Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Đề tài: Chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc (1888 – 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.35 KB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI


Đ ti:
Chính quyn thnh phố H Nội thời Pháp thuộc (1888 – 1945)
HÀ NỘI - 2014
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xã hội Việt Nam được hình thành trên nền tảng nông nghiệp, người dân chủ yếu sống ở
khu vực nông thôn. Đề tài này cũng thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các học giả trong và
ngoài nước. Tuy nhiên, còn phải kể đến khu vực thành thị - trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa
của cả nước. Thế nhiên, việc nghiên cứu còn hạn chế và chưa thực sự bao quát được tất cả các vấn
đề
Thăng Long-Hà Nội với lịch sử một nghìn năm luôn thu hút được sự quan tâm nghiên cứu
đặc biệt của rất nhiều học giả trong và ngoài nước. Nhưng các công trình nghiên cứu trong giai
đoạn thời kì thực dân Pháp đô hộ chỉ chiếm số lượng ít ỏi, còn nhiều “khoảng trống” chưa được
nghiên cứu. Lĩnh vực hành chính là một ví dụ như thế
Mặt khác quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay đang diễn ra vô cùng
mạnh mẽ, yêu cầu phải đổi mới và hoàn thiện cơ chế tổ chức quản lý nhà nước, đặc biệt trên địa
bàn đô thị. Để giải quyết được vấn đề này đòi hỏi không chỉ có những căn cứ khoa học về lý thuyết
quản lý mà còn phải dựa trên cơ sở thực tiễn của xã hội trong lịch sử.
Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp đã thiết lập nên bộ máy hành chính của đô thị Hà
Nội theo phương thức quản lý của các đô thị phương Tây có sự kết hợp với một số kinh nghiệm
quản lý xã thôn của người Việt. Trong điều kiện các đô thị Việt Nam đang tiến nhanh trên con
đường đô thị hóa hiện nay thì những kinh nghiệm tổ chức quản lý đô thị này có nhiều ý nghĩa quan
trọng.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn như trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài: “ Chính
quyn thnh phố H Nội thời Pháp thuộc (1888 – 1945)” để thực hiện luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Các nghiên cứu tổng quan và có liên quan đến chính quyền và hoạt động của chính


quyền thành phố Hà Nội
Tiêu biểu là: “Hà Nội thủ đô nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, Trần Quốc Vượng
chủ biên, xuất bản năm 1984; “Lịch sử thủ đô Hà Nội” của Trần Huy Liệu tái bản năm 2009…
Đào Thị Diến, “Hà Nội qua tài liệu và tài liệu lưu trữ (1873-1954)”.
Nghiên cứu chuyên sâu, chuyên khảo về các hoạt động dưới sự quản lý của chính quyền Hà
Nội như làng nghề, phố nghề, văn hóa, ẩm thực, kinh tế, xã hội… có nhiều học giả nổi tiếng như
tác giả Trần Quốc Vượng với các tập sách: “Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội”, “Thăng
Long - Hà Nội, tìm tòi và suy ngẫm”, “Tìm hiểu di sản văn hóa Thăng Long - Hà Nội”, “ Hà Nội
như tôi hiểu”… Tác giả Nguyễn Thừa Hỷ với tác phẩm “Thăng Long Hà Nội thế kỉ thứ XVII –
XVIII - XIX”…
Tuy nhiên nhìn bao quát, các công trình nghiên cứu này phần lớn nằm trong thời kì trung
đại, thời kì cận - hiện đại ít hơn. Trong các mảng đề tài nghiên cứu thì đề tài hành chính cũng
chiếm số lượng ít ỏi hơn so với các vấn đề khác. Vì vậy, vấn đề về tổ chức bộ máy chính quyền của
đô thị chỉ được nhắc đến một cách sơ lược, chung chung.
2.2. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về mô hình tổ chức quản lý thành phố Hà Nội
Tiêu biểu: “Hoàn thiện mô hình tổ chức và quản lý đô thị Hà Nội – Luận cứ và giải pháp” do
nhóm tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Đoàn Minh Huấn, Bùi Xuân Dũng chủ biên, sách xuất bản năm
2010; “Quản lý và phát triển Thăng Long - Hà Nội, lịch sử và bài học”, Vũ Văn Quân chủ biên,
xuất bản năm 2010. Đây đều là những công trình nghiên cứu khoa học lớn, trong đó đã tập trung
được rất nhiều bài viết cũng như những khảo luận rất sâu sắc về những mô hình tổ chức quản lý
hành chính của Thăng Long - Hà Nội. Tổ chức quản lý của thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc được
giới thiệu một cách tổng thể, tỉ mỉ, có những nhận định hết sức sắc sảo, tuy nhiên đây chưa phải là
công trình nghiên cứu chuyên sâu, riêng biệt về thời kì này.
Nghiên cứu về lịch sử Hà Nội nói chung và mô hình tổ chức chính quyền đô thị Hà Nội nói
riêng dưới thời Pháp thuộc cũng nhận được sự quan tâm của các học giả trong và ngoài nước.
Các tác giả nước ngoài, ví dụ Audré Massan với “Hà Nội giai đoạn 1873-1888”; Andrea.A:
“Hanoi, capitale de I’Indochine au Francis Garnier et de Henri Rivière” (Hà Nội, thủ đô của Đông
Dương dưới thời Francis Garnier và Henri Rivière); Charles Meyer: “Người Pháp ở Hà Nội những
năm đầu thời thuộc địa”… Qua đây hình ảnh Hà Nội trong thời kì Pháp thuộc được hiện lên rõ
ràng và chân thực, bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội cũng được khắc họa những nét ban đầu

tuy còn sơ lược.
Philippe Papin với hai công trình nghiên cứu sâu sắc: “Des Villages dans la ville aux
Villages urbains” là luận án tiến sĩ lịch sử viết năm 1997 và “Lịch sử Hà Nội” được xuất bản năm
2010. Đây là công trình nghiên cứu rất sâu sắc về đô thị Hà Nội trong chặng đường phát triển lâu
dài từ quá khứ đến hiện tại. Trên phương diện quản lý hành chính của thành phố Hà Nội thời Pháp
thuộc, tác giả có những bài viết hết sức tiêu biểu như: Thời của phố trưởng, Chính quyền thành phố
(trích chương IV, sách “Lịch sử Hà Nội”).
Tác giả Guillien Raymond: “Composition et recrutement des corps municipaux de Hanoi,
Haiphong et Saigon: Extrait de la Revue Indochinoise Juridique et Economique 1941-1942” (Cơ
cấu và cách thức tuyển dụng bộ máy chính quyền của thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Sài Gòn).
Tác giả H.Virgitti (1938) “Quelques oeuvres socials dans la ville de Hanoi”. Đây là bản tổng
kết 5 năm hoạt động xã hội của Hội đồng Thành phố Hà Nội năm 1938 về xây dựng vườn trẻ, công
viên mới, khu nhà ở rẻ tiền cho người nghèo, cải tạo bãi cát sông Hồng…
Các tác giả trong nước cũng đã có sự quan tâm nghiên cứu về vấn đề này. Tuy nhiên, trước
năm 2000 các công trình nghiên cứu khoa học còn tương đối ít, sau năm 2000 vấn đề này được
quan tâm nghiên cứu nhiều hơn, đặc biệt trong dịp kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long - Hà Nội.
Có thể kể đến các công trình sử học sau: Dương Kinh Quốc, “Chính quyền thuộc địa ở Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám/1945: Góp phần tìm hiểu cơ sở lịch sử xã hội Việt Nam thời kì
thực dân Pháp thống trị”, xuất bản năm 1988. Nguyễn Văn Uẩn, “Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX”;
Trần Mạnh Thường biên soạn, “Hình ảnh Hà Nội cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”; “Tổ chức bộ máy
các cơ quan trong chính quyền thuộc địa ở Việt Nam qua tài liệu và tài liệu lưu trữ” do Cục văn
thư và lưu trữ nhà nước, Trung tâm lưu trữ Quốc gia I ấn hành năm 2013
2.3. Một số nghiên cứu xuất bản trên các tạp chí chuyên ngành liên quan đến vấn đề nghiên
cứu
Đào Thị Diến: “Hệ thống chính quyền Hà Nội thời Pháp thuộc và vai trò của nó trong quản
lý và phát triển đô thị”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 377, (9/2007) ; “Hoạt động của Ủy ban viên
chức thuộc sở Đốc lý Hà Nội sau ngày Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945)”, Tạp chí Văn thư lưu trữ
Việt Nam số1.
Đỗ Thị Hương Thảo, Vũ Thị Minh Thắng: “Phố trưởng trong bộ máy chính quyền thành
phố Hà Nội thời thuộc địa”, Tạp chí nghiên cứu lịch sử. Bài nghiên cứu chỉ ra vai trò, nhiệm vụ của

