Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Di cảo thơ của Chế Lan Viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.14 KB, 22 trang )

CHẾ LAN VIÊN VÀ DI CẢO THƠ
1. Tác giả
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Chế Lan Viên
1.1.1 Cuộc đời
- Chế Lan Viên tên thật là Phan Ngọc Hoan, ( 20/10/1920 ) tại xã Cam An, huyện
Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung thì
thôi học, đi dạy tư kiếm sống.
- Ông bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi.
- Năm 17 tuổi, với bút danh Chế Lan Viên, ông xuất bản tập thơ đầu tay nhan
đề Điêu tàn, có lời tựa đồng thời là lời tuyên ngôn nghệ thuật của "Trường Thơ Loạn".
Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở nên nổi tiếng trên thi đàn Việt Nam.
- Năm 1939, ông ra học tại Hà Nội. Sau đó thì vào Sài Gòn làm báo rồi ra
Thanh Hóa dạy học.
- Năm 1942, ông cho ra đời Vàng sao, tập văn triết luận về đời với màu sắc
siêu hình, huyền bí.
- Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn đường (Quảng Trị), Chế Lan Viên
gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.
- Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc làm biên tập viên báo Văn học.
- Từ năm 1956 đến năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn
trung ương và đến cuối năm 1958 trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau là báo
Văn nghệ).
- Từ năm 1963 ông là ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam, ủy viên
ban thư kí Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa các khóa IV, V và VI, ủy viên Ban văn hóa - giáo dục của quốc hội.
- Sau 1975, ông vào sống tại Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ông mất ngày 19/ 6/1989 tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí
Minh, thọ 69 tuổi.
- Ông được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật (1996).
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
- Con đường thơ của Chế Lan Viên được nhận định là “trải qua nhiều


biến động, nhiều bước ngoặt với những trăn trở, tìm tòi không ngừng của nhà thơ
Trước Cách mạng tháng Tám, thơ Chế Lan Viên là một thế giới đúng nghĩa "trường
thơ loạn": "kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với
những cảnh đổ nát, với tháp Chàm”.
- Sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã đi từ “thung lũng đau thương đến
cánh đồng vui”, đến với nhân dân và tư tưởng của cách mạng nên có những thay đổi
rõ rệt.
- Trong thời kì 1960-1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi
hào hùng, chất chính luận, đậm tính thời sự.
- Sau năm 1975, "thơ Chế Lan Viên dần trở về đời sống thế sự và những
trăn trở của cái "tôi" trong sự phức tạp, đa diện và vĩnh hằng của đời sống".Phong
cách thơ Chế Lan Viên rất rõ nét và độc đáo. Thơ ông là sức mạnh trí tuệ được biểu
hiện trong khuynh hướng suy tưởng - triết lí: “chất suy tưởng triết lí mang vẻ đẹp trí
tuệ và sự đa dạng, phong phú của hình ảnh thơ được sáng tạo bởi một ngòi bút thông
minh, tài hoa”.
- Ông khai thác triệt để các tương quan đối lập, và nổi bật nhất là năng lực
sáng tạo hình ảnh phong phú, độc đáo với nhiều ý nghĩa biểu tượng.
*Tác phẩm chính
ϖ Thơ
• Điêu tàn (1937)
• Gửi các anh (1954)
• Ánh sáng và phù sa (1960)
• Hoa ngày thường, chim báo bão (1967)
• Những bài thơ đánh giặc (1972)
• Đối thoại mới (1973)
• Ngày vĩ đại (1976)
• Hoa trước lăng Người (1976)
• Dải đất vùng trời (1976)
• Hái theo mùa (1977)
• Hoa trên đá (1984)

• Ta gửi cho mình (1986)
• Di cảo thơ I, II, III (1992, 1993, 1995)
ϖ Văn
• Vàng sao (1942)
• Thăm Trung Quốc (bút ký, 1963)
• Những ngày nổi giận (bút ký, 1966)
• Bác về quê ta (tạp văn, 1972)
• Giờ của đô thành (bút ký, 1977)
• Nàng tiên trên mặt đất (1985)
ϖ Tiểu luận phê bình
• Kinh nghiệm tổ chức sáng tác (1952)
• Nói chuyện thơ văn (bút danh Chàng Văn, 1960)
• Vào nghề (bút danh Chàng Văn, 1962)
• Phê bình văn học (1962)
• Suy nghĩ và bình luận (1971)
• Bay theo đường bay dân tộc đang bay (1976)
• Nghĩ cạnh dòng thơ (1981)
• Từ gác Khuê Văn đến quán Trung Tân (1981)
• Ngoại vi thơ (1987)
• Tuyển tập thơ Chế Lan Viên (tập I, 1985; tập II, 1990)
• Tuyển tập thơ chọn lọc
• Nàng và tôi (1992)
1.2. Tác phẩm Di cảo thơ của Chế Lan Viên
1. Đôi nét về “Di cảo thơ”:
- Được xuất bản sau khi nhà thơ qua đời, Ba tập Di cảo thơ I, II, III do nhà
văn Vũ Thị Thường, người bạn đời của nhà thơ, góp nhặt và tuyển chọn được nhà
xuất bản Thuận Hóa ấn hành (1992, 1993, 1996). Di cảo có nghĩa là những bài lúc
sống, nhà thơ Chế Lan Viên chưa đưa in.
Trong số 558 bài thơ thuộc ba tập “Di cảo thơ” thì lại có tới 309 bài được tác
giả sáng tác vào hai năm 1987 - 1988 - những ngày tháng cuối cùng của ông. Đó là

