Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Tóm lược gợi ý chính sách đổi mới lập kế hoạch, phân cấp đầu tư cấp xã và trao quyền cho cộng đồng hướng đến giảm nghèo bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 24 trang )

Tháng 12 năm 2014
ĐỔI MỚI LẬP KẾ HOẠCH, PHÂN CẤP ĐẦU TƯ
CẤP XÃ VÀ TRAO QUYỀN CHO CỘNG ĐỒNG
HƯỚNG ĐẾN GIẢM NGHÈO BỀN VỮNG
1

TÓM LƯỢC
GỢI Ý
CHÍNH SÁCH

b
Các thông điệp chính
• Đổi mới lập kế hoạch (LKH) cấp xã, tăng cường phân cấp đầu tư cho cấp xã
và trao quyền cho cộng đồng thực hiện các công trình nhỏ và đơn giản là các
yếu tố gắn kết chặt chẽ, góp phần đổi mới công tác quản trị nhà nước ở cấp địa
phương, phân bổ và sử dụng nguồn lực tốt hơn, phát huy nội lực cộng đồng hướng
đến giảm nghèo bền vững.
• Cấp Tỉnh đóng vai trò quyết định trong thực hiện các giải pháp đổi mới LKH cấp
xã, tăng cường phân cấp đầu tư cho cấp xã và trao quyền cho cộng đồng trong các
Chương trình-Dự án (CT-DA) giảm nghèo. Tuy nhiên, hoàn thiện khung pháp lý
chung ở cấp Trung ương về LKH cấp xã, phân cấp và trao quyền cho cấp xã và
cộng đồng sẽ giúp nhân rộng các sáng kiến tại địa phương.
• Gắn kết tốt hơn giữa LKH cấp xã với phân bổ nguồn lực, bằng cách chuyển
trọng tâm từ LKH cấp xã hàng năm sang LKH cấp xã trung hạn (5 năm), xây dựng
khuôn khổ tài chính trung hạn cho cấp xã, xây dựng cơ chế phản hồi chính thức
của cấp huyện đối với bản kế hoạch xã, và sử dụng bản kế hoạch xã làm cơ sở
chung để triển khai các CT-DA giảm nghèo trên địa bàn.
• Đơn giản hóa và hợp nhất các quy định, thủ tục theo cơ chế đầu tư đặc thù
đối với các công trình cơ sở hạ tầng (CSHT) nhỏ và đơn giản trong tất cả các
CT-DA giảm nghèo, đảm bảo một phần nguồn vốn trong các CT-DA giảm nghèo
để phân cấp cho xã làm chủ đầu tư và trao quyền cho cộng đồng thực hiện.


• Thực hiện một chương trình ở cấp tỉnh về nâng cao năng lực quản lý tài
chính, năng lực quản lý đầu tư cho cấp xã theo cách phát triển kỹ năng, học
thông qua hành, cùng với giám sát-đánh giá chặt chẽ.
1
2
Công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam đã
đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy
nhiên, đời sống người nghèo còn gặp
nhiều khó khăn và thách thức. Nghèo
tại Việt Nam ngày càng tập trung ở dân
tộc thiểu số (DTTS), nếu như năm 1998
người DTTS chiếm 29% trong tổng số
người nghèo thì đến năm 2012 người
DTTS chiếm 51% trong tổng số người
nghèo tại Việt Nam.
2
Giữa các nhóm
DTTS, và giữa các cộng đồng cùng một
dân tộc sinh sống ở các địa bàn khác
nhau, cũng có tỷ lệ nghèo và nguyên
nhân nghèo rất khác nhau.
3
Các nghiên cứu và đánh giá về chính
sách giảm nghèo thời gian qua chỉ ra
rằng, thách thức trong phân bổ và sử
dụng nguồn lực giảm nghèo là cơ chế
phân cấp, phân quyền cho các cấp cơ sở
còn hạn chế, nội dung và phương pháp
thực hiện chưa phù hợp với đặc điểm
địa phương và nhu cầu đặc thù của từng

nhóm đối tượng.
4
Nhằm giải quyết các
nguyên nhân nghèo đa dạng, phát huy
nội lực và tính chủ động của từng địa
phương, cộng đồng và người nghèo trong
quá trình vươn lên cải thiện cuộc sống,
việc xây dựng và triển khai các chính
sách đổi mới công tác kế hoạch hóa cấp
xã theo phương pháp có sự tham gia,
tăng cường phân cấp đầu tư cho
cấp xã, trao quyền cho cộng đồng và
người nghèo trong thực hiện các chính
sách, CT-DA đang là đòi hỏi cấp bách.
Để góp phần cung cấp thông tin thảo
luận chính sách hướng đến giảm nghèo
bền vững, tổ chức Oxfam đã triển khai
chuyên đề phân tích chính sách về “lập
kế hoạch cấp xã có sự tham gia và phân
cấp tài chính cho cấp cơ sở” trong năm
2014 tại 7 tỉnh trong cả nước gồm Lào
Cai, Hòa Bình, Nghệ An, Quảng Trị, Đắk
Nông, Ninh Thuận và Trà Vinh,
5
trong
khuôn khổ dự án “Theo dõi và phân
tích chính sách giảm nghèo” giai đoạn
2014-2016 do Cơ quan viện trợ Ai len
(Irish Aid) và Cơ quan hợp tác phát triển
Thụy Sĩ (SDC) tài trợ. Chuyên đề này tập

trung tìm hiểu một số vấn đề chính sách
trọng tâm, những thực hành tốt ở các địa
bàn khảo sát và nêu các khuyến nghị liên
quan đến: (i) đổi mới lập kế hoạch phát
triển kinh tế-xã hội cấp xã theo phương
pháp có sự tham gia; và (ii) phân cấp đầu
tư cho cấp xã và trao quyền cho cộng
đồng thực hiện các công trình nhỏ và đơn
giản.
Giới thiệu
3
Đổi mới lập kế hoạch phát triển kinh tế
- xã hội (LKH
6
PT KT-XH) cấp xã theo
phương pháp có sự tham gia đã trở
thành một phong trào rộng khắp trên
cả nước. Sau các giai đoạn tìm tòi, thử
nghiệm đổi mới LKH cấp thôn và cấp xã ở
một số tỉnh từ những năm 90, đến nay đổi
mới LKH cấp xã đã tương đối chín muồi
về phương pháp tiếp cận, quy trình và
công cụ để có thể áp dụng trên diện rộng.
Hiện có khoảng 30 tỉnh,
7
bao gồm cả 7
tỉnh khảo sát, đang tiến hành đổi mới LKH
cấp xã. Đổi mới LKH cấp xã đã chứng
tỏ có thể áp dụng ở các xã đặc biệt khó
khăn (ĐBKK), như tại các xã thuộc huyện

Mường Khương (Lào Cai), ĐăkRông
(Quảng Trị) và Bác Ái (Ninh Thuận)…
Tuy nhiên, đa số tỉnh đang tiến hành
đổi mới LKH cấp xã ở cấp độ dự án
(trong phạm vi các xã, huyện thuộc dự án
tài trợ). Một số tỉnh (như Hòa Bình, Cao
Bằng, Quảng Trị và Nghệ An) đã thành
công trong thể chế hóa quy trình LKH cấp
xã, cũng mới ở cấp độ địa phương (trong
phạm vi từng tỉnh).
Xây dựng khung pháp lý
về LKH cấp xã
Khoảng cách giữa chính sách và thực
tiễn hiện nay là ở cấp Trung ương
chưa có một khung pháp lý chung về
đổi mới LKH cấp xã. Một số điều khoản
liên quan đến LKH cấp xã đang được quy
định rải rác trong các văn bản khác nhau,
mà chưa có quy định thống nhất về quy
trình LKH cấp xã (các nguyên tắc, tiêu
chí, nội dung, phương pháp, trình tự các
bước LKH cơ bản); càng chưa có quy
định về vai trò, trách nhiệm của các ban
ngành, các cấp trong việc đảm bảo các
yếu tố hỗ trợ cho đổi mới LKH cấp xã.
Các Quy định hiện hành về LKH PT KT-XH cấp xã
Hiện chưa có văn bản Luật, Nghị định hay Thông tư hướng dẫn đầy đủ về LKH
PT KT-XH cấp xã. Một số quy định rải rác hiện hành về LKH cấp xã như sau:
• Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn: kế hoạch PT KT-XH là
một nội dung công khai để nhân dân biết; dự thảo kế hoạch PT KT-XH là

một nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền
quyết định.
• Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ủy ban nhân dân (UBND):
UBND xã xây dựng kế hoạch PT KT-XH hàng năm trình HĐND cùng cấp
thông qua để trình UBND huyện phê duyệt.
• Luật Ngân sách Nhà nước: hàng năm Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị về
LKH PT KT-XH năm sau; sau đó Bộ Kế hoạch - Đầu tư (KH-ĐT) có hướng
dẫn cho các tỉnh; tiếp đó các tỉnh có hướng dẫn cho các huyện. Tuy nhiên
các văn bản này chủ yếu nêu yêu cầu về nội dung kế hoạch, không quy
định về phương pháp, quy trình LKH và cũng không quy định cụ thể về LKH
cấp xã.
• Các Chương trình 135, 30a, Nông thôn mới (NTM), Chương trình mục tiêu
quốc gia Giảm nghèo bền vững (CTMTQG GNBV): đều quy định việc lập
kế hoạch thực hiện ở cấp xã từ dưới lên với sự tham gia của người dân ở
các thôn bản.
Đổi mới lập kế hoạch
cấp xã
4
Thiếu khung pháp lý khiến cho những địa
phương không có dự án tài trợ thiếu động
lực tiến hành đổi mới LKH cấp xã do
không phải là yêu cầu bắt buộc, gây lãng
phí nguồn lực do mỗi địa phương có thể
thực hiện đổi mới LKH cấp xã theo cách
khác nhau (theo định hướng của từng
dự án tài trợ). Do đó, điều cần thiết hiện
nay là Bộ KH-ĐT tiến hành tổng kết kinh
nghiệm của các tỉnh đang thực hiện
đổi mới LKH cấp xã để xây dựng một
hướng dẫn chính thức áp dụng chung