phố trưởng trong bộ máy quản lý dân cư ở khu phố.
Như vậy, việc nghiên cứu mô hình tổ chức quản lý đô thị Hà Nội mới chỉ được sự quan tâm
nghiên cứu trong những năm gần đây và mới chỉ dừng lại ở những bước ban đầu. Đặc biệt nghiên
cứu về mô hình tổ chức quản lý hành chính của thành phố Hà Nội dưới thời Pháp thuộc chỉ mới có
những bài nghiên cứu khoa học mà chưa có một cuốn sách nào trình bày đầy đủ và sâu sắc về vấn
đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Thông qua việc nghiên cứu về bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời kỳ Pháp thuộc,
luận văn muốn mang đến một cái nhìn cụ thể hơn về bộ máy chính quyền đô thị mà thực dân Pháp
đã thiết lập trong quá trình cai trị ở Việt Nam. Trên cơ sở đó, đánh giá một cách khách quan khoa
học về bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời kì này, rồi rút ra những bài học kinh nghiệm
trong công tác quản lý đô thị hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn là tập trung làm rõ những vấn đề khoa học sau đây:
- Những nét chính về lịch sử Hà Nội, đặc trưng trong bộ máy tổ chức chính quyền đô thị
dưới các triều đại phong kiến Việt Nam.
- Quá trình Pháp đánh chiếm Hà Nội và biến nơi đây trở thành thành phố “nhượng địa” của
Pháp rồi thủ phủ Liên bang Đông Dương.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội (1888 - 1945) bao gồm cấp thành
phố, cấp cơ sở, khu vực ngoại thành và đặc trưng của bộ máy chính quyền trong thời kì này.
- Hoạt động của chính quyền thành phố Hà Nội trong thời kỳ Pháp thuộc với những đóng
góp và hạn chế; đặc điểm trong phương thức hoạt động của chính quyền thành phố Hà Nội
4. Đối tượng,phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội do người Pháp thiết lập và quản lý. Cụ thể hơn là tổ
chức bộ máy hành chính của chính quyền thành phố Hà Nội và hoạt đốn của nó trong thời kỳ Pháp
thuộc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian: 1888-1945

- Không gian: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu chủ yếu là địa bàn thành phố Hà Nội
và khu vực ngoại thành thời kỳ Pháp thuộc, căn cứ theo địa giới hành chính được quy định cụ thể
bởi các nghị định của chính quyền thuộc địa trong từng thời kì.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
- Nguồn tài liệu lưu trữ, cụ thể là các văn bản hành chính của chính quyền thuộc địa: nghị
định, sắc lệnh, công văn, thư từ trao đổi, báo cáo, chỉ thị, biên bản, hợp đồng…
- Các công trình nghiên cứu đã công bố có nội dung liên quan đến đề tài luận văn, bao gồm:
sách chuyên khảo, sách tham khảo, giáo trình, luận văn, luận án, bài nghiên cứu, thông tin đăng
trên các báo, tạp chỉ ở cả Trung ương và địa phương.
- Tư liệu trên mạng internet. Sử dụng nguồn tư liệu này giúp luận văn có thêm nhiều kiến
thức phổ thông, cập nhật, phong phú, đa dạng về các vấn đề trong thời kì này.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở nắm vững và vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả
luận án còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành để đưa ra những kết
quả nghiên cứu mang tính khoa học.
Trong quá trình sưu tầm và xử lý tài liệu, tác giả sử dụng phương pháp phê phán tài liệu để
xác định độ tin cậy của nguồn tư liệu nghiên cứu, phân loại, sắp xếp các nguồn tài liệu theo từng
vấn đề…
Trên cơ sở các nguồn tư liệu đã thu thập được, tác giả sử dụng phương pháp tổng hợp,phân
tích tư liệu, kết hợp với phương pháp lịch sử, phương pháp logic, tái hiện lại lịch sử
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ quá trình Hà Nội trở thành thành phố nhượng địa, từ đó chỉ ra đặc trưng của bộ máy
chính quyền Hà Nội thời phong kiến.
- Phân tích, tái hiện lại bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc được tổ chức
như thế nào, vị trí, chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan của nó là gì, từ đó nêu bật được đặc trưng,
đặc điểm của bộ máy chính quyền đó.
- Trên cơ sở khái quát các họat động của chính quyền thành phố, đưa ra các nhận định về
thành tựu và hạn chế của bộ máy chính quyền này trong việc quản lý và phát triển thành phố…
7. Bố cục luận văn

Chương 1: Hà Nội: Quá trình trở thành thành phố “nhượng địa” của Pháp.
Chương 2: Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc (1888-1945).
Chương 3: Hoạt động của chính quyền thành phố Hà Nội (1888 - 1945)
Chương 1: Hà Nội: Quá trình trở thành thành phố “nhượng địa”
của Pháp
1.1. Thăng Long-Hà Nội trước khi Pháp xâm lược
1.1.1. Thăng Long trong các thế kỉ XI-XVIII
Hà Nội là vùng đất có lịch sử lâu đời. Từ một làng quê ven bờ sông Tô Lịch, Thăng Long-
Hà Nội đã phát triển không ngừng trở thành của nước Đại Việt đầu thế kỉ XI
Trong suốt chiều dài lịch sử phát triển gần 800 năm, trải qua các triều đại Lý-Trần-Lê sơ-
Mạc-Lê trung hưng, Thăng Long luôn luôn là trung tâm đầu não về kinh tế, văn hóa, chính trị lớn
nhất của cả nước. Tổ chức hành chính và quản lý đô thị: đứng đầu kinh thành là ty Bình Bạc (đổi
thành Đại An phủ sứ, Kinh sư đại, Trung đô doãn) cai trị 61 phường phố và 13 thôn trại.
Dưới thế kỉ XV, toàn bộ kinh thành đều thuộc phủ Phụng Thiên, do hai viên quan Phủ
doãn và Thiếu doãn đứng đầu. Dưới đó là hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức do hai viên huyện
úy cai trị. Mỗi huyện gồm 18 phường, mỗi phường do một phường trưởng trông coi.
Thế kỉ XVI-XVII-XVIII, đất nước nội chiến. Nhưng kinh tế hàng hóa phát triển thúc đẩy
quá trình hưng khởi của các đô thị Việt Nam. Quản lý đô thị: đứng đầu phủ Phụng Thiên là chức
Phủ doãn. Dưới Phủ doãn là hai viên huyện úy, đứng đầu hai huyện Thọ Xương và Quảng Đức, sau
đổi thành Tri huyện, hàm chánh thất phẩm. Dưới cùng là phường do phường trưởng có chức trách
và nhiệm vụ là quản lý an ninh trật tự công cộng…
1.1.2: Thăng Long-Hà Nội dưới triều Nguyễn
Sang đầu thế kỉ XIX Thăng Long mất đi vị trí kinh đô ngàn đời của mình, chỉ còn là thủ
phủ của tổng trấn Bắc Hà (gồm 11 trấn), từ năm 1831 là một tỉnh Hà Nội.
Nền kinh tế đô thị vẫn được duy trì và có phần phát triển hơn trước. Về hành chính: đổi
tên phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, huyện Quảng Đức thành huyện Vĩnh Thuận, huyện
Vĩnh Xương thành Thọ Xương và đặt thêm một huyện ngoại thành.
Về đơn vị hành chính: tỉnh Hà Nội có 4 phủ là: phủ Hoài Đức, phủ Ứng Hòa, phủ Lý
Nhân, phủ Thường Tín; bao gồm 15 huyện, 127 tổng, 1104 xã, phường, thôn, trại, châu, sở.
Tổ chức hành chính: Đứng đầu là Tổng đốc Hà-Ninh, coi cả hai tỉnh Hà Nội và Ninh Bình.

