Tải bản đầy đủ (.doc) (139 trang)

Luận văn: Quản lí hoạt động liên kết đào tạo của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.11 KB, 139 trang )

LUẬN VĂN: QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔI VỤ THEO HƯỚNG DẪN ĐẢM
BẢO CHẤT LƯỢNG
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
Giám hiệu, các thầy giáo, cô giáo, cán bộ, viên chức Trường Đại học Sư
phạm Hà Nội và Khoa Quản lí Giáo dục đã nhiệt tình giảng dạy, giúp đỡ
trong thời gian học tập tại lớp Cao học chuyên ngành Quản lí giáo dục, lớp
Quản lí Giáo dục 1, K23 (khóa học 2013 - 2015).
Đặc biệt xin trân trọng cảm ơn thầy PGS.TS Nguyễn Văn Lê, người đã
tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và có những đóng góp quý báu trong quá trình
hoàn thành luận văn này.
Nhân đây tác giả xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, Phòng Kiểm
định và Bảo đảm chất lượng và toàn thể cán bộ, giảng viên, viên chức Trường
Đại học Nội vụ Hà Nội, các bạn đồng nghiệp, các cộng tác viên đã giúp đỡ tác
giả trong quá trình nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu do thời gian và khả năng có hạn, kinh
nghiệm thực tiễn chưa nhiều nên không tránh khỏi những hạn chế. Rất mong
được sự đóng góp của các thầy giáo, cô giáo, các bạn đồng nghiệp.
Một lần nữa tác giả xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 09 năm 2015
Tác giả
Trần Văn Quang
2
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH : Công nghiệp hóa
HĐH : Hiện đại hóa
CĐ : Cao đẳng
ĐH : Đại học
BD : Bồi dưỡng
ĐHNV : Đại học Nội vụ Hà Nội


GD&ĐT : Giáo dục và Đào tạo
GDTX : Giáo dục thường xuyên
HĐH : Hiện đại hóa
KH&CN : Khoa học và công nghệ
NT : Nhà trường
QLGD : Quản lí giáo dục
TW : Trung ương
TCCN : Trung cấp chuyên nghiệp
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
QLCL : Quản lí chất lượng
QLCLĐT : Quản lí chất lượng đào tạo
LKĐT : Liên kết đào tạo
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hoạt động liên kết đào tạo tại các trường đại học, các cơ sở giáo dục
khác trong cả nước và trên thế giới đã góp phần to lớn trong công cuộc đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước và thế giới. Đặc
biệt bằng hình thức liên kết với các trường chuyên nghiệp đào tạo được nguồn
nhân lực tại chỗ, tại các địa phương, phục vụ nhu cầu học tập cho cán bộ,
công chức, viên chức của các địa phương trong cả nước.
Tuy nhiên trong liên kết giáo dục, đào tạo vẫn biểu hiện những yếu điểm
trong công tác quản lí và bảo đảm về chất lượng như: Chạy đua theo số lượng,
hiệu quả quản lí còn yếu dẫn tới chất lượng đào tạo chưa cao. Đặc biệt đối với
các mô hình liên kết đào tạo hiện nay còn nhiều bất cập trong công tác quản lí
đối với cả đơn vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo. Vì vậy, chưa tạo
được lòng tin tưởng tuyệt đối đối với người học và xã hội.

Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Nội vụ, có
chức năng, nhiệm vụ: Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực có trình độ
trên đại học, đại học và thấp hơn trong lĩnh vực công tác nội vụ và các ngành
nghề khác có liên quan; nghiên cứu khoa học và triển khai áp dụng tiến bộ
khoa học công nghệ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là cơ quan nhà nước có chức năng hành
chính của những cán bộ quản lí nhà trường ở đây là quản lí giáo dục; nhưng
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội là một đơn vị sự nghiệp trong hệ thống bộ
máy quản lí giáo dục còn có chức năng quản lí hành chính. Hiệu trưởng Nhà
trường là người chịu trách nhiệm lớn nhất và chịu sự lãnh đạo của Bộ Nội vụ
quản lí hành chính và Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lí chuyên môn.
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội có 44 năm xây dựng và trưởng thành và
tiền thân là Trường Trung cấp Văn thư Lưu trữ TW1 trước năm 2001 sau đó
nâng cấp lên thành Trường Cao đẳng Văn thư Lưu trữ TW1 trực thuộc Cục
1
Văn thư Lưu trữ; đến năm 2003, Trường chuyển đổi cơ cấu tổ chức sang trực
thuộc Bộ Nội vụ, đến năm 2005 đổi tên thành Trường Cao đẳng Nội vụ Hà
Nội đến năm 2011 nâng cấp thành Trường Đại học Nội vụ Hà Nội thuộc Bộ
Nội vụ.
Trong công tác quản lí hoạt động nhà trường nói chung và hoạt động liên
kết đào tạo nói chung Nhà trường luôn nêu cao tinh thần, trách nhiệm,
phương pháp quản lí theo tôn chỉ mục đích có xây dựng theo “triết lý” của
ISO riêng biệt là:
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm của cán bộ, viên chức đối với vấn đề
chất lượng và sự thỏa mãn của khách hàng;
- Hình thành văn hóa làm việc bài bản, khoa học thông qua thiết lập và
áp dụng các quy trình chuẩn để thực hiện và kiếm soát trong quá trình đào
tạo; qua đó giúp phòng ngừa sơ suất, sai lỗi, nâng cao chất lượng và sự thỏa
mãn của khách hàng;
- Hệ thống văn bản quản lí chất lượng sẽ giúp cán bộ, viên chức mới