trong cả nước theo hướng đơn giản
và khả thi.
8
Các giải pháp hỗ trợ cho
đổi mới LKH cấp xã
Đổi mới LKH cấp xã là điểm khởi đầu
của đổi mới quản trị nhà nước ở cấp địa
phương. Bên cạnh việc đổi mới quy trình
LKH cấp xã, các yếu tố hỗ trợ thuộc môi
trường thể chế rộng hơn cần được tính
đến trong khung pháp lý ở cấp Trung
ương và các giải pháp thực hiện ở cấp
địa phương, nhằm phát huy hiệu quả của
công cuộc đổi mới LKH cấp xã.
Xây dựng và duy trì năng lực LKH cho
cán bộ cơ sở. Thay đổi nhận thức và
trang bị các kiến thức, kỹ năng LKH theo
phương pháp có sự tham gia cho cán bộ
cơ sở luôn là một thách thức lớn. Nhận
thức và năng lực LKH không đồng đều
giữa xã thuận lợi và xã khó khăn, giữa
xã vùng thấp và xã vùng cao DTTS. Hiện
nay, cấp xã không có cán bộ kế hoạch
chuyên trách. Các thành viên tổ công
tác LKH cấp xã và cấp thôn có tỷ lệ luân
chuyển, thay đổi vị trí làm việc khá cao.
Do đó, nhu cầu đào tạo, bao gồm cả đào
tạo lại và đào tạo mở rộng, về LKH cấp
xã cho cán bộ cơ sở rất lớn và cần được
đặc biệt quan tâm.

Hơn nữa, LKH cấp xã nếu làm đúng quy
trình theo phương pháp có sự tham gia
(tổ chức các cuộc họp toàn dân ở thôn,
hội nghị toàn thể ở xã, chuẩn bị tài liệu,
biểu mẫu, văn phòng phẩm…) đòi hỏi
chi phí lớn hơn so với cách làm cũ, trong
khi ngân sách chi thường xuyên hiện tại
của xã rất hạn chế. Các tỉnh nghèo, ngân
sách phụ thuộc nhiều vào nguồn bổ sung
của Trung ương, gặp khó khăn trong việc
bổ sung kinh phí LKH cho các xã, nếu
không có quy định rõ ràng cho việc này.
Điểm tích cực là một số tỉnh khảo sát
(Hòa Bình, Quảng Trị và Trà Vinh) đã
cấp kinh phí thường xuyên cho tập huấn
về LKH cấp xã cho cán bộ cơ sở, đưa
LKH cấp xã trở thành môn học trong các
trường đào tạo tại tỉnh, và cấp kinh phí
LKH hàng năm cho ngân sách xã.
9
Điều
này thể hiện cam kết cao của lãnh đạo
UBND và của HĐND ở các tỉnh này đối
với đổi mới LKH cấp xã. Tuy nhiên, nếu
có hướng dẫn cụ thể trong khung pháp lý
chung về LKH cấp xã, việc cấp kinh phí
thường xuyên cho nâng cao năng lực cán
bộ cơ sở về LKH và cho công tác LKH
cấp xã hàng năm sẽ được thực hiện rộng
rãi hơn ở các địa phương.

Tăng tính tiên liệu của các nguồn vốn
khả dụng đối với cấp xã. LKH gắn kết
tốt hơn với nguồn lực là một quan điểm
cốt lõi của đổi mới LKH. Tuy nhiên, các xã
hiện khó tiên liệu được các nguồn vốn mà
mình có thể sử dụng tại thời điểm LKH.
Trong quy trình LKH cấp xã, có bước cấp
huyện cung cấp thông tin nguồn vốn cho
xã; nhưng yêu cầu này hiện nay không
khả thi, do bản thân cấp huyện (và cả cấp
tỉnh) chưa rõ về nguồn vốn ở thời điểm
LKH vào giữa năm. Một số nguồn vốn
đã có chủ trương phân cấp cho xã như
Chương trình 135 và NTM, nhưng cấp xã
cũng bị động vì không nắm được khuôn
khổ tài chính trung hạn.
Tình trạng LKH cấp xã không gắn với
nguồn vốn khả dụng, mâu thuẫn kéo dài
giữa nhu cầu lớn với nguồn vốn đáp ứng
nhỏ và khó tiên liệu sẽ khiến quá trình
LKH vẫn nặng tâm lý xin-cho, tính khả thi
thấp, và khiến cho cán bộ cơ sở và người
dân giảm lòng tin và sự nhiệt tình đối với
đổi mới LKH cấp xã. Cũng vì nhận thấy
hiệu quả của đổi mới LKH cấp xã gắn với
5
khả năng tiên liệu nguồn vốn, nên một số
tỉnh còn thận trọng trong việc nhân rộng
quy trình LKH cấp xã theo phương pháp
mới ra toàn tỉnh.

Nguyên nhân cơ bản của việc nguồn vốn
thiếu tính tiên liệu là, quy trình từ cấp
Trung ương đến các cấp địa phương còn
tách rời giữa LKH PT KT-XH và LKH đầu
tư công, và chưa có khuôn khổ tài chính
trung hạn cho cấp xã. Điểm tích cực
là, theo tinh thần Luật Đầu tư công mới
ban hành, Chính phủ đã yêu cầu các địa
phương chuyển sang LKH đầu tư công
trung hạn gắn với LKH PT KT-XH trung
hạn 5 năm ở các cấp tỉnh, huyện, xã.
10
Do
vậy, một thách thức tiếp theo ở cấp trung
ương và cấp tỉnh là xây dựng các hướng
dẫn LKH đầu tư công trung hạn dựa trên
LKH PT KT-XH trung hạn ở cấp xã.
Sử dụng bản kế hoạch xã làm cơ sở
chung để lập kế hoạch và triển khai
các CT-DA. Hiện có nhiều CT-DA do
nhiều cơ quan chủ trì với quy trình lập kế
hoạch riêng theo ngành dọc, gây áp lực
công việc lớn cho cấp xã, và rất khó kết
hợp, lồng ghép nguồn vốn. Tại các tỉnh
khảo sát, các cơ quan như Sở NN-PTNT
chủ trì Chương trình NTM, Ban Dân tộc
chủ trì Chương trình 135 và Sở Lao động
- Thương binh Xã hội (LĐ-TBXH) chủ trì
CTMTQG GNBV chưa tham gia sâu vào
đổi mới LKH cấp xã, nên chưa xây dựng

được cơ chế chính thức về việc sử dụng
bản kế hoạch xã làm cơ sở chung để các
CT-DA trên địa bàn tiến hành lồng ghép,
phối hợp, lựa chọn hoạt động đưa vào
thực hiện.
Đã có những nỗ lực ở một số địa phương
quy định sử dụng bản kế hoạch xã được
lập theo phương pháp có sự tham gia làm
cơ sở chung để lập kế hoạch và triển khai
các CT-DA như Chương trình 135, 30a và
NTM trên địa bàn. Tuy nhiên, khi chưa có
sự thay đổi chính sách ngay từ cấp Trung
ương, đó vẫn là những nỗ lực đơn lẻ của
từng địa phương.
Xây dựng cơ chế phản hồi chính thức
với bản kế hoạch xã, đổi mới quy trình
LKH cấp huyện đồng bộ với quy trình
LKH cấp xã. Chỉ đổi mới quy trình LKH
cấp xã là chưa đủ. Để tăng tính khả thi
của bản kế hoạch xã cần có sự đáp ứng
của cấp trên đối với các đề xuất của xã.
Sự đáp ứng này có thể theo hai hướng:
các ban ngành huyện phản hồi chính
thức về tính khả thi của các đề xuất của
xã và triển vọng đáp ứng các đề xuất đó
trong kế hoạch của ban ngành (thông qua
công đoạn “phân rã – phản hồi”
11
với vai
trò điều phối của phòng TC-KH); hoặc

căn bản hơn, đổi mới quy trình LKH cấp
huyện trong đó có bước tổng hợp các bản
kế hoạch xã vào kế hoạch hành động của
huyện. Hiện nay, mới có một số ít tỉnh,
như Hòa Bình và Quảng Trị, đã thể chế
hóa quy trình đổi mới LKH cấp huyện;
còn đa số tỉnh khác đang trong quá trình
thí điểm đổi mới LKH cấp huyện, hoặc
mới tổ chức một buổi họp ở huyện để các
ban ngành phát biểu, góp ý cho bản kế
hoạch xã.
Sự gấp gáp về thời gian của các bước
LKH hàng năm là một nguyên nhân ảnh
hưởng bất lợi đến chất lượng LKH cấp
xã, làm giảm sự kết nối giữa KH cấp xã
và KH cấp huyện. Theo quy định, dự thảo
KH huyện phải gửi cho tỉnh từ đầu tháng
7; lúc này bản dự thảo KH huyện chưa
thể tổng hợp đầu vào từ các bản KH xã
(do đến cuối tháng 6-đầu tháng 7 các xã
mới gửi dự thảo KH xã lên huyện). Tình
trạng này càng cho thấy, cần chuyển
trọng tâm từ LKH cấp xã hàng năm sang
LKH cấp xã trung hạn, khi đó LKH hàng
năm chỉ rà soát ưu tiên và lập kế hoạch
hành động dựa trên kế hoạch trung hạn
đã được phê duyệt.
6
Các mốc thời gian trong quy trình LKH cấp xã theo phương
pháp có sự tham gia