Dưới đó là một viên tuần phủ, phụ trách riêng tỉnh thành Hà Nội. Giúp việc cho hai viên quan trên
có Bố tránh sứ ty, chịu trách nhiệm về thuế khóa, hộ khẩu, hành chính; Án sát ty lo công tác an
ninh, luật pháp. Phụ trách quân sự có chức Lãnh binh. Dưới tỉnh là phủ, huyện, châu, tổng, xã.
Như vậy, dưới triều Nguyễn, Thăng Long-Hà Nội đã có rất nhiều thay đổi trên tất cả
phương diện từ kinh tế, chính trị đến hành chính, lãnh thổ. Nhưng nơi đây vẫn là trung tâm kinh tế-
văn hóa lớn nhất của cả nước
1.1.3. Đặc điểm tổ chức chính quyền đô thị Thăng Long - Hà Nội
Thứ nhất: Bộ máy chính quyền Thăng Long - Hà Nội được tổ chức quy củ, chặt chẽ từ cấp
trung ương đến cấp địa phương.
Thứ hai: Bộ máy chính quyền Thăng Long - Hà Nội chịu sự kiểm soát chặt chẽ của chính
quyền phong kiến trung ương.
Thứ ba: Bên cạnh bộ máy quản lý hành chính, Thăng Long - Hà Nội còn tồn tại một cơ chế
tự trị, tự quản, tương tự như ở nông thôn. Cơ chế này tác động, chi phối khá mạnh mẽ đến các hoạt
động kinh tế, sinh hoạt văn hóa, tổ chức cộng đồng… của cư dân đô thị.
1.2. Hà Nội trở thành thành phố “nhượng địa” của Pháp
1.2.1. Thực dân Pháp đánh chiếm Hà Nội
Năm 1858 Pháp tấn công bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Cuối năm 1872, Pháp đánh chiếm Hà
Nội và Bắc Kỳ lần thứ nhất. Tuy không thể lập tức chiếm trọn được nơi này nhưng Pháp đã giành
được những điều khoản cơ bản, xác lập được vị trí quyền lợi của mình: Pháp có quyền cư trú và
đặt lãnh sự ở ba nơi: Hà Nội, Hải Phòng và Quy Nhơn với một đội quân 100 lính, có quyền đặt các
loại thuế thương chính, thuế hải đăng, thuế thả neo với các tàu thuyền buôn bán của nước ngoài ra
vào cảng, nhường hẳn khu vực Đồn Thủy rộng tới 18,5 ha cho Pháp làm lãnh sự quán
Đến năm 1882, Pháp đánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Pháp thu được quyền: có quyền đặt
Công sứ ở đây, Pháp có quân đội bảo vệ, có quyền kiểm soát việc tuần phòng, quản lý việc thuế
vụ, giám sát mọi việc thu chi, có quyền đuổi quân của Lưu Vĩnh Phúc ra khỏi Bắc Kì…
Ngày 27/1/1886, Pháp ban hành nghị định bổ nhiệm Paul Bert làm Tổng trú sứ. Paul Bert
cũng là người ráo riết thực hiện việc quy hoạch lại thành phố Hà Nội
Công việc xây dựng cho một thành phố mới thực hiện từ trước đó đến đây được thúc đẩy
nhanh chóng hơn. Tháng 6/1883 con đường đầu tiên được mở để nối khu nhượng địa với Trường
Thi và Hoàng thành cũ –nơi đặt trụ sở của bộ máy chỉ huy quân sự. Sau này nó trở thành trục trung

tâm thương nghiệp và dịch vụ của thành phố. Quá trình xây dựng khu phố Pháp tại Hà Nội bắt đầu
Như vậy có thể nói đến đây, Pháp đã đánh chiếm và thôn tính xong Hà Nội về mặt quân sự.
Quá trình tái thiết và khởi động một nhịp sống mới cho thành phố tương lai cũng đã bắt đầu được
tạo lập bởi một chủ trương to lớn của chính quyền thuộc địa, biến “Hà Nội trở thành một thành phố
kiểu Pháp”
1.2.2. Hà Nội trở thành thành phố “nhượng địa” của Pháp
Ngày 19/7/1888, tổng thống Pháp Marie Francois Sadi Carnot kí sắc lệnh thành lập thành
phố Hà Nội. Về phía nhà Nguyễn, chỉ dụ của vua Đồng Khánh quy định “lãnh thổ của các thành
phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng được chuyển thành nhượng địa cho Pháp” và “chính quyền An
Nam nhường sở hữu cho chính phủ Pháp và từ bỏ mọi quyền lợi của mình tại những nơi này”
Ngày 3/10/1888, toàn quyền Đông Dương Richaud chuẩn y đạo dụ của vua Đồng Khánh.
Nội chính thức trở thành thành phố nhượng địa
Từ đây quá trình xây dựng và phát triển thành phố ngày càng được thực thi một cách nhanh
chóng và toàn diện hơn. Quá trình này đòi hỏi, trước hết là phải xây dựng và hoàn thiện “một chính
quyền chăm sóc đặc biệt cho Hà Nội”.
Với ý đồ và sắc lệnh này, chính quyền thành phố Hà Nội đã nhanh chóng được thành lập
nên. Đến năm 1888 về cơ bản thành phố Hà Nội đã thết lập được một bộ máy chính quyền chính
thức do Đốc lý đứng đầu, giúp việc cho Đốc Lý có Hội Đồng thành phố và Tòa đốc lý. Bộ máy này
ngày càng được hoàn thiện hơn
Tiểu Kết
Có thể nói trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của mình Thăng Long – Hà
Nội luôn có vị trí, vai trò đặc biệt là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự và hành chính
của cả nước.
Trên lĩnh vực quản lý đô thị, thành Hà Nội có sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố hành chính
và chính trị của quốc gia, mang đặc trưng đậm nét của một thành thị phương Đông
Đến đầu thế kỉ XIX, Thăng Long-Hà Nội, từ vị trí kinh đô trở thành thủ phủ của tổng trấn
Bắc thành, sau đó chỉ còn là một trong 30 tỉnh lị của đất nước. Địa giới hành chính được mở rộng
hơn, phương thức tổ chức hành chính có một số thay đổi so với trước. Tuy nhiên cho đến lúc này
Thăng Long-Hà Nội vẫn là một trong những trung tâm kinh tế và văn hóa lớn nhất cả nước
Sang nửa cuối thế kỉ XIX, Hà Nội trở thành thành phố thuộc địa của Pháp, thủ đô của Liên

bang Đông Dương. Trong đó việc thiết lập và xây dựng một bộ máy chính quyền thành phố là
trọng tâm của Pháp được thực hiện một cách hết sức nhanh chóng và khẩn trương. Đến năm 1888,
Chính quyền thành phố Hà Nội đã được thiết lập, do Đốc lý đứng đầu, dưới đó là Hội đồng thành
phố, Tòa Đốc lý…
Chương 2: Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội
thời Pháp thuộc (1888-1945)
2.1. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp thành phố
2.1.1. Hội đồng thành phố
Việc thành lập một tổ chức quản lý về mặt hành chính ở Hà Nội trên thực tế đã tồn tại từ
những năm 1885 do viên Phó Công sứ Salle dẫn đầu, thành viên bao gồm 14 người, 6 người Việt
và 2 người Hoa. Ban lâm thời này hoạt động từ tháng 10/1885 đến tháng 9/1886
Ngày 19/7/1888, Toàn quyền Đông Dương kí Quyết định thành lập tại Hà Nội và Hải
Phòng, mỗi nơi một Hội đồng Thành phố.
Theo đó, Hội đồng Thành phố khóa đầu tiên gồm 16 ủy viên (12 người Pháp và 4 người
Việt, người Hoa không được tham gia nữa) do Đốc lý kiêm chủ tịch Hội đồng Thành phố đứng
đầu. Các ủy viên được lựa chọn trong số những người Pháp và người Việt trên 25 tuổi, có quyền
công dân và chính trị, có thời gian cư trú ở Hà Nội ít nhất 6 tháng.
Từ năm 1891, Hội đồng Thành phố do đại diện cử tri bầu chọn. Các đại diện cử tri chia
thành hai đoàn: đoàn cử tri người Pháp bầu ra các ủy viên hội đồng người Pháp và đoàn đại biểu
người bản xứ bầu các ủy viên hội đồng người Annam.
Điu kiện đối với các cử tri người Pháp: Là người Pháp hoặc mang quốc tịch Pháp, từ 21
tuổi trở lên, không phải chịu các hình thức quản thúc của pháp luật, có nơi ngụ cư xác thực trong
thành phố, nộp một trong các loại thuế trực tiếp (thuế nhà đất, thuế môn bài…)
Điu kiện đối với các cử tri người Annam: những người có khoa mục: tú tài, cử nhân, từ
21 tuổi trở lên, cư ngụ trong thành phố tối thiểu một năm, hoặc có tên trong sổ đóng thuế đất…
Điu kiện được ứng cử vo Hội đồng thnh phố: Đối với ứng cử ủy viên hội đồng người
Pháp: là tất cả những cử tri thành phố và những công dân có tên trong sổ đóng thuế trực tiếp, từ 25
tuổi trở lên, Đối với ứng cử ủy viên hội đồng người An Nam: là những cử tri, từ 27 tuổi trở lên và
trả ít nhất 25 đồng bạc Đông Dương thuế trực thu, không trong bất kì trường hợp đang chịu thi
hành án của pháp luật…