một cuộc chạy đua nước rút của Chế Lan Viên với thời gian. Ý thức rõ ràng về “thời
gian nước xiết”, luôn bị ám ảnh khi thấy quỹ thời gian sống của mình đang vơi đi một
cách đáng sợ, Chế Lan Viên đã dốc hết sức lực và trí tuệ của mình ra để viết. Cường
độ lao động sáng tạo đã lên đến đỉnh điểm trong cuộc đời ông.
- Có người cho rằng Di cảo thơ là thơ sám hối của Chế Lan Viên. Nhưng có
lẽ Di cảo thơ chỉ là sự bổ sung, chỉ nói nốt những điều trước kia tự ông dừng lại,
dừng lại không nói, chứ không phải không có nó trong lòng. Di cảo thơ đi xa hơn
nhưng vẫn trong hướng tìm của nhà thơ.
- Trong Di cảo thơ, ông viết với nhiều đề tài khác nhau. Trong đó có những
bài thơ viết về lịch sử cách mạng trong Di cảo thơ không nhiều nhưng lại rất có ý
nghĩa bởi nó liền mạch với mười tập thơ trước đó, như là để khẳng định sự nhất quán
trong tư tưởng của Chế Lan Viên.
- Các bài thơ viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ trong Di cảo thơ chiếm
số lượng lớn hơn cả - “Đó là âm vang của chiến tranh”. Và Đoàn Trọng Huy cho
rằng: “Chế Lan Viên đi vào một hướng định giá mới. Anh chiêm nghiệm về sự hy
sinh, cân lại “giá máu”… Anh triết lý về cảnh giác…, suy nghĩ về sự sống trên cái
chết, về văn minh thắng bạo tàn, về bản chất nhân đạo của chiến tranh cách mạng”.
Bởi vậy mà Di cảo thơ có cái nhìn chân thực hơn về những mất mát của chiến tranh,
cái mất mát những người sống sót trở về sau cuộc chiến.
2.Phân tích Di cảo thơ của Chế Lan Viên
Có thể thấy Di cảo thơ là quà tặng cuối đời của nhà thơ Chế Lan Viên dành cho
người đọc không chỉ hôm nay mà còn mãi mai sau. Đọc Di cảo của ông ta thấy thơ ông
như là những bông hoa thơm trong vườn hoa, là ánh sáng khi chiều sắp tối, là lời
khuyên của gió xào xạc cho tình nhân yêu nhau, là niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau của kiếp
người khi đã ở vào chặng cuối của thời gian. Thông qua di cảo này, ông đã gửi gắm
những suy nghĩ về đời thơ, mà chính ông là chủ thể, là người trải nghiệm.Tất cả, từ
niềm vui của công danh, sự nghiệp, từ sự tự đánh giá, tự nhận thức lại mình. Ông đã đến
với đời và di bút cuối cùng với bao trân trọng, yêu thương. Tuy nhiên tấm lòng, tình
cảm của nhà thơ vẫn ở lại với đời, vẫn say mê cái đẹp, cái đắm say với tình người.
 Các chủ đề trong thơ Chế Lan Viên qua tập Di cảo thơ:

1.2.1 Từ quan điểm nghệ thuật đến nội dung thể hiện
Có thể thấy, mỗi chủ đề trong thơ của ông đều mang cái hay và cái tài tình
khác nhau, nhưng có lẽ quan điểm nghệ thuật đến nội dung là phần đặc sắc nhất trong
thơ triết lý của ông.Qua những bài thơ mà ông viết trong Di cảo, đã giúp chúng ta mở
ra nhiều góc nhìn mới từ cách nhìn của một nhà thơ đã sáng tạo suốt cuộc đời thơ:
Thơ “thơ vĩnh cửu”, “thơ và lãng quên”, có chăng “một đạo về thơ”, “tôn giáo về
thơ”. Trước hết nhà thơ cũng phải dựa vào đời. Dường như, nhà thơ luôn hiểu được vị
trí của thơ trong một đất nước có hàng vạn ngày chiến trận. Những lớp thanh niên đi
chiến đấu không trở về, máu đổ trên trang sách học trò, người nghèo nhặt từng hạt
thóc vãi rơi. Trong hoàn cảnh đó thơ có ích gì? Chế Lan Viên hiểu rõ được điều đó
nên có lúc nhà thơ như cực đoan:
Trong cốc rượu cuộc đời thơ anh như chút cặn
Uống xong rồi người ta đổ ly
Chỉ có cây kia là bất tận
(Cây và người)
Với ông, trước sau, cội nguồn của thơ, của nghệ thuật là ở trong đời sống, cụ
thể hơn là ở trong cuộc vận hành lớn của lịch sử dân tộc ta trong thời hiện đại. Và
trong Di cảo, ông đã thể hiện rõ nét nhất:
ở nơi kia có mùi hương đang đợi
dưới một bóng cây hay bên dòng suối
là nhà thơ, anh bay với những chim trời
trong độc hành không phải chỉ anh thôi.
(Nơi kia)
Chế Lan Viên quan niệm đã là nhà thơ thì không chỉ có riêng mình mà
còn phải hòa hợp với thiên nhiên, con người và vũ .
Ông là người hay suy ngẫm về nghề cầm bút - đó cũng là phần riêng tư của
chính ông mà trong giai đoạn 1945 - 1975 lý tưởng nghệ thuật phải nhường chỗ
cho nhiệm vụ kháng chiến của dân tộc ta. Biết thời gian còn lại của cuộc đời
là không nhiều, ông như chạy nước rút với việc làm thơ của mình. Ông hối hả,
giục giã :

Gió thổi mây bay bất trắc
Lúc nào mà không tử biệt sinh ly
Lúc nào anh cũng có thể thành Hàn Mặc Tử, Bích Khê…
Phải tranh thủ làm thơ giữa hai chớp mắt…
… Viết đi! Viết đi! Viết đi!
Thời gian nước xiết…
… Viết thêm! Viết nữa! Viết vào!
(Thời gian nước xiết)
Và cái đưa thơ về với cội nguồn vô tận, vô hạn của nó chính là đời sống.
Song tác giả không hề đồng nhất nghệ thuật với đời sống, ông cũng không
chủ trương phản ánh hiện thực một cách rập khuôn và máy móc. Có khi ông đang
nói về cái này nhưng thực chất lại đang nói tới cái kia. Hiện thực cuộc sống cũng
có lúc mang màu sắc của siêu thực.
Tả một môi son, có khi anh chỉ nói sắc sen hồ…
Anh đi xem cá và gặp người áo đỏ
Anh vẽ nên cá đỏ trong thơ…
(Tín hiệu)
Như vậy, đối với Chế Lan Viên, cuộc sống trong các tác phẩm nghệ
thuật không nhất thiết phải nguyên dạng, nguyên hình như cuộc sống đời thường
của nó.
Trong thơ nói riêng và trong nghệ thuật nói chung, nó còn có một cuộc sống
khác nữa. Đó là cuộc sống của con người, của người nghệ sĩ. Và cuộc sống đó
cũng muôn màu muôn vẻ như cuộc sống của ta vậy. Đối với Chế Lan Viên, nghệ
thuật cũng như cuộc sống là luôn luôn vận động, không ngừng biến đổi trong quy
luật phát triển của nó.
Chế Lan Viên cho rằng nghệ thuật không chỉ là sao chép, quy phạm, giáo
điều, bị động mà phải là một nghệ thuật đầy sự sinh thành, sáng tạo với những
khám phá mới lạ, chưa từng có :
Đời cho anh một nắm đất
Anh làm nên cái bình