Thông tin
từ ban
nghành xã
đầu tháng 5
Cả năm
Cả năm
Chuẩn bị
Thông tin
từ thôn
bản
Thông tin
định hướng
từ huyện
Rà soát,
tổng hợp,
dự thảo
1
Cuối tháng 6
Hội nghị kế
hoạch xã
4
Cuối tháng 12 - đầu tháng 1
Hoàn thiện,
ban hành
Thực hiện
6
giữa tháng 6
3
Cập nhật,
phản hồi

Tháng 7- tháng 11
5
Cuối tháng 5
2
Theo dõi và
đánh giá
Lồng ghép
vào kế hoạch
huyện

Tăng cường sự tham gia của các sở
ban ngành, kết nối giữa các địa
phương và các dự án tài trợ về đổi
mới LKH cấp xã. Ở đa số tỉnh khảo sát,
mới chủ yếu là Sở KH-ĐT đóng vai trò
tích cực trong đổi mới LKH cấp xã. Trong
khi đó, như kinh nghiệm của một số tỉnh
đã thể chế hóa thành công quy trình LKH
cấp xã, các sở ban ngành khác cần được
giao nhiệm vụ phù hợp với chức năng
của mình để đảm bảo các yếu tố hỗ trợ
cho đổi mới LKH (ví dụ, Sở Tài chính có
nhiệm vụ tham mưu cho UBND tỉnh về
phân bổ kinh phí thường xuyên về LKH
và cơ chế phân cấp ngân sách cho xã,
Sở Nội vụ tham mưu về chương trình đào
tạo cho cán bộ cơ sở về LKH, các Trường
đào tạo tại tỉnh xây dựng giáo trình và
đưa LKH cấp xã thành một môn học trong
trường…).

Hiện chưa có cơ chế kết nối giữa các địa
phương để thường xuyên chia sẻ kinh
nghiệm và đề xuất các chính sách về đổi
mới LKH cấp xã. Liên kết mạng lưới, phối
hợp trong vận động chính sách ở cấp
trung ương giữa các nhà tài trợ về đổi
mới LKH cấp xã còn yếu. Mỗi dự án tài
7
trợ thường giới thiệu một quy trình LKH
khác nhau, có chiến lược hỗ trợ nhân
rộng và thể chế hóa khác nhau ở từng
địa phương. Tình trạng này một phần do
mối quan tâm khác nhau của từng địa
phương và từng nhà tài trợ, một phần do
cơ quan chủ trì công tác LKH (Bộ/Sở KH-
ĐT) chưa đóng vai trò điều phối giữa các
dự án. Kinh nghiệm tại một số tỉnh như
Lào Cai, Quảng Trị và Nghệ An cho thấy,
khi Sở KH-ĐT chủ động kết nối các nhà
tài trợ cùng quan tâm đến đổi mới LKH,
thì việc thống nhất quy trình, phối hợp
hoạt động (tập huấn, hội thảo, giám sát,
đánh giá, tài liệu hóa…) giữa các nhà tài
trợ là hoàn toàn khả thi.
8
Phân cấp đầu tư cho
cấp xã và trao quyền
CHO cộng đồng
Chủ trương phân cấp đầu tư cho cấp
xã và trao quyền cho cộng đồng trong

xây dựng CSHT được thể hiện rõ trong
các văn bản chính sách của các CT-DA
hướng đến giảm nghèo.
12
Chương trình
135 quy định xã làm chủ đầu tư các công
trình trong phạm vi xã. Riêng Chương
trình NTM đã giao cho cấp xã quyền
quyết định đầu tư và làm chủ đầu tư các
hạng mục có vốn dưới 3 tỷ trên địa bàn,
có hướng dẫn về cơ chế đầu tư đặc thù
đối với các công trình kỹ thuật đơn
giản.
13
Một số văn bản chính sách về
quản lý ngân sách xã và tổ chức đấu thầu
đã quy định các nguồn vốn đầu tư phân
cấp cho xã có thể thực hiện thông qua
các gói thầu nhỏ giao cho cộng đồng thực
hiện.
14

Phân cấp đầu tư cho cấp xã và trao
quyền cho cộng đồng thể hiện rõ nhất ở
những công trình CSHT theo tinh thần
“Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Nhiều
địa phương đã có cơ chế Nhà nước cấp
vật liệu (xi măng, cát, đá, sỏi) cho các
xã thực hiện các công trình giao thông
nông thôn và kênh mương nội đồng, dựa

trên sự đóng góp và tự thi công của cộng
đồng và nhóm thợ địa phương.
9
Tuy nhiên, đang có khoảng cách lớn
giữa chính sách và thực tiễn về phân
cấp đầu tư cho cấp xã và trao quyền
cho cộng đồng thực hiện các công trình
hoàn toàn sử dụng vốn Nhà nước. Tỷ lệ
xã được giao làm chủ đầu tư các công
trình CSHT trong các CT-DA giảm nghèo,
như Chương trình 135 và 30a, còn thấp.
Công trình trong Chương trình 30a hầu
hết do huyện làm chủ đầu tư. Hiện nay,
tỷ lệ xã làm chủ đầu tư công trình trong
Chương trình 135 ở một số huyện khảo
sát chỉ khoảng 30-40%. Những công trình
đã giao cho xã làm chủ đầu tư, tình trạng
khá phổ biến là xã không làm chủ đầu tư
thực chất (đa số công việc chủ đầu tư của
xã do tư vấn/nhà thầu lo giúp, hoặc do
cấp huyện làm giúp). Với các công trình
sử dụng hoàn toàn vốn Nhà nước do
huyện hoặc xã làm chủ đầu tư, phương
thức thi công chủ yếu hiện nay vẫn là
giao cho nhà thầu bên ngoài thực hiện.
Nhà nước và nhân dân cùng làm trong xây dựng
công trình nhỏ ở thôn bản
Bon Păng So, xã Đắk Som (huyện Đắk Glong - Đắk Nông) năm 2012 được
hỗ trợ làm 2 đoạn đường bê tông với tổng chiều dài gần 1 km, rộng 2,5 m.
Nhà nước hỗ trợ xi măng, cát, sỏi, công tư vấn kỹ thuật; cộng đồng góp

công và các chi phí phát sinh theo tỷ lệ 65/35. Xã là chủ đầu tư công trình,
làm hợp đồng mua vật liệu, giúp hoàn thiện các thủ tục thanh quyết toán.
Ban quản lý bon trực tiếp tổ chức thi công, vận động người dân tham gia.
Tổng số công huy động để làm đường lên đến 750 ngày công. Chất lượng
công trình được cán bộ xã, người dân trong bon đánh giá cao.
Tại huyện Ninh Phước-Ninh Thuận, hình thức phổ biến hiện nay là Nhà
nước hỗ trợ vật liệu, nhân dân góp công và góp tiền để mua vật liệu bổ sung
theo tỷ lệ 60/40. Điển hình như công trình đường bê tông (thôn Như Ngọc,
xã Phước Thái) và kênh mương bê tông (thôn Thành Tín, xã Phước Hải),
thôn chủ động đứng ra thuê nhóm thợ trong thôn làm công trình (nhóm thợ
hợp đồng trực tiếp với thôn theo mẫu hợp đồng của xã), nhóm thợ tiếp tục
thuê lại một số lao động thủ công trong thôn và trả tiền công từ số tiền dân
góp. Xã làm chủ đầu tư công trình, giúp thôn đo đạc, tính toán và đứng ra ký
hợp đồng mua vật liệu, hoàn thiện thủ tục về hoá đơn chứng từ thanh toán.
10
Các giải pháp thúc đẩy
phân cấp đầu tư cho cấp
xã và trao quyền cho
cộng đồng một cách
hiệu quả
Vấn đề cấp bách hiện nay là thiết kế và
thực hiện các cơ chế cụ thể, giải pháp
đồng bộ nhằm thu hẹp khoảng cách giữa
chủ trương và thực tiễn về phân cấp đầu
tư cho cấp xã, trao quyền cho cộng đồng
xây dựng CSHT trong các CT-DA giảm
nghèo. Phân cấp đầu tư mà không kèm
theo nâng cao năng lực, đổi mới LKH cấp
xã (đã nêu ở phần trên), cải tiến quy trình
và thủ tục xây dựng cơ bản (XDCB), tăng