V số lượng các ủy viên: Nghị định ngày 31/12/1891 là 12 người và số ủy viên người
An Nam là 4 người. Đến năm 1941, Tổng thống Pháp kí Sắc lệnh ngày 27/4 ấn định cho thành phố
Hà Nội một Hội đồng gồm 12 người Pháp và 10 người Việt. Đây cũng là thời kì mà số lượng các
ủy viên người Việt chiếm tỷ lệ cao nhất trong Hội đồng thành phố
Tổ chức v hoạt động: theo Nghị định ngày 19/7/1888 và Sắc lệnh ngày 11/7/1908, Hội
đồng thành phố họp thường kì mỗi năm 4 lần, vào đầu các tháng 2, tháng 5, tháng 8 và tháng 11.
Mỗi phiên họp kéo dài 10 ngày, trừ tháng 11
Trước mỗi kì họp, chủ tịch Hội đồng thành phố sẽ gửi giấy triệu tập đến từng các ủy
viên, trong đó có ghi rõ nội dung thảo luận của các kì họp. Nội dung này đã được niêm yết trước
cửa Tòa thị chính và được gửi bằng văn bản đến các ủy viên ít nhất 6 ngày
Chủ tịch Hội đồng có nhiệm vụ điều hành các phiên họp, bên cạnh đó sẽ có một viên thư
kí ghi lại diễn biến của phiên họp. Hội đồng thành phố có thể lập ra các Ủy ban chịu trách nhiệm
nghiên cứu các vấn đề của hội đồng hoặc ý kiến do các ủy viên tự đề xuất.
Nhiệm vụ v chức năng: Trong mỗi phiên họp, Hội đồng thành phố lấy biểu quyết về
các vấn đề sau: Các khoản vay được thành phố đại diện kí hợp đồng và cách thức hoàn trả, Phương
thức quản lý các tài sản công cộng thuộc sở hữu của thành phố; Ngân sách thành phố và nói chung
là tất cả các khoản thu và chi cho dù là thông thường hay là bất thường…
Hội đồng thành phố còn có quyền đưa ra ý kiến về các vấn đề như quy hoạch và xây
dựng những con đường lớn trong thành phố; sửa đổi giới hạn địa giới hành chính của thành phố;
thành lập các tổ chức từ thiện; phương thức để tính thuế và quy định thu thuế…và tất cả các vấn đề
được quyết định bởi các quy tắc và nghị định của thành phố
Bên cạnh đó, Hội đồng thành phố thay mặt cho toàn thể nhân dân có thể đề bạt lên cấp
trên những nguyện vọng có liên quan đến lợi ích của thành phố song tuyệt đối không được đề cập
đến vấn đề chính trị và những vấn đề liên quan đến công việc cai trị chung
Vai trò: Hội đồng Thành phố đóng vai trò cố vấn cho Đốc lý trong việc hoạch định những
công việc có tính chất chiến lược của Thành phố, định hướng phát triển Thành phố và quản lý
Thành phố về mọi mặt. Tất cả các vấn đề quan trọng, có tính chất chiến lược của thành phố đều
được đưa ra trước Hội đồng để bàn bạc và lấy ý kiến.
Để thực hiện được những tham vọng to lớn của mình, thành phố được quyền “độc lập
tương đối” của mình, có ngân sách riêng và được thu các loại thuế trực tiếp như thuế môn bài, thuế

thân, thuế nhà đất… Tình trạng sưu cao thuế nặng, cùng khủng hoảng kinh tế khiến Hội đồng luôn
rơi vào tình trạnh bê bối, tham nhũng tràn lan.
Mặt khác, thành phố phải phụ thuộc chặt chẽ vào chính quyền bảo hộ. Tất cả các cuộc
họp của Hội đồng thành phố và những chương trình nghị sự, thảo luận của nó đều phải trình lên
Thống sứ và phải được Thống sứ thông qua
2.1.2. Đốc lý và Tòa Đốc lý
Đốc lý:
Đốc lý là người đứng đầu Tòa đốc lý, người quản lý hành chính cao cấp nhất trong bộ máy
Chính quyền Thành phố và là người chịu trách nhiệm trước Thống sứ Bắc Kỳ về mọi mặt hoạt
động của Thành phố
Quyn hạn: Theo sắc lệnh ngày 19/7/1888, Đốc lý là người đứng đầu, có quyền hành
tương đương như công sứ đầu tỉnh, người “quản lý hành chính cao cấp nhất” chính quyền thành
phố, chịu trách nhiệm trước Thống sứ Bắc kì về mọi mặt hoạt động của thành phố
Giúp việc cho Đốc lý có hai viên phó Đốc lý và Tòa đốc lý. Cơ quan này bao gồm nhiều
phòng ban khác nhau, đảm đương những công việc và trọng trách khác nhau nhưng đều thực hiện
một mục đích chung là thừa hành mệnh lệnh của Đốc lý để giải quyết các công việc trong thành
phố.
Trên vấn đề này, Đốc lý hoàn toàn có mọi quyền hành trong bộ máy tổ chức hành chính
của mình, từ việc bổ nhiệm nhân sự cho các vị trí của các phòng ban đến việc quản lý để hệ thống
đó làm việc một cách hiệu quả và kể cả việc thành lập các phòng ban mới, nếu thấy cần thiết cho
các công việc của thành phố
Đốc lý cũng có quyền kí các quyết định đình chỉ công tác hay sa thải các nhân viên dưới
quyền của mình khi họ thực hiện sai nhiệm vụ hay vi phạm pháp luật…Ông cũng có thể thành lập
ra các cơ quan chuyên trách và bổ nhiệm nhân sự cho nó
V việc quản thnh phố: Đốc lý thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là trực tiếp và gián
tiếp. Trước tiên để đảm bảo cho sự hoạt động của bộ máy hành chính thành phố được diễn ra một
cách bình thường, Đốc lý ban hành các nghị định và văn bản pháp quy. Trong đó quy định về tất cả
các nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn, quy chế thực hiện các công việc của từng vấn đề cụ thể.
Bên cạnh đó, Đốc lý còn quản lý thành phố thông qua đội ngũ các nhân viên dưới quyền
của mình. Các nhân viên này phải chịu trách nhiệm trước Đốc lý về những công việc mà mình

được giao phó và phải thường xuyên báo cáo lên Đốc lý những tình hình cụ thể ở đơn vị quản lý
của mình.
Qua đó, Đốc lý có thể nắm bắt được cụ thể các vấn đề đang diễn ra trong thực tế để đưa ra
các phương án giải quyết một cách kịp thời hay có sự điều chỉnh các văn bản và nghị định đã ban
hành cho phù hợp.
Bên cạnh đó, Đốc lý còn phải trực tiếp thi hành những công việc sau: Quản lí những nguồn
thu nhập, giám sát việc thực hiện ở thành phố và kế toán; chuẩn bị và đề xuất ngân sách và chi phí
trực tiếp; thay mặt chính quyền thành phố giao dịch với thị trường bên ngoài…
Chức năng chính của Đốc lý là theo dõi, giám sát, trên cơ sở đó đưa ra các quyết định để
thay đổi, điều chỉnh các hoạt động hành chính của thành phố.
Quyền hạn của Đốc lý là cao nhất và Đốc lý không thể ủy quyền cho bất cứ trường hợp nào
về chức vụ của mình. Trong trường hợp Đốc lý vắng mặt thì Phó Đốc lý thứ nhất sẽ là người thay
thế.
V cơ chế giám sát v quản lý đối với Đốc lý: Đốc lý thành phố Hà Nội do Toàn quyền
Đông Dương bổ nhiệm với nhiệm kì là 3 năm trên sự giới thiệu của Thống sứ Bắc Kì. Về mặt quản
lý, Đốc lý chịu sự quản lý trực tiếp của Thống sứ và phải thi hành các mệnh lệnh của viên chức này
cũng như các viên chức cấp trên trong hệ thống chính quyền thuộc địa.Về mặt quản lý thành phố,
Đốc lý phải trình báo lên cấp trên mọi vấn đề liên quan đến địa bàn quản lý của mình. Trong việc
thực hiện các quyết định hành chính thì Đốc lý phải được sự thông qua của chính quyền cấp trên.
Bên cạnh đó, Đốc lý phải báo cáo trước Hội đồng thành phố mọi vấn đề của thành phố
trong các phiên họp thường kì như là vấn đề về ngân sách thành phố, các khoản chi phí bắt buộc và
tùy chọn… Đốc phải giải trình trước Hội đồng thành phố các vấn đề của thành phố theo luật định,
đồng thời phải trả lời bất cứ chất vấn nào từ các ủy viên của Hội đồng.
Hình phạt: Có hai hình thức là đình chỉ chức vụ và cách chức. Việc đình chỉ chức vụ phải
do Toàn quyền Đông Dương quyết định trong thời hạn không quá 3 tháng. Việc cách chức cũng
được thực hiện bởi Toàn quyền Đông Dương và nó bao gồm cả việc hủy tư cách ứng cử váo chức
vụ Đốc lý và phó Đốc lý trong vòng 1 năm kể từ quyết định cách chức.
Cách thức bổ nhiệm v tuyển dụng: Đốc lý Hà Nội phải là người tốt nghiệp Trường
Thuộc địa Pari
2