Đời cho anh nhành hoa
Anh vẽ nên mùi sứ…
(Đời cho anh )
Đặc biệt, trong Di cảo thơ còn có một phần rất mới lạ so với các tập thơ
khác. Đó là những bài thơ ghi lại nỗi thao thức, day dứt sáng tạo của nhà thơ trong
giai đoạn cuối đời :
Cho dù trái đất chẳng còn anh
Anh vẫn còn nguyên trái đất
Tặng cho mình…
(Từ thế chi ca)
Qua Di cảo thơ, người đọc có thể thấy được nỗi thao thức và khát khao
muốn sáng tạo, muốn vươn lên viên mãn, hoàn thiện lúc cuối đời của nhà thơ Chế
Lan Viên.
Nhà thơ luôn mong ước thơ đem lại cái mới trong đời. Thơ không phải là
của một người, như thế thì dễ nghèo nàn và lạc hậu. Thơ là của một đời, nhưng đời
nào chỉ xanh tươi cho thơ của đời ấy. Nhà thơ cảm nhận chân thực và xót xa thơ ở
chặng đường cuối thể kỷ:
Tôi cùng thế kỷ này già như nhau. Tôi chết trước
Thế kỷ chết rồi đẻ ra thế kỷ non, 21
Tôi chết rồi thơ sau đó sẽ xanh hơn
Cố nhiên đó là thơ nhân loại khác
Nếu có luân hồi, tôi sẽ về, sẽ đọc
Sẽ nâng làn cỏ lạ lên môi hôn
Nếu không có đã đi là đi mất
Chỉ tôi mất thôi nhân loại đang còn
Và chắc chi thế kỷ sau này còn yêu thơ nữa
Cầu cho đừng dại dột như thế kỷ này thơ ít mà nhiều bom
Cầu cho đừng khôn vặt như thế kỷ này
Để nuôi sống xác thân, đem làm thịt linh hồn.
(Đoạn cuối thế kỷ)

Hẳn rằng, ông luôn nhìn đời với cái nhìn nhân hậu. Dù cho tất cả rồi sẽ ở
phía sau, nhưng trong thời điểm nào, đời cũng phải công bằng, nhân ái. Có biết bao
số phận phải chịu đựng những đắng cay vì định kiến, thù hằn. Ông như hiểu rõ,
thân phận con người không phải bao giờ cũng tự bảo vệ được mình. Nhà thơ lên
tiếng nói:
Anh có cho tôi làm hoa sen không, tôi trong lý lịch có bùn
Thân phận người mà, ai mà chẳng có bùn đen?
Giết chết một mùi hương, dễ thôi, cứ quậy bùn lên để giết
Nhưng vượt lên bùn, sen cứ ngát hương sen.
( Hương sen)
Chế Lan Viên ví sáng tác như một sự vượt sông và hơn hết là phải vượt
qua chính lòng mình để hòa nhịp cùng với sự sáng tạo không ngừng, mang lại giá
trị bất diệt cho cuộc sống, cho thơ ca:
Anh phải mang tiếng hát từ bờ này sang bờ kia ấy
Bờ bên kia hư ảo – bờ thơ
Anh phải vượt sông, vượt lòng mình để đến
Sao em bỏ đi, không đến đây chờ ?
Và đó còn là cuộc vượt bể :
Để anh đi qua cho hêt bể của mình…
Cho anh qua trang sách bão bùng…
(Bờ bên kia)
Ở Chế Lan Viên còn có cái cảm giác gọi là “lực bất tòng tâm” của tài năng
hữu hạn mà nghệ thuật là vô hạn. Đó là nỗi khao khát đến tột cùng, tha thiết gần
như tuyệt vọng muốn được sáng tạo. Và chính những khao khát, hăng say đó đã
thôi thúc sự sáng tạo ở Chế Lan Viên. Và ông gọi đó là “nỗi đau và hạnh phúc” của
con người.
Mỗi con trai nhả ngọc mỗi lần thôi
Viên ngọc đầu tiên cũng là viên sau chót
Không như ta sau viên ngọc sau cùng lại làm
viên thứ nhất

Đấy là nỗi đau và hạnh phúc của con người.
(Viên ngọc sau cùng)

Sự tìm tòi chính mình vẫn là việc cần tiếp tục. Đó là niềm khao khát không
bao giờ nguôi của một hồn thơ không bao giờ tự thỏa mãn mà luôn tự đòi hỏi tự
đổi mới để đi tìm một tầm cao mới, tiến lên sự viên mãn, hoàn thiện tuyệt đối. Tuy
không bao giờ có thể đạt tới điều đó nhưng nếu không có nó thì cũng không bao
giờ có sự sáng tạo nghệ thuật thực sự. Chế Lan Viên cho rằng đó chính là cái định
hướng cho nghệ thuật, cho thơ là con sông Ngân Hà mà ông phải dọc theo mãi để
tìm thơ mình, chứ không như Ngưu Lang sang ngang là tìm được Chức Nữ.
Ngưu Lang chỉ cần một cái bến con,
Anh cần có dải Ngân hà
Anh đi dọc nó để tìm thơ chứ không phải
Bơi ngang tìm Chức Nữ
(Tìm thơ)
Càng về cuối đời, những suy ngẫm về thơ càng trở nên da diết hơn trong
các sáng tác của Chế Lan Viên. Đối với ông, thơ là một cuộc hành trình tìm kiếm
vô tận mà người làm thơ luôn phải đạt đến. Với ông, thơ ca phải đạt đến sự “tài
năng” trong khi ông thì lại.
Tôi tài năng chưa đầy nửa giọt
Có hộc tốc chạy đến hết chân trời cũng là đồ bất lực
(Xâu kim)
Và vì vậy, thơ ca giống như một nghiệp chướng của Chế Lan Viên. Đó
cũng chính là bi kịch cuối đời của người nghệ sĩ tài hoa này. Tất nhiên, những nhận
định ông dành cho chính mình có phần nghiêm khắc, nhưng Di cảo thơ là những
cảm xúc thật của Chế Lan Viên, trong đó chủ yếu là sự bất lực của nhà thơ trước
giờ lên đường sang thế giới bên kia.
Anh gieo bão mà gặt về chỉ gió
Giàu cỏ cánh đồng thôi, một nắm thóc vẫn nghèo
(Thơ về thơ)

