Tải bản đầy đủ (.docx) (137 trang)

NGHIÊN cứu ẢNH HƯỬNG của PHÂN bón đến NĂNG SUẤT GIỐNG CHÈ LDP2 và THÀNH PHẦN GIUN đất tại TRẠI THỰC HÀNH THỰC tập TRƯỜNG TRUNG cấp KINH tế kỹ THUẬT yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.3 KB, 137 trang )

Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC sư PHẠM HÀ NỘI 2
— soCũíca
ÂU THỊ PHƯƠNG THANH
NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỬNG CỦA PHÂN BÓN ĐẾN NĂNG
SUẤT GIỐNG CHÈ LDP2 VÀ THÀNH PHẦN GIUN ĐẤT TẠI
TRẠI THỰC HÀNH THỰC TẬP TRƯỜNG TRUNG CẤP KINH
TẾ KỸ THUẬT YÊN BÁI
Chuyên ngành'. Sinh thái học Mã số: 60.42.01.20
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
• • • •
Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ HỒNG LIÊN
HÀ NỘI - 2014 ■
Trước hết tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Hồng
Liên
- khoa Sinh học - Trường ĐHSP Hà Nội, đã nhiệt tình hướng dẫn và tạo
mọi điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành công trình nghiên cứu này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Đỗ Văn Nhượng - khoa Sinh học Trường ĐHSP
Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành các thí nghiệm về động vật.
Tôi xin trân ttọng cảm ơn các thầy cô giáo trong phòng Sau đại học - Trường ĐHSP
Hà Nội II đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành chương trình học tập và hoàn thành
luận văn thạc sĩ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Trại thực hành thực tập - Trường TC Kinh tế Kĩ thuật Yên
Bái đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài
này.
Hoàn thành luận văn này còn có sự động viên, khuyến khích của gia đình, người
thân, bạn bè đồng nghiệp đã giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành khóa học và
công trình nghiên cứu này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2014 Tác giả
Âu Thị Phương Thanh
Tôi xin cam đoan rằng mọi số liệu sử dụng để hoàn thành báo cáo luận văn thạc sĩ


sau đây đều được ghi nhận từ các thí nghiệm một cách trung thực và chưa được sử dụng
trong bất cứ tài liệu nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 12 năm 2014 Tác giả
Âu Thị Phương Thanh
LỜI CAM ĐOAN
Trang phụ bìa

Bảng 1.1: Ảnh hưởng của độ cao so với mực nước biển tới hàm lượng
DANH MỤC HÌNH *
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta có lịch sử trồng chè lâu đời nhưng cây chè mói chỉ được trồng
và phát triển với quy mô lớn từ khoảng 100 năm nay. Với đặc điểm là loại cây
công nghiệp dài ngày, dễ trồng và chăm sóc, nhiệm kì kinh tế dài 30
- 40 năm, phù hợp với điều kiện tự nhiên ở các vùng đất dốc của Việt Nam,
do vậy cây chè đã trở thành cây công nghiệp mũi nhọn, mang lại giá trị
kinh tế cao, tham gia vào thị trường xuất khẩu.
Năng suất và chất lượng của cây chè phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:
giống, khí hậu, đất đai, phân bón, kĩ thuật canh tác và công nghệ chế biến. Việc
áp dụng tiến bộ kĩ thuật trong thâm canh chè ở các khâu: chọn tạo đưa giống
năng suất cao vào sản xuất, chế độ bón phân, áp dụng kĩ thuật hái, kĩ thuật đốn
chè đã giúp cho ngành chè đạt được sự phát triển nhanh chóng về diện tích, năng
suất và sản lượng. Phân hữu cơ được coi là yếu tố tiên phong trong việc cải tạo
năng suất cây trồng canh tác bền vững nhưng hiện nay xu hướng sử dụng phân
hóa học ngày càng có chiều hướng gia tăng do sử dụng phân hóa học tiết kiệm
thời gian và công lao động. Trong nền nông nghiệp truyền thống của các nước
trên thế giới cũng như các nước Đông Nam Á và ở Việt Nam, phân hữu cơ không
chỉ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng với hàm lượng vốn có của nó mà còn
đóng vai ừò quan trọng trong việc cải thiện các đặc tính lí hóa của đất thông qua