vào việc một cách nhanh chóng và là nền tảng quan trọng để duy trì và cải
tiến các hoạt động quản lí tại Trường;
- Các yêu cầu về theo dõi sự không phù hợp, theo dõi sự hài lòng của
khách hàng, đánh giá nội bộ, đánh giá trong, đánh giá ngoài… tạo cơ hội để
thường xuyên thực hiện các hành động khắc phục, phòng ngừa và cải tiến
công tác quản lí liên kết đào tạo để “NGÀY HÔM NAY TỐT HƠN NGÀY
HÔM QUA VÀ NGÀY MAI TỐT HƠN NGÀY HÔM NAY”;
- Hệ thống quản lí bảo đảm chất lượng giúp phân định “RÕ NGƯỜI -
RÕ VIỆC”, góp phần xây dựng môi trường làm việc minh bạch, chuyên
nghiệp và hiệu quả;
- Một hệ thống quản lí chất lượng hiệu quả là sự đảm bảo về khả năng cung
cấp sản phẩm dịch vụ thỏa mãn các yêu cầu của khách hàng một cách ổn định.
2
Là viên chức phụ trách mảng khảo thí và bảo đảm chất lượng của
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, nên tôi có nhiều trăn trở trong việc liên kết
đào tạo của Nhà trường cũng là nhiệm vụ trọng tâm của lãnh đạo đơn vị đã
giao cho tôi phụ trách, vì thế nên tôi thấy cần thiết phải tìm ra những giải
pháp quản lí nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả các lớp liên kết đào tạo
theo hình thức liên kết nói riêng và bảo đảm chất lượng đào tạo của Nhà
trường nói chung. Với những băn khoăn, trăn trở đó tôi mạnh dạn chọn đề
tài nghiên cứu: “Quản lí hoạt động liên kết đào tạo của Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng” làm đề tài luận văn của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực trạng để đề xuất biện pháp quản lí các
hoạt động liên kết đào tạo tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội nhằm góp phần
bảo đảm chất lượng đào tạo của Nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động liên kết đào tạo của trường Đại học theo hướng đảm bảo chất lượng.

3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lí hoạt động liên kết đào tạo tại Trường Đại học Nội vụ Hà Nội
theo hướng bảo đảm chất lượng.
4. Giả thuyết khoa học
Liên kết đào tạo chính là nhằm thực hiện chủ trương đào tạo theo nhu
cầu xã hội; huy động tiềm năng của các trường nhằm đào tạo nguồn nhân lực
tại chỗ cho địa phương. Đồng thời tạo cơ hội học tập cho mọi người, góp
phần thực hiện mục tiêu công bằng và xã hội hoá giáo dục.
Tuy nhiên hoạt động liên kết đào tạo nay đang gặp phải nhiều khó khăn,
vướng mắc. Nếu đề xuất và thực thi từng bước các biện pháp quản lí đối với
3
các hoạt động liên kết đào tạo trên cơ sở khoa học quản lí giáo dục, nhất là
theo hướng bảo đảm chất lượng hiện nay và phù hợp với thực tiễn thì sẽ góp
phần nâng cao chất lượng đào tạo của các lớp này của Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và nguồn lực cho ngành
Nội vụ trong giai đoạn hiện nay.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận về quản lí hoạt động liên kết đào tạo theo hướng bảo
đảm chất lượng.
5.2. Thực trạng quản lí hoạt động liên kết đào tạo của Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng.
5.3. Biện pháp quản lí hoạt động liên kết đào tạo của Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng.
6. Giới hạn đề tài
- Đề tài tập trung nghiên cứu về quản lí hoạt động liên kết đào tạo tại
các lớp bậc đại học của Trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
- Nghiên cứu công tác quản lí các lớp học tại Trường Đại học Nội vụ
Hà Nội do Nhà trường làm chủ trì đào tạo từ năm 2011 đến 2014.
7. Ý nghĩa khoa học của đề tài
7.1. Lý luận

Góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, cơ sở khoa học trong việc quản lí
hoạt động liên kết đào tạo theo hướng bảo đảm chất lượng đào tạo.
7.2. Thực tiễn
Đề xuất những biện pháp quản lí phù hợp với thực tế và có tính khả thi
góp phần nâng cao chất lượng đào tạo các lớp liên kết do Trường Đại học Nội
vụ Hà Nội chủ trì hay phối hợp tổ chức. Qua đó góp phần nhân rộng, chia sẻ
kinh nghiệm quản lí này cho các cơ sở đào tạo khác trong phạm vi cả nước.
4
8. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
8.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tìm hiểu và phân tích các quan điểm lý luận thể hiện trong các văn kiện
của Đảng, văn bản của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Nội vụ, nghiên
cứu trên sách, báo chí, các tài liệu chuyên môn liên quan đến nội dung của đề tài.
8.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Chủ yếu là thu thập, xử lý các dữ liệu, tìm hiểu thực trạng. Các phương
pháp cơ bản: Phân tích, tổng hợp, đánh giá, nêu vấn đề và đề xuất những giải
pháp kết hợp với trao đổi, phỏng vấn, điều tra và thử nghiệm.
8.3. Phương pháp toán thống kê: Sử dụng công thức toán thống kê để
tính toán số liệu thu hoạch được.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo
và các phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lí hoạt động liên kết đào tạo theo
hướng bảo đảm chất lượng trong các trường đại học;
Chương 2: Thực trạng quản lí hoạt động liên kết đào tạo tại Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng;
Chương 3: Biện pháp quản lí hoạt động liên kết đào tạo của Trường Đại
học Nội vụ Hà Nội theo hướng bảo đảm chất lượng.
5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT ĐÀO
TẠO THEO HƯỚNG BẢO ĐẢM CHẤT LƯỢNG
TRONG CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề
1.1.1. Trong nước
Hoạt động liên kết (phối hợp) đào tạo được triển khai mạnh mẽ ngay
sau khi chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải phóng,
đất nước chuyển sang giai đoạn “xây dựng XHCN ở miền Bắc và giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước”. Đại hội Đảng lần thứ III (1960) đã đề ra
chủ trương và hoạt động liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục ở địa
phương với các cơ sở giáo dục đại học ở Trung ương.
Năm 1975, đất nước hoàn toàn thống nhất, đại hội Đảng lần thứ
IV(1976) đã chỉ rõ: Phải tích cực xây dựng hệ thống đào tạo bồi dưỡng tại
chức với nhiều hình thức học tập đảm bảo cho mọi người lao động có thể suốt
đời tham gia học tập, trau dồi nghề nghiệp, mở rộng kiến thức.
Trong vòng 10 năm từ 1975 đến 1985 hoạt động liên kết đào tạo đã
tuyển và đào tạo hơn 60.000 sinh viên, hơn 80% các tỉnh, thành phố có trung
tâm đào tạo bồi dưỡng.
Như vậy đã xuất hiện cụm từ “đào tạo và bồi dưỡng”, “mạng lưới hoạt
động liên kết đào tạo” với ý nghĩa là để được mọi người dân được học tập và
học tập có thể cấp hoặc không cấp văn bằng.
Nghị quyết số 73/NQ - HĐBT năm 1983 của Hội đồng Bộ trưởng đã cho
phép thành lập trung tâm đào tạo, bồi dưỡng tại các tỉnh trên cơ sở các tổ chức
đa dạng ở địa phương đã hình thành từ trước. Đây là một mô hình cơ sở giáo
dục mới dựa trên sự liên kết của các trường đại học với các tỉnh, thường là một
Trường ĐH liên kết với nhiều trường. Đây là một sáng kiến rất quan trọng, tạo
6
một bước tiến của công tác đào tạo, bồi dưỡng đại học giữa các cơ sở giáo dục
đại học ở trung ương với các cơ sở giáo dục ở địa phương, từ xa [9].

Sự liên kết này là một kinh nghiệm thiết thực, cần tổng kết và phát huy,
nâng cao vai trò của các Trường ĐH trong đào tạo liên kết ở các bậc học, cấp
học, hình thức học khác nhau.
Với đường lối đổi mới được đề ra tại đại hội VI (1986), đối với lĩnh
vực giáo dục, nghị quyết Đại hội đã ghi: “Phải bố trí hợp lý cơ cấu hệ thống
giáo dục, thể hiện tính thống nhất của quá trình giáo dục, bao gồm nhiều hình
thức đào tạo, bồi dưỡng chính quy và không chính quy, tập trung, tại chức…”.
Từ những năm 1988 - 1991 đã thí điểm hệ đào tạo đại học không chính
quy với những hình thức mới đi đôi với những tên gọi mới như đại học mở
rộng, tự học có hướng dẫn, đào tạo từ xa, đại học mở (cả nước thành lập 2
Viện đại học mở tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) [3].
Những năm gần đây, trong các báo, tạp chí thuộc chuyên ngành giáo
dục như tạp chí giáo dục, tạp chí phát triển giáo dục, tạp chí dạy và học, báo giáo
dục và thời đại hay trong các báo cáo tổng kết công tác giáo dục thường xuyên
hàng năm của Bộ giáo dục và đào tạo cũng đã đề cập tới công tác quản lí các lớp
đại học hệ liên kết đào tạo. Tuy nhiên hiện nay còn có rất ít công trình nghiên
cứu có hệ thống, có thực nghiệm tại một cơ sở giáo dục cụ thể.
Với băn khoăn đó, trong luận văn này chúng tôi mạnh dạn phân tích
một cách tương đối toàn diện, có hệ thống thực trạng của sự liên kết giữa
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội với các trường Cao đẳng, Đại học, Trung tâm
giáo dục thương xuyên, Trường Chính trị và các cơ sở đào tạo khác trong
công tác quản lí hoạt động liên kết đào tạo theo hướng bảo đảm chất lượng.
Bước đầu đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lí nhằm kết hợp chặt
chẽ giữa đơn vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo để nâng cao chất
lượng đào tạo các lớp cao đẳng, đại học theo hình thức liên kết tại đơn vị.
7
1.1.2. Nước ngoài
Công trình nghiên cứu có tên “Vocation Education and Training
Today: Challeges and Responses” (Giáo dục và Đào tạo ngày nay: Thách thức
và sự ứng phó) của George Psacharopoulos công tác tại Ngân hàng Thế giới–