. Sau khi học ở trường này 3 năm thì viên quan này tiếp tục phải trải qua thời gian
tập sự 2 năm ở Đông Dương, trở thành quan cai trị hạng 5. Sau đó tiếp tục vừa thực thi nhiệm vụ
của mình vừa học để dự thi hoặc được xét tuyển chuyển cấp dần lên, quan cai trị hạng 4, hạng 3,
hạng nhì, hạng nhất với những chức danh tương đương là Phó Công sứ, Công sứ hoặc Chánh, Phó
quan cai trị chủ tỉnh trên địa bàn Đông Dương, là một trong các ủy viên của Hộ đồng thành phố,
được Thống sứ Bắc Kì đề cử và Toàn quyền Đông Dương quyết định
Tòa Đốc lý:
Tòa đốc lý nằm dưới quyền quản lý của Đốc lý, bao gồm nhiều phòng ban khác nhau, giúp
Đốc lý quản lý các vấn đề của thành phố
Tổ chức: Trong thời gian đầu khi chính quyền mới được thành lập, tổ chức của Tòa Đốc lý
còn hết sức sơ sài, chỉ bao gồm một số các đơn vị sau: Văn phòng, Phòng kế toán, Phòng Cảnh sát,
Phòng Quản lý giao thông đường bộ , Phòng Địa chính…
Bên cạnh đó thành phố vẫn tiếp tục sử dụng các quan chức của triều đình Huế ở hai huyện
Thọ Xương và Quảng Đức để quản lý các công việc hành chính như “thu thuế, điều tra và xét xử
hay giải quyết các vụ tranh chấp…” của người bản xứ.
Thay vào đó, Triều đình tiếp tục lập ra Nha Hiệp lý để giải quyết các vấn đề về tư pháp của
người bản xứ sống tại thành phố Hà Nội.
Để phụ trách công việc này, thành phố quyết định thành lập ở Tòa Đốc lý một đơn vị mới
là Phòng Quản lý các công việc liên quan đến người bản xứ. Cũng kể từ đây Tòa Đốc lý đã không
ngừng được hoàn thiện thêm về cơ cấu và tổ chức, dần dần đảm đương được trọng trách của thành
phố trong việc giải quyết các thủ tục hành chính. Đến tháng 2/1908, Đốc lý Hà Nội, Prêtre đã kí
một văn bản nghị định, quy định tổ chức chính thức của Tòa Đốc lý gồm những đơn vị sau:Văn
phòng, Phòng Văn thư, Phòng Kế toán, Phòng Hộ tịch, Phòng Phụ trách các công việc liên quan
đến người bản xứ, Phòng Kiểm tra các loại thuế
Đến năm 1916, thực hiện theo Sắc lệnh ngày 11/7/1908 của Tổng thống Pháp về việc tổ
chức lại Hội đồng thành phố ở Sài Gòn, Hà Nội và Hải Phòng, Tòa Đốc lý Hà Nội cũng được bổ
sung, sửa đổi và kiện toàn thêm về tổ chức cũng như nhiệm vụ và chức năng của mình.
Tổ chức của Tòa đốc lý được quy định theo Nghị định 13/4/1916 có sự thay đổi lớn. Cụ thể
là Văn phòng đảm nhận thêm công việc của Phòng văn thư và lưu trữ; Phòng quản lý hộ tịch có
thêm ban chịu trách nhiệm về vệ sinh; Phòng kế toán và Kiểm tra các loại thuế được sát nhập với

nhau. Phòng phụ trách các công việc bản xứ thì bị xóa bỏ (theo Nghị định số 617 ngày 23/3/1916
của Thống sứ Bắc kì) Bên cạnh đó có 3 phòng ban mới: Phòng Quản lý đường bộ, các công trình
cấp thoát nước và chiếu sáng đô thị, Phòng Cây trồng đô thị, Phòng Địa chính và công thổ…
Cơ cấu tổ chức này của Tòa Đốc lý đã tồn tại được 25 năm. Mãi đến tháng 10/1941, theo
nghị định của Đốc lý Camille nó mới được bổ sung và sửa đổi lại cho phù hợp với sự phát triển của
thành phố Hà Nội.
Đến 3/1945, sau khi Nhật đảo chính Pháp, mọi hoạt động của Tòa Đốc lý vẫn được duy trì
như cũ, chỉ thay nhân viên, viên chức người Pháp bằng người Nhật. Sau cách mạng tháng tám, Tòa
đốc lý ngưng hoạt động.
Vai trò: Tòa đốc lý Thành phố vừa đóng vai trò của một cơ quan tổng hợp, lại vừa đóng vai
trò của một cơ quan hành pháp của Đốc lý. Trên phương diện là một cơ quan tổng hợp, Tòa đốc
lý phụ trách rất nhiều công việc mang tính tổng hợp của Thành phố như: Chuẩn bị các công việc
về bầu cử kể cả bầu cử các trưởng phố; Tập trung các công việc để đưa ra các Ủy ban và Hội đồng
Thành phố
Bên cạnh những công việc nêu trên, Tòa Đốc lý còn phụ trách những công việc mang tính
chất của một cơ quan hành pháp của Đốc lý như: Phụ trách các công việc liên quan đến người bản
xứ; Phụ trách các công việc có liên quan đến việc thực hiện các cuộc đấu thầu các công trình xây
dựng trong Thành phố ; Phụ trách các công việc nghiên cứu và kiểm tra mọi vấn đề có liên quan
đến các loại thuế trực thu; Phụ trách các công việc thuộc về thực hiện vệ sinh an toàn thực phẩm
và vệ sinh môi trường
2.2. Tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở
2.2.1. Hộ trưởng
Thành phố được phân ra thành tám khu phố, theo thứ tự từ khu phố thứ nhất đến khu phố
thứ tám. Mỗi khu phố do một viên Hộ trưởng quản lý.
V nhiệm vụ: Hộ trưởng với tư cách là người đứng đầu đơn vị hành chính cao nhất ở cấp
cơ sở, chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề liên quan đến tình hình dân cư tại khu vực mình sinh
sống. Trong đó nhiệm vụ chính là các vấn đề về an ninh công cộng, pháp luật, chính trị, thuế.
Bên cạnh đó, Hộ trưởng còn phải chịu trách nhiệm xác minh, chứng nhận trong các cuộc
mua bán, chuyển nhượng đất đai trong dân cư, đảm bảo rằng sự giao dịch đó diễn ra hợp lệ, người
bán có quyền sở hữu đất đai của mình. Tất cả điều này phải làm văn bản, báo cáo lên để Đốc lý rõ

Đối với những mâu thuẫn, tranh chấp trong đời sống dân cư, Hộ trưởng thực hiện việc hòa
giải, để họ tự giải quyết những mâu thuẫn của mình mà không cần đến sự can thiệp của chính
quyền
Như vậy, chức năng chính của Hộ trưởng là “trợ giúp Đốc lý” quản lý khu phố. Hộ trưởng
không phải là người điều hành các công việc trên địa bàn quản lý của mình mà là người thực hiện
chỉ đạo của Đốc lý đối với các công việc được Đốc Lý giao phó và chỉ chịu sự quản lý của viên
quan chức này.
Chế độ lương bổng: mỗi tháng Hộ trưởng nhận được một khoản tiền lương là 15 đồng.
Bên cạnh đó, họ còn có những cơ hội để thăng tiến bản thân mình trên con đường quan lộ. Nếu Hộ
trưởng hoàn thành chức vụ trong 5 năm sẽ nhận được cấp bậc hàm tòng cửu phẩm . Trong vòng 3
năm, họ cũng có thể nhận được danh hiệu phần thưởng tăng cấp bậc đến hàm tòng thất phẩm.
Mặt khác, Hộ phố sẽ được trao một danh hiệu là bằng đại học (tú tài, cử nhân) hoặc một
văn bằng giáo dục của Pháp hoặc Pháp-Annam
V hình phạt: Hộ trưởng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Đốc lý. Nếu Hộ trưởng phạm lỗi
thì tùy theo từng mức độ mà họ phải chịu hình phạt từ mức độ khiển trách, bãi dịch và cách dịch
Trong trường hợp Hộ trưởng xin từ chức thì họ phải thỏa mãn các điều kiện sau: đã giữ
chức được hai năm và được sự đồng ý của Đốc lý. Nếu Hộ trưởng đã có cấp bậc trong hàng ngũ
quan chức thì phải được sự đồng ý của Thống sứ Bắc Kì
Cách thức tuyển dụng: Hộ phố là người nằm trong địa hạt quản lý của mình, được người
dân trong khu phố bầu lên thông qua bầu cử phổ thông và được bổ nhiệm bởi Đốc lý. Điều kiện
người ra ứng cử Hộ phố, theo Nghị định ngày 7/7/1914 là: Tuổi từ 30 đến 50 tuổi; Có tài sản trong
địa hạt nơi mình sinh ra và chịu thuế lao dịch của chính quyền; Có học lực tốt và biết chữ quốc
ngữ; Có đạo đức tốt và chưa bị kết tội bởi tòa án Pháp hoặc tóa án bản xứ về các trách nhiệm hình
sự; Có thái độ chính trị tốt với chính quyền Pháp
2.2.2. Phố trưởng
Dưới hộ là các cụm dân cư bao gồm một số đường phố. Đứng đầu mỗi đơn vị này là một
viên Phố trưởng, có nhiệm vụ “điều hành các công việc hàng ngày như vệ sinh đường phố, thu
thuế, tổ chức thờ cúng, lễ hội và khai báo cư trú”. Phố trưởng được người dân bầu lên thông qua
bầu cử, có nhiệm kì hai năm và được trả một phần tiền thù lao.
Vai trò v nhiệm vụ : Phố trưởng “trước hết là những viên chức giám thị và thông tin, phải