vai trò của vật chất hữu cơ và động vật đất. Thực tế sản xuất cho thấy, người
trồng chè thường bón phân hữu cơ chủ yếu là phân chuồng kết họp với phân vô
cơ cho chè ở giai đoạn kiến thiết cơ bản, trồng mới và chủ yếu sử dụng phân vô
cơ cho chè ở các giai đoạn sản xuất kinh doanh để tiết kiệm thời gian và công lao
động, thúc đẩy nhanh quá trình sinh trưởng của búp mới, tăng năng suất. Mặc dù
đã nhận thức được vai trò của phân hữu cơ trong canh tác bền vững nhưng ở Việt
4
Nam việc sử dụng còn hạn chế. Bên cạnh đó sử dụng phân hữu có còn tác dụng
tích cực đến nhóm giun đất vốn được coi là “bạn của nhà nông”.
Yên Bái là tỉnh miền núi có nhiều diện tích đồi gò, điều kiện đất đai khí
hậu phù họp cho sự sinh trưởng và phát triển của cây chè. Cây chè đã có ở Yên
Bái từ rất lâu đời như những cây chè tổ Suối Giàng. Tuy có thời điểm thị trường
tiêu thụ không ổn định, giá chè xuống thấp làm cho đời sống người làm chè gặp
nhiều khó khăn nhưng nhìn chung cây chè vẫn giữ một yị trí quan trọng trong
nền kinh tế của tỉnh, góp phần tạo việc làm, tăng thu nhập cho phần lớn nhân dân
trong tinh và góp phần bảo vệ môi trường sinh thái.
Hiện nay, cây chè vẫn được xác định là cây công nghiệp chủ lực của tỉnh.
Tỉnh Yên Bái có chủ trương phát triển sản xuất chè theo cả 2 hướng, mở rộng
diện tích và thâm canh tăng năng suất, chất lượng chè cùng với cải tiến công
nghệ chế biến. Đến nay diện tích chè của tỉnh Yên Bái là 12.035 ha trong đó có
11.093 ha chè kinh doanh.
Xuất phát từ thực tế trên chúng tôi chọn đề tài: “Nghiên cứu ảnh hưởng
của phân bón đến năng suất giống chè LDP 2 và thành phần giun đắt tại Trại
Thực hành thực tập Trường Trung cấp Kỉnh tế Kĩ thuật Yên Bái”.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu ảnh hưởng của việc dùng phân bón hữu cơ đến năng suất
giống chè LDP 2 và thành phàn giun đất trong đất trồng chè từ đó đánh giá hiệu
quả của việc dùng phân bón ưong canh tác cây chè ở miền núi phía bắc Việt nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sinh trưởng của cây chè khi sử dụng phân bón hữu

cơ thông qua các chỉ tiêu: mật độ búp, trọng lượng búp 1 tôm 2 lá, tỉ lệ búp có tôm
trong các công thức thí nghiệm khác nhau.
Năng suất thực thu và năng suất lí thuyết khi sử dụng phân bón hữu cơ
so với đối chứng.
5
Anh hưởng của các công thức bón phân khác nhau đến thành phần giun
đất trước và sau khi tiến hành thí nghiệm.
4. Ý nghĩa của đề tài
Đưa ra công thức bón phân đạt năng suất cao nhất.
Xây dựng mô hình học tập cho học sinh tại trại thực hành.
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về cây chè
1.1.1. Nguồn gốc cây chè
Nguồn gốc của cây chè là vấn đề rất phức tạp, cho đến nay có nhiều quan
điểm khác nhau dựa ttên những cơ sở về lịch sử, khảo cổ học và thực vật học.
Một số quan điểm được nhiều người công nhận là:
Cây chè có nguồn gốc ở Trung Quốc: Năm 1753, Carl Von Linnaeus, nhà
thực vật học người Thụy Điển lần đầu tiên trên thế giới xác nhận Trung Quốc là
vùng nguyên sản cây chè của thế giới và định tên khoa học của cây chè là Thea
sinensis, phân thành hai thứ: Thea bohea (chè đen) và Thea viridis (chè xanh).
Cây chè có nguồn gốc từ các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và tỉnh Vân Nam,
Trung Quốc, theo Dalaselia -1989, đã giải thích sự phân bố của cây chè mẹ như
sau: Tỉnh Vân Nam là nơi bắt đầu hàng loạt các dòng suối rồi đổ về các con sông
lớn ở Việt Nam, Lào, Campuchia và Miến Điện. Đầu tiên cây chè mọc ở Vân
Nam, sau đó hạt chè được di chuyển đến các nước nói trên [15].
Cây chè có nguồn gốc tò Ấn Độ: Năm 1823, Robert Bruel đã phát hiện
được những cây chè dại lá to ở vùng Atxam (Ấn Độ). Qua nghiên cứu tác giả cho
rằng nguyên sản của cây chè là ở vùng Atxam (Ấn Độ) chứ không phải là vùng
Vân Nam - Trung Quốc [16].
Theo Cohen Sta - 1918, nhà phân loại thực vật Hà Lan đã đưa ra thuyết hai