Washington USA, tác giả đã đưa ra các giải pháp phát triển đào tạo. Theo tác
giả, đào tạo có vai trò rất quan trọng trong các vấn đề giải quyết thất nghiệp
cho thanh niên; giải quyết việc thiếu kỹ thuật viên lành nghề, chuyên nghiệp
hóa để đáp ứng yêu cầu toàn cầu hóa; truyền bá tri thức công nghệ đồng thời
cũng là con đường cho những học sinh không muốn tiếp tục học văn hóa theo
đường chính quy truyền thống.
Trên tạp chí của Viện hoạch định giáo dục quốc tế, số 4, tháng 10 -
12/2007, trong bài “Vocational education and training for youth” (Giáo dục
và Đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên) – của David Atchoarena, tác giả nêu
ra thực trạng những khó khăn của thanh niên trong việc hội nhập thị trường
lao động. Vì thế, thanh niên cần phải được chuẩn bị tốt trước khi tham gia thị
trường lao động, như tư vấn hướng nghiệp và đào tạo phù hợp với nhu cầu xã
hội.
Các mô hình liên kết đào tạo và quản lí liên kết ở nước ngoài:
Ở các nước phát triển, việc liên kết đào tạo giữa các cơ sở giáo dục đã
được thực hiện ngay từ khi nền công nghiệp phát triển. Trong điều kiện đó,
các đơn vị phối hợp liên kết đào tạo có vai trò và tác động tích cực, hiệu quả
đến hoạt động đào tạo và đã xuất hiện nhiều mô hình liên kết đào tạo giữa các
đơn vị chủ trì và đơn vị phối hợp. Trong quá trình phát triển xã hội, sự phát
triển của nền kinh tế tri thức cùng với sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học -
kỹ thuật – công nghệ đã tạo áp lực ngày càng tăng lên các sơ sở giáo dục. Các
cơ sở giáo dục phải thường xuyên bồi dưỡng nâng cao kiến thức, kỹ năng cho
giảng viên và nhất là các cơ sở vật chất, thiết bị cho việc thực tập, thực hành
của học viên phải theo kịp với môi trường làm việc thực tiễn đang biến động
hàng ngày. Thực tế các cơ sở giáo dục không thể tự đầu tư đáp ứng nhu cầu đòi
8
hỏi khách quan này, chính vì thế hoạt động liên kết đào tạo ngày càng phát
triển và luôn có những nội dung mới, mô hình mới. Do đó, nhiều mô hình liên
kết đào tạo giữa cơ sở giáo dục và địa phương, đơn vị sử dụng lao động đã ra
đời. Đó là điều tất yếu trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho nhu cầu phát

triển của xã hội. Có thể nêu lên một vài mô hình liên kết đào tạo điển hình trên
thế giới như sau:
- Mô hình “hệ thống đào tạo kép” (Dual System)
Mô hính “hệ thống đào tạo kép” là mô hình đào tạo nghề liên kết đào tạo
giữa cơ sở giáo dục với đơn vị sử dụng lao động được hình thành và phát triển
mạnh ở CHLB Đức, do các nhà nghiên cứu người Đức như: Maslankowski,
Lauterbach, Hegelhemer, Zedler, Jurgen W. Mollemann đề xuất và phát triển.
- Mô hình liên kết “đào tạo luân phiên” (Alternation) ở Pháp
Mô hình đào tạo luân phiên liên kết giữa cơ sở giáo dục với đơn vị sử
dụng lao động là mô hình đào tạo nghề đặc trưng của Cộng Hòa Pháp, do
Viện Đào tạo luân phiên về xây dựng công trình công cộng (IF ABTP:
Institut de Formation par Alternace du Batiment et des Travaux Publics) ở
Pháp đề xuất.
- Mô hình đào tạo hợp tác (Cooperative Training) tại Thái Lan
Mô hình này được xuất hiện và phát triển mạnh ở Thái Lan và một số
nước trong vùng [15, trang 89].
Sau đây tôi xin tổng quan một số nét căn bản, đặc trưng về lịch sử
nghiên cứu của vấn đề để cái nhìn tổng thể, làm căn cứ lý luận cho việc triển
khai nghiên cứu đề tài này:
Tác giả Thái Nguyễn Bối - Trung Quốc (1868) đã có khá nhiều công
trình nghiên cứu về giáo dục đào tạo, cuốn sách: “Bàn về chương trình giảng
dạy” của ông đã đã cho thấy kinh nghiệm về giáo dục, trong đó có đào tạo đại
học. Tại trường Bắc Kinh, ông đã thực hiện chính sách tự do học thuật và đã
thành công: Tôn trọng các lý thuyết khoa học, noi theo mẫu hình về các
trường Đại học trên thế giới, chấp nhận mọi ý kiến và quan điểm theo nguyên
9
tắc tự do tư tưởng bởi lẽ các trường phái học thuật khác nhau có thể tự biện hộ
cho quan điểm của mình và không bị loại bỏ theo nguyên tắc cho chọn lọc tự
nhiên, được phép phát triển tự do bất chấp những sung đột và mâu thuẫn. Tiêu
chí để tuyển chọn giáo viên là tài năng và kiến thức, việc giảng dạy của họ phải