cường giám sát và đánh giá, đảm bảo
nguồn vốn phân cấp phù hợp với nhu cầu
của cấp xã và cộng đồng, thì hiệu quả
đầu tư phân cấp thậm chí không bằng so
với đầu tư không phân cấp.
Các giải pháp đồng bộ để phân cấp cho xã, trao quyền cho
cộng đồng đạt hiệu quả
Nguồn vốn phân cấp
Khuôn khổ tài chính trung hạn
Quy định phân cấp từ Trung ương
đến tỉnh, huyện và xã
Hỗ trợ
nâng cao
năng lực
Cam kết
của địa
phương
Giám sát –
đánh giá
Cải tiến
LKH, quy
trình, thủ tục
11
Nâng cao năng lực làm chủ đầu tư,
năng lực quản lý tài chính cho
cấp xã. Tại các địa bàn khảo sát, lý do
chính không phân cấp cho một số xã làm
chủ đầu tư công trình CSHT thường được
cán bộ tỉnh, huyện nêu lên là lo ngại “xã
không đủ năng lực làm chủ đầu tư” (công

trình chậm tiến độ, xã không thanh quyết
toán được). Năng lực hạn chế về quản
lý đầu tư và quản lý tài chính của các xã
ĐBKK ở vùng miền núi DTTS là khó khăn
cố hữu, do nhiều lý do (nhận thức và học
vấn của lãnh đạo và cán bộ xã hạn chế,
thiếu cán bộ có chuyên môn hoặc có kinh
nghiệm về xây dựng, thay đổi và luân
chuyển cán bộ
15
…). Quan trọng là cần có
những biện pháp hiệu quả nhằm hỗ trợ
nâng cao năng lực cho cấp xã.
Chính sách nâng cao năng lực hiện
nay trong các CT-DA giảm nghèo như
Chương trình 135, 30a và CTMTQG
GNBV
16
chủ yếu là mở các lớp tập huấn,
nhưng hiệu quả không cao do không chú
trọng phát triển kỹ năng. Bài học kinh
nghiệm tại các địa bàn khảo sát là, cách
nâng cao năng lực hiệu quả nhất đối với
cán bộ xã là phát triển kỹ năng nhờ ”học
thông qua hành”, mạnh dạn phân cấp cho
xã làm chủ đầu tư nguồn vốn tăng dần,
không đợi đến khi xã đủ năng lực mới
phân cấp. Các cán bộ xã được tập huấn
và được hỗ trợ cầm tay chỉ việc (nhưng
không làm thay) trong từng bước công

việc bởi nhóm nòng cốt cấp huyện và
các điều phối viên, hướng dẫn viên cộng
đồng. Với sự hỗ trợ sâu sát và liên tục
trong 2-3 năm thì kể cả các xã ĐBKK ở
vùng miền núi DTTS có thể tự tin làm chủ
đầu tư các công trình trên địa bàn. Cách
nâng cao năng lực “học thông qua hành”
này đòi hỏi nhân lực và kinh phí đáng kể,
hiện chủ yếu được thực hiện trong các dự
án tài trợ. Do đó, để các CT-DA của Nhà
nước thực hiện được việc này, cần có sự
thay đổi cơ bản về cách tiếp cận và phân
bổ ngân sách hợp lý cho hợp phần nâng
cao năng lực cho cấp xã.
Đơn giản hóa và hợp nhất quy trình,
thủ tục XDCB đối với công trình quy
mô nhỏ và tính chất đơn giản. Giữa quy
trình, thủ tục XDCB và năng lực có quan
hệ mật thiết với nhau: quy trình, thủ tục
XDCB càng đơn giản thì vấn đề năng lực
hạn chế của các xã ĐBKK ở vùng miền
núi DTTS càng dễ giải quyết hơn. Các
quy trinh, thủ tục XDCB hiện còn phức
tạp; một số quy định chưa có sự phân
biệt rõ đối với công trình nhỏ và đơn giản.
Mỗi CT-DA lại có phạm vi phân cấp, quy
trình thực hiện, hồ sơ, biểu mẫu thanh
quyết toán, quy định mức đóng góp của
người dân hay cơ chế giải phóng mặt
bằng riêng, được nêu ở rất nhiều văn bản

khác nhau, gây khó khăn cho cán bộ xã
trong tìm hiểu và thực hiện (xem Phụ lục).
Một số quy định đang là rào cản cho phân
cấp cho cấp xã và trao quyền cho cộng
đồng trong xây dựng CSHT. Hợp phần
CSHT trong Chương trình 135 yêu cầu
có báo cáo kinh tế-kỹ thuật (KT-KT) với
mọi loại công trình bất kể quy mô và tính
chất kỹ thuật; mặc dù quy định mở về
phương thức thi công (có thể lựa chọn
trong 3 phương thức: giao cộng đồng thi
công; lựa chọn nhóm thợ, cá nhân; lựa
chọn nhà thầu) nhưng thực tế hầu hết địa
phương lựa chọn nhà thầu bên ngoài (do
phụ thuộc vào tư vấn, nhà thầu ngay từ
khâu lập báo cáo KT-KT; theo đúng thủ
tục XDCB hiện hành nếu giao cho cộng
đồng, nhóm thợ thi công thì không thể
đảm bảo hồ sơ thanh quyết toán, nghiệm
thu công trình…).
Quy định về thẩm tra thiết kế theo Nghị
định 15/2013/NĐ-CP của cơ quan quản
lý nhà nước ở cấp tỉnh với các công trình
trong lĩnh vực Nông nghiệp Phát triển
nông thôn (NN-PTNT) (không phân biệt
cấp) và đường giao thông nông thôn (cấp
A rộng 3-3,5m, tải trọng trục xe 6 tấn)
cũng gây khó khăn cho các xã muốn tự
làm các thủ tục. Một số văn bản hướng
dẫn đặc thù cho Chương trình 135 chậm

được ban hành, điển hình là hướng dẫn
về chi phí XDCB trong Chương trình 135
giai đoạn 2 (2006-2010) đến nay chưa
12
được cập nhật, sửa đổi cho phù hợp với
Chương trình 135 giai đoạn 3 (2012-
2015).
17
Ngoài ra, Kho bạc Nhà nước ở
địa phương có thể yêu cầu bổ sung các
biểu mẫu thanh quyết toán phát sinh so
với hướng dẫn của từng CT-DA.
Làm rõ các khái niệm trong các chính
sách phân cấp và trao quyền cho xã và
cộng đồng cũng là một vấn đề cần được
quan tâm. Hiện nay, khái niệm công trình
“quy mô nhỏ” chưa được quy định thống
nhất giữa các văn bản chính sách. Chưa
có văn bản quy định danh mục hoặc
cách xác định cụ thể thế nào là “công
trình có yêu cầu kỹ thuật cao” giao cho
cấp huyện làm chủ đầu tư,
18
hoặc ngược
lại, thế nào là “công trình có yêu cầu kỹ
thuật đơn giản” giao cho xã làm chủ đầu
tư. Hay quy định “lựa chọn nhóm thợ, cá
nhân (ưu tiên trong xã) đủ năng lực thực
hiện”,
19

nhưng thế nào là “đủ năng lực”
chưa có hướng dẫn cụ thể.
Kinh nghiệm của các dự án tài trợ là xây
dựng một quy chế hướng dẫn đầy đủ về
quy trình, thủ tục, mẫu biểu thanh toán,
các xã không phải tham khảo các văn bản
khác khi thực hiện. Một số dự án quy định
các thủ tục XDCB giản lược đối với công
trình nhỏ và đơn giản để tạo thuận lợi
cho xã làm chủ đầu tư; áp dụng phương
thức cộng đồng thi công hoặc đấu thầu
cộng đồng đơn giản để chọn nhóm thợ thi
công. Tuy nhiên, để áp dụng kinh nghiệm
của các dự án tài trợ trong các CT-DA
giảm nghèo sử dụng vốn nhà nước, cần
đơn giản hóa và hợp nhất các quy định
XDCB liên quan.
Giám sát-đánh giá chặt chẽ. Tại các địa
bàn khảo sát, các thiết chế giám sát cộng
đồng (tổ giám sát do người dân bầu ra
theo từng công trình, Ban giám sát đầu tư
của cộng đồng hoặc Ban thanh tra nhân
dân) và người dân đã phát huy khá tốt vai
trò giám sát trong các công trình có sự
đóng góp của người dân, do cộng đồng
trực tiếp tổ chức thi công. Tuy nhiên, giám
sát cộng đồng chưa phát huy hiệu quả
trong các công trình phức tạp hoặc do
nhà thầu bên ngoài thi công, do những
hạn chế về kiến thức kỹ thuật và kỹ năng