nguồn gốc cây chè (Nhị Nguyên thuyết): Cây chè lá to có nguồn gốc ở phía tây
6
cao nguyên Tây Tạng. Cây chè lá nhỏ có nguồn gốc ở phía Đông và phía Đông
Nam Trung Quốc [16].
Năm 1951, Đào Thừa Trân (Trung Quốc) cho rằng: Nguyên sản của cây
chè là tình Vân Nam, chúng di thực về phía đông qua tỉnh Tứ Xuyên bị ảnh
hưởng của khí hậu nên biến thành giống chè lá nhỏ, di thực về phía nam và tây
nam là Ấn Độ, Mianma, Việt Nam biến thành giống chè lá to [15]. Nhiều công
trình nghiên cứu khác cho thấy cách đây 4000 năm, ngưòi Trung Quốc đã biết
dùng chè làm dược liệu và sau đó để uống [16].
Cây chè có nguồn gốc ở Việt Nam: Những công trình của Djemukhatze
(1961- 1971) về phức chất catechin của lá chè có nguồn gốc khác nhau, so sánh
thành phàn các catechin giữa chè được trồng và chè hoang dại đã nêu lên luận
điểm về sự tiến hóa sinh hóa của cây chè và từ đó ông đã đi đến kết luận: “Nguồn
gốc cây chè chính là ở vùng tây bắc Việt Nam” [8].
Các quan điểm trên tuy có sự khác nhau về địa điểm nhưng đều có sự
thống nhất rằng: Nguyên sản của cây chè là ở Châu Á, nơi có điều kiện khí hậu
nóng và ẩm phù hợp cho sinh trưởng, phát triển của chúng.
1.1.2. Phân loại cây chè
Tên của cây chè đã trải qua nhiều tranh luận và có rất nhiều cách đặt tên.
Tên gọi của cây chè đầu tiên được nhà khoa học Thụy Điển Line đặt là Thea
sinensis vào năm 1973. Đến nay danh pháp khoa học của cây chè được nhiều
người công nhận nhất là: Camellia sinensis (L.) Okuntze. [16], thứ assamỉca xếp
trong hệ thống phân loại thực vật như sau:
- Ngành Ngọc Lan (Hạt kín): Angiosepermae.
- Lớp Ngọc Lan (Hai lá mầm): Dicotyleonae.
- Bộ Chè: Theales.
- Họ Chè: Theaceae.
- Chi Chè: Camellia.
7