2.1.2. Những chiêm nghiệm, suy tưởng về lịch sử, về đất nước, về chiến tranh.
Vẫn kế thừa những tập thơ trước, Di cảo thơ của Chế Lan Viên cũng viết
về đề tài chiến tranh. Nhưng trong Di cảo thơ, cái nhìn của Chế Lan Viên về cuộc
chiến rực lửa với con mắt xanh tươi như ở Hoa ngày thường, chim báo bão nữa mà
Di cảo thơ thể hiện rất rõ những suy tư của nhà thơ về lịch sử, về đất nước,về
chiến tranh như một sự nhận thức lại những gì đã qua. Di cảo thơ gồm ba phần thì
hai phần sau gồm hầu hết những tác phẩm sau 1975.
Thông qua Di cảo này ta thấy, tác giả đã khái quát lại lịch sử của dân tộc
trong nhiều bài thơ. Nhưng lịch sử ở trong Di cảo không hiện lên như những giá
trị cao đẹp, vĩ đại và to lớn nữa mà đó là những thứ dân tộc Việt Nam không được
đón nhận, con người Việt Nam đã mất đi:
Đất nước gì mà tuổi trong nôi đã phải nhảy lên mình ngựa thép đi đánh giặc
Đang cưỡi trâu chơi cờ lau cũng phải bỏ chơi mà đánh giặc
Chiếc gối lông nga cũng có âm mưu của giặc trộn vào
Yêu mà bị chém rơi đầu vì Mỵ Châu hóa giặc!
Cho đến cùng phải hóa Sơn Tinh, Thủy Tinh
Đánh giặc cùng nhau huy động núi non, lũ lụt vào vòng chiến tình yêu
(Đất nước ta)
Nếu như trước kia Chế Lan Viên nói về đất nước bằng những tráng ca,
những khúc bi hùng, những khẩu lệnh, những tiếng thét phẫn nộ của một cộng
đồng, một dân tộc, giờ đây, ông dùng một giọng thơ không kém mạnh mẽ nhưng
sâu lắng hơn, trầm tĩnh hơn, ngày càng nghiêng nhiều về suy tưởng.
Từ đây, Chế Lan Viên hiện lên trong thơ mình chân thực hơn bao giờ hết.
Đất nước đi vào thơ một cách nhẹ nhàng, vẫn còn mang trên mình bụi bặm của
cuộc sống, tươi rói màu sắc của đời thường, không có gì phải che giấu cả.
Nhưng khi đứng giữa cuộc chiến tranh để nói về nó, giữa đau khổ và niềm
vui, ông chọn niềm vui, giữa đau thương và hào hùng, ông nói nhiều hơn về cái
hào hùng. Do yêu cầu của thơ cách mạng,thơ chiến đấu, giấu chặt đau thương
trong sâu thẳm lòng mình. Khi năm tháng đã qua đi, chiến tranh lùi dần vào dĩ
vãng, hồi tưởng lại quá khữ, trong thơ mình Chế Lan Viên lại nói nhiều hơn đến

cái đau thương, cái xót xa - những điều trước đây ông ít khi bộc bạch. Nhưng cũng
chính ở đây, con người thơ Chế Lan Viên mới hiện lên chân thực và nhân bản hơn
bao giờ hết.
Trong bất cứ cuộc chiến tranh nào, trẻ em luôn là những nhân vật phải chịu
thiệt thòi. Dẫu sao thì chiến tranh không phải là chỗ của trẻ em, nhưng chúng đã bị
người ta đặt vào đó. Chế Lan Viên đã viết về chúng với niềm xót thương vô hạn.
Ông định nghĩa về “trẻ con Việt Nam”
“Những em bé tiểu sử đầy bom bi và dặm đường sơ tán
Ngủ trên các giường xa lạ mênh mông quá sớm…”
Đó chỉ là những ý tưởng thoáng qua mà Chế Lan Viên ghi vội lại trong tập
nháp của mình, chưa kịp hoàn thiện. Nhưng chỉ những ý nghĩa nhỏ ấy của Chế Lan
Viên cũng đã đủ cho ta cảm động, khi ta cùng nghĩ với nhà thơ rằng tiểu sử của
những em bé Việt Nam đã có một thời được ghi lại bằng những chặng đường lánh
nạn và những mảnh bom bi.
“Làm mẹ ở Việt Nam nào có dễ nào
Làm trẻ con khó hơn làm mẹ”.
Những lời thơ hóm hỉnh ấy lại hàm chứa một nỗi đau thương :
“Các nàng tiên đã cháy thiêu rồi, chả ai chơi với trẻ
Sách ước ra tro rồi. Bụt có hiện lên đâu !”
Những đứa trẻ từ sớm đã phải dạn dày với gian khổ, chiến tranh, chúng thậm
chí còn không có quyền tin vào cổ tích.
Và trong thời kỳ kháng chiến, như nhiều nhà thơ khác, Chế Lan Viên đã
xem thơ như ngọn cờ kêu gọi, cổ vũ cho công cuộc đấu tranh và giải phóng dân
tộc. Ta bắt gặp ở Di cảo thơ những vần thơ của tình yêu quê hương, đất nước Việt
Nam tha thiết, mặn nồng . Ở những bài đó ta thấy bóng dáng của cuộc chiến, kỷ
niệm về cuộc chiến. Thông qua các tác phẩm đó, nhà thơ phản ánh chiến tranh, hồi
tưởng về chiến tranh, cũng như là mang những âm hưởng hào hùng, đầy tính sử
thi, ca ngợi về đất nước, về dân tộc Việt Nam anh hùng. Nhưng bên cạnh đó, Chế
Lan Viên còn đi sâu lý giải, chiêm nghiệm và nói lên những điều mà giới hạn của
lịch sử từng không cho phép phát ngôn. Khi cuộc kháng chiến đi qua, tư duy đổi

mới, cái nhìn sâu sắc của thi sĩ đã nhìn lại, nhìn thẳng vào những gian khổ, mất
mát, hy sinh đẫm máu của dân tộc, xót xa cho những ngày tháng đau thương:
Vì đâu? Vì đâu?
Trước giáo đường giăng giăng đôi cánh thiên thần
Lại có em bé này
Gãy mất một chân?
Mẹ đã chết bom
Em gọi đến nghìn lần
(…) Tất cả các trận đánh đều bắt đầu thế ấy
Tất cả chiến công khởi đầu như vậy
(Tiếng nạng tre gõ vào mặt đất)
Chế Lan Viên đã nhìn nhận cuộc chiến tranh với những mất mát, hy sinh
của con người chứ không còn chỉ là cái tương lai màu hồng rực rỡ như trước đây.
Nhìn lại quá khứ, Chế Lan Viên rõ ràng có xu hướng nhìn vào cái góc khuất, phần
chìm mà thơ ca giai đoạn 1945-1975 không thể nói. Chiến thắng chẳng làm biến
mất hay lu mờ đi sự đau thương mất mát của cả dân tộc, và những vị tướng cũng
không thể làm lãng quên những anh hùng vô danh. Nai bất tử, Chị Ba, Một người
thường, Thời thượng… chú ý đến những con người thầm lặng góp sức vào chiến
thắng :
Người nông dân ấy đã bốc mộ cho hàng ba trăm thương binh
Xác anh em và xác con mình
(…) Việc ấy không để lại ánh hào quang trên tay
Ánh sáng gì trong mắt
Hay huân chương trên tường
(…) Bao nhiêu điều láo nháo chúng ta quên
(Một người thường)
Chế Lan Viên đã vinh danh những con người góp sức thầm lặng trong
cuộc chiến. Nỗi đau lớn nhất của “người nông dân ấy” không phải là cái chết của
đồng đội, của con mình, mà là sự thờ ơ quên lãng của những người đang sống, ông
cảm thấy mình xa lạ, lẻ loi trước thực tại cuộc sống. Trải qua những năm tháng