giám sát, thiếu cơ chế công khai và minh
bạch thông tin, thiếu cơ chế phản hồi…
Do đó, đòi hỏi những giải pháp mạnh hơn
ở các cấp địa phương nhằm xây dựng cơ
chế hoạt động cụ thể, trang bị kiến thức,
kỹ năng và công cụ giám sát cho các
thành viên ban giám sát cộng đồng.
Giám sát-đánh giá chặt chẽ, cùng với
thúc đẩy và hỗ trợ sâu sát, của cơ quan
cấp trên (ban quản lý dự án tỉnh/huyện,
nhóm nòng cốt huyện, điều phối viên…)
đối với các xã được phân cấp làm chủ
đầu tư rất quan trọng. Kinh nghiệm của
một số dự án tài trợ là giám sát-đánh
giá cần có tiêu chí cụ thể và gắn với cơ
chế thưởng-phạt rõ ràng, có tính đến
mặt bằng năng lực của các xã nghèo so
với các xã thuận lợi hơn. Tuy nhiên, các
chính sách hiện nay thiên về giám sát
công trình, mà chưa có cơ chế và tiêu
chí, chế tài cụ thể về giám sát công tác
chủ đầu tư của cấp xã.
Đảm bảo nguồn vốn phân cấp cho xã
và giao cho cộng đồng thực hiện. Hiện
nay, các văn bản của Chương trình 135,
30a và các CT-DA sử dụng vốn ngân
sách khác chưa có quy định về đảm bảo
nguồn vốn phân cấp phù hợp với điều
kiện và nhu cầu của cấp xã và cộng đồng.
Có cơ chế phân cấp cho xã mà không

có nguồn vốn phân cấp bởi nhiều lý do,
chẳng hạn tiêu chí phân cấp không cụ thể
hoặc cấp tỉnh, huyện phê duyệt danh mục
đầu tư nằm ngoài phạm vi phân cấp cho
xã. Qua khảo sát, có 2 phương án chiến
lược về đảm bảo nguồn vốn phân cấp
cho cấp xã cần được cân nhắc thực hiện:
Quy định cụ thể về việc sử dụng một tỷ lệ
tối thiểu (ví dụ 30-40%) trong ngân sách
đầu tư CSHT từ các CT-DA giảm nghèo
như Chương trình 135 và 30a để phân
cấp cho xã và giao cho cộng đồng thực
hiện. Chủ trương chung là đẩy mạnh
phân cấp cho xã và khuyến khích cộng
đồng thực hiện, nhưng thực tế còn phụ
thuộc vào cam kết phân bổ vốn cho xã
của các cơ quan cấp trên trong từng
CT-DA. Nếu cấp xã không biết chắc hàng
năm mình được phân bổ bao nhiêu vốn,
thì sẽ khó chủ động lập kế hoạch, chuẩn
bị đầu tư theo quy định, và khó thông báo
cho cộng đồng thôn bản để bàn bạc về
13
cách thức đóng góp và tổ chức thi công.
Cao Bằng là tỉnh đã ban hành quy định
ưu tiên dành ít nhất 30% vốn đầu tư phát
triển trong Chương trình 135 giai đoạn
3 giao cho nhóm thợ và cộng đồng thi
công các công trình nhỏ và đơn giản.
20


Tuy nhiên để áp dụng trên diện rộng trong
cả nước cần có thay đổi trong văn bản
hướng dẫn của các Chương trình 135,
30a ở cấp Trung ương.
Cơ chế đầu tư phân cấp trọn gói cho xã
dưới dạng Quỹ phát triển xã (CDF). Phân
cấp tài chính trọn gói cho xã dưới dạng
quỹ CDF đã chứng tỏ hiệu quả tại nhiều
đia phương. CDF giúp các xã có một
nguồn vốn được biết trước để thực hiện
một số hạng mục là nhu cầu ưu tiên của
người dân trong quá trình LKH. Cơ chế
CDF trao quyền chủ động cho các thôn
bản tự bàn bạc, đồng thuận về sự đóng
góp của người dân và tự tổ chức thi công
các công trình nhỏ và đơn giản. Cán bộ
các cấp và người dân ở các địa bàn khảo
sát đều đánh giá cao hiệu quả đầu tư và
các tác động kinh tế, xã hội của các công
trình đầu tư theo cơ chế CDF.
Cơ chế CDF hiện mới được thực hiện
trong khuôn khổ các dự án tài trợ.
21
Luật
Ngân sách, văn kiện các CT-DA như
Chương trình 135, 30a chưa quy định
về cơ chế phân bổ vốn đầu tư phân cấp
trọn gói như CDF cho cấp xã. Cơ chế
CDF mới chỉ xuất hiện trong Dự án 3

“Nhân rộng mô hình giảm nghèo” thuộc
CTMTQG GNBV giai đoạn 2012-2015
như một mô hình thí điểm. Về nguyên tắc,
các tỉnh có thể phân bổ CDF cho các xã
từ nguồn ngân sách tự cân đối của mình;
tuy nhiên hạn chế về ngân sách khiến
các tỉnh nghèo khó thực hiện (trừ một số
tỉnh phân bổ ngân sách CDF để đối ứng
cho các dự án ODA). Do đó, để có thể áp
dụng cơ chế CDF cần có thay đổi trong
văn bản hướng dẫn về phân bổ ngân
sách giảm nghèo ở cấp Trung ương và
cam kết áp dụng cơ chế CDF ở cấp địa
phương.
Hiệu quả của Quỹ phát triển xã tại Hòa Bình
Quỹ phát triển xã với quy mô tăng dần (năm 2011-2012 là 200 triệu/xã/năm, năm
2013 là 250 triệu/xã/năm, năm 2014 là 300 triệu/xã/năm) là cơ chế phân cấp
đầu tư trọn gói cho xã và giao cho cộng đồng, nhóm thợ thi công trong dự án Dự
án Chương trình cải thiện cung cấp dịch vụ công cộng cho Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn (PSARD) do SDC tài trợ tại tỉnh Hòa Bình. Trong 3 năm 2011-
2013, tại 87 xã dự án của tỉnh Hòa Bình đã thực hiện 1.380 hạng mục CDF, chủ
yếu là kênh mương thủy lợi và đường giao thông nông thôn. Hiệu quả của CDF
thể hiện ở các khía cạnh sau:
• CDF là bài tập thực tế giúp xã nâng cao năng lực làm chủ đầu tư và năng
lực quản lý tài chính
• Công trình CDF do cộng đồng thi công có hiệu quả đầu tư cao (suất đầu
tư nhỏ), do giảm được các chi phí gián tiếp (tiết kiệm khoảng 20-30% so
với công trình thuê tư vấn và nhà thầu theo thủ tục XDCB thông thường),
người dân tích cực đóng góp (chủ yếu bằng công lao động, mức đóng góp
quy ra tiền chiếm bình quân 36% giá trị một hạng mục) và giám sát chặt

chẽ (tránh thất thoát vật tư, đảm bảo chất lượng công trình).
• Cơ chế CDF phát huy dân chủ cơ sở, công khai và minh bạch, giúp tăng
cường sự gắn kết cộng đồng và tăng trách nhiệm, uy tín của cán bộ cơ sở.
• CDF đóng góp tích cực vào giảm nghèo, do đáp ứng được những nhu cầu
đa dạng và đặc thù của người dân ở các thôn bản DTTS mà các CT-DA
khác chưa với tới.
14
Các phân tích ở trên cho thấy, cấp Tỉnh
đóng vai trò quyết định trong thực hiện
các giải pháp đổi mới LKH cấp xã, tăng
cường phân cấp đầu tư cho cấp xã và
trao quyền cho cộng đồng thực hiện các
công trình nhỏ và đơn giản trong các
CT-DA giảm nghèo. Tuy nhiên, hoàn thiện
khung pháp lý chung ở cấp Trung ương
về LKH cấp xã, phân cấp và trao quyền
cho cấp xã và cộng đồng sẽ giúp nhân
rộng các sáng kiến tại địa phương. Theo
đó, các khuyến nghị chính như sau:
Đối với cấp Trung ương:
1. Ban hành Khung pháp lý chung về
LKH PT KT-XH hàng năm và LKH
PT KT-XH trung hạn (5 năm) ở cấp
xã. Bộ KH-ĐT cần đánh giá, tổng kết
việc đổi mới LKH cấp xã tại các địa
phương, trên cơ sở phối hợp với các
nhà tài trợ quan tâm, từ đó xây dựng
một văn bản hướng dẫn chung trong
cả nước.
• Quy trình LKH cấp xã: quy định

các nguyên tắc, tiêu chí, nội dung,
các bước LKH cơ bản theo phương
pháp có sự tham gia, theo hướng
đơn giản và khả thi.
• Trách nhiệm của các bên liên
quan: quy định trách nhiệm của các
bên nhằm thúc đẩy các yếu tố hỗ
trợ cho đổi mới LKH cấp xã, gồm
trách nhiệm của cấp xã đảm bảo sự
tham gia của người dân, thôn bản
trong quy trình LKH; trách nhiệm
của cấp huyện trong hỗ trợ cấp xã
triển khai LKH, lồng ghép các bản
kế hoạch xã vào kế hoạch huyện,
thực hiện phân cấp đầu tư cho cấp
xã; trách nhiệm của cấp tỉnh trong
hỗ trợ nguồn kinh phí thường xuyên
cho thực hiện LKH cấp xã, tổ chức
hệ thống đào tạo bồi dưỡng về
LKH, ban hành cơ chế phân cấp
đầu tư cho cấp xã; và trách nhiệm
của các cơ quan ban ngành trong
việc sử dụng bản kế hoạch xã làm
cơ sở chung để triển khai các CT-
DA trên địa bàn.
• Khuôn khổ tài chính trung hạn
(5 năm) cho cấp xã: trên cơ sở
khuôn khổ tài chính trung hạn ở các
cấp tỉnh, huyện (theo tinh thần Luật
Đầu tư công), hướng dẫn xây dựng