dựa theo nguyên tắc tự do tư tưởng. Trường đại học phải là diễn đàn chính cho
việc trao đổi văn hóa của chí thức, phải được tự do học thuật. Nhờ áp dụng
những quan điểm mà Trường Đại học Bắc Kinh đã trở thành một cộng đồng trí
thức đa dạng, thu hút được nhiều học giả có tên tuổi đại diện cho nhiều trường
phái khác nhau. Điều này đã làm cho nên giáo dục Trung quốc có nhiều cải tổ
sâu sắc và mang tính chất một nền giáo dục dân chủ.
Ông đưa ra các nguyên lý quản lí và điều hành nên giáo dục đại học bằng
hai yếu tố căn bản:
- Tìm kiếm và chấp nhận những đề xuất của xã hội;
- Khuyến khích việc cải tiến ở các nơi cần thiết.
Ngay từ những năm 1916 ông đã đưa ra thực hiện nhiều cải cách trong
quản lí đào tạo ở Trường Đại học Bắc Kinh, đưa trường thành mẫu mực của
nhà trường Trung Quốc lúc bấy giờ, cụ thể:
- Xây dựng ban quản lí;
- Lập hội đồng giáo sư;
- Cho phép sinh viên tự thiết lập các tổ chức của mình.
Bài học kinh nghiệm từ cải cách quản lí đào tạo đại học của tác giả Thái
Nguyên Bội đã gợi ý cho chúng ta cách thức quản lí đào tạo đại học đem lại
hiệu quả trên cơ sở đề cao tài năng và cởi mở, tự do dân chủ trong đào tạo.
* John Dewey (1859) đưa ra một luận điểm khá quan trọng; Mục đích
của giáo dục nhà trường là đảm bảo quá trình giáo dục liên tục bằng cách tổ
chức các hoạt động tích cực của người học, xu hướng học tập từ cuộc sống và
chủ động tạo dựng nên điều kiện sống chính là sản phẩm tốt nhất từ hoạt động
10
giáo dục nhà trường. Trong “lý thuyết về nền sư phạm” ông đã đề cập đến
khái niệm “giáo dục”, các yếu tố căn bản của chương trình dạy học, phương
pháp dạy học, vị trí của người giảng viên. Ông đã đưa ra các lý thuyết và
nguyên tăc giáo dục: giáo dục là cuộc sống, nhà trường là xã hội, lấy người
học làm trung tâm. Đó là những quan điểm giáo dục đào tạo tiến bộ, hiện đại
cần được phát huy.

* Ở Pháp [21; trang 192] Từ những năm 1968, giáo dục ở Pháp đã có rất
nhiều đổi mới một cách sâu sắc: liên kết giữa các nhà trường, liên kết giữa
giảng dạy và nghiên cứu, các trường đại học trở nên đại học đa ngành và tự
trị, mở rộng cho tất cả các đối tượng khác ở bên ngoài. Hầu hết các trường đại
học công lập được đặt dưới sự bảo trợ của Bộ Quốc gia giáo dục, tất cả các
trường đại học chịu sự quản lí của Tổng vụ giáo dục đại học phục thuộc nhiều
bộ khác nhau. Hội đồng quốc gia giáo dục đại học bao gồm cả đại biểu là giáo
viên và sinh viên các trường và các nhân vật bên ngoài, hội đồng tư vấn cho
Bộ trưởng tất cả các vấn đề liên quan đến giáo dục đại học. Đặc trưng của
giáo dục đại học ở Pháp là: khu vực công lập chiếm ưu thế, giáo dục miễn phí
đối với các trường công lập, tuyển sinh được mở rộng bởi các kỳ thi tuyển.
* Ở Hoa Kỳ [21; trang 194] Ở đây có hai loại trường là trường công lập
và trường tư, nhiệm vụ chính của trường đại học là đào tạo và nghiên cứu
khoa học. Quy chế đạo tạo đại học có kiểm định chất lượng đào tạo do các
trường và quốc gia lập nên nhằm tự đánh giá và đánh giá ngoài. Họ lập ra
trong phạm vi nghề nghiệp khác nhau, làm việc độc lập theo chuyên môn
riêng, thiết lập các tiêu chuẩn để kiểm định chất lượng đào tạo. Ngoài ra còn
có các tổ chức khác phối hợp với các tổ chức trong trường đại học như: Hội
đồng giáo dục Hoa Kỳ ACE và các hiệp hội khác nhau… Các trường đại học
đều hoạt động theo nguyên tắc tự quản và tự do về học thuật, bộ phận quản lí
11
cao nhất là Ban quản trị gồm các thành viên bên ngoài trường là giới chuyên
môn về tài chính và công nghiệp.
* Ở Trung Quốc thực hiện [21; trang 201] Giáo dục đại học có nhiều loại
trường khác nhau do địa phương, Nhà nước thiết lập: Đại học phát thanh, Đại
học hàm thụ, Đại học truyền thanh truyền hình, Đại học nông dân, Học viện
giáo dục, Học viên cán bộ quản lí… ngoài các loại hình nêu trên, người học
có thể đạt được trình độ tốt nghiệp chuyên khoa mà không cần theo học ở bất
kỳ trường nào – đó là hình thức học kiểu mới theo chế độ “khảo thí tự học đại
học”, kết hợp ba yếu tố: cá nhân tự học, xã hội giúp đỡ, Nhà nước chỉ đạo.