máu lửa, cùng với cái nhìn sâu xa đã giúp nhà thơ nhìn nhận cuộc chiến tranh một
cách đa diện hơn, sâu sắc hơn. Ông đau đớn, nghẹn ngào trước những mất mát quá
lớn lao, nhưng chưa khi nào ông nghi ngờ tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến
mà cả dân tộc đã dốc toàn tâm, toàn lực để hoàn thành:
Buổi ấy hy sinh chỉ có nụ cười, không có lời rên rỉ
Nguyễn Văn Trỗi thế mà Bế Văn Đàn lấp lỗ châu mai vẫn thế
Máu họ dâng cho Tổ quốc thắm tươi rạng rỡ mắt nhìn
Anh đến sau đừng nhỏ vào đấy giọt buồn cho nó bầm đen.
(Giọt buồn)
Triết lý về chiều dài lịch sử và cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc trong
Di cảo thơ là kết quả của trí tuệ và của sự từng trải nghiệm của chính tác giả.
Không nhìn quá khứ dưới ánh hào quang mà soi rọi nó bằng những giá trị nhân
đạo, Di cảo thơ đem lại cái nhìn mới mẻ trên nhiều phương diện về lịch sử dân tộc.
2.1.3. Cuộc sống đời thường.
Như các bạn đã thấy, thì thơ ca chính là phương tiện để chuyển tải tâm tư
tình cảm của người sáng tạo ra nó. Trong nó dường như chứa đựng một cách chân
thật nhất, sâu sắc nhất những tư tưởng và tâm hồn của người thi sĩ muốn thể hiện,
muốn gửi gắm. Về lúc cuối đời, đọc thơ ông ta như thấy thơ mang lại một hơi thở,
một âm hưởng khác với dòng thơ trước đó. Di cảo thơ - trước hết là một bản tổng
kết cuộc đời cầm bút của nhà thơ, mà việc nhà thơ đi sâu vào khám phá đề tài cuộc
sống đời thường và con người cá nhân là một nét nổi bật.
Trong Di cảo thơ, Chế Lan Viên đã rời khỏi cảm hứng sử thi và thơ
ông không còn tô vẽ, không còn lý tưởng hoá cuộc sống như giai đoạn 1945-1975.
Ở “Di cảo thơ” xuất hiện những hình ảnh chân thực, sống động đầy chất suy tư về
đời, về người. Đọc giả khó mà quên được những hình ảnh đời thường, giản dị mà
tinh tế trong thơ ông:
Khi gà te te đầu thôn, gà te te cuối xóm
Tôi đã dậy cào vào trang giấy trắng
Ngọn đèn thơ đối chọi ánh sao Mai
Khi trong tổ mẹ con chim còn ngái ngủ

Sông bên ngoài còn chậm dòng trôi
Lá còn còn giọt sương đêm trong mắt nhỏ
Con ong thơ đã bay đi kiếm mật phía chân trời
(Hồi ký bên trang viết)
Và cả những giá trị vật chất cũng đi vào thơ ông một cách tự nhiên, chân
thực lạ kỳ như việc phạt tiền điện, nhà nghèo không có nổi trần nhà; những cái u
buồn, đen tối, ảm đạm thường không hay xuất hiện trong thơ cũng được Chế Lan
Viên thuật lại như việc thiêu xác, đưa tang (Lò thiêu,Từ thế chi ca I, Xe tang qua
nhà), những sự vật, hiện tượng bình thường, thậm chí tầm thường trong đời sống
(Hạt gạo, Mèo chuột, Con nhặng xanh, Lừa) giờ đây được sử dụng như những biểu
tượng cho những vấn đề lớn lao trong cuộc sống… Tất cả những hình ảnh đó
đi vào trong thơ Chế Lan Viên một cách chân thực, sống động hơn bao giờ hết. Di
cảo thơ chứa đầy hơi thở cuộc đời mà vẫn giữ được chiều sâu triết luận.
Cảm thức của Chế Lan Viên về thời gian những năm cuối đời là rất ngắn
ngủi, lúc nào ông cũng thôi thúc mình viết, viết và viết. Từ suy nghĩ của một người
sắp từ giã cõi đời, ông chủ động bộc bạch về chính mình :
Anh là tháp Bayon bốn mặt
Giấu đi ba, còn lại đấy là anh
Chỉ mặt đó mà nghìn trò cười khóc
Làm đau mặt kia trong cõi ẩn hình
(Tháp Bayon bốn mặt)
Chế Lan Viên nhìn thẳng vào đời mình, thơ mình mà suy ngẫm, trăn trở tự
vấn mà không hề né tránh bất cứ điều gì. Suốt mấy chục năm cầm bút, mà ông
chỉ xuất hiện trong thơ có một mặt. Cuộc sống đời thường có tất cả bốn mặt nhưng
ông lại giấu đi ba. Tâm sự riêng tư của nhà thơ giấu đi để hòa vào tâm sự tập thể,
tâm sự quần chúng, điều đó làm nên vinh quang mà cũng là nỗi đau của người làm
thơ.
Ở khía cạnh khác, khi con người từ giã cỏi đời, ông sẽ có khuôn mặt mà đời
cho, tùy người có quyền lực hay kẻ bần dân:
Người ta cho anh một cái mặt thiên thu vĩnh cửu