khuôn khổ tài chính trung hạn (5
năm) cho cấp xã dựa trên LKH cấp
xã trung hạn. Theo đó, LKH cấp xã
hàng năm sẽ được giản lược, chỉ rà
soát ưu tiên và xây dựng kế hoạch
triển khai những nguồn vốn đã phân
cấp cho xã.
2. Ban hành Hướng dẫn hợp nhất cho
tất cả các CT-DA giảm nghèo ở cấp
Trung ương (và giao cho cấp Tỉnh
quy định cụ thể) về Cơ chế đầu
tư đặc thù đối với các công trình
CSHT quy mô nhỏ và kỹ thuật đơn
giản, nhằm tăng cường phân cấp cho
xã làm chủ đầu tư và trao quyền cho
Các khuyến nghị chính
15
cộng đồng thực hiện. Cụ thể, sửa đổi
và hợp nhất các quy định về phân cấp
đầu tư cho cấp xã và trao quyền cho
cộng đồng thực hiện công trình CSHT
trong Thông tư liên tịch số 05/2013
hướng dẫn thực hiện Chương trình
135, Thông tư liên tịch số 51/2013
hướng dẫn thực hiện Chương trình
NTM, hướng dẫn thực hiện hợp phần
CSHT trong Chương trình 30a và các
xã ĐBKK vùng bãi ngang ven biển và
hải đảo thuộc CTMTQG GNBV,
22

về
các nội dung sau đây:
• Phạm vi: thống nhất giữa các CT-
DA về khái niệm công trình “quy mô
nhỏ và kỹ thuật đơn giản” phân cấp
cho xã làm chủ đầu tư và giao cho
cộng đồng, nhóm thợ địa phương
thực hiện (theo quy mô vốn-ví dụ
dưới 500 triệu, theo tính chất công
trình hoặc ban hành danh mục công
trình cụ thể).
• Nguồn vốn phân cấp: quy định tỷ
lệ tối thiểu (ví dụ 30-40%) nguồn
vốn đầu tư phát triển của các CT-
DA giảm nghèo được phân bổ cho
xã làm chủ đầu tư để thực hiện các
công trình nhỏ và đơn giản ở cấp
thôn, giao cho cộng đồng, nhóm
thợ thực hiện. Cho phép và khuyến
khích các tỉnh phân bổ một nguồn
ngân sách phân cấp trọn gói (theo
cơ chế CDF) cho cấp xã.
• Mức hỗ trợ từ Ngân sách: quy
định tỷ lệ hỗ trợ tối đa từ Ngân sách
cho từng loại công trình, theo từng
loại địa bàn (xã ĐBKK, xã khác).
Người dân ở các thôn bản tự thỏa
thuận đóng góp bằng công lao
động, vật liệu địa phương.
• Hồ sơ công trình: bỏ yêu cầu lập

Báo cáo kinh tế-kỹ thuật đối với các
công trình nhỏ và đơn giản, thay
vào đó là bản vẽ/mô tả đơn giản và
dự toán công trình. Quy định về sự
tham gia của cộng đồng (phụ nữ,
người nghèo) trong khảo sát, thiết
kế, lập dự toán công trình.
• Biểu mẫu, chứng từ: quy định các
loại biểu mẫu, chứng từ rõ ràng và
đầy đủ để cấp xã tạm ứng và thanh
quyết toán công trình qua Kho bạc
Nhà nước.
• Thẩm tra thiết kế: quy định cấp Sở
ủy quyền cho phòng ban chức năng
cấp huyện theo ngành dọc thẩm tra
thiết kế (theo Nghị định 15/NĐ-CP)
đối với các công trình nhỏ và đơn
giản.
• Phương thức thi công: quy định
giao cho cộng đồng thôn bản thực
hiện. Quy định thủ tục đấu thầu
cộng đồng đơn giản (thông báo
công khai, lựa chọn qua họp thôn
bản…) khi cần nhóm thợ có tay
nghề kỹ thuật tại địa phương.
• Giám sát cộng đồng: quy định cơ
chế giám sát, minh bạch thông tin,
cơ chế phản hồi của Ban giám sát
cộng đồng/Ban thanh tra nhân dân
và tăng cường vai trò giám sát của

người dân tại các cộng đồng hưởng
lợi.
• Vận hành, bảo dưỡng: giao cho
cộng đồng hưởng lợi xây dựng và
thực hiện quy chế, quy ước về vận
hành, duy tu bảo dưỡng công trình.
• Đánh giá: hướng dẫn cơ chế đánh
giá định kỳ đối với các xã thực hiện
đầu tư phân cấp, gắn với cơ chế
thưởng-phạt. Hướng dẫn cơ chế
đánh giá sau đầu tư đối với công
trình do xã làm chủ đầu tư. Quy
định trách nhiệm của các cơ quan
cấp huyện trong việc nâng cao năng
lực, hỗ trợ, giám sát-đánh giá việc
thực hiện ở cấp xã.
16
Đối với cấp Tỉnh:
3. Thực hiện đồng bộ các giải pháp
nhằm đảm bảo tính bền vững và
nâng cao hiệu quả của đổi mới LKH
cấp xã theo phương pháp có sự
tham gia (đối với các tỉnh đang hoặc
sẽ tiến hành đổi mới LKH cấp xã):
• Đơn giản hóa quy trình, biểu
mẫu, công cụ LKH cấp xã hàng
năm và trung hạn (5 năm) để phù
hợp với năng lực tham gia của
người dân ở các thôn bản DTTS
thuộc các xã ĐBKK. Quy trình LKH

cấp xã hàng năm được giản lược,
chỉ rà soát ưu tiên và lập kế hoạch
triển khai đối với những nguồn vốn
phân cấp cho xã dựa trên kế hoạch
trung hạn đã được phê duyệt.
• Nâng cao năng lực của cấp cơ
sở trong quá trình LKH. Xây dựng
chương trình truyền thông về đổi
mới tư duy LKH cấp xã trên toàn
tỉnh. Hình thành đội ngũ giảng viên
nguồn về LKH ở các cấp để triển
khai chương trình tập huấn, nâng
cao năng lực LKH theo cách cầm
tay chỉ việc cho các cán bộ xã và
thôn.
• Đổi mới quy trình LKH cấp huyện
đồng bộ với quy trình LKH cấp
xã. Lưu ý thống nhất các chỉ tiêu kế
hoạch giữa huyện và xã trước khi
bản kế hoạch xã được thông qua
HĐND.
• Nguồn vốn phân cấp cho xã: Quy
định một tỷ lệ tối thiểu cụ thể từ
nguồn vốn đầu tư phát triển của các
CT-DA giảm nghèo được phân bổ
cho xã làm chủ đầu tư. Phân bổ một
nguồn ngân sách phân cấp trọn gói
theo cơ chế CDF cho các xã (trong
phạm vi ngân sách cho phép, theo
hướng dẫn của Trung ương).

• Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng
sở ban ngành nhằm đảm bảo các
yếu tố hỗ trợ cho đổi mới LKH cấp
xã, hướng tới thể chế hóa trên toàn
tỉnh. Cụ thể, Sở Tài chính tham
mưu cho UBND tỉnh về phân bổ
kinh phí thường xuyên về LKH cho
cấp xã và cơ chế phân cấp vốn;
Sở Nội vụ tham mưu về chương
trình đào tạo, nâng cao năng lực
cho cán bộ cơ sở về LKH; các
Trường đào tạo trên địa bàn tỉnh
xây dựng giáo trình về LKH và đưa
LKH thành môn học trong trường;
Sở NN-PTNT, Sở LĐ-TBXH và Ban
Dân tộc tham mưu về cơ chế sử
dụng bản kế hoạch xã làm cơ sở
chung để lập kế hoạch và triển khai
các CT-DA do cơ quan mình chủ
trì (Chương trình NTM, CTMTQG
GNBV, 30a, 135).
4. Ban hành Quy chế cụ thể của tỉnh,
hợp nhất cho tất cả các CT-DA giảm
nghèo về Cơ chế đầu tư đặc thù đối
với công trình CSHT quy mô nhỏ và
kỹ thuật đơn giản, nhằm tăng cường
phân cấp cho xã làm chủ đầu tư và
trao quyền cho cộng đồng thực hiện,
theo các nội dung nêu tại Khuyến nghị
2 cho cấp Trung ương ở trên; kèm

theo xây dựng các sổ tay/cẩm nang
hướng dẫn thực hiện (như Sổ tay xã
làm chủ đầu tư, Sổ tay cộng đồng thi
công, Sổ tay giám sát cộng đồng).
Trên cơ sở đó, xây dựng và thực
hiện một chương trình ở cấp tỉnh
về nâng cao năng lực quản lý tài
chính, năng lực quản lý đầu tư cho
cấp xã theo cách phát triển kỹ năng,
học thông qua hành, cùng với giám
sát-đánh giá chặt chẽ.
23
17
18
PHỤ LỤC
So sánh quy định về hợp phần xây dựng CSHT trong Chương
trình 135, Chương trình Nông thôn mới và Quỹ CDF trong dự
án PSARD tại Hòa Bình
Chương
trình 135
Chương trình
Nông thôn mới
Quỹ CDF trong
dự án PSARD tại
Hòa Bình
Cấp quyết định
đầu tư
Huyện Huyện (công trình
vốn trên 3 tỷ)
Xã (công trình vốn 3

tỷ trở xuống)

