Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (554.72 KB, 72 trang )

DANH MỤC VIẾT TẮT
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIÊU
LỜI NÓI ĐẦU
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM
PHI NHÂN THỌ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA DN BHPNT
1.1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ:
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của DNBHPNT.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đối với kinh tế - xã hội
1.2 Tổng quan về hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ
1.2.1 Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiêp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.2 Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.3 Các hình thức đầu tư của DNBH phi nhân thọ
1.2.4 Tổ chức hoạt động đầu tư
1.2.5 Vai trò của hoạt động đầu tư đối với DNBH phi nhân thọ
1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ
1.3.1 . Những nhân tố bên trong.
1.3.2 . Các yếu tố bên ngoài.
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA CÁC
DOANH NGHIỆP BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM
2.1 Thực trạng HOẠT ĐỘNG đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ
2.1.1 Khái quát về sự phát triển của THỊ TRƯỜNG bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay
2.1.2 Thực trạng huy động vốn đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Việt Nam
2.2 Thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ Việt Nam
năm 2011-2013
2.2.1 Thực trạng tổng vốn đầu tư của các DNBH phi nhân thọ Việt Nam


2.2.2 Thực trạng cơ cấu danh mục đầu tư của các DNBH phi nhân thọ ở Việt Nam
2.2.3 Thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư của các DNBH phi nhân thọ Việt Nam
năm 2011-2013
2.3 Đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam
2.3.1 Kết quả
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
KẾT LUẬN CHƯƠNG II.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ
CỦA CÁC DOANH NGHIỆPBẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM

3.1 . Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn tới
3.1.1. Bối cảnh quốc tế và trong nước
3.1.2. Cơ hội và thách thức trong phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam giai đoạn
tới
3.2. Cơ hội và thách thức đối với ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng
3.2.1. Những cơ hội
3.2.2. Những thách thức
3.3. Định hướng hoạt động đầu tư đối với các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ Việt Nam
3.3.1 Định hướng phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ Việt Nam nói riêng
3.3.2. Định hướng hoạt động đầu tư đổi với các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ Việt Nam
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ Việt Nam
3.4.1 Giải pháp tứ phía nhà nước
3.4.2 Giải pháp từ phía Hiệp Hội Bảo Hiểm

3.4.3 Giải pháp từ phía các DNBH phi nhân thọ
KẾT LUẬN CHƯƠNG III
BÀI NGUYÊN CỨU KHOA HỌC
DANH MỤC VIẾT TẮT
BCĐKT Bảng cân đoi kế toán
BCKQKD Báo cáo kết quả kinh doanh
BH Bảo hiểm
DN Doanh nghiệp
DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm
DPNV Dự phòng nghiệp vụ
HĐ ĐTTC Hoạt đông đầu tư tài chính
HSSDVĐT Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư
KD Kinh doanh
KNSL Khả năng sinh lời
KNTTNH Khả năng thanh toán ngắn hạn
TCTD Tổ chức tín dụng
TLBĐS Tỷ lệ đầu tư bất đông sản
TLDPNV Tỷ lệ dự phòng nghiệp vụ
TLĐTNH Tỷ lệ đầu tư ngắn hạn
TSLNTTVĐT Tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn đầu tư
TTBH Thị trường bảo hiểm
TTDH Trả trước dài hạn
TVĐT Nguồn vốn đầu tư
VCSH Vốn chủ sở hữu
RR Rủi ro
GT Giá trị
TT Tăng trưởng
HHBHVN Hiệp hôi bảo hiểm Việt Nam
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU

Một nền kinh tế càng ngày càng phát triển dẫn đến đời sống người dân cũng càng
ngày được nâng cao và nhu cầu cần tới dịch vụ bảo hiểm nói chung và BH phi nhân
thọ nói riêng cũng tăng theo, ở Việt Nam, BH phi nhân thọ đã bắt đầu hình thành từ
năm 1965. Từ 1965 đến 1994 là thời kỳ BH phi nhân thọ hoàn toàn hoạt động độc
quyền với một DNBH Nhà nước duy nhất.
Bước ngoặt có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của ngành BH Việt Nam
được đánh dấu bằng Nghị định 100/NĐ-CP, ban hành ngày 18 tháng 12 năm 1993
về kinh doanh bảo hiểm. Theo đó, đã ra đời một số công ty bảo hiểm và thị trường
bảo hiểm Việt Nam mới bắt đầu hình thành, hoạt động và bước đầu đáp ứng được
một số nhu cầu của các tổ chức, cá nhân trong xã hội. Một trong những hoạt động
chính giữ vai trò quan trọng các hoạt động của DN BH phi nhân thọ đó chính là
hoạt động đầu tư.
Nhìn nhận về hiệu quả hoạt động đầu tư của DN BH nói chung và DNBH phi nhân
thọ nói riêng hiện nay còn nhiều hạn chế rất cần có những định hướng giải pháp để
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của DN BH phi nhân thọ .Hơn thế nữa, trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và trong điều kiện nước ta ra nhập tổ chức thương
mại quốc tế WTO, Tham gia quan hệ với các cơ quan, tổ chức bảo hiểm khu vực và
quốc tế như Hội đồng bảo hiểm các nước ASEAN, Hiệp hội bảo hiểm Quốc tế…
các nhà đầu tư nước ngoài đặc biệt quan tâm đến các lĩnh vực tài chính, bảo hiểm
Vì vậy, rất cần thiết phải có những chính sách,những định hướng hiệu quả về hoạt
động đầu tư của DN BH phi nhân thọ để tạo nên bước phát triển đột phá trong
ngành BH phi nhân thọ.
Xuất phát từ những yêu cầu trên, nhóm nghiên cứu chọn chủ đề:
“Thực trạng hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt
Nam”.
2. Mục tiêu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý thuyết về hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ
- Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm

phi nhân thọ Việt Nam
- Đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
Đối tượng nghiên cứu:
Hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu:
Hiệu quả hoạt động đầu tư tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Việt Nam giai đoạn 2011-2013.
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP
BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ VÀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CỦA DN BHPNT.
1. Tổng quan về doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ:
1.1 Khái niệm:
“Theo điều 3 luật kinh doanh bảo hiểm số 24/2000”
Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt đông nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi ro
của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho
người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Trong đó, doanh nghiệp bảo hiểm thương mại được chia làm 2 loại hình doanh
nghiệp: doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ và doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
+ Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ: là loại hình doanh nghiệp chuyên cung cấp các
sản phẩm bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro liên quan đến tài sản, trách nhiệm dân sự và sức
khỏe, tính mạng, khả năng lao động của con người.
+ Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ: là loại hình doanh nghiệp chuyên cung cấp các
sản phẩm bảo hiểm đảm bảo cho các rủi ro có liên quan đến tuổi thọ của con người.
1.1.4. Các hoạt động chủ yếu của DNBHPNT.
Hoạt đông chủ yếu của các DNBH phi nhân thọ là hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, ngoài ra còn có các hoạt đông khác liên quan hỗ trợ đến hoạt đông kinh
doanh bảo hiểm.
1.1.4.1. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Theo điều 1 nghị định của chính phủ số 100-CP ngày 18/12/1993 về kinh
doanh bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm là việc doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro trên cơ sở người được bảo hiểm đóng một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm để
doanh nghiệp bảo hiểm bồi thường hay trả tiền bảo hiểm khi xảy ra trường hợp
thuộc trách nhiệm bảo hiểm.
Hoạt động kinh doanh bảo hiểm bao gồm cả hoạt động kinh doanh tái bảo
hiểm và hoạt động trung gian bảo hiểm.
Trong hoạt động bảo hiểm của DNBH phi nhân thọ, kinh doanh bảo hiểm
gốc là hoạt đông chính, DNBH phi nhân thọ sẽ chấp nhận những rủi ro mà bên mua
bảo hiểm trên cơ sở bên mua bảo hiểm thanh toán phí bảo hiểm đúng như cam kết.
Mức phí sẽ được hai bên thoả thuận trên cơ sở loại sản phẩm bảo hiểm hay những
điều kiện, điều khoản, điều khoản bổ sung trong hợp đồng bảo hiểm. Khi có tổn
thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm thì DNBH phi nhân thọ sẽ bồi thường cho bên
mua bảo hiểm theo đúng cam kết ghi trong HĐBH. Ngoài ra để phân tán rủi ro
trong hoạt động kinh doanh của mình, các DNBH còn thực hiện hoạt động tái bảo
hiểm.
1.1.2.2 Hoạt động đầu tư
Bảo hiểm là sự chia nhỏ tổn thất của một số ít người cho nhiều người có cùng
khả năng gặp phải những rủi ro tương tự bằng cách thu của họ một khoản tiền gọi
là phí bảo hiểm để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm từ đó bồi thường (chi trả)
cho họ những thiệt hại về tài chính do rủi ro bất ngờ gây nên .
• Sơ đồ cơ chế hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm:
Đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là "sự đảo ngược của chu kỳ sản
xuất kinh doanh". Việc tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: phí bảo hiểm được thu
trước, còn cam kết trả tiền bảo hiểm được thực hiện sau. Giá trị sử dụng của sản
phẩm bảo hiểm chỉ được thực hiện sau khi mua một khoảng thời gian nhất định.
Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trong tay một quỹ tài chính tập trung
khá lớn, nhưng quỹ này sẽ không được sử dụng để bồi thường ngay nên DNBH có
thể sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư .

Như vậy: Đầu tư tài chính của một doanh nghiệp bảo hiểm là việc doanh
nghiệp bảo hiểm sử dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư
theo luật định. Mỗi nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực
đầu tư của DNBH, DNBH phi nhân thọ có thể sử dụng nó nhằm mục đích kiếm lời.
1.1.2.3. Hoạt động khác
Ngoài hai hoạt động chính là kinh doanh bảo hiểm (gốc, tái bảo hiểm) và đầu
tư tài chính, các DNBH phi nhân thọ còn thực hiện các dịch vụ đại lý như giám
định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý tài
sản bị tổn thất toàn bộ. Trong hoạt động này, DNBH phi nhân thọ nhận sự uỷ
quyền của các cá nhân, tổ chức khác thực hiện các dịch vụ giám định nhằm xác
định nguyên nhân và mức độ tổn thất; hay xét giải quyết bồi thường; yêu cầu người
thứ ba bồi hoàn hoặc xử lý tài sản bị tổn thất toàn bộ thay cho các DNBH khác.
Thông qua hoạt động này, DNBH phi nhân thọ sẽ nhận được môt khoản phí để làm
tăng thêm thu nhập doanh nghiệp. Cũng nhờ những hoạt động này mà chất lượng
dịch vụ của DN không ngừng được cải thiện, uy tín và khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp vì thế cũng được nâng cao.
Từ những phân tích trên đã cho thấy, các hoạt động của DNBH phi nhân thọ
có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại và thúc đẩy lẫn nhau. Bởi khi các dịch vụ
đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn
được thực hiện tốt, đảm bảo chất lượng sẽ hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm diễn ra thuận lợi và đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Trong khi đó, hoạt động
kinh doanh bảo hiểm lại thu hút vốn cho hoạt đông đầu tư, đảm bảo cho hoạt đông
đầu tư có nguồn vốn lớn để hưởng lợi thế đầu tư và thực hiện phân tán rủi ro nhờ đa
dạng hóa danh mục đầu tư. Bên cạnh đó, do hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn
tiềm ẩn nhiều rủi ro nên lợi nhuận thu được từ hoạt động này thường rất ít và thậm
chí là lỗ.
1.1.3 . Vai trò của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ đối với kinh tế - xã hội
a. Đối với nền kinh tế:
• Bảo hiểm bù đắp tổn thất, khắc phục thiệt hại:
Bù đắp các tổn thất và khắc phục hậu quả thiệt hại từ rủi ro là tác dụng chủ yếu