Nếu người ta yêu họ sẽ cho anh them nét mày lá liễu
Hai nốt ruồi son phúc hậu bên cằm
Nếu họ ghét anh họ sẽ băm vằm
Những nét hằn tên mặt anh sẽ rách.
(Mặt nạ)
Với Chế Lan Viên, con người luôn có nhiều mặt đa dạng và phức tạp. Những nỗi
thầm kín sâu thẳm trong tâm hồn của mỗi người mà người khác không thể nhìn
thấu, không thể hiểu là những mặt mà con người cố gắng giấu đi, không để lộ ra.
Hay bài thơ “Từ thế chi ca” viết trong bệnh viện trợ Rẫy, trước khi mỗ hai
mươi mốt ngày. Thật sự nhà thơ lúc này đối diện với cái chết. những vần thơ nói
lên tình cảm thiêng liêng trước lúc chia tay với cuộc đời. Ông có năng lực tư duy
biện chứng, biến hóa giữa các mặt bóng tối và ánh sáng, tin yêu và thất vọng, giữa
sống và chết. Tác giả nghĩ đến thế giới bên kia, một thế giới trong tưởng tượng:
Anh không ở lại yêu hoa mãi được
Thiêu xong anh về các trời khác cũng đầy hoa
Chỉ tiếc không có tình yêu ở đó
Anh thành một nhúm xương gio trong bình
Em đừng khóc
Ngoài đường hoa cỏ mọc.
Nhà thơ thương cho những con người vì đất nước mà quên đi cuộc sống
của chính mình. Cuộc đời của những vị anh hùng đã không có những ngày tháng
yên bình, vô tư của tuổi ấu thơ mà gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành
lại độc lập, chủ quyền cho Tổ quốc. Và Chế Lan Viên cũng tự nguyện hiến dâng
mình cho Tổ quốc thân yêu. Ở đây không có sự đối lập giữa cái riêng với cái
chung, giữa cá nhân và xã hội mà chỉ có sự cảm thông cho những số phận con
người không được hưởng những thứ bình thường, giản đơn mà lẽ ra họ có quyền
được hưởng. Ở đây, cái chung, cái ta suốt ba chục năm chiến tranh cách mạng có
phần lấn át đi cái riêng, cái tôi, đó cũng là do cuộc sống, do thời đại đòi hỏi mà
thành.
2.1.4. Cái tôi trong nhịp thở của cái ta.

Chế Lan Viên vốn là một người luôn quý trọng sự sống, lại sống rất
có trách nhiệm với mình, với đời nên cảm giác chới với khi đối mặt với cái
chết là có thật và dễ hiểu:
Anh như gõ kiến
Gõ vào thời gian
Gõ vào số phận
Tháng ngày không kịp nữa
Chế Lan Viên ý thức được thời gian trong cuộc đời của mỗi người trôi
qua một cách nhanh chóng và mỗi khắc đi là không thể lấy lại được “Tháng
ngày không kịp nữa”. Và điều đó làm cho nhà thơ thấy hoảng hốt trước thực
tại hơn bao giờ hết “Gõ vào thời gian, Gõ vào số phận” .Chế Lan Viên
không chỉ đau cho nỗi đau của riêng mình mà ông còn chú ý tới nỗi đau của
những người khác đang gánh chịu. Đọc một số bài thơ của Di cảo thơ, chúng
ta dễ dàng có thể sẻ chia về những nỗi ám ảnh, đắng cay và sự đổi thay
của nhân tình thế thái trong cuộc sống hiện nay :
Giờ là thế giới của xe cúp, ti vi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực, tuổi tên đốp chát
(Thời thượng)
Chế Lan Viên đứng trong cuộc đời sóng gió để nhìn lên, thấu hiểu số
phận của những con người bất hạnh:
Trộn vào dân
Hiểu cho hết nỗi đau của cuộc đời
Nghe tiếng cười của trẻ con nheo nhóc
Điệu hát của những bà mẹ xanh xao
(Chuẩn bị đi)
Cảm hứng về cuộc đời con người, nhân tình thế thái, biết nỗi đau
buồn của mình đồng thời biết cảm thông cho người khác chính là nét nổi bật
xuyên suốt và đáng trân trọng của Di cảo thơ.Chế Lan Viên không phải là
nhà thơ chuyên viết về thơ tình nhưng tình yêu trong thơ ông cũng là một đề
tài thú vị và lý thú với muôn màu muôn vẻ, đủ mọi hình hài. Tình yêu trong

Không tên, Nàng và tôi hiện ra cái vẻ tinh khiết như được thanh lọc, cái
“màu trắng” như đã kết tụ được cả “đỏ hoa” và “đỏ lửa”. Đó là những bông
hoa “trắng đỏ” “trên đá. Đó còn là tình, là nghĩa (Mưa đêm), là buồn
(Đằng nào cũng vậy), là nhớ, cái nhớ triền miên, da diết:
Nhớ thương dài tiếng ve…
Đi hết lòng còn nghe
(Tiếng ve)
Còn tình yêu trong Di cảo thơ lại có những cái khác lạ, cái màu “siêu
thoát”. Thạp đồng Đào Thịnh viết về lẽ sống tuần hoàn “sống trê nắp thạp,
chết về trong đáy thạp” đừng qua hình ảnh đối lập nam nữ giao hoan bên
trên và nắm xương người chết phía dưới.
Nói tóm lại, với Di cảo thơ, Chế Lan Viên đã gây mang đến người đọc
những vần thơ mang đậm tính triết lý sâu sắc. Đó là những vần thơ được kết
tinh từ những trải nghiệm thực tế và tài năng của chính nhà thơ mà không
phải bất cứ nhà thơ nào cũng có được. Chính vì vậy mà Chế Lan Viên được
coi một trong những hồn thơ lạ ở Việt Nam.
2.2. Những đổi mới nghệ thuật
2.2.1. Giọng điệu
Phần lớn Di cảo thơ được Chế Lan Viên sáng tác vào những năm cuối
đời. Sự nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về đời sống, về sự hiện hữu của bản thể
trong một hồn thơ giàu tính trí tuệ và mang màu sắc triết lý khiến những bài
thơ ấy mang một chất giọng khác:
Giọng cao bao nhiêu năm, giờ anh hát giọng trầm
Tiếng hát lẫn với im lìm của đất
Vườn lặng im mà thơm mùi mít mật
Còn hơn anh rồ giọng hát vang ngân.
(Giọng trầm)
Nó không còn cái hân hoan, tươi vui của những ngày đón nhận ánh
sáng lý tưởng cách mạng mà đã trở nên đằm thắm, sâu lắng, trầm tĩnh, đầy
tự vấn. Những năm cuối đời, nhà thơ quay trở về với chính mình để suy tư,