- Loài: sinensis.
- Thứ: assamica
Cây chè được chia thành nhiều thứ chè (Varìetas) căn cứ vào đặc điểm
hình thái, đặc điểm sinh lý, sinh hóa và tính chống chịu có nhiều cách phân loại
nhưng bảng phân loại của nhà bác học Hà Lan Cohen Stuart (1916) được nhiều
người công nhận nhất [16]. Cohen Stuart chia Camellia sinensis ra thành 4 thứ
sau đây:
Chè Trung Quốc lá nhỏ (Camellia sỉnensis var. bohea): Có đặc điểm thân
bụi thấp, phân cành nhiều, búp mù xòe nhỏ, nhanh, năng suất không cao, phẩm
chất trung bình, nhiều hoa, quả, khả năng chống chịu tốt, có thể chịu rét từ 12-
15° c.
Chè Trung Quốc lá to (Camellia sinensis var. macrophylla): Cây thân gỗ
nhỡ cao tói 5m, trong điều kiện sinh trưởng tự nhiên. Lá to trung bình màu xanh
nhạt dài 12-15cm, rộng 5-7cm, có 8-9 đôi gân chính, búp to hoa quả nhiều, có
khả năng chịu rét kém.
Chè Shan (Shan tuyết) (Camellia sinensis var. Shan): Là giống địa phương
- thứ chè rất phổ biến ở vùng núi cao (Hà Giang, Mộc Châu ) và các đồn điền ở
Tây Nguyên thời Pháp thuộc. Giống hỗn hợp lai tạp, rất nhiều biến dị, được nông
dân chia thành chè trắng (búp tuyết), chè xanh và chè vàng (tùy theo màu sắc của
lá).
Chè Atxam (chè Ấn Độ) (Cameỉỉia sỉnensis var. atxamica): Cây thân gỗ
cao to trong điều kiện tự nhiên có thể cao 16-17m phân cành thưa, búp to cho
năng suất cao thích hợp cho chế biến chè xanh và chè đen. Không chịu được rét,
hạn, ít hoa quả.
Bốn thứ (varietas) chè trình bày trên đây đều có trồng ở Việt Nam, nhưng
phổ biến nhất là hai thứ c. sinensis var. macrophylla và c. sinensis var. Shan.
8
Camellia sỉnensỉs var. macrophỵỉla được trồng nhiều nhất ở các tính trung
du với các tên gọi của địa phương (tùy theo màu sắc của lá) như: chè trung du lá
xanh, chè trung du lá vàng, v.y Tỷ lệ trồng các giống chè trung du ở miền bắc

đạt tới 70%. Năng suất búp trong sản xuất đại trà khi chè 5-19 tuổi thường đạt 4
- 5 tấn/ha.
Các giống chè Trung du chịu được đất xấu, nhưng dễ bị nhiễm nhiều sâu
hại: rầy xanh, bọ cánh tơ , ở vùng cao thường bị bệnh phồng lá. Chè Trung du
thường được dùng chế biến chè xanh, chè đen đều cho phẩm chất tốt.
Camellỉsa sinensis var. Shan được trồng ở miền núi các tỉnh miền bắc và ở
miền nam Tây Nguyên (Lâm Đồng). Ở mỗi địa phương có các giống khác nhau
như: Shan Mộc Châu, Shan Tham Vè, Shan Trấn Ninh Năng suất búp thường
đạt 6 - 7 tấn/ha. Búp chè có nhiều tuyết, dùng chế biến chè xanh, chè đen đều cho
phẩm chất tốt nhưng thích hợp với chế biền chè xanh hơn.
1.1.3. Phân bố của cây chè
Sự phân bố của cây chè chịu ảnh hưởng rất lớn của điều kiện tự nhiên, khí
hậu. Ngày nay, cây chè phân bố ở khắp các châu lục, trong đó nhiều nhất là ở
Châu Á, sau đó là Châu Phi, Châu Mỹ, rồi đến Châu Đại Dương là ít nhất. Vùng
chè tập trung nhất phân bố giữa 6-22° vĩ Bắc, trên thế giói vùng chè Miosines của
Achentina là khu vực thấp nhất nam địa cầu [28]. Đen nay trên thế giới có 58
nước trồng chè, sản xuất chế biến chè ở các quy mô khác nhau, phân bố ở khắp 5
châu như sau [15]:
Châu Á: Có 20 nước bao gồm Trung Quốc, Ân Độ, Srilanca, Indonexia,
Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kì, Bangladet, Iran, Myanma, Việt Nam, Thái Lan, Lào,
Malaxia, Campuchia, Nepan, Philipin, Triều Tiên, Apganistan và Pakistan.
Châu Phi: Có 21 nước bao gồm Kenia, Malavi, Uganda, Tanzania,
Moozambich, Ruanda, Mali, Ghine, Morrixow, Nam Phi, Ai Cập, Conggo,
9
Camorun, Đảo Reuyniong, Tchat, Rodezia, Abitxi, Brandi, Maroc, Angeri và
Zimbabue.
Châu Mỹ: Có 12 nước bao gồm Achentina, Braxin, Peru, Colombia,
Ecuado, Goatemela, Paraguay, Jamaica, Mehico, Bolovia, Guyanna và Mỹ.
Châu Đại Dương: Có 3 nước bao gồm Papua Tân Ghine, Fiji và Autralia.
Châu Âu: Có Nga và Bồ Đào Nha.