của bảo hiểm, cũng như bảo hiểm phi nhân thọ, nguyên nhân để bảo hiểm phi nhân
thọ ra đời. Nói đến bảo hiểm là nói đến vai trò của các doanh nghiệp bảo hiểm đã
cung cấp các loại dịch vụ bảo hiểm nhằm khôi phục khả năng vật chất, tài chính
như lúc ban đầu cho bên mua bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra. Bảo hiểm giúp hạn chế
đến mức thấp nhất những tổn thấp có thể xảy ra, cụ thể mục đích chính trong hoạt
động kinh doanh của các DNBH phi nhân thọ đó là thực hiện bồi thường hay chi trả
tiền bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm gặp rủi ro hay sự kiện bảo hiểm (dẫn đến bị
tổn thất về tài sản, về con người hay làm phát sinh TNDS phải bồi thường cho
người khác) nhờ đó giảm thiểu những tác động xấu ảnh hưởng đến nền kinh tế và
cộng đồng.
• Sử dụng hiệu quả những khoản tiền nhàn rỗi
Trong cuộc sống, mỗi cá nhân phải luôn tính đến những rủi ro có thể gặp phải
và muốn chủ động trong tình huống xấu như ốm đau, bênh tật, tai nạn…nên cần
dành ra một khoản dự phòng khi cần sử dụng. Đây là các khoản tiền nhàn rỗi nếu
xét trên toàn xã hội sẽ là khoản tiền không nhỏ sinh lợi lớn nếu được sử dụng đầu
tư. Tham gia Bảo hiểm phi nhân thọ thay vì lập quỹ dự phòng như thế sẽ giúp các
cá nhân, gia đình khắc phục khó khăn về tài chính, không rơi vào tình trạng kiệt
quệ về vật chất và tinh thần trước những biến cố bất thường có thể xảy ra với khoản
tiền dành mỗi năm ra thấp hơn rất nhiều.
• Tạo nên các quỹ tiền tệ lớn để đầu tư vào lĩnh vực khác đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế
Do đặc điểm trong kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ là phí bảo hiểm thu
trước, việc bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm thường sẽ phát sinh một thời gian
sau đó, nên các khoản tiền này phần lớn có thời gian tạm thời nhàn rỗi. Thông qua
hoạt động bảo hiểm mà một lượng vốn lớn (phí bảo hiểm) phân tán, rải rác các nơi
được tập trung về một nơi hình thành những quỹ tiền tệ lớn. Vì thế, doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ có thể sử dụng số vốn này để đầu tư, đáp ứng nhu cầu vốn
cho nền kinh tế. Khoản lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ sẽ được họ giữ lại một phần và phần còn lại có thể chia lại cho người
tham gia bảo hiểm (lãi chia hợp đồng) trong các hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.

• Giúp tăng thu ngân sách nhà nước
Nhờ các hoạt động dịch vụ bảo hiểm cũng như bảo hiểm phi nhân thọ mà
ngân sách nhà nước sẽ đỡ phải chi trả các khoản trợ cấp lớn để bù đắp những tổn
thất do thiên tai, tai nạn bất ngờ hàng năm. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi
nhân thọ cũng đóng góp vào ngân sách nhà nước các khoản như thuế giá trị gia
tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp… Như vậy, bảo hiểm phi nhân thọ góp phần ổn
định ngân sách nhà nước, tạo điều kiện để ngân sách nhà nước có thêm các khoản
đầu tư vào phát triển kinh tế. Ngoài ra, một thị trường bảo hiểm phi nhân thọ phát
triển mạnh mẽ và ổn định sẽ thu hút các cá nhân và tổ chức mua bảo hiểm của
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, góp phần tiết kiệm một khoản ngoại tệ lớn cho
ngân sách nhà nước.
• Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư
Trong kinh doanh, các tổ chức phải bỏ ra một khoản tiền lớn lập quỹ dự
phòng khi bỏ vốn đầu tư. Các nhà đầu tư đều lo ngại các rủi ro do thiên tai, tai nạn
có thể xảy ra làm họ thua lỗ, thậm chí mất hết cả vốn. Xét trên toàn xã hội, tổng các
quỹ dự phòng sẽ là một khoản tiền không nhỏ, có nhả năng sinh lợi rất lớn nếu
được đem đi đầu tư. Bảo hiểm nói chung hay bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng giúp
nhà đầu tư yên tâm hơn khi quyết định bỏ vốn ra. Thực tế hầu hết các dự án đầu tư
đều đòi hỏi phải có bảo hiểm, nhất là các dự án lớn. Việc bồi thường, chi trả bảo
hiểm đã giúp các tổ chức bảo toàn tài sản, tiền vốn của mình trước các rủi ro. Vì
vậy, bảo hiểm có vai trò đảm bảo và khuyến khích đầu tư.
• Tạo điều kiện thu hứt vốn đầu tư, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế, thúc đẩy
hội nhập kinh tế quốc tế
Sự phát triển đa dạng về các sản phẩm bảo hiểm như bảo hiểm hỏa hoạn, tai
nạn, xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm nông nghiệp, bảo hiểm hàng hải… có vai trò rất
quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều hàng hóa dịch vụ có thể tiêu thụ
thuận lợi trên thị trường khi có kèm theo các hợp đồng bảo hiểm những trách nhiệm
phát sinh liên quan đến việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Trong quá trình tự do hóa
thương mại và dịch vụ tài chính, bảo hiểm có vai trò quan trọng trong việc đàm
phán và thực hiện các cam kết hội nhập theo lộ trình trong các phương án đàm phán

song phương và đa phương như Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ, đàm
phán thương mại Việt Nam – Liên minh châu Âu (EU), gia nhập tổ chức thương
mại thế giới(WTO). Nhờ đó góp phần tăng qui mô trao đổi hàng hóa và dịch vụ,
thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam ra nước ngoài, góp phần thúc
đẩy hội nhập kinh tế quốc tế.
b. Đối với xã hội
• Tác động đến công tác phòng tránh rủi ro, hạn chế tổn thất, đảm bảo an toàn
xa hội:
Nghề nghiệp bảo hiểm đòi hỏi các tổ chức bảo hiểm có trách nhiệm nghiên
cứu rủi ro, thống kê tai nạn, tổn thất, xác nhận nguyên nhân, đề ra và phối hợp các
ngành, các đơn vị có liên quan thực hiện kiểm soát, ngăn ngừa rủi ro, giảm thiểu
tổn thất một cách tốt nhất. Hoạt động kinh doanh của DNBH phi nhân thọ không
những có lợi cho doanh nghiệp mà còn góp phần ổn định cuộc sống của con người,
giúp cuộc sống của con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn.
• Tạo nên lối sống tiết kiệm và mang đến trạng thái an toàn về tinh thần cho xã
hội
Sự tồn tại của bảo hiểm phi nhân thọ giúp mang lại cảm giác an toàn cho mỗi
con người,và dần hình thành cho mỗi người một thói quen tiết kiệm một khoản gì
đó để đóng bảo hiểm.
• Bảo hiểm tạo thêm việc làm cho người lao động
Sự phát triển của hoạt động bảo hiểm hay bảo hiểm phi nhân thọ có vai trò vĩ
mô quan trọng trong vấn đề giải quyết việc làm cho xã hội. Thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ đã thu hút một lực lượng lớn lao động làm việc tại các doanh
này.Trong điều kiện thất nghiệp đang ám ảnh nền kinh tế toàn cầu thì sự phát triển
của bảo hiểm vẫn được coi là còn nhiều tiềm năng ở các quốc gia, góp phần giải
quyết tình trạng thiếu việc làm cũng như các vấn đề xã hội liên quan.
1.2 Tổng quan về hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ
Đặc thù của kinh doanh bảo hiểm là “sự đảo ngược của chu kì sản xuất kinh
doanh”. Việc tiêu thụ sản phẩm dựa trên quy trình: doanh thu có trước, chi trả và