chiêm nghiệm. Giọng thơ ông khiêm tốn, nhẹ nhàng:
Tôi chỉ là một nhà thơ cưỡi trâu
Đánh giặc cờ lau
Đã lâu ta không còn nghe hồn lau gọi nữa
Chỉ nghe danh vọng ầm ào
Vinh quang xí xố
(Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh)
Trong sự chiêm nghiệm ấy, giọng thơ ông có lúc mang sắc thái
hoài nghi, mặc cảm, chua chát, sắc lạnh, thậm chí hóm hỉnh, đùa cợt trước
hoàn cảnh xã hội đầy biến động phức tạp với sự thay đổi của các giá trị đạo
đức:
Giờ là thế giới của xe cúp, tivi, phim màu ngũ sắc
Của quyền lực tuổi tên đốp chát
Vị trí nhà thơ như rác đổ thùng
(Thời Thượng)
Giọng điệu suy tư triết lý là đặc trưng làm nên chất thơ Chế Lan Viên.
Bao giờ thơ ông cũng chứa đựng những hình ảnh thể hiện sự chiêm nghiệm
của ông đối với cuộc đời. Chính sự trăn trở, xôn xao của tư tưởng và tâm
hồn mà những trang thơ Di cảo thật sự đem lại những trải nghiệm mới mẻ,
bất ngờ, thú vị:
Câu thơ phải luôn luôn bất ổn và xôn xao
Không thể nằm yên mà ngủ được nào
(Bất hoàn toàn)
Sự nhận thức và nghiền ngẫm của bản thân đã giúp Chế Lan
Viên không rơi vào sự “ảo tưởng”. Ông quan niệm mỗi câu thơ đều phải
vượt lên chính mình và ông sống với sức mạnh của tấm lòng nhân ái, yêu
đời. Vì vậy, tâm hồn ông càng trở nên
thanh cao qua những vần thơ nhẹ nhàng, đầy xúc động:
Sau anh còn mênh mông nhân loại
Đừng nghĩ mình là người đi cuối

Phải để lại dấu chân, nhành cây, viên sỏi…
Cho người theo sau không cô đơn
(Sau anh)
Như vậy, để phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, Chế Lan Viên
đã có những tìm tòi đổi mới trong giọng điệu. Đó là sự hòa hợp linh hoạt
giữa giọng điệu trang nghiêm xen giọng điệu cười cợt; giọng xót xa, phẫn
uất xen lẫn giọng tự trào, hóm hỉnh; giọng độc thoại kết hợp đối thoại; giọng
trữ tình dạt dào cảm xúc pha lẫn giọng khách quan, lạnh lùng… Nhưng nổi
bật, độc đáo hơn cả đủ để làm nên bản sắc thơ Chế Lan Viên vẫn luôn là
giọng suy tư, triết lý của những chiêm nghiệm của nhà thơ đối với cuộc đời
và con người:
Những bạn bè yêu anh sẽ gặp anh trong cỏ
Trong hạt sương, trong đá
Trong những gì không phải anh.
Anh tồn tại mãi
Không bằng tuổi tên, mà như tro bụi,
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
Cách nhìn của nhà thơ đối với cuộc sống cũng có nhiều thay đổi.
Ông không còn đứng ở vị thế cao của dân tộc để bày tỏ mình nữa mà từ vị
trí của một con người bình thường, con người cá nhân với bao khắc nghiệt, cay
đắng của cuộc đời, của kiếp người.
2.2.2. Ngôn ngữ và hình ảnh thơ
Ngôn từ là chất liệu của văn học. Cùng kho từ vựng ấy nhưng dưới cảm
quan của mỗi người, sẽ có những cách cấu tứ khác nhau, làm thành những văn bản
ngôn từ khác nhau. Sự khác nhau ấy tạo nên sự đa dạng về phong cách sáng tác của
những nhà văn, nhà thơ khác nhau, hoặc giữa các giai đoạn sáng tác khác nhau của
cùng một người.
Sau 1975, cũng như các thể loại khác, thơ có thiên hướng chú trọng đến
khía cạnh hằng ngày của cuộc sống, khai thác cái đời thường, do vậy mà ngôn ngữ
thơ dần trở nên gần gũi hơn. Mặc dù Di cảo thơ mang đậm chất triết lý, song chất

liệu mà Chế Lan Viên xây nên những tòa nhà ấy không đâu xa lạ với mỗi chúng ta:
Dù đời nhiều chuyện rủi
Mà rất nhiều cơ may
Chiếc bĩnh xưa vẫn đó
Người này vứt để quên,
Người này cầm để nhớ
Thời nay dù vứt bỏ
Thì thời kia nhặt lên
(Bình đựng lệ)
Trong ý niệm của Chế Lan Viên, có những cái đẹp mà giá trị của nó mãi
trường tồn với thời gian song cũng có những cái đẹp, chuẩn mực thay đổi tùy thuộc
vào thời đại. Nhưng qua những câu thơ trên, ông đâu chỉ đơn thuần nói về cái lọ
không thôi mà điều ông muốn hướng đến là một sự chiêm nghiệm về sự tồn tại của
con người trong cuộc đời này: nỗi đau loài người luôn hiện hữu, luôn “bất tử trước
sự biến đổi của thời gian” (Võ Tấn Cường).
Do vậy, đến với thế giới của Di cảo thơ, quan trọng nhất là mỗi chúng ta
phải biết đi vào tìm hiểu ẩn ngữ đằng sau con chữ, nhờ đó mới có thế khám phá
tầng ý nghĩa bên trong của ngôn từ,thấu cảm những tâm tư, suy niệm của nhà thơ.
Song bên cạnh ngôn ngữ đời thường, với những hình ảnh thơ quen thuộc ấy,
ta vẫn nhận ra một Chế Lan Viên – nhà thơ triết lý qua sự biểu đạt những hình
ảnh mang tính tượng trưng, biểu tượng – vốn là yếu tố làm nên phong cách Chế
Lan Viên những năm trước và sau Cách mạng. Ta thấy, khi nói về “cuộc chiến âm
thầm mà khốc liệt” giữa phần thiện và phần ác trong tâm hồn mình, nhà thơ mượn
hình ảnh tuyết để biểu đạt nội dung tư tưởng ấy:
Cuộc chiến tranh màu trắng của tâm hồn
Tuyết nhắm chia phe mà đối chọi
Tuyết này đồi tan tuyết kia tồn tại
Phía chấp nhận hóa bùn, phía kỳ vọng xanh cỏ non.
(Cuộc chiến)
Với sự đan xen giữa hai loại ngôn ngữ trên trong thơ mình, Chế Lan Viên