lập tức báo cho quan Đốc lý biết những việc liên hệ đến trật tự chung” cũng như các việc trái pháp
luật như “làm nhà không có giấy phép, giết lậu những súc vật ăn thịt, chiếm đất thành phố trái
phép”. Và “hễ khi quan trên hỏi gì về những người hay những việc ở trong phạm vi của họ thì phải
điều tra về trình những tin tức đã dò xét được”
Tuy không có quyền hạn đối với các vấn đề của xã hội nhưng họ phải giúp các viên chức
và công an khi làm việc; cùng với các viên chức chuyên môn của thành phố “trông nom về việc thi
hành các luật tuần cảnh, vệ sinh của thành phố và khuyên bảo dân phải tuân theo (quét rác, đổ rác,
rửa cống, cấm chó chạy rông ngoài phố…)”
Trong lĩnh vực thuế khóa, họ là người “giúp vào việc lập sổ thuế, thu thuế”. Phố trưởng
phải theo dõi tình hình đóng thuế của mọi người dân, đặc biệt là những trường hợp đã thay đổi nơi
cư trú thì đã nộp đủ thuế chưa
Liên quan đến vấn đề chính trị, họ là người lập danh sách cử tri người bản xứ và cung cấp
thông tin sửa đổi danh sách này trong trường hợp cần thiết
Quyn hạn: Phố trưởng có quyền nhận thực và chứng thực các văn tự sau:
Nhận thực những giấy chứng chỉ thay vì giấy khai sinh, tử, giá thú ; Nhận thực những giấy
căn cước khi Sổ liêm phóng cấp thẻ căn cước; Nhận thực và chứng thực những văn khế bản xứ để
đăng kí vào địa bạ; Cấp Giấy giá thú dùng về việc trả phụ cấp gia đình cho binh sĩ Đông Dương;
Cấp Giấy căn cước và đánh giá hạnh kiểm cho việc tuyển mộ binh sĩ cho Đông Dương; Cấp những
giấy khai số con cái và khai hạnh kiểm những nhà có người xin vào trường học lập riêng cho những
con cái các binh sĩ
Có thể nói công việc của Phố trưởng là rất nhiều. Trong đó nhiệm vụ chính của Phố trưởng
là “theo dõi và thu thập tin tức”. Phố trưởng như một viên giám sát mọi hoạt động diễn ra hàng
ngày trong đời sống địa bàn cai quản của mình, rồi từ đó trình báo lại cho Đốc lý biết
Phố trưởng gắn bó mật thiết với mọi người dân trong khu phố, là người hiểu rõ nhất hoàn
cảnh của từng gia đình, thân thiết với từng người dân. Phố trưởng chính là người con của khu phố,
sinh ra và lớn lên tại con phố đó và được người dân bầu lên, đại diện cho quyền lợi của người dân
trong những công việc giao thiệp với chính quyền thành phố.
Phố trưởng còn được người dân tin cậy, giao phó trách nhiệm và thường tìm đến nhờ vả
mỗi khi có công việc liên quan đến chính quyền thành phố như soạn thảo văn bản, giấy tờ, xác
nhận lý lịch hay những thủ tục hành chính rờm rà của chính quyền thành phố mà họ chưa thể hiểu

được…Trên sự “nhờ vả” này, nhiều Phố trưởng đã dựa vào đó để sinh lợi.
Mặc dù trong công tác của mình Phố trưởng đã có nhiều hành vi sai trái, bị dân chúng phản
ánh nhưng về cơ bản đây vẫn là bộ phận “tay chân đắc lực”, không thể thiếu của chính quyền thành
phố. Qua trung gian Phố trưởng, Đốc lý cùng các viên chức của chính quyền thành phố có thể nắm
bắt sâu xát tình hình của từng con phố, từng người dân cụ thể. Nhờ đó mà Đốc lý có thể thực thi
công việc quản lý của mình một cách tốt hơn, các công việc được giải quyết một cách nhanh chóng
và chính xác hơn. Ngược lại những thông tư, chỉ thị của chính quyền thành phố cũng nhờ phố
trưởng mà đến với người dân một cách cụ thể và rõ ràng nhất
Chính những công việc cụ thể hàng ngày “không thể thay thế” được này mà Phố trưởng
ngày càng “bám rễ sâu vào cái lãnh thổ đô thị nhỏ bé của họ”. Vai trò của Phố trưởng không ngừng
được củng cố và tăng cường thêm.
. Vai trò của Phố trưởng là điều không thể phủ nhận. Phố trưởng đã trở thành một bộ phận
“quan trọng” trong cấu trúc hành chính của chính quyền thành phố. Trên phương diện pháp lý, văn
bản giấy tờ chức danh Phố trưởng được ghi nhận rất rõ ràng từ quyền hạn, trách nhiệm, yêu cầu
đến lương bổng hay cách thức tuyển bổ….Các quy định này không ngừng được bổ sung, ngày càng
chặt chẽ hơn và yêu cầu đối với Phố trưởng cũng được đòi hỏi cao hơn
Cách thức tuyển chọn: Phố trưởng, không chỉ là người có uy tín trong dân cư, được người
dân trong khu phố tín nhiệm, ủy nhiệm trọng trách quyền hạn thông qua bầu cử tuổi từ 25 đến 50,
có tài sản hay có đóng thuế môn bài trong địa hạt ra ứng cử, có hạnh kiểm tốt
Ngoài lương bổng, Phố trưởng còn có các cơ hội để thăng tiến trên con đường quan lại của
mình. Theo Nghị định năm 1914, Phố trưởng đảm nhiệm chức vụ được 9 năm thì tăng đến hàm
tòng cửu phẩm. Nếu Phố trưởng tăng cấp tuần tự 3 năm một lần thì có thể đạt đến hàm chánh bát
phẩm. Còn điều kiện để xét lên hàm tòng cửu phẩm, theo nghị định năm 1933 là 5 năm. …
Các cấp độ trừng phạt: Đối với các Phố trưởng vi phạm hình phạt ngày càng nghiêm khắc
hơn. Nếu Nghị định năm 1914 chỉ gồm 3 hình thức là khiển trách, bãi dịch và cách dịch thì đến
Nghị định năm 1933 các loại hình và mức độ trừng phạt đã tăng lên: khiển trách, đình lương trong
một hay nhiều tháng, khiển trách nặng ghi vào lý lịch và chậm thưởng hay thăng hàm trong một
năm, bãi dịch và cách dịch…
Tóm lại: Phố trưởng là thành phần không thể thiếu trong cấu trúc hành chính của chính
quyền thành phố, đặc biệt trong thời kì đầu khi bộ máy chính quyền thành phố chưa được thiết lập

đầy đủ và mối dây liên hệ giữa chính quyền và người dân còn rất nhiều mâu thuẫn, xung đột.
2.3. Khu vực ngoại thành Hà Nội
2.3.1. Sự thành lập
Khu vực ngoại ô thành phố Hà Nội được thành lập theo chỉ dụ năm 1888 gồm hầu hết
huyện Thọ Xương và quá nửa huyện Vĩnh Thuận.
Năm 1933, khu vực này lại được mở rộng thêm các xã Lâm Gio, Phú Viên và các thôn Gia
Quất Hạ và Cầu Cá thuộc tổng Gia Thụy, phủ Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh.
Đến năm 1942, theo nghị định ngày 31/12 của Toàn quyền Đông Dương, toàn bộ đất đai
khu ngoại ô Hà Nội cũ (gồm huyện Hoàn Long, các tổng Thanh Trì, Thịnh Liệt,Khương Đình của
huyện Thanh Trì, các tổng Dịch Vọng, Xuân Tảo, Phú Gia của phủ Hoài Đức) kể từ ngày 1/1/1943,
quay trở về thuộc thành phố Hà Nội và mang tên mới là Đại Lý đặc biệt của Hà Nội [8, tr.35]
2.3.2. Tổ chức hành chính
Đứng đầu là Trưởng trung tâm, chịu trách nhiệm quản lý khu ngoại ô, đặt dưới quyền trực
tiếp của Công sứ-Đốc lý. Giúp việc cho viên Trưởng Trung tâm này còn có một viên Phó Trung
tâm. Vị Trưởng Trung tâm này không phải chịu trách nhiệm gì về chế độ thuế ở đây.
2.4. Đặc trưng của chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc
2.4.1. Hệ thống chính quyền thành phố Hà Nội được tổ chức theo mô hình một cấp chính
quyền hoàn chỉnh và hai cấp chính quyền không hoàn chỉnh
Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời kì Pháp thuộc về cơ bản chỉ bao gồm
một cấp hoàn chỉnh là cấp thành phố và hai cấp không hoàn chỉnh là hộ và phố. Trong đó, cấp
thành phố đóng vai trò là cấp hành chính duy nhất có thẩm quyền giải quyết mọi công việc của
thành phố còn hai cấp không hoàn chỉnh chỉ thực hiện một số công đoạn của việc quản lý đô thị
vốn cũng vẫn thuộc nhiệm vụ của thành phố
2.4.2. Trong bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội, Đốc lý là người đứng đầu và có vai trò
quan trọng nhất
Trong hệ thống chính quyền thành phố, Đốc lý là người đứng đầu cơ quan hành chính cao
nhất của thành phố. Đốc lý vừa là chủ tịch Hội đồng thành phố vừa là người đứng đầu Tòa Đốc lý.
Đốc lý cũng là người có quyền hạn cao nhất về mọi vấn đề của thành phố, đồng thời cũng là người
chịu trách nhiệm cao nhất về mọi mặt hoạt động của thành phố trước thống sứ Bắc Kỳ.
Đốc lý là người ra quyết định cuối cùng về mọi chính sách, chủ trương xây dựng và phát