Các nhà khoa học cho rằng, cây chè trồng ở những nơi có độ cao lớn so vói
mực nước biển thường có chất lượng tốt hơn chè trồng ở vùng thấp. Chè trồng ở
những vùng núi cao như Hoàng Sơn (An Huy - Trung Quốc), Sư Tử Phong
(Chiết Giang - Trung Quốc), Hà Giang, Mộc Châu, Suối Giàng (Nghĩa Lộ, tỉnh
Yên Bái) cũng đều có chất lượng cao.
Ở Việt Nam, cây chè có từ lâu đời trên các vùng núi cao phía Tây Bắc với
những cây chè nguyên thủy ở Suối Giàng (Yên Bái), Thông Nguyên, Cao Bồ,
Lũng Phin (Hà Giang), Chồ Lồng, Tà Xùa (Sơn La), Tam Đảo (Vĩnh Phúc). Cây
chè được trồng với quy mô lớn, hình thành đồn điền trồng chè đầu tiên ở miền
Bắc Việt nam tại Phú Thọ vào năm 1890 [27]. Sau đó, cây chè được mở rộng
diện tích phân bố trên phạm vi cả nước, trải dài trên 15 vĩ độ Bắc, đã hình thành
những vùng chè tập trung như: Vùng Tây Bắc (gồm Sơn La, Lai Châu), Vùng
Việt Bắc - Hoàng Liên Sơn (gồm Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai),
Vùng Trung du Bắc Bộ (gồm Phú Thọ, Nam Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Bắc Cạn,
Bắc Giang, Thái Nguyên), Vùng Bắc Trung Bộ (gồm Thanh Hóa, Nghệ An, Hà
Tĩnh), Vùng Tây Nguyên (gồm Gia Lai, Kontum, Lâm Đồng) [ 37].
1.1.4. Một số đặc điểm sinh trưởng, phát triển của cây chè
Chè là cây lâu năm, có hai chu kì phát triển là chu kì phát triển nhỏ và chu
kì phát triển lớn [14].
Chu kì phát triển nhỏ: là chu kì phát triển hàng năm của cây chè. Hàng
năm vào mùa đông, khi điều kiện tự nhiên không thuận lợi như nhiệt độ thấp, khô
1
0
hạn cây chè sinh trưởng và phát triển chậm dàn và ngừng sinh trưởng khi nhiệt
độ thấp hơn 10°c, đây còn gọi là trạng thái ngủ nghỉ hàng năm. Tốc độ tăng
trưởng trở lại bình thường trở lại khi nhiệt độ và ẩm độ tăng dần vào mùa xuân.
Chu kì phát triển lớn (chu kì phát dục cá thể): bao gồm toàn bộ vòng đời
của cây chè, tính từ khi hoa chè được thụ phấn, hình thành hạt, mọc thành cây,
qua nhiều năm sinh trưởng phát triển đến khi già cỗi và chết. Chu kì này thường
kéo dài 30 - 50 năm, có khi tới hàng trăm năm tùy thuộc vào đặc tính của giống