bồi thường được thực hiện sau. Như vậy doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH) có trong
tay một quỹ tài chính khá lớn, nhưng không được sử dụng để bồi thường ngay nên
DNBH có thể sử dụng lượng tiền nhàn rỗi này để đầu tư.
Như vậy: Đầu tư tài chính của một DNBH là việc doanh nghiệp bảo hiểm sử
dụng các nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư vào các lĩnh vực đầu tư theo luật định. Mỗi
nước khác nhau thì có những quy định khác nhau về lĩnh vực đầu tư của DNBH.
1.2.1 Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiêp bảo hiểm phi nhân thọ
1.2.1.1 Nguồn vốn điều lệ
Đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, pháp luật quy định mức vốn cho các
DNBH tương đối lớn. Như ở Việt Nam hiện nay, tại Điều 4, Nghị định số
46/2007/NĐ-CP quy định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và
doanh nghiệp môi giới bảo hiểm đã quy định vốn pháp định cho DNBH phi nhân
thọ là 300 tỷ đồng Việt Nam.
Sở dĩ Nhà nước yêu cầu vốn pháp định của các DNBH cao như vậy là nhằm
bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm. Giống như các tổ chức trung gian
tài chính khác, khi DNBH làm ăn không có hiệu quả, không còn đủ tiền để trả cho
khách hàng thì Nhà nước sẽ lấy tiền từ vốn điều lệ của doanh nghiệp để giải quyết
cho họ.
Doanh nghiệp bảo hiểm thường phải ký quỹ một phần vốn điều lệ của mình
theo quy định của pháp luật. Ở Việt Nam hiện nay quy định bằng 2% vốn pháp
định, phần còn lại DNBH có thể đem đi đầu tư sinh lời. Trong DNBH phi nhân thọ,
nguồn vốn đầu tư này chiếm tỷ trọng chưa phải là lớn nhất nhưng cũng khá quan
trọng. Nó là vốn tự có của doanh nghiệp nên không chịu sự kiểm soát chặt chẽ của
pháp luật, tạo điều kiện cho DNBH đầu tư vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận
cao.
1.2.1.2 Quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện
Trong quá trình hoạt động kinh doanh, DNBH cũng có thể gặp phải những rủi
ro, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp và suy cho cùng là ảnh
hưởng đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Chính vì vậy, để quản lý DNBH
và đảm bảo khả năng thanh toán cho doanh nghiệp, Nhà nước yêu cầu DNBH phải

trích lập các quỹ dự trữ bắt buộc. Ở Việt Nam, luật quy định các DNBH phải trích
5% lợi nhuận sau thuế hàng năm để lập quỹ dự trữ bắt buộc. Mức tối đa của quỹ dự
trữ bắt buộc bằng 10% vốn điều lệ của DNBH.
Trong quá trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm, DNBH phải luôn duy trì được
khả năng thanh toán của mình. Ngoài quỹ dự trữ bắt buộc theo yêu cầu của pháp
luật, DNBH có thể tự thành lập quỹ dự trữ tự nguyện nhằm tăng khả năng thanh
toán của doanh nghiệp, được lấy từ lợi nhuận sau thuế chưa phân phối và phải được
ghi trong điều lệ hoạt động của doanh nghiệp.
Các quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện là một nguồn vốn đầu tư chiếm tỷ trọng
nhỏ, nhưng cũng góp phần làm tăng doanh thu và lợi nhuận cho DNBH.
1.2.1.3 Các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng
Cuối mỗi năm tài chính, lợi nhuận sau thuế của DNBH được phân phối cho
các cổ đông dưới hình thức cổ tức, trích lập các quỹ như quỹ đầu tư phát triển, quỹ
khen thưởng phúc lợi…, phần còn lại chưa sử dụng sẽ bổ sung vào nguồn vốn đầu
tư của DN.
1.2.1.4 Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
Quỹ dự phòng nghiệp vụ là một đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được
trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán cho các
trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã được
kí kết. Đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ thường có một số quỹ dự
phòng nghiệp vụ như dự phòng phí, dự phòng bồi thường, dự phòng dao động lớn.
Cuối mỗi năm tài chính, DNBH phải trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ từ
quỹ tài chính bảo hiểm cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và cho phần trách nhiệm còn
lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong năm tài chính tiếp theo, các quỹ dự phòng nghiệp
vụ thường không phải sử dụng để chi trả, bồi thường hết ngay. Ngoài ra, DNBH có
thể lấy chính từ tiền phí thu trong năm để chi trả bồi thường cho phần trách nhiệm
phát sinh từ những hợp đồng được kí kết từ năm trước. Do vậy, sẽ có một phần quỹ
dự phòng nghiệp vụ là nhàn rỗi, có thể đem đi đầu tư để kiếm lời. Tùy theo quy
định của từng nước mà việc xác định bao nhiêu trong số các quỹ dự phòng nghiệp

