tập chỉ có 16 HS
(10,7%), hay nêu thắc mắc là 6% và không ghi bài nghe giảng là 10.7%.
Chính vì có thái độ học tập chưa đúng nên HS chưa có phương pháp học
tập và thời gian biểu dành cho môn học phù hợp. Các em học chỉ mang tính
chất đối phó và chủ yếu là học trong vở ghi, ít có các phương pháp học khác
để có sự liê hệ, vận dụng kiến thức với thực tế. Cụ thể:
Bảng 1.3. Thực trạng học tập ( thời gian và phương pháp học tập)
môn GDCD của học sinh ( Câu hỏi số 5- Phụ Lục 2)
STT Thời gian và phương pháp Số học sinh Tỉ lệ
1 Thường xuyên, liên tục 14 9,3
2 Thỉnh thoảng, kiểm tra thì học 88 58,7
3 Không dành thời gian để học 16 10,7%
4 Học theo vở ghi 86 57,3%
5 Học kết hợp vở ghi và sách giáo khoa 46 30,7%
6 Tìm thêm tài liệu tham khảo và qua nhiều kênh để bổ trợ
cho kiến thức được học
17 11,3%
7 Vận dụng linh hoạt vào trong cuộc sống 13 8,7%
8 Chuẩn bị trước bài ở nhà 10 6,7%
9 Học để đối phó 82 54,7%
Từ bảng 1.3 cho thấy: phần lớn các em học theo vở ghi (57,3%); số học
sinh tìm hiểu thêm tài liệu tham khảo và qua nhiều kênh để bổ trợ cho kiến
thức được học chỉ chiếm 11,3%. Đa số các em còn học để đối phó với giáo
viên (54,7%), và khi kiểm tra thì học (58,7%).
24
24
Từ kết quả trên cho thấy: Mặc dù học sinh có nhận thức đúng về môn
GDCD, thấy được vị trí và ý nghĩa của môn học song lại chưa có thái độ học
tập đúng đắn và còn có những em không dành thời gian để học.
Bảng 1.4. Học sinh đánh giá về cách thức dạy học của giáo viên bộ
môn
( câu hỏi số 6- Phụ lục 2)
STT Đánh giá về cách thức dạy học của giáo viên Số HS Tỉ lệ %
1 Nhiệt tình giảng dạy 136 90,7
2 Có đổi mới phương pháp 56 37,3
3 Giảng dạy chủ yếu lý thuyết, ít vận dụng thực tiễn 134 89,3
4 Dạy khô khan, đơn điệu 50 33,3
5 Giáo viên bộ môn chưa có hình thức, biện pháp khích lệ
cho học sinh tích cực học tập và tham gia vào bài giảng
86 57,3
Kết quả điều tra cho thấy: Theo 90,7% học sinh thì giáo viên rất nhiệt tình giảng dạy,
37,3% học sinh cho rằng giáo viên có đổi mới phương pháp. Song theo 89,3% học sinh cho rằng
giáo viên vẫn không tránh khỏi một số hạn chế đó là chủ yếu dạy lý thuyết, 33,3% đánh giá đôi
khi giáo viên dạy còn khô khan, đơn điệu và có đến 57,3% cho rằng giáo viên chưa có hình thức,
biện pháp khích lệ học sinh tích cực học tập và tham gia vào bài giảng.
Ý kiến của giáo viên:
Bảng 1.5. Giáo viên đánh giá thái độ học tập bộ môn GDCD của HS
( Câu hỏi số 9- Phụ lục 1).
Khao khát học tập 25%
Tập trung kiến thức 25%
Hay nêu thắc mắc 25%
Kiên trì học tập 75%
Chủ động lĩnh hội và vận dụng kiến thức 25%
Không hứng thú, chán nản 50%
Ít tích cực 50%
Thụ động trong học tập 75%
Từ bảng 1.5 cho thấy: Theo ý kiến của giáo viên giảng dạy đánh giá thì
học sinh không mấy hứng thú trong giờ học bộ môn GDCD. Số lượng các em
khát khao học tập, chủ động vận dụng kiến thức chỉ chiếm 25%. Trong khi
số lượng học sinh tập trung chú ý, có thái độ đúng với môn học là không
25
25