và chế độ canh tác. Toàn bộ chu kì phát triển lớn của cây chè trải qua 5 giai
đoạn.
Giai đoạn 1 (giai đoạn phôi thai): tính từ khi hoa được thụ phấn, hình
thành phôi, hạt, quả đến khi quả chín. Đây là giai đoạn phôi phát triển từ hợp tử
tạo nên một thế hệ thể bào tử mới mang một nửa bộ gen từ bố và một nửa bộ gen
từ mẹ.
Giai đoạn 2 (giai đoạn cây con hay còn gọi là giai đoạn cây mạ): từ khi
hạt nảy mầm mọc thành cây, đến khi cây ra hoa kết quả làn đầu (từ 1-2 năm sau
khi trồng).
Giai đoạn 3 (giai đoạn cây non): từ khi cây ra hoa làn đàu tiên cho tới khi
cây có bộ khung ổn định (từ năm thứ 2-3 đến năm thứ 4 sau trồng).
Giai đoạn 4 (giai đoạn chè lớn hay giai đoạn sản xuất kinh doanh): thời kì
này kéo dài 20 - 30 năm có khi tới 50 - 60 năm phụ thuộc vào điều kiện giống,
đất đai và chế độ canh tác.
Giai đoạn 5 (giai đoạn chè già): giai đoạn này cây chè đã trải qua thời kì
sản xuất kinh doanh, cây chè có biểu hiện già cỗi, năng suất giảm nhanh chóng.
Căn cứ vào đặc điểm của từng giai đoạn để xây dựng các biện pháp kĩ
thuật khác nhau nhằm tạo điều kiện cho cây chè sinh trưởng phát triển tốt, có khả
năng cho năng suất cao, chất lượng tốt phát huy tiềm năng của giống.
1
1
Nghiên cứu về sự hình thành các đợt sinh trưởng của cây chè M.A.
Alikhatde (1964) cho rằng: khi cây chè có 5 lá thì ở nách lá thứ nhất, thứ hai có
chồi bên, khi có lá thứ 6 thì chồi bên thứ 3 xuất hiện, khi có lá thứ 7 thì chồi bên
thứ 4 xuất hiện. Tác giả cho rằng, khi mầm chè (chồi bên) ở trạng thái nghỉ qua
mùa đông, 2 lá đầu tiên bao bọc mầm chè là lá vẩy ốc, tiếp theo là lá cá, hai cặp lá
này có chức năng bảo vệ mô phân sinh ngọn của chồi bên. Các mầm của nách lá
thứ 4 và lá thứ 5 của đợt sinh trưởng thứ nhất sẽ phát triển thành búp của đợt sinh
trưởng thứ 2 [22].
1.1.5. Điều kiện sinh thái của cây chè

Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, cây chè chịu ảnh hưởng rất lớn
của các nhân tố sinh thái. Nguyên sản của cây chè ở vùng khí hậu rừng á nhiệt
đới. Tuy vậy cây chè cho đến nay đã được phân bố khá rộng rãi, từ 30 vĩ tuyến
nam đến 45 vĩ tuyến bắc, là những nơi có điều kiện tự nhiên khác xa với nơi
nguyên sản. Trong những điều kiện như vậy, muốn cho cây chè sinh trưởng bình
thường và có năng suất phẩm chất tốt phải có trình độ khoa học cao trong canh
tác. Những công trình nghiên cứu nhiều năm của Liên Xô cho thấy: sự tạo thành
và tích lũy các vật chất khác nhau ừong cây, phàn lớn phụ thuộc vào điều kiện khí
hậu và phân bố theo từng vùng. Tổng họp các điều kiện ngoại cảnh là yếu tố chủ
yếu ảnh hưởng đến phẩm chất chè [9].
Vì vậy, xét đến điều kiện sinh thái của cây chè là đề cập đến những điều
kiện sống thích hợp nhất về các mặt. Nắm vững những yêu cầu cụ thể về sinh thái
cũng như khả năng thích ứng của cây chè với điều kiện tự nhiên, là một trong
những cơ sở khoa học để xác định những biện pháp kỹ thuật trồng ừọt thích hợp.
Yêu cầu tổng họp các điều kiện sinh thái thích hợp cho cây chè là: đất tốt, sâu,
chua, thoát nước, khí hậu ẩm và ấm.
*Điều kiên đất đai và đỉa hình:
• •
1
2
So với một số cây trồng khác, chè yêu cầu về đất không nghiêm ngặt lắm,
song để cây chè sinh trưởng tốt, năng suất cao và ổn định thì đất ừồng chè phải
đạt những yêu cầu sau: tốt, nhiều mùn, sâu, chua và thoát nước. Độ pH thích họp
cho cây chè phát triển là 4,5 - 6,0. Đất trồng phải có độ sâu ít nhất là 80 cm, mực
nước ngầm phải dưới 1 mét thì hệ rễ mới phát triển bình thường.
Đất trồng chè của ta ở các vùng trung du phần lớn là feralit vàng đỏ được
hình thành trên đá granit, gnai, phiến thạch sét và mica. Ở vùng núi phần lớn là
đất feralit vàng đỏ được phát triển ừên đá mẹ phiến thạch sét. về cơ bản những
loại đất này phù họp với yêu cầu sinh trưởng của cây chè như có độ pH từ 4 đến 5
có lớp đất sâu hơn 1 mét và thoát nước. Loại đất này thường nghèo chất hữu cơ