Quy mô công trình
giới hạn bởi quy mô
quỹ CDF hàng năm
(năm 2014 là 400
triệu/xã)
Chủ đầu tư
Huyện (công trình liên
xã, phức tạp)
Xã (công trình nội xã)
Xã Xã
Thủ tục
Yêu cầu báo cáo KT-
KT (không phân biệt
quy mô công trình)
Công trình vốn dưới 3
tỷ, kỹ thuật đơn giản,
áp dụng thiết kế mẫu,
thiết kế điển hình (do
UBND huyện quyết
định danh mục):
không yêu cầu báo
cáo KT-KT, chỉ cần
lập dự toán đơn giản
Không yêu cầu báo
cáo KT-KT, hồ sơ
gồm bản vẽ đơn giản
hoặc mô tả công
trình, dự toán công

trình
Thẩm định, phê
duyệt hồ sơ
Huyện thẩm định và
phê duyệt dự toán,
báo cáo KT-KT
Xã thẩm định và phê
duyệt, thành lập tổ
thẩm định của xã
Xã phê duyệt dự toán
Phòng TC-KH huyện
và điều phối viên dự
án hỗ trợ thẩm định
dự toán
Thẩm tra thiết kế
Thực hiện theo Nghị
định 15/2013/NĐ-CP:
cơ quan quản lý nhà
nước ở cấp tỉnh thẩm
tra thiết kế các công
trình trong danh mục
quy định
Thực hiện theo Nghị
định 15/2013/NĐ-CP:
cơ quan quản lý nhà
nước ở cấp tỉnh thẩm
tra thiết kế các công
trình trong danh mục
quy định
Không quy định

Chi phí quản lý
2,7% (huyện làm chủ
đầu tư); 2,2% (xã làm
chủ đầu tư)
2,1 - 2,5% (theo quy
định của Bộ Xây
dựng)
Tối đa 10%
Không mất chi phí
gián tiếp (xã tự thiết
kế, giám sát)
19
Tỷ lệ dân góp tối
thiểu
Không quy định (tùy
từng địa phương)
Không huy động đóng
góp tiền mặt của hộ
nghèo, cận nghèo
Không quy định (tùy
từng địa phương)
Tối thiểu 30 %
Do người dân bàn
bạc, đồng thuận
Phương thức thi
công
Ba phương thức:
• Giao cộng đồng thi
công
• Lựa chọn nhóm thợ,

cá nhân
• Lựa chọn nhà thầu
(thông qua đấu
thầu)
Được chỉ định thầu
với gói thầu khoán
gọn nhằm huy động
sức lao động của
dân, do dân tự tổ
chức thực hiện, ngân
sách Nhà nước hỗ
trợ dưới 70% vốn
Ba phương thức:
• Giao cộng đồng thi
công
• Lựa chọn nhóm thợ,
cá nhân
• Lựa chọn nhà thầu
(thông qua đấu
thầu)
Khuyến khích thực
hiện 2 phương thức
đầu.
Riêng công trình quy
mô nhỏ, kỹ thuật đơn
giản giao cho cộng
đồng, nhóm thợ thực
hiện
Hai phương thức:
• Giao cộng đồng thi

công
• Nhóm thợ (thông
qua đấu thầu cộng
đồng với thủ tục đơn
giản)
Phân bổ vốn
thực hiện ở cấp
thôn
Không Không Có
(ít nhất 80%)
Chi phí đền bù
giải phóng mặt
bằng
Có thể có (hạn chế
đền bù)
Khuyến khích người
dân, cộng đồng tự
nguyện hiến đất
Hạn chế đền bù
Không
Vận động người dân,
cộng đồng tự nguyện
hiến đất
Giám sát-đánh
giá
Sử dụng Ban giám
sát đầu tư của cộng
đồng (bầu theo nhiệm
kỳ 2 năm)
Sử dụng Ban giám

sát đầu tư của cộng
đồng (bầu theo nhiệm
kỳ 2 năm)
Nhóm giám sát do
dân bầu ra theo từng
công trình.
Có tiêu chí đánh
giá thực hiện quy
chế CDF, có cơ chế
thưởng (năm 2014)
20
THAM KHẢO
1. Bản tóm lược gợi ý chính sách này là một trong ba bản Tóm
lược gợi ý chính sách do Oxfam thực hiện trong năm 2014
thuộc Dự án “Theo dõi và phân tích chính sách giảm nghèo”
giai đoạn 2014-2016 do Cơ quan hợp tác phát triển Ai len
(Irish Aid) và Cơ quan hợp tác phát triển Thụy Sĩ (SDC) tài
trợ. Hai bản tóm lược gợi ý chính sách còn lại là về chủ đề
“Khuyến nông” và “Dạy nghề cho lao động nông thôn (theo
Đề án 1956)”.
2. World Bank, 2013, Tacking Stock: An update on Vietnam’s
recent economic developments, Hanoi, December 2013.
Số liệu nghèo trích dẫn ở đây được tính theo chuẩn nghèo
chi tiêu năm 2010 do Tổng cục Thống kê và World Bank đề
xuất.
3. World Bank, 2012, Khởi đầu tốt, nhưng chưa phải đã hoàn
thành: Thành tựu ấn tượng của Việt Nam trong giảm nghèo
và những thách thức mới, Washington DC; Oxfam và AAV,
2012, Báo cáo Tổng hợp 5 năm Theo dõi Nghèo có sự
Tham gia ở khu vực Nông thôn Việt Nam (2007-2011), Hà

nội.
4. Ủy ban Thường vụ Quốc hội, 2014, Báo cáo số 660/BC-
UBTVQH13 về kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách,
pháp luật về giảm nghèo giai đoạn 2005 - 2012”; Oxfam,
2014, Rà soát và phân tích các chính sách giảm nghèo: Báo
cáo nền cho Dự án “Theo dõi và phân tích chính sách giảm
nghèo” do Oxfam thực hiện trong giai đoạn 2014 – 2016;
Thành H.X. và cộng sự, 2013, Báo cáo Đánh giá giữa kỳ
một số chính sách giảm nghèo nhằm thực hiện chương trình
mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững 2012-2015 và Nghị
quyết 80/NĐ-CP của Chính phủ.
5. Các phát hiện và khuyến nghị trong bản Tóm lược gợi ý
chính sách này được tổng hợp từ 159 cuộc thảo luận nhóm
với sự tham gia của 646 người dân và cán bộ cấp tỉnh,
huyện, xã (trong đó có 391 nam giới và 255 phụ nữ, 271
người Kinh và 375 người DTTS) và từ 250 cuộc phỏng vấn
sâu (trong đó có 149 nam giới và 101 phụ nữ, 81 người Kinh
và 169 người DTTS).
6. Trong tài liệu này, khi nói đến LKH tức là nói đến LKH PT
KT-XH, trừ phi có ngữ cảnh cụ thể khác.
7. Các tỉnh đang tiến hành đổi mới lập kế hoạch cấp xã theo
phương pháp có sự tham gia bao gồm (danh sách chưa đầy
đủ): Cao Bằng, Lào Cai, Hà Giang, Tuyên Quang, Bắc Ninh,
Bắc Giang, Thái Nguyên, Hòa Bình, Lai Châu, Điện Biên,
Sơn La, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Ninh Thuận, Tiền Giang,
An Giang, Trà Vinh, Bạc Liêu, Sóc Trăng.
8. Bộ KH-ĐT đã xuất bản Sổ tay hướng dẫn LKH PT KT-XH
cấp xã, với sự hợp tác của dự án Chia Sẻ (SIDA) và Unicef.

Tuy nhiên, đây vẫn là cách tiếp cận theo dự án tài trợ, chưa
phải là nỗ lực tổng kết kinh nghiệm, bài học của khoảng 30
tỉnh đang thực hiện đổi mới LKH cấp xã để có được một
hướng dẫn chính thức áp dụng chung trong cả nước theo
hướng đơn giản và khả thi.
9. Tỉnh Hòa Bình đã cấp bổ sung kinh phí LKH 7 triệu/xã/năm
cho ngân sách xã; cấp kinh phí cho huyện để tập huấn,
hướng dẫn cho xã về công tác LKH (bình quân 3 triệu/xã/
năm); thực hiện đào tạo thường xuyên về LKH cho các học
viên là cán bộ cơ sở hiện tại hoặc tiềm năng tại các trường
đào tạo trong tỉnh. Tỉnh Quảng Trị đã cấp bổ sung kinh phí
LKH 5 triệu/xã/năm cho ngân sách xã, đồng thời xây dựng
kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ cơ sở về LKH cấp xã
gồm 15 lớp với 1200 học viên trong giai đoạn 2011 – 2015.
Tỉnh Trà Vinh đã cấp bổ sung kinh phí LKH 20 triệu/xã/năm
cho ngân sách xã, và cấp cho mỗi huyện 30 triệu/huyện/
năm cho nâng cao năng lực đổi mới LKH.
10. Ngày 07/8/2014, Hội nghị toàn quốc ngành kế hoạch và
đầu tư đã khai mạc tại thành phố Đà Nẵng để quán triệt
Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 5/8/2014 của Thủ tướng Chính
phủ về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5
năm 2016-2020, Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 5/8/2014 của
Thủ tướng về lập kế hoạch đầu tư công trung hạn 5 năm
2016-2020 và quán triệt những quy định mới của Luật Đầu
tư công. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương sẽ phải có
thay đổi cơ bản trong việc lập kế hoạch đầu tư công. Thay
vì việc lập kế hoạch đầu tư hàng năm như hiện nay, tới đây
kế hoạch đầu tư sẽ phải được xây dựng cho thời gian trung
hạn, cả 5 năm và phải gắn chặt với việc thực hiện những
mục tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm của