vụ được coi là nhàn rỗi để doanh nghiệp được đem đi đầu tư.
Tại Việt Nam, tại Điều 13 Nghị định số 46/2007/NĐ-CP quy định nguồn vốn
nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm như sau:
“Điều 13. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm
1. Nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm của DNBH là tổng dự
phòng nghiệp vụ bảo hiểm trừ các khoản tiền mà DNBH dùng để bồi thường
bảo hiểm thường xuyên trong kì đối với bảo hiểm phi nhân thọ, trả tiền bảo
hiểm thường xuyên trong kỳ đối với bảo hiểm nhân thọ.
2. Khoản tiền dùng để bồi thường bảo hiểm thường xuyên trong kì đối với
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ không thấp hơn 25% tổng
dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm và được gửi tại các tổ chức tín dụng hoạt động
tại Việt Nam.
…”
Trong các nguồn vốn đầu tư trên, nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư của DNBH phi nhân thọ
và việc đầu tư nguồn vốn này cũng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật.
1.2.2 Nguyên tắc đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
DNBH hoạt động đầu tư chủ yếu dựa trên cơ sở nguồn vốn từ các quỹ dự phòng
nghiệp vụ ( doanh thu phí bảo hiểm) và vốn điều lệ.
Để đảm bảo nguồn vốn của DNBH được đầu tư an toàn, hiệu quả, hoạt động
đầu tư của DNBH cần thực hiện theo những nguyên tắc sau:
1.2.2.1 Nguyên tắc an toàn
Nguyên tắc này được đặt ra nhằm hạn chế tối da rủi ro trong đầu tư, bảo toàn
nguồn vốn sử dụng. Hoạt động đầu tư trong DNBH cũng như bất kỳ hoạt động đầu
tư nào, luôn đứng trước những rủi ro sau:
Rủi ro lãi suất: Rủi ro này xuất phát từ chỗ giá trị của các khoản đầu tư có lãi suất
cố định chịu sự biến động khi lãi suất trên thị trường thay đổi và tỷ suất thu hồi
thực ( tức là lãi suất đã điều chỉnh theo lạm phát ) có thể biến đổi một cách tương
tự.
Rủi ro tín dụng: Rủi ro này xảy ra khi bên vay vốn của DNBH phá sản hay tái cơ

cấu tổ chức, khiến họ không thể trả lại tiền đầu tư cho DNBH như đã cam kết.
Rủi ro thị trường: Rủi ro này xuất phát từ sự thay đổi của thị trường thuộc lĩnh
vực mà DNBH đầu tư.
Rủi ro tiền tệ: Tỷ giá của đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ luôn thay đổi làm cho
giá trị các khoản đầu tư không định giá bằng đồng ngoại tệ sẽ thay đổi theo.
Việc đảm bảo nguyên tắc đầu tư vốn an toàn là rất quan trọng đối với các
DNBH phi nhân thọ, nó đảm bảo cho doanh nghiệp thực hiện các cma kết với
khách hàng trong hợp đồng bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nguyên tắc an
toàn của các khoản mục đầu tư được pháp luật thể chế bằng việc quy định danh
mục đầu tư với những lĩnh vực có mức độ rủi ro đầu tư thấp. Ngoài ra, nguyên tắc
này yêu cầu DNBH phải đa dạng hóa danh mục đầu tư của mình. Nguyên tắc phân
tán rủi ro không chỉ áp dụng với đối với hoạt đông kinh doanh bảo hiểm trực tiếp,
mà còn sử dụng đối với cả hoạt động đầu tư của DNBH, bởi vì mỗi danh mục đều
mang trong mình những yếu tố rủi ro riêng. Do đó để phân tán rủi ro, cách tốt nhất
là đặt vốn vào nhiều danh mục khác nhau.
1.2.2.2 Nguyên tắc sinh lợi
Hoạt động đầu tư phải đảm bảo tạo ra lợi nhuận. Lợi nhuận rất cần thiết để
đảm bảo cho DNBH tăng cường sức mạnh tài chính, thực hiện các chiến lược của
doanh nghiệp như: Giảm phí, mở rộng phạm vi bảo hiểm… Do đó, người quản lý
quỹ bảo hiểm cần đầu tư vào những lĩnh vực đem lại mức lợi nhuận hợp lý, đồng
thời bảo đảm nguyên tắc an toàn. Bởi vì theo nguyên lý đầu tư: Khi rủi ro đầu tư
càng cao, tỷ suất lợi nhuận đầu tư cũng cao và ngược lại.
1.2.2.3 Nguyên tắc đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên
Việc đầu tư của DNBH phải đảm bảo có tính thanh khoản hợp lý. DNBH có
thể phải thanh toán tiền cho người tham gia bảo hiểm bất kỳ lúc nào có sự kiện bảo
hiểm xảy ra. Do đó, các lĩnh vực đầu tư phải phù hợp với từng loại quỹ- đầu tư dài
hạn hay ngắn hạn. Tính thanh khoản của các khoản mục đầu tư của DNBH được
pháp luật thể chế bằng việc quy định danh mục đầu tư với những tỷ lệ nhất định.
Trong thực tế, việc đồng thời thực hiện các nguyên tắc trên đối với DNBH phi
nhân thọ là một vấn đề rất phức tạp và mâu thuẫn với nhau. Khi DNBH phi nhân

thọ thực hiện nguyên tắc an toàn, khả năng sinh lời của khoản đầu tư bị giảm
xuống. Ngược lại, nếu chỉ chú ý đến nguyên tắc sinh lời, rủi ro đầu tư sẽ tăng lên,
ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của DNBH. Ngoài ra, các nguyên tắc đầu tư
cần được áp dụng linh hoạt tùy thuộc vốn đầu tư được hình thành từ nguồn nào. So
với hoạt động đầu tư từ các nguồn vốn tự có ( như vốn điều lệ), hoạt động đầu tư từ
các nguồn vốn nợ ( như các quỹ dự phòng nghiệp vụ) phải tuân thủ các nguyên tắc
trên hết sức nghiêm ngặt. Bởi vì đây không phải là tiền của DNBH phi nhân thọ,
mà là các khoản nợ của doanh nghiệp đối với khách hàng.
1.2.3 Các hình thức đầu tư của DNBH phi nhân thọ
1.2.3.1 Gửi tiền tại các tổ chức tín dụng
Doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ có thể mở các tài khoản thanh toán
Ngoài ra, người nắm giữ trái phiếu có thể bán trái phiếu trước khi đến thời hạn
thanh toán nhằm đáp ứng nhu cầu huy đông vốn. Tuy nhiên, để thực hiện được việc
chuyển nhượng trái phiếu dễ dàng, nhanh chóng đòi hỏi phải có thị trường chứng
khoán phát triển.
Trái phiếu có độ an toàn cao.
Trái phiếu trên thị trường thường do Chính phủ hoặc các doanh nghiệp lớn phát
hành, do vây việc thanh toán gốc và lãi trái phiếu sẽ được đảm bảo chắc chắn.
Trong trường hợp các doanh nghiệp bị giải thể hoặc thanh lý thì trái phiếu lại được
ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm có thể nắm giữ nhiều loại trái phiếu với các
kỳ hạn khác nhau chờ đến ngày đáo hạn và sử dụng tiền thu được để thanh toán cho
các hợp đồng đến hạn.
Với các ưu điểm trên, trong những năm gần đây, đầu tư vào trái phiếu đang chiếm
tỷ trọng khá lớn trong danh mục đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thế
giới.
Tuy nhiên, khi thực hiện đầu tư vào trái phiếu, các nhà đầu tư phải chịu những rủi
ro nhất định đó là rủi ro tín dụng, rủi ro lạm phát , chính vì vây, các DNBH cũng
cần thân trọng, cân nhắc trước khi quyết định đầu tư.
1.2.3.2 Cho vay có thế chấp