triển thành phố và cũng là người có quyền quyết định liên quan đến tổ chức nhân sự của thành phố,
ví dụ như bổ nhiệm và bãi nhiệm các chức danh các vị trí, chức danh trong Tòa Đốc lý…
Đốc lý quản lý thành phố một cách trực tiếp thông qua đội ngũ nhân viên dưới quyền của
mình. Mọi vấn đề trong thành phố phải được báo cáo lên Đốc lý. Đốc lý cũng thường xuyên theo
dõi tình hình dưới cơ sở thông qua các báo cáo trực tiếp của Hộ trưởng và Phố trưởng…
2.4.3. Trong hệ thống chính quyền thành phố Hà Nội, Phố trưởng – “người quản lý và kết nối
chính quyền” cấp cơ sở
Trong hệ thống tổ chức chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc, Phố trưởng là người
đứng đầu đơn vị hành chính nhỏ nhất là “phố”. Tuy nhiên, vị trí vai trò của Phố trưởng cực kì quan
trọng.
Phố trưởng là mắt xích quan trọng, thành phần không thể thiếu, kết nối người dân và chính
quyền. Điều này là cực kì quan trọng vì trong thời kì đầu bộ máy chính quyền thành phố chưa được
thiết lập đầy đủ, chính quyền và người dân còn rất nhiều mâu thuẫn, đa phần người dân không biết
chữ và thủ tục hành chính Bởi vậy mối liên hệ giữa người dân và chính quyền là cực kì lỏng lẻo.
Phố trưởng đã làm nhiệm vụ kết nối chính quyền và nhân dân cũng như người dân với chính quyền.
2.4.4. Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội thời Pháp thuộc có sự kết hợp hài hòa
giữa yếu tố văn hóa phương Đông và phương Tây
Mô hình tổ chức chính quyền thành phố Hà Nội được Pháp du nhập từ phương thức tổ chức
chính quyền đô thị của phương Tây. Tuy nhiên, Pháp không hoàn toàn áp dụng nguyên bản mà có
sự thay đổi, cải cách để phù hợp với xã hội Việt Nam. Nếu như trong tổ chức chính quyền cấp
thành phố, Pháp giữ gần như nguyên vẹn mô hình tổ chức chính quyền đô thị của các nước phương
Tây bao gồm: Hội đồng thành phố, Đốc lý và Tòa đốc lý thì trong tổ chức chính quyền cấp cơ sở
có nhiều yếu tố Á đông.
Điều này trước tiên được thể hiện ở việc, Pháp giữ người đứng đầu các cụm dân cư nhỏ
phục vụ cho việc quản lý của bộ máy chính quyền thành phố. Trong quản lý nhân sự ở cấp chính
quyền cơ sở hộ và phố, Pháp vẫn giữ nguyên các phẩm hàm trong con đường quan lộ của Hộ
trưởng và Phố trưởng.
Tuy nhiên ở đây, Pháp cũng bổ sung thêm các quy định mới. Ví dụ trong việc tuyển chọn
Phố trưởng là người uy tín trong dân cư, được tuyển chọn thông qua bầu cử và phải có hạnh kiểm
tốt, có tài sản và đóng thuế môn bài. Hộ trưởng cũng không chỉ là người được người dân bầu lên

mà còn là người đáp ứng được các yêu cầu: có học lực tốt, biết chữ quốc ngữ, chịu thuế lao dịch
của chính quyền, có tài sản…
Tiểu kết
Như vậy tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội dưới thời Pháp thuộc bao gồm
một cấp hoàn chỉnh (cấp thành phố) là Hội đồng thành phố, Tòa đốc lý do Đốc lý đứng đầu và hai
cấp không hoàn chỉnh là hộ và phố do Hộ trưởng và Phố trưởng quản lý thực hiện một số nhiệm
vụ quản lý đô thị ở cơ sở.
Hội đồng thành phố là cơ quan dân biểu, có ba chức năng cơ bản, thứ nhất là bàn bạc, lấy
biểu quyết rồi ra quyết định về tất cả các vấn đề của thành phố như ngân sách, tài chính, thuế, xây
dựng thành phố… Thứ hai là góp ý kiến về những vấn đề mà cấp trên yêu cầu. Thứ ba đề đạt
nguyện vọng có liên quan đến lợi ích của thành phố lên cấp trên ngoại trừ vấn đề chính trị…
Tòa đốc lý là cơ quan hành chính, giúp Đốc lý giải quyết các thủ tục hành chính giữa chính
quyền và công dân hay các tổ chức trong thành phố. Tòa Đốc lý gồm có nhiều phòng ban khác
nhau: Văn Phòng, Phòng Văn thư, Phòng kế toán, Phòng hộ tịch, Phòng cây trồng đô thị…
Hộ trưởng với tư cách là người đứng đầu đơn vị hành chính cao nhất ở cấp cơ sở, có trách
nhiệm “theo dõi và giám sát” về tất cả các vấn đề liên quan đến tình hình dân cư tại khu vực mình
sinh sống về an ninh công cộng, pháp luật, chính trị, thuế.
Phố trưởng là người đứng đầu đơn vị hành chính cơ sở nhỏ nhất-“phố”, có nhiệm vụ theo
dõi và giám sát các vấn đề trong dân cư nơi mình quản lý như vệ sinh đường phố, trật tự công cộng,
vấn đề đi lại và chuyển cư của những người Á kiều, giúp cơ quan của Tòa đốc lý thu thuế…
Mô hình này phù hợp với phương thức quản lý đô thị, nhất là các đô thị lớn, có tốc độ phát
triển nhanh. Trên phương diện quản lý, mô hình này cho phép việc giải quyết các vấn đề giữa
người dân và chính quyền nhanh gọn, đơn giản, thủ tục ít dờm dà do chỉ có một cấp giải quyết.
Trong khi đó việc thực thi nhiệm vụ xây dựng và phát triển của thành phố cũng được triển khai một
cách đồng bộ, tạo ra sự thống nhất chung trên toàn thành phố mà không vấp phải bất kì một sự
chồng chéo, đan xen nào
Tuy vậy quyền lực cho phép quá lớn của người đứng đầu, cộng với tính chất giai cấp, phân
biệt rõ rệt trong cơ cấu tổ chức của bộ máy chính quyền này cũng là hạn chế không nhỏ cho sự phát
triển của thành phố
Chương 3: Hoạt động của chính quyền thành phố Hà Nội