* Ở Nhật Bản [21; trang 202] Các trường đại học do Bộ Giáo dục quản lí,
việc thành lập các trường này phải do Bộ Giáo dục chuẩn y. Việc quản lí các
trường đại học đa dạng, có nhiều cách quản lí trong đào tạo: Hành chính,
chính trị, định hướng thị trường. Căn bản nhất là sự phối hợp của Chính phủ
do Bộ Giáo dục thực hiện, đặc biệt là với các trường tư thục, kiểm tra chất
lượng đào tạo bằng cách ra quyết định về mặt kế hoạch trên cơ sở kiểm định
chất lượng, Bộ Giáo dục có trách nhiệm hướng dẫn quản lí khi tiến hành
thanh tra các cơ sở đào tạo đại học. Các khoa đào tạo hàm thụ vào buổi tối
đều được coi là tương đương chính quy và tổ chức các đại học và được cấp
bằng đại học, Chính phủ Nhật còn thành lập trường đại học truyền sóng dùng
truyền thanh và truyền hình làm phương tiện truyền hình làm phương tiện
truyền đạt sư phạm.
* Ở Australia [21; trang 206 - 207] Giáo dục đại học được thực hiện ở
trường đại học và trường cao đẳng, có quan hệ chặt chẽ với chính quyền của
bang thông qua các tổ chức trung gian như: Hội đồng của ủy ban đại học, Hội
đồng Hiệu phó các trường đại học, Hiệp hội giáo viên và Hiệp hội sinh viên.
Ban quản trị trường đại học là một Hội đồng, đứng đầu là một nhân vật có
danh tiếng trong cộng đồng, do Hội đồng bầu cử. Những trường đại học do
12
Chính phủ tài trợ đều là trường hỗn hợp, được tổ chức rộng rãi các khoa đào
tạo đại học, sau đại học và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Vấn đề kiểm
định chất lượng đại học cũng được quan tâm đặc biệt. Chính phủ Liên bang
có một ủy ban đảm bảo chất lượng giáo dục đại học, tổ chức này báo cáo công
khai chất lượng các trường đại học về mục tiêu lớn cụ thể. Các tổ chức
chuyên môn thuộc các ngành nghề khác nhau kiểm định chất lượng các
chương trình đào tạo đại học và các khoa học của trường – kiểm định chương
trình đào tạo, quy trình làm việc của tổ chức này rất chặt chẽ và các báo cáo
được công bố rộng rãi.
Như vậy, điểm qua các nghiên cứu về quản lí đào tạo đại học ngoài nước
cho chúng ta ít nhiều những gợi ý trong việc chắt lọc để lựa chọn những kinh

nghiệm góp phần định hình trong quản lí đào tạo đại học tại Trường Đại học
Nội vụ Hà Nội trong các hoạt động, quá trình hợp tác, liên kết với các cơ sở
đào tạo khác để thực hiện nhiệm vụ đào tạo đại học nhằm đạt được những
thành quả cao trong công tác quản lí đào tạo và bảo đảm chất lượng trong
hoạt động liên kết đào tạo dưới mọi hình thức khác nhau.
1.2. Một số khái niệm và thuật ngữ cơ bản
1.2.1. Quản lí và quản lí chất lượng
1.2.1.1. Quản lí
Quản lí là một hiện tượng xã hội, là một dạng hoạt động đặc thù của con
người, là sản phẩm và là yếu tố gắn chặt với hợp tác lao động. Theo C.Mác
thì bất cứ lao động xã hội nào hay lao động chung trực tiếp nào cũng đều ít
nhiều cần đến sự quản lí.
Một cách hình ảnh C.Mác đã lột tả bản chất của quản lí và các hoạt động
lao động để điều khiển lao động. Ông đã nói: “Một nghệ sĩ vĩ cầm thì tự điều
khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng” để nêu bật lên sự tất yếu và vô
13
cùng quan trọng của hoạt động quản lí trong quá trình phát triển của xã hội
loài người.
Có thể nói hoạt động quản lí vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật.
Nó điều khiển một hệ thống động xã hội ở tầm vi mô cũng như vĩ mô. Vì vậy
quản lí được tiếp cận bằng nhiều cách khác nhau.
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì quản lí là quá trình đạt đến mục tiêu
của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo,
lãnh đạo và kiểm tra [22].
Bất luận một tổ chức nào, có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều
cần phải có sự quản lí và có người quản lí để tổ chức hoạt động và đạt được
mục đích của mình. Người quản lí là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân
lực và nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ
chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Trên phương diện hoạt động của một tổ chức thì: Quản lí là tác động có

mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lí đến tập thể những người lao động
nói chung là khách thể quản lí nhằm thực hiện những mục tiêu dự kiến. Hoặc
hoạt động quản lí là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lí
đến khách thể quản lí trong một tổ chức, nhằm làm cho tổ chức vận hành và
đạt được mục đích của tổ chức.
Có thể nói: Quản lí là sự tác động liên tục, có định hướng của chủ thể
quản lí (người quản lí hay tổ chức quản lí) lên khách thể quản lí về mặt chính
trị, văn hoá, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật, chính sách, nguyên
tắc, phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều kiện
cho sự phát triển của đối tượng.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Hoạt động quản lí bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt đến
14
hiệu quả nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn. Trong công việc đòi hỏi phải
có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý [1].
Theo Henri Fayol (1841 - 1925) là một kỹ nghệ gia người Pháp, cống hiến
lớn nhất của Fayol là xuất phát từ các loại hình “hoạt động quản lí”, ông là
người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản: kế hoạch hoá, tổ
chức, chỉ huy, phối hợp và kiểm tra [22].
Theo quan điểm hình thức trong quản lí cho rằng các hành động quản lí
thích hợp phụ thuộc vào các tham số riêng của mỗi tình huống cụ thể. Do đó
thay vì tìm kiếm những nguyên lý phổ quát áp dụng cho mọi tình huống, mọi
hoàn cảnh, nên xác định các nguyên lý, tình huống cho phép vạch ra cách
thức hành động tùy thuộc vào đặc điểm của mỗi tình thế, hoàn cảnh cụ thể
nhất định. Quan điểm tình huống có thế mạnh ở cách tiếp cận, có tính chẩn
đoán của mình, khác với cách tiếp cận: “Một biện pháp tốt nhất” do các
thuyết khác đề xướng. Và chính tính linh hoạt, năng động trong hành động
quản lí do cách tiếp cận như vậy tạo nên cũng là điểm mạnh của quan điểm
này. Thuyết này hướng dẫn người quản lí nên sử dụng các thuyết đã có trong
các tình huống cụ thể chứ không đề xuất một “bài bản” gì mới mẻ hoàn toàn.

Theo tác giả Mary Parker Follett thì quản lí là một quá trình động, liên
tục, kế tiếp nhau chứ không tĩnh tại. Bà khẳng định rằng một vấn đề đã được
giải quyết, thì trong quá trình giải quyết nó, người quản lí sẽ phải đương đầu
với những vấn đề mới nảy sinh. Bằng những quan sát trực tiếp hoạt động của
người quản lí, bà đi đến kết luận rằng sự phối hợp là điều kiện sống còn của
sự quản lí hiệu quả. Bà đã đề xuất 4 nguyên tắc phối hợp mà người quản lí
cần phối hợp: Sự phối hợp sẽ thành đạt nhất nếu những người chịu trách
nhiệm ra quyết định có sự tiếp xúc với nhau. Sự phối hợp ở những giai đoạn
đầu của việc lập kế hoạch và triển khai dự án có một ý nghĩa quyết định. Sự
phối hợp phải chú ý tới mọi nhân tố trong một tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Và sự phối hợp phải được duy trì liên tục [24].
15
Quản lí tùy thuộc vào điều kiện, tình huống cụ thể dẫn đến sự vận động
của đối tượng đến hiệu quả tối ưu, có nghĩa là người quản lí khi vận dụng lý
thuyết quản lí vào công việc phải hết sức linh hoạt và mềm dẻo vì “quản lí
vừa là một khoa học, vừa là một nghệ thuật”.
Từ những quan điểm trên, chúng tôi cho rằng: Quản lí là sự tác động liên
tục, có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lí lên khách thể quản lí của
một tổ chức thông qua quá trình lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra
nhằm đạt được mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
1.2.1.2. Quản lí chất lượng
Cũng giống như quan điểm về chất lượng sản phẩm, trên thế giới đang
tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về QLCL. Tùy theo từng thời kỳ, từng
góc độ xem xét và mục đích khác nhau, song tất cả đều có những đóng góp
trong việc thúc đẩy khoa học quản trị chất lượng không ngừng hoàn thiện
và phát triển.
Quản lí chất lượng tổng thể là khái niệm đi kèm với các khái niệm như
văn hóa chất lượng và sự phù hợp với mục tiêu. Đó là một triết lý với rất
nhiều gợi ý thực tiễn cho bản thân nó – sự ghi nhớ và sự thực hiện. Đặc
biệt nó là một triết lý có thể được tóm tắt đơn giản như là “làm mọi thứ một

cách đúng đắn” để tối đa hóa tính cạnh tranh và lợi nhuận (Juran, 1964;
Crosby, 1979).
Dưới đây là một số quan điểm về QLCL của các nhà quản lí chất lượng
hàng đầu thế giới:
- Theo Kishikawa một chuyên gia chất lượng nổi tiếng của Nhật Bản:
QLCL sản phẩm có nghĩa là nghiên cứu, thiết kế, triển khai, sản xuất và bảo
dưỡng một số sản phẩm có chất lượng, sản phẩm phải kinh tế nhất, có ích
nhất và bao giờ cũng phải thỏa mãn yêu cầu của khách khàng;
- Theo A.G Rbertson nhà quản lí người Anh: QLCL sản phẩm là ứng
dụng các biện pháp, thủ tục, kiến thức kinh tế, kỹ thuật đảm bảo cho sản
16
phẩm đang hoặc sẽ được sản phẩm phù hợp với thiết kế, các yêu cầu trong
hợp đồng kinh tế, các yêu cầu trong hợp đồng kinh tế bằng con đường hiệu
quả nhất;
- Theo tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản (Jis - 84): QLCL là hệ thống
các biện pháp tạo điều kiện sản xuất, tiết kiệm những hàng hóa có chất lượng
thỏa mãn yêu cầu người tiêu dùng;
- Theo quan điểm của Philip B.Crosby: QLCL là phương tiện có tính
chất hệ thống đảm bảo việc tôn trọng tổng thể cả các thành phần của một kế
hoạch hành động;
Hệ thống quản lí chất lượng là tập hợp các yếu tố liên quan và tương tác
để lập chính sách, mục tiêu chất lượng và đạt được các mục tiêu đó.
Hệ thống quản lí chất lượng giúp các tổ chức phân tích yêu cầu của khách
hàng, của thị trường, xác định các quá trình sản sinh ra sản phẩm, dịch vụ
được khách hàng, thị trường được chấp nhận và được duy trì các quá trình đó
trong điều kiện kiểm soát. Hệ thống QLCL có thể dùng làm cơ sở cho các
hoạt động cải tiến chất lượng liên tục, ngày càng thỏa mãn hơn các yêu cầu
của khách hàng và các bên liên quan.
Trong đào tạo, QLCLĐT là quá trình tổ chức thực hiện có hệ thống các
biện pháp quản lí toàn bộ quá trình đào tạo nhằm đảm bảo không ngừng nâng

cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu của người sử dụng lao động.
Hệ thống quản lí chất lượng QMS (Quality Management System) được
xem như là một phương tiện cần thiết để thực hiện các chức năng QLCL. Hệ
thống chất lượng là cơ cấu tổ chức trách nhiệm, thủ tục, quá trình và nguồn
lực cần thiết để QLCL. Trong đào tạo, hệ thống chất lượng là cơ cấu tổ chức,
QLCLĐT ở phạm vi toàn ngành hoặc từng cơ sở đào tạo. Dưới đây là giản đồ
nhân quả của Ishikawa và một số mô hình về quản lí chất lượng đào tạo
Nguyên
vật liệu
Thiết bị kỹ thuật
công nghệ
Tổ chức
quản lí
Chỉ tiêu chất
lượng sản phẩm
Con người Cơ chế quản lí
Nguyên nhân
Kết quả
17
Sơ đồ 1.1. Giản đồ nhân quả của Ishikawa
Sơ đồ1.2. Mô hình kiểm tra chất lượng sự phù hợp (QC) trong đào tạo
1.2.2. Liên kết và liên kết đào tạo
1.2.2.1. Liên kết
Liên kết là “kết, buộc lại với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau” (từ điển Từ
và Ngữ Hán Việt).
Theo Đại từ điển Tiếng Việt - NXB Văn hoá - Thông tin 2005 (Nguyễn
Như Ý chủ biên) thuật ngữ “liên kết” cũng được định nghĩa là: “Kết lại với
nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ nhằm mục đích nào đó” [34].
Khái niệm liên kết phản ánh các mối quan hệ chặt chẽ, ràng buộc lẫn nhau
giữa các thành phần trong một tổ chức hoặc giữa các tổ chức với nhau nhằm

hướng đến một mục đích chung nào đó. Tính hướng đích là tiêu điểm, là cơ
sở và động lực của các mối liên kết giữa chúng. Sự liên kết giữa các tổ chức
theo một mục đích nào đó (lợi ích chung, giải quyết một vấn đề chung…) tạo
Kiểm tra
chất lượng
đầu vào
Tiêu chí
đầu vào
Tiêu chí
đầu ra
Quá trình đào tạo
Kiểm tra
chất lượng
đầu ra (QC)
Đạt
Không đạtKhông đạt
Đạt
18
nên một sức mạnh mới, khả năng mới mà từ thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ
không thể có [12]. Tuỳ theo từng loại hình mà có các mối liên kết bên trong
hoặc liên kết bên ngoài của một tổ chức (nhà trường, doanh nghiệp, trường
đại học) trong bối cảnh và môi trường kinh tế - xã hội nhất định. Nói đến
liên kết là nói đến các nội dung sau:
- Mục đích, mục tiêu liên kết: phản ánh lợi ích, mong muốn chung và cụ
thể của từng tổ chức thành phần tham gia liên kết như lợi ích kinh tế, lợi ích
xã hội, lợi ích môi trường phát triển
- Các thành phần, tổ chức liên kết: bao gồm các thành phần, tổ chức
độc lập, có tư cách pháp nhân thuộc nhiều loại hình, tổ chức kinh tế - xã hội,
giáo dục - đào tạo, cơ quan quản lí Nhà nước tham gia với những vai trò, vị
trí nhất định trong liên kết.

- Các hình thức liên kết: Tùy theo mục đích và tính chất liên kết mà có
thể có theo hình thức tổ chức các khóa đào tạo liên kết, thỏa thuận phối hợp
thực hiện các dự án nghiên cứu hay phát triển các sản phẩm dịch vụ, các hợp
đồng kinh tế trong hợp tác nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực, nghiên
cứu và sản xuất các sản phẩm mới
- Các nội dung liên kết: Tùy thuộc và mục đích, đối tượng và hình thức
liên kết mà cùng các nội dung liên kết khác nhau bao gồm từ các nội dung,
các hoạt động liên kết: đầu tư, hỗ trợ tài chính, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực,
nghiên cứu KH&CN đến các hoạt động sản xuất - kinh doanh với vai trò, vị
trí, trách nhiệm tham gia theo thỏa thuận của các bên tham gia liên kết.
- Cơ chế liên kết: Là cách thức tổ chức, quản lí và các nguyên tắc vận
hành các mối liên kết bảo đảm đạt được mục tiêu mong muốn và trách nhiệm,
quyền lợi, lợi ích của các bên tham gia liên kết. Trên thực tế có thể phối hợp
nhiều cơ chế khác nhau như cơ chế thị trường (theo quy luật cung - cầu, giá
trị, giá cả ), cơ chế hợp tác, liên kết mở, liên kết toàn diện…
19

×