Đối với DNBH phi nhân thọ, hoạt động đầu tư thông qua cho vay có vai trò rất
quan trọng thể hiện ở những đặc điểm sau:
- Tuân thủ các tiêu chuẩn tài chính
- Tạo thu nhập ổn định cho DNBH
- Cung cấp cho xã hội một kênh huy động vốn
- Góp phần khuyến khích việc tiêu thụ các sản phẩm bảo hiểm
Với tính chất là một công cụ đầu tư, khi tiến hành cho vay, các DNBH cũng phải
chịu một số hạn chế nhất định như hạn chế đối với số tiền tối đa được phép cho vay
để hạn chế về đồng tiền cho vay.
1.2.3.3 Đầu tư chứng khoán
Đây là một công cụ đầu tư được các DNBH phi nhân thọ sử dụng rất rộng rãi.
Thu nhập từ các hoạt động đầu tư chứng khoán đem lại cho các DNBH là rất lớn.
Ngoài ra, đầu tư vòa chứng khoán có tính thanh khoản cao vì DNBH phi nhân
thọ có thể nhanh chóng bán các loại chứng khoán ra thị trường nếu nhu cầu chi trả
tiền mặt là cần thiết. Chứng khoán mà các loại DNBH phi nhân thọ đầu tư thường
là cổ phiếu và trái phiếu.
• Trái phiếu
Là hình thức đầu tư chủ yếu, trong đó trái phiếu Chính phủ được ưu tiên hàng đầu
vì tính an toàn cao và lại có lãi. Trái phiếu công ty có độ rủi ro cao hơn trái phiếu
Chính phủ nhưng lại có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Đầu tư vào trái phiếu chủ yếu
chịu sự tác động của rủi ro lãi suất.
• Cổ phiếu
Cổ phiếu là hình thức đầu tư lớn thứ hai sau trái phiếu chính phủ được doanh
nghiệp quan tâm bởi tính sinh lợi của nó.
Cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán trong những năm qua, việc đầu
tư vào thị trường chứng khoán của các DNBH phi nhân thọ ngày càng gia tăng.
1.2.3.4 Đầu tư bất động sản
Hình thức đầu tư này cũng có vai trò quan trọng vì:
- Duy trì sự ổn định giá trị, việc đầu tư vào bất động sản ít chịu ảnh hưởng bởi
tác động của yếu tố lạm phát.

- Phát huy tác dụng khuếch trương, quảng cáo, nâng cao hình ảnh doanh
nghiệp.
- Cung cấp nơi làm việc thuận lợi cho khách hàng để thắt chặt thêm mối quan
hệ với họ.
Tuy nhiên, việc đầu tư vào bất động sản có rủi ro thị trường cao và có tính thanh
khoản thấp, nên đầu tư của các DNBH phi nhân thọ vào bất động sản thường không
lớn.
1.2.3.5 Đầu tư khác
Ngoài những hình thức đầu tư trên, các DNBH phi nhân thọ còn có thể đầu tư dưới
các hình thức khác như: góp vốn liên doanh, cầm cố, thế chấp, kí cược kí quỹ…
Nhìn chung, do hoạt động chi trả bồi thường của DNBH phi nhân thọ phát sinh
trong kì hạn một năm nên các DNBH phi nhân thọ tập trung đầu tư ngắn hạn là chủ
yếu. Đồng thời, đầu tư vào các danh mục có mức độ rủi ro trung bình để đảm bảo
khả năng thanh toán cho khách hàng.
1.2.4 Tổ chức hoạt động đầu tư
Quy mô doanh nghiệp, tính chất nghiệp vụ bảo hiểm và những quy định của pháp
luật có liên quan chặt chẽ với nhau và tác động đến hình thức tổ chức hoạt động
đầu tư của DNBH phi nhân thọ.
Có 3 hình thức tổ chức phổ biến:
- Thành lập công ty đầu tư thuộc doanh nghiệp bảo hiểm:
Đây là hình thức áp dụng khá phổ biến ở các DNBH có quy mô lớn và phát triển,
nó giúp cho các DNBH tập trung các nguồn lực của mình để nâng cao chất và
lượng cũng như hiệu quả trong hoạt động đầu tư.
- Tổ chức phòng đầu tư trực thuộc doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp có quy mô nhỏ hoặc mới thành lập thường áp dụng hình thức
này. Theo đó, phó giám đốc doanh nghiệp phụ trách mảng đầu tư sẽ trực tiếp chỉ
đạo phòng đầu tư nhằm thực hiện chương trình đầu tư của doanh nghiệp mà hội
đồng quản trị đã đề ra. Hiện nay, tại Việt Nam, hình thức tổ chức này là khá phổ
biến trong hệ thống các DNBH.
- Đầu tư không chi phối thông qua doanh nghiệp hay các quỹ đầu tư độc lập:

Các DNBH phi nhân thọ có thể mua cổ phần ở mức không chi phối của các tổ chức
đầu tư khác nhằm mở rộng và đa dạng hóa các hoạt động đầu tư của mình.
1.2.5 Vai trò của hoạt động đầu tư đối với DNBH phi nhân thọ
1.2.5.1 Đối với doanh nghiệp bảo hiểm
Hoạt động đầu tư là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Đầu tư có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt dộng kinh doanh của bất kì một
DNBH nào. Nhìn chung, đối với DNBH phi nhân thọ, hoạt động đầu tư có những
vai trò cơ bản sau:
- Hoạt động đầu tư ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của công ty
bảo hiểm. Tỷ suất lợi nhuận đầu tư cao sẽ giúp DNBH có điều kiện giảm phí
bảo hiểm, từ đó dành khách hàng từ các đối thủ cạnh tranh. Ở một số công ty
bảo hiểm lớn trên thế giới, tỷ lệ bồi thường là rất cao, thầm chí đạt ở mức
98% đến 99%, tức gần như toàn bộ phí bảo hiểm thu được chỉ đủ để chi trả
bồi thường, còn các chi phí hoạt động khác và lợi nhuận của công ty đều
được lấy từ lãi đầu tư. Việc tạo ra sản phẩm bảo hiểm với mức phí linh hoạt,
nhạy cảm với biến động của lãi suất đã làm nảy sinh mối quan hệ qua lại
giữa hoạt động đầu tư và hoạt động bảo hiểm.
- Hoạt động đầu tư chi phối chiến lược thiết kế và bán sản phẩm của DNBH
phi nhân thọ thông qua việc định giá các sản phẩm bảo hiểm, mở rộng phạm
vi trách nhiệm hay tăng quyền lợi cho khách hàng.
- Hoạt động đầu tư giúp các DNBH phi nhân thọ bù đắp sự mất giá của đồng
tiền. Bảo toàn quỹ tài chính bảo hiểm trước rủi ro lạm phát.
- Hoạt động đầu tư đóng góp vào sự tăng trưởng thu nhập và lợi nhuận của
DNBH phi nhân thọ, từ đó giúp mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng cổ tức
cho cổ đông, tăng quỹ khen thưởng phúc lợi và thu nhập cho người lao động.
- Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn có một số ý nghĩa khác đối với DNBH phi
nhân thọ. Ví dụ như thông qua đầu tư bất động sản có thể khuếch trương
quảng cáo công ty. Hay thông qua hoạt động cho vay có thể tạo thêm khách
hàng cho doanh nghiệp ( người vay phải mua bảo hiểm tại doanh nghiệp…)
1.2.5.2 Đối với xã hội

Vai trò hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ đối với xã hội được thể hiện rõ
nét nhất thông qua việc huy động vốn cho nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm thực
chất là hoạt động dịch vụ tài chính và các doanh nghiệp bảo hiểm thực chất là các
tổ chức trung gian tài chính. Cùng với các trung gian tài chính khác như các ngân
hàng thương mại, công ty chứng khoán…, doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ sử
dụng tiền nhàn rỗi đầu tư cho nền kinh tế được coi là một kênh cung cấp vốn quan
trọng và có một số ưu điểm so với các trung gian tài chính khác như huy động được
những khoản tiền nhỏ từ dân chúng dưới hình thức phí bảo hiểm… Là một trung
gian tài chính, DNBH phi nhân thọ thu hút, cung ứng vốn, góp phần đáp ứng các
nhu cầu về vốn, thúc đẩy sự luân chuyển, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền
kinh tế.
Ngoài ra, hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ góp phần tạo ra công ăn việc
làm cho xã hội, giúp xã hội ổn định và tăng tích lũy cho nền kinh tế. Bởi vì cùng
với sự phát triển của các DNBH phi nhân thọ, sẽ thu hút được nhiều lao động hơn
làm việc trong ngành bảo hiểm. Thông qua các hoạt động đầu tư, các DNBH phi
nhân thọ cũng tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác, tạo
nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong xã hội.
Như vậy, hoạt động đầu tư là một phần không thể thiếu được bên cạnh hoạt động
kinh doanh của DNBH phi nhân thọ. Hoạt động đầu tư vừa có ý nghĩa huy động
vốn tài trợ cho sự phát triển kinh tế xã hội, vừa giúp các DNBH phi nhân thọ tồn tại
và phát triển.
1.2.6 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ
Để đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, ta
sẽ có các chỉ tiêu sau:
• Các chỉ tiêu tài chính đánh giá khả năng sinh lời
 Hiệu suất sử dụng vốn đầu tư đầu tư tài chính
Hiệu suất sử dụng vốn ĐTTC= x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh, cứ một đồng vốn cho HĐ ĐTTC của DN trong kì, sẽ thu
được bao nhiêu đồng doanh thu từ HĐ ĐTTC. Chỉ tiêu này càng cao phản ánh hiệu
suất sử dụng vốn của DN càng lớn.

 Tỷ suất sinh lời trên vốn đầu tư tài chính
Tỷ suất sinh lời trên vốn ĐTTC = x 100%
Chỉ tiêu này cho biết số lợi nhuận được tạo ra trên một đồng vốn cho HĐ ĐTTC.
Chỉ tiêu này càng cao, hiệu quả ĐTTC của doanh nghiệp càng cao.
 Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu từ hoạt động ĐTTC
Tỷ suất lợi nhuận theo DT từ HĐ ĐTTC= x 100%
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng doanh thu từ hoạt động đầu tư trong kì tạo ra bao
nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ DN quản lý tốt chi phí trong
hoạt động đầu tư tài chính và có chiến lược đầu tư tốt.
• Chỉ tiêu đánh giá khả năng thanh toán
 Hệ số khả năng thanh toán tổng quát
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát =
Chỉ tiêu này phản ánh mối quan hệ giữa tổng tài sản hiện nay mà doanh nghiệp
đang quản lý sử dụng với tổng số nợ phải trả. Hệ số này càng cao thì DN được đánh
giá là có khả năng thanh toán tốt.
 Hệ số khả năng thanh toán nhanh
Hệ số khả năng thanh toán nhanh =
Việc phân tích và tính toán các hệ số khả năng thanh toán nhanh giúp DN biết được
thực trạng cần thanh toán nhanh để có kế hoạch dự trữ nhằm đáp ứng kịp thời các
nhu cầu thanh toán. DN đảm bảo khả năng thanh toán nhanh khi hệ số này lớn hơn
hoặc bằng 1 và nhỏ hơn 2.
1.3 Các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ
Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của DNBH phi nhân thọ,
trong đó bao gồm cả những nhân tố bên trong và nhân tố bên ngoài.
1.3.1 . Những nhân tố bên trong.
 Các nghĩa vụ tài chính của DNBH phi nhân thọ
Có thể nói nghĩa vụ tài chính của DNBH là nhân tố then chốt quyết định sự
lựa chọn các hình thức đầu tư của DNBH, đặc biệt là nghĩa vụ với khách
hàng(người được bảo hiểm).Nghĩa vụ này được quy định tại các điều khoản của
hợp đồng bảo hiểm. Hình thức đầu tư của DNBH sẽ phụ thuộc vào bản chất các