các địa phương, chứ không tách rời nhau như hiện nay. Thủ
tướng nhấn mạnh, việc lập kế hoạch đầu tư trung hạn sẽ
phải được thực hiện từ trung ương đến địa phương. Theo
đó, các tỉnh, thành cũng phải lập kế hoạch đầu tư trung hạn
từ nguồn vốn của mình cho cấp quận huyện và xã, phường.
Nguồn: />ban-ve-dau-tu-cong/128031.vtv [Accessed 08.8 2014].
11. Công đoạn “phân rã - phản hồi” được tổ công tác LKH
huyện đảm nhiệm (đầu mối là phòng TC-KH). Sau khi nhận
được các bản KH từ xã gửi lên, tổ LKH huyện có trách
nhiệm phân rã các vấn đề/giải pháp xã nêu lên liên quan tới
từng phòng ban chức năng và gửi tới các phòng ban nhận
xét, đóng góp ý kiến. Sau khi nhận được phản hồi từ các
phòng ban, tổ LKH huyện sẽ tổng hợp và phản hồi lại cho xã
bằng văn bản hoặc thông qua buổi xã trình bày và thảo luận
kế hoạch với huyện.
12. Nghị quyết số 30/A/2008/NQ-CP của Chính phủ về Chương
trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 61
huyện nghèo; Quyết định số 800/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 (kèm theo
Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC
Hướng dẫn thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010-2020); Thông tư liên tịch số 05/2013/TTLT-
UBDT-NNPTNT-KHĐT-TC-XD về việc hướng dẫn Chương
trình 135 về hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển sản xuất
cho xã đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn,
bản đặc biệt khó khăn.
21
13. Quyết định số 498/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ : Bổ

sung cơ chế đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020; Thông tư số
03/2013/TT-BKHĐT hướng dẫn thực hiện Quyết định số
498/QĐ-TTg Bổ sung cơ chế đầu tư Chương trình mục tiêu
quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020;
Thông tư liên tịch 51/2013/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC
sửa đổi Thông tư liên tịch 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-
BTC hướng dẫn một số nội dung thực hiệu Quyết định số
800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020. Theo đó, đối
với các công trình có vốn dưới 3 tỷ, kỹ thuật đơn giản không
phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật trên cơ sở thiết kế mẫu,
thiết kế điển hình chỉ cần lập dự toán đơn giản, chỉ định cho
người dân và cộng đồng trong xã tự làm.
14. Thông tư 28/2012/TT-BTC: quy định về quản lý vốn đầu tư
thuộc nguồn vốn ngân sách xã, phường, thị trấn; trong đó
có mục 5, điều 5 quy định về gói thầu theo hình thức người
dân trong xã tự làm; Nghị định 63/2014/NĐ-CP: Quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật đấu thầu về lựa chọn
đấu thầu: đã có quy định về lựa chọn nhà thầu đối vói gói
thầu có sự tham gia thực hiện của cộng đồng trong mục 2,
chương 6.
15. Nghị định số 158/2007/NĐ-CP Nghị định Quy định danh mục
các vị trí công tác và thời hạn định kỳ chuyển đổi vị trí công
tác đối với cán bộ, công chức, viên chức
16. Trong thiết kế của CTMTQG GNBV giai đoạn 2012-2015
(mà Chương trình 30a và 135 là hai hợp phần), các hoạt
động tuyên tryền và nâng cao năng lực cho cán bộ cơ sở
nằm chung trong Dự án 4 “Hỗ trợ nâng cao năng lực giảm
nghèo, truyền thông và giám sát đánh giá thực hiện Chương

trình” do Bộ LĐ-TBXH quản lý. Do đó, Chương trình 30a và
135 không có kinh phí nâng cao năng lực riêng.
17. Trong công văn 1044/BXD-KTXD của Bộ Xây dựng trả lời
công văn 240/UBDT-VP135 ngày 23/5/2014 của Ủy ban Dân
tộc nêu: “Trong khi chưa có văn bản hướng dẫn về quản lý
chi phí đầu tư xây dựng thực hiện CT 135, Uỷ ban Dân tộc
căn cứ theo thông tư số 02/2008/TT-BXD ngày 2/1/2008
của Bộ xây dựng về hướng dẫn lập và quản lý chi phí đầu
tư xây dựng công trình CSHT thuộc CT phát triển KTXH
các xã ĐBKK vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn
2006-2010 và các quy định hiện hành để hướng dẫn các địa
phương tiếp tục thực hiện”.
18. Quy định có trong trong Quyết định 800/QĐ-TTg, Thông tư
26/2011/TTLT-BNNPTNT-KHĐT-BTC và Thông tư liên tịch
05/2013/TTLT-UBDT-NNPTNT-KHĐT-TC-XD
19. Quy định trong Thông tư liên tịch 05/2013/TTLT-UBDT-
NNPTNT-KHĐT-TC-XD
20. Ban Dân tộc tỉnh Cao Bằng đã tham mưu cho UBND tỉnh
ban hành Quyết định số 11/2014/QĐ-UBND ngày 30/5/2014
v/v ban hành Quy định thực hiện Chương trình 135 về hỗ
trợ đầu tư cơ sở hạ tầng, hỗ trợ phát triển sản xuất các xã
đặc biệt khó khăn, xã biên giới, xã an toàn khu, các thôn,
bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng giai
đoạn 2012-2015 và giai đoạn 2016-2020. Hai điểm nổi bật
trong Quyết định 11 là: (i) lồng ghép quá trình lập kế hoạch
Chương trình 135 vào quá trình lập kế hoạch PT KT-XH
hàng năm; và (ii) hàng năm các địa phương ưu tiên bố trí ít
nhất 30% nguồn vốn đầu tư phát triển để thực hiện đầu tư
những công trình đơn giản, có quy mô nhỏ, tổng mức đầu
tư dưới 500 triệu đồng giao cho cộng đồng, nhóm thợ trong

xã thực hiện.
21. Nghiên cứu này ghi nhận 5 nguồn CDF có quy mô đáng kể
trong các dự án tài trợ ở các tỉnh Lào Cai (NMPRP2 – Dự
án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc giai đoạn 2), Hòa
Bình (PSARD), Nghệ An (PORIS), Đăk Nông (3EM) và Ninh
Thuận (TNSP-Ninh Thuận).
22. Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã đăng tải Dự thảo
Thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện Chương trình 30a và
hỗ trợ đầu tư CSHT các xã ĐBKK vùng bãi ngang ven biển
và hải đảo thuộc CTMTQG GNBV. isa.
gov.vn/vn/NewsDetail.aspx?ID=544&CateID=79 [truy cập
ngày 5/11/2014]. Trong dự thảo Thông tư liên tich này đã
quy định cơ chế đầu tư đặc thù cho công trình có vốn dưới
3 tỷ, kỹ thuật đơn giản tương tự như quy định trong Chương
trình Nông thôn mới, và phân bổ bình quân tối thiểu 40%
vốn đầu tư CSHT cho các huyện nghèo trong Chương trình
30a cho các xã trực tiếp quản lý. Tuy nhiên, dự thảo Thông
tư liên tịch này chỉ áp dụng đến năm 2015, nên khó có tính
khả thi do thời gian áp dụng quá ngắn (tại thời điểm tháng
11/2014, việc phân bổ vốn đầu tư cho năm 2015 về cơ bản
đã được thực hiện tại các địa phương).
23. Có thể tham khảo bài học kinh nghiệm của các tỉnh như Hòa
Bình và Cao Bằng trong phối hợp các giải pháp đổi mới LKH
cấp xã, nâng cao năng lực quản lý tài chính cấp xã và bố trí,
triển khai nguồn vốn phân cấp trọn gói cho cấp xã theo cơ
chế CDF trong xây dựng Đề án này.
Dự án Theo dõi và Phân tích Chính sách
Giảm nghèo do Oxfam và các đối tác địa
phương thực hiện nhằm theo dõi diễn
biến và tác động của chính sách giảm

nghèo đối với đời sống của người dân
tại 9 tỉnh/thành phố ở Việt Nam (giai
đoạn 2014-2016).
Hàng năm, các phản hồi của người dân
về một số nhóm chính sách được thu
thập, phân tích và tổng hợp thành các
báo cáo chính sách theo chủ đề. Thông
qua các cuộc họp, đối thoại chính sách
và các kênh truyền thông trong việc
chia sẻ kết quả theo dõi và phân tích
chính sách giảm nghèo thường niên,
Oxfam cùng hợp tác với các đối tác địa
phương, Trung ương và đối tác phát
triển khác để vận động cho các chính
sách và chương trình giảm nghèo hiệu
quả và bền vững hơn.
04 3945 4448 – ext 610.

www.oxfamblogs.org/vietnam
facebook.com/oxfaminvietnam
Những hình ảnh sử dụng trong báo cáo được lấy từ cuộc thi ảnh báo chí “Đất và Người”, tổ chức trong
khuôn khổ chiến dịch GROW tại Việt Nam.

×