(1888-1945)
3.1. Quy hoạch và xây dựng thành phố
Xác định địa giới và quy hoạch thành phố Hà Nội: Sau hai lần đánh chiếm Hà Nội, đặt
được lãnh sự quán ở đây và được chính quyền An Nam cắt một phần đất làm khu “nhượng địa”,
Pháp phân Hà Nội thành hai khu vực chính: dành cho người Âu và người bản xứ.
Ngày 19/7/1888, tổng thống Pháp kí sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội thì đến ngày
14/9/1888, Tổng trú sứ Parreau kí nghị định, xác định ranh giới của Hà Nội từ “Sở thuế quan qua
Lô cốt bắc, đường Grand Bouddha, đường bao quanh thành Hà Nội, cửa Sơn Tây kéo dài đến
đường phủ Thanh Oai, khu Văn Miếu- Quốc Tử Giám, chùa Sinh Từ, đường Huế, công sự Huế,
qua đê thuộc khu vực nhượng địa cho đến tận sông Hồng”. Theo đề nghị của Hội đồng thành phố,
nghị định ngày 15/11/1889 của Thống sứ Bắc Kì Brière thì địa giới của thành phố Hà Nội: phía
đông của thành phố giáp với dòng chảy của sông Hồng; phía bắc, phía tây và phía nam được xác
định bởi một đường thẳng chạy từ cột mốc số 1 đến số 15
Việc mở rộng thành phố được bắt đầu bằng nghị định ngày 20/2/1895 của Thống sứ Bắc
Kì, Nghị đinh ngày 11/3/1895, Nghị định 16/11/1895
Thành phố còn thành lập nên khu vực ngoại ô Hà Nội. Nghị định ngày 19/10/1933 của Đốc
lý Hà Nội chia Hà Nội làm 39 khu và ấn định ranh giới của từng khu. Nghị định ngày 18/10/1941
của Toàn quyền Đông Dương quy định tất cả các xã trong huyện Hoàn Long, các tổng Thanh Trì,
Thịnh Liệt, Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì, các tổng Dịch Vọng, Xuân Tảo, Phú Gia của phủ
Hoài Đức
Trên nền tảng quy hoạch phát triển thành phố, quá trình đô thị hóa diễn ra ngày càng mạnh
mẽ. Hà Nội trở thành một công trường xây dựng lớn. Nhà cửa được mọc lên nhanh chóng, các công
trình phục vụ hoạt động của bộ máy chính quyền, hệ thống giao thông điện nước… cũng được gấp
rút hoàn thành.
Quá trình xây dựng được bắt đầu từ khu nhượng địa nối với thành Hà Nội bằng hệ thống
đường giao thông hiện đại.
Bên cạnh các công trình dân sinh, các công trình hành chính-chính trị được đặc biệt quan
tâm. Năm 1902 Hà Nội trở thành thủ phủ của liên bang Đông Dương bởi vậy người Pháp tập trung
xây dựng hàng loạt các công trình công cộng từ những cơ quan lớn của Đông Dương như dinh
Toàn quyền, doanh trại quân đội, cơ quan hành chính dân sự, sở Tài chính, sở Thuế, phòng thương

mại và canh nông, Tòa án, Bưu điện và hải quan… cho tới những công trình địa phương phục vụ
chính quyền Bắc Kì và thành phố Hà Nội
Trong thời gian từ 1888-1914 mạng lưới giao thông được quy hoạch và xây dựng trên quy
mô lớn xây dựng một loạt tuyến đường lớn, một số tuyến đường được chỉnh trang lại đều có tàu
điện chạy khắp thành phố trên tổng chiều dài 20km.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, quy hoạch và phát triển thành phố được diễn ra bài bản
hơn với sự ra đời của Sở Kiến trúc và quy hoạch đô thị trung ương do Ernest Hébrard đứng đầu.
Chiếu theo quy hoạch này một số công trình đã được thi công như Ernest Hébrard đã quy
hoạch ở phía tây bắc một quảng trường rộng, xây dựng các tuyến đường Bích Câu (dự định nối với
đường Hùng Vương), Trịnh Hoài Đức-Ông Ích Khiêm, Hàng Cháo, Nguyễn Khuyến, Văn Miếu,
Cao Bá Quát, Ngô Sĩ Liên (dự định nối thẳng với Hoàng Diệu)…cũng được quy hoạch theo ô bàn
cờ nhưng nhỏ hơn so với khu phố tây. Khu vực phía bắc đường Trần Khát Chân lấy hai trục đường
phố Huế và Bà Triệu làm trung tâm, từ đó xây thêm các tuyến đường khác như Ngô Thì Nhậm-
chùa Vua, Hàm Long-Lò Đúc, Nguyễn Đình Chiểu-Vân Hồ III, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Thị
Xuân…
Như vậy tuy chưa thực hiện hết quy hoạch đã đề ra nhưng thành phố đã phần nào thành
công trong việc quy hoạch thành phố theo một phương pháp “dự đoán trước quá trình phát triển và
coi trọng tính thẩm mỹ của đô thị”. Kế hoạch phát triển thành phố đang được hình thành thì những
biến động kinh tế xã hội chính trị đã làm ngưng quá trình này. Nhiều ý tưởng quy hoạch không
được thực hiện hoặc thực hiện dang dở đã để lại cho Hà Nội một hình ảnh nham nhở trong quy
hoạch, hỗn hợp trong nhiều yếu tố cấu thành đô thị.
Nhưng có thể nói diện mạo đô thị Hà Nội đã có những đổi thay khác biệt so với trước đây.
Nếu trong thời trung đại Thăng Long-Hà Nội là đô thị phương Đông nổi bật với hai yếu tố thành-
quan liêu và thị-dân gian thì đến thời kì cận đại yếu tố quan liêu mất đi thay vào đó là yếu tố hành
chính-chính trị kiểu dân chủ tư sản.
3.2. Quản lý và phát triển đời sống dân cư
Thành phố được quy hoạch và xây dựng ngày càng khang trang sạch đẹp. Các công trình
phục vụ dân sinh như điện, nước, giao thông-thông tin liên lạc được đầu tư xây dự: vườn Bách
Thảo Hà Nội, nhà máy nước và đài nước Hàng Đậu, cầu Long Biên, Nhà hát Lớn, nhà máy đèn
Bờ Hồ …

Thành phố như được tiếp thêm một nguồn sinh lực mới, nhanh chóng thu hút được nhiều
cư dân đến đây sinh sống. Dân số Hà Nội tăng lên nhanh chóng, năm 1900 khu vực nội thành mới
có 80.000 dân thì đến năm 1940 dân số đã tăng lên gấp đôi, bên cạnh đó còn có khoảng 50.000
người sống ở khu vực ngoại vi.
Cùng với quá trình nhập cư, văn hóa phương tây cũng ồ ạt thâm nhập vào thành phố một
cách mạnh mẽ, ảnh hưởng to lớn đến các tầng lớp dân cư đô thị, đặc biệt là tầng lớp tư sản và tiểu
tư sản.
Một xã hội châu Âu thu nhỏ dần dần được hình thành. Những cư dân của thành phố ngày
càng cách biệt so với các vùng miền khác của đất nước. Họ được đặt trong bối cảnh xã hội gần
giống với người Âu, chịu sự kiểm soát của luật pháp phương Tây. Họ dần quen với ca kịch, nhà
hát, báo chí và các tệ nạn xã hội như nạn gái điếm, cô đầu…Họ cũng được thấy những khung cảnh
trái ngược của thành phố, nơi mà người ta có thể chứng kiến được sự giàu có và xa hoa ở khu phố
của người châu Âu và cũng thấy được cả sự nghèo đói, nhà cửa tồi tàn và dịch bệnh thường xuyên
xảy ra ở khu phố của người bản xứ…
Chính quyền thành phố cũng đã có những thành công nhất định trong việc quản lý một
thành phố có thể được coi là rất sôi động này. Nơi mà các hoạt động của thành phố như xây dựng,
kinh doanh, sản xuất, vui chơi giải trí…luôn luôn nằm trong trục chuyển động, thay đổi không
ngừng nghỉ. Ở đó còn có sự đa dạng về dân cư và sự khác biệt về văn hóa của những khối cư dân
này . Với cách thức tổ chức bộ máy quản lý hành chính và pháp luật của mình, chính quyền thành
phố đã dần dần đưa những cư dân của mình và cả chính quyền thành phố vào trong “khuôn khổ với
hàng loạt quy định và luật lệ khác nhau” theo “những quy định pháp lý của Pháp”.
Báo chí là một phương tiện truyền thông mới được du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng
phát triển, trở thành cơ quan ngôn luận quan trọng của người dân đối với các vấn đề trong xã hội.
Tại thành phố Hà Nội có rất nhiều các tòa báo được thành lập như Đại Nam Đồng văn Nhật báo,
Đăng cổ Tùng báo, Đông Dương tạp chí, Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay và cả những tờ báo
trào phúng như “Vịt đực”…
Có thể nói, đến đây một bộ mặt đô thị mới đã được hình thành mà trong đó chính quyền
thành phố có công không nhỏ trong quá trình xây dựng và phát triển thành phố đó. Đó là những
thành công mà thành phố đã thực hiện được trong quá trình hoạt động của mình
3.3. Đặc điểm trong hoạt động của chính quyền thành phố Hà Nội

3.3.1. Chính quyền thành phố Hà Nội hoạt động theo nguyên tắc tập trung, dân chủ, có sự
thống nhất cao
Tổ chức bộ máy chính quyền thành phố Hà Nội có sự phân định rõ ràng thẩm quyền, chức
năng và trách nhiệm của từng cơ quan, cá nhân trong hoạt động của bộ máy chính quyền thành phố.
Trong đó Đốc lý là người kí quyết định và chịu trách nhiệm cao nhất đối với mọi vấn đề của thành

×