nghĩa vụ của DNBH đối với khách hàng.
Nguồn vốn đem đi đầu tư của DNBH phần lớn lấy từ các quỹ dự phòng nghiệp
vụ.Do đó để đảm bảo quyền lợi của khách hàng cũng như đảm bảo khả năng thanh
toán của doanh nghiệp thì khi đầu tư không chỉ tính đến lợi nhuận mà còn phải đảm
bảo khả năng đáp ứng trách nhiệm đối với người được bảo hiểm.Nếu như không có
sự quản lý hoạt động đầu tư một cách chặt chẽ, DNBH sẽ có xu hướng tìm kiếm
các hình thức đầu tư sao cho thu được lợi nhuận cao nhất trên cơ sở tài chính hiện
có. DNBH phi nhân thọ có 2 nghĩa vụ tài chính chủ yếu sau :
 Trách nhiệm với người được bảo hiểm
 Trách nhiệm với cổ đông.
Nghĩa vụ tài chính với người được bảo hiểm ở DNBH phi nhân thọ có ảnh hưởng
lớn đến chính sách đầu tư của doanh nghiệp, đặc biệt là đến việc lựa chọn các tài
sản đảm bảo cho nghĩa vụ đó.Nghĩa vụ tài chính của DNBH nhân thọ với người
tham gia bảo hiểm có thời hạn dài hơn so với DNBH phi nhân thọ. Điều này có
nghĩa là giới hạn thời gian cho việc đầu tư các quỹ của người tham gia bảo hiểm
nhân thọ dài hơn nhiều so với trong bảo hiểm phi nhân thọ
 Quy mô của DNBH phi nhân thọ
Quy mô của DNBH cũng ảnh hưởng đến sự lựa chọn các hình thức đầu tư.Các
doanh nghiệp có vốn lớn sẽ có phạm vi lựa chọn đầu tư rộng hơn, có khả năng đầu
tư vào nhiều danh mục khác nhau, đặc biệt là khi có quy định tỷ lệ đầu tư tối thiểu
vào một số lĩnh vực như bất động sản ,trái phiếu chính phủ…Đồng thời mức độ
thanh khoản của các tài sản tài chính sẽ phụ thuộc vào quy mô đầu tư vào tài sản
đó của DNBH so với quy mô thị trường. Ví dụ, một DNBH nhỏ thì do tài sản đầu
tư có giá trị nhỏ nên khi cần họ có thể bán ngay ra thị trường mà không lo làm rối
loạn thị trường đảm bảo tính thanh khoản để có tiền mặt chi tiêu.Trong khi đó với
một DNBH lớn nắm giữ một giá trị lớn cùng loại tài sản đầu tư đó ,khi cần nếu bán
ra thị trường có thể ảnh hưởng đáng kể do khi bán hàng với số lượng lớn có thể bị
giảm giá bán.Trong trường hợp này tài sản đầu tư đó có thể coi là không đủ tính
thanh khoản cần thiết.
 Chính sách phân phối lợi nhuận

Nếu thị trường bảo hiểm địa phương có tập quán phân phối lợi nhuận cho người
tham gia bảo hiểm dưới hình thức chia lãi bằng tiền mặt hàng năm thì DNBH phải
chú trọng hơn vào mức thu nhập ngắn hạn từ việc đầu tư.Ngược lại nếu việc phân
phối lợi nhuận cho người tham gia bảo hiểm nhân thọ được thực hiện chủ yếu dưới
hình thức bổ sung vào số tiền bảo hiểm hoặc trả thưởng vào thời điểm kết thúc hợp
đồng bảo hiểm thì DNBH ít quan tâm đến lợi nhuận đầu tư ngắn hạn và tập trung
vào đầu tư dài hạn.
 Các quan điểm đầu tư của nhà quản lí.
Hoạt động đầu tư chịu tác động bởi nhiều nhân tố, nhưng quyết định đầu tư là
do người chịu trách nhiệm quản lí đầu tư quyết định trong khuôn khổ pháp luật cho
phép.Tuỳ vào từng người quản lí đầu tư là người thận trọng hay là người ưa mạo
hiểm mà sẽ có sự lựa chọn vào những danh mục đầu tư có mức độ rủi ro thấp hay
cao để thu lợi nhuận.
Thực tế cho thấy rằng quan điểm quản lí đầu tư ở các thị trường bảo hiểm
khác nhau là khác nhau . Điều này có ảnh hưởng tới hội đồng quản trị của các
DNBH với tư cách là những người đặt ra các giới hạn chung cho chính sách đầu tư
của công ty .Do chịu cùng sức ép nên các chính sách đầu tư nhìn chung có xu
hướng tương tự nhau giữa các DNBH hoạt động trên cùng một thị trường.
Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy các triết lí hay quan điểm đầu tư không tách
biệt với bối cảnh quy mô và tốc độ phát triển của thị trường vốn .Các thị trường
vốn có quy mô lớn thường có sự tham gia tích cực của các DNBH. Các khu vực tài
chính tự do và năng động hơn thường sẽ tạo ra các tập quán quản lí đầu tư thiếu
thận trọng hơn.
1.3.2 . Các yếu tố bên ngoài.
Cũng như bất kì một hoạt động kinh tế nào khác thì hoạt động đầu tư của
DNBH cũng luôn chịu tác động của các nhân tố môi trường bên ngoài như môi
trường pháp lí , môi trường kinh tế -xã hội và chính trị.
 Chế độ thuế của Nhà nước
Thuế là một nhân tố bên ngoài quan trọng có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt
động đầu tư của DNBH phi nhân thọ :

Nếu thuế suất thấp áp dụng với thu nhập từ đầu tư khác với thuế suất áp dụng
với thu nhập từ lãi vốn thì điều đó sẽ ảnh hưởng tới việc lựa chọn hình thức đầu
tư.Trong trường hợp thu nhập từ lãi vốn đầu tư không bị đánh thuế thì điều này có
thể làm thay đổi tính hấp dẫn của các tài sản tài chính khác nhau. DNBH sẽ tăng
giá trị đầu tư vào những lĩnh vực được Nhà nước khuyến khích thông qua việc
giảm thuế .
Nhà nước khuyến khích đầu tư cho nền kinh tế bằng chính sách ưu đãi không
đánh thuế đối với lợi nhuận sau thuế của công ty nếu lợi nhuận đó được đem tái đầu
tư .Khi đó các DNBH sẽ có xu hướng để lại lợi nhuận nhiều hơn bổ sung vào vốn
điều lệ tăng nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp.
 Các điều kiện của thị trường vốn

×