đã góp phần làm nên tính chất đa dạng về giọng điệu của Di cảo thơ.Chế Lan Viên
không thi vị hóa, không tô vẽ cuộc sống. Vì vậy, nhiều hình ảnh thơ trong Di cảo
chân thực đến trần trụi, thiếu chất thơ nhưng lại trĩu nặng tình đời. Từ đó, Chất
hiện thực đi vào thơ ông nhẹ nhàng, tự nhiên, phản ánh sinh động mọi mặt đời
sống.Di cảo xuất hiện những hình ảnh thơ vừa quen vừa lạ. Ta vừa bắt gặp nó ở
nơi này lại gặp nó ở nơi kia nhưng trong một dáng vẻ khác, cuốn hút, hấp dẫn hơn.
Đó là hoa, là ngọc, là trang giấy, ngọn đèn Trong ba tập Di cảo thơ, hoa xuất hiện
trên dưới không dưới 30 lần, tạo dấu ấn đậm nét, bao gồm cả hoa không tên và có
tên: hoàng thảo hoa vàng, hoa giấy, hoa sữa, hoa chạc chìu, hoa gạo đỏ, hoa quỳnh,
hoanhài, sen trắng, sen hồng, hoa súng tím, phượng đỏ, bằng lăng, hoa lau, hoa
mai, hoa dẻ vàng, hoa đỏ màu yên chi, hoa hồng vàng Hoa làm đẹp cho đời, để
thương để nhớ cho người.
Đã hoa nhài trắng còn sen trắng
Mùa hè ơi, sao người khéo đa tình
Đầy đường phượng đỏ, bằng lăng tím
(Hoa trắng)
Chế Lan Viên cũng là người có nhiều tìm tòi, đổi mới trong hình thức
thể hiện. Ông là người tích cực trong việc cố gắng đem lại nhiều cái mới cho dáng
vẻ câu thơ. Ông hàm súc trong thơ tứ tuyệt và không ngừng mở rộng câu thơ để
ôm lấy hiện thực. Nhà thơ cũng sáng tạo nhiều cách ngắt nhịp độc đáo, nhiều kiểu
qua hàng, ngắt dòng, gieo vần đặc sắc góp phần thể hiện những cảm xúc phức tạp
trong tâm hồn.
2.2.3. Thể loại
Có thể nói, Chế Lan Viên là một cây bút tự do trong sáng tạo. Ông không
gò mình vào một khung thể loại nào. Sáng tác của ông có thể thuộc thể loại tứ
tuyệt, thơ năm chữ, bảy chữ, tám chữ hoặc thơ tự do. Đặc biệt trong ba tập của Di
cảo thơ, có thể thấy rằng, Chế Lan Viên đã hướng đến việc sử dụng lối thơ tự do
như sự phô bày cảm xúc một cách tự nhiên nhất. Cũng có thể điều này xuất phát từ
ý muốn cách tân thơ ca hiện đại của tác giả chăng?
Tôi tiếp cận trang giấy ngày mười sáu tuổi

Bây giờ sáu ba
Cái trang mơ ước một đời chưa với tới
Dần xa
Tôi như người xâu sợi chỉ vào cây kim
ngay trước mặt
Chỉ sắp lọt rồi, kim bỗng lùi xa.
(Hồi ký bên trang viết)
Những câu thơ đứt quãng, không đi theo mạch cảm xúc thống nhất như
những bài thơ trước đây của ông: Người đi tìm hình của nước, Tiếng hát con tàu,
Kết nạp Đảng trên quê mẹ,… Hay như trong Sao chiến thắng:
Ôi tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ như cha, như vợ như chồng
Ôi tổ quốc, nếu cần, ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông.
Đến với Chế Lan Viên, qua những vần thơ tứ tuyệt của ông ta thấy
một sức ôm trùm, bao quát về mọi mặt của đời sống trong một thời đại đầy biến
động. Ông chủ trương:
Vực sự sống ba chiều
Lên trang thơ hai mặt phẳng.
Bởi thế Chế Lan Viên đã góp phần “tăng cường khả năng phản ánh, miêu tả
và biểu hiện hiện thực cuộc sống và các trạng thái tâm hồn của con người… khiến
cho nó có thể từ một khung cửa chật chội, bé nhỏ, một góc nhìn hẹp mà thâu tóm
được cả một thế giới vô cùng” (Nguyễn Quốc Khánh). Di cảo thơ mang một giọng
điệu mới của thơ tứ tuyệt:
Nghìn lẻ một câu viết ra,
Người ta quên cả một nghìn
May lả một có người còn nhớ đời, nhớ mãi
Đã nghìn câu đâu mong lẻ nỗi gì?
(Nghìn lẻ)
Tính kiệm lời mà nhiều ý của thơ tứ tuyệt rất phù hợp với kiểu thơ triết lý

của ông vì chúng hướng đến sự thể hiện những nỗi niềm suy tư, trăn trở, chiêm
nghiệm về đời, về thơ cũng như về chính mình của Chế Lan Viên. Ông biết phát
huy cao độ những mặt mạnh ấy của thể thơ truyền thống song cũng mạnh dạn, linh
hoạt cách tân nó.
KẾT LUẬN
Tập Di cảo thơ đã phần nào khẳng định được vị trí “cây đại thụ” của Chế
Lan Viên trong“cánh đồng thơ, khu rừng thơ Việt Nam”. Qua Di cảo thơ, người
đọc có thể biết thêm nhiều điều mới mẻ về thơ của Chế Lan Viên. Đặc biệt là sự
đổi mới về cả nội dung về nghệ thuật trong thơ ca của ông. Đó chính là sự khám
phá mới mẻ và sáng tạo không ngừng nghỉ trên tinh thần của người nghệ sĩ chân
chính: sự phát triển về ngôn ngữ, sự kiên trì phương thức nghệ thuật độc đáo (tu từ,
hình ảnh…) hay là bước phát triển về thể loại thơ: sự trở về cân đối của thơ cách
luật và thơ tự do, sự song hành khuynh hướng tự do hóa của tứ tuyệt và sự ổn định
hóa của kiểu thơ tự do…Nhưng trên hết, ta đã cảm nhận thấm thía một hồn thơ
luôn khắc khoải về cuộc đời với triết lý nhân sinh sâu sắc, thấu hiểu một nhà thơ có
phẩm chất cao quý, biết trăn trở, biết suy nghĩ và không ngừng tự đổi mới với sức
mạnh bản thân hiếm có, dám sống hết mình cho cái thật, cái tốt, cái đẹp của nghệ
thuật… Tất cả những điều đó đã làm nên một Chế Lan Viên khác biệt với các nhà
thơ cùng thời.

×