nhất là ở các vùng trồng chè cũ. Vì vậy, vấn đề bón phân hữu cơ để bổ sung dinh
dưỡng cho cây chè và cải tạo kết cấu vật lý của đất là rất càn thiết. Bên cạnh đó,
phải coi trọng việc bón đủ và họp lý phân hóa học hàng năm cho chè. Chè là loại
cây kỵ vôi, nhiều tài liệu cho biết ừong đất trồng chè chỉ có một lượng vôi rất ít,
khoảng 0,2% CaC0
3
đã ảnh hưởng đến sinh trưởng của cây do đó, không bao giờ
người trồng chè dùng vôi để bón vào đất trồng chè, trừ trường họp đất có độ pH
quá thấp, dưới 4.
Quan hệ giữa đặc điểm môi trường đất và phẩm chất chè rất phức tạp.
Phẩm chất do nhiều yếu tố quyết định và tác động một cách tổng hợp. Song ừong
những điều kiện nhất định thì điều kiện dinh dưỡng của đất có ảnh hưởng rất lớn
đến phẩm chất. Kinh nghiệm trồng chè của người Trung Quốc cho thấy: chè sinh
trưởng trên loại đất pha cát, nhiều mùn, thích họp cho việc chế biến chè xanh:
mùi vị hương của chè thành phẩm đều tốt. Chè trồng trên đất nặng màu vàng thì
có vị đắng và nước có màu vàng. Chè trồng trên đất xấu hương không thơm, vị
nhạt và chất hòa tan ít [27].
Địa hình và địa thế có ảnh hưởng rất rõ đến sinh trưởng và chất lượng chè.
Thực tiễn ở Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản cho thấy: cây chè trồng trên núi cao
1
3
có hương thơm và mùi vị tốt hơn chè trồng ở vùng thấp và đồng bằng. Kinh
nghiệm nhận thấy chè được chế biến từ nguyên liệu ở núi cao Xrilanca có mùi
thơm của hoa mà hương vị đó không thể có được trong chè trồng ở khu vực thấp.
Nhiều tác giả ở Liên Xô (cũ) như Kharabava, Đjêmukhatze đã xác định chè trồng
ở nơi có địa thế càng cao hơn mặt biển (trong một chừng mực nhất định) thì
khuynh hướng tạo thành và tích lũy tanin càng lớn [27].
Phàn lớn các vùng trồng chè có phẩm chất tốt của các nước trên thế giới
thường có độ cao cách mặt biển từ 500 đến 800 mét. Vùng chè ngon có tiếng ở
Ấn Độ trồng ở độ cao cách mặt biển 2.000 mét. Nghiên cứu của Viện nông học

Hồ Nam (1957) cho thấy ảnh hưởng của độ cao so với mực nước biển tới hàm
lượng tanin trong búp chè như sau [9]:
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của độ cao so với mực nước biển tới
hàm lượng tannin trong búp chè
Độ cao so với mực nước
biển
(m) 3 75 113 130 150 260
Hàm lượng tanin % 23,28 23,28 24,96 25,20 25,66 26,06
Chất lượng chè ở vùng cao tốt nhưng về sinh trưởng thường kém hơn ở
vùng thấp. Hướng dốc có ảnh hưởng đến khả năng tích lũy vật chất trong cây
chè. Dogonatze (1969) nhận thấy rằng cường độ tích lũy tanin và vật chất hòa
tan phụ thuộc nhiều vào chế độ nhiệt. Ở hướng dốc phía nam hàm lượng tanin
và chất hòa tan trong búp chè cao hơn ở hướng dốc phía bắc [9].
Ở vĩ độ càng cao phẩm chất và sản lượng chè càng có xu hướng giảm
thấp. Do độ nhiệt thấp, độ ẩm thấp và ngày dài đã ảnh hưởng không tốt đến
sinh trưởng và tích lũy vật chất trong cây chè.
* Điều kiện ánh sáng:
Cây chè ở vùng nguyên sản sinh sống dưới tán rừng rậm, do vậy có tính
chịu bóng rất lớn, nó tiến hành quang hợp tốt nhất ừong điều kiện ánh sáng tán
1
4
xạ. Ánh sáng trực xạ ừong điều kiện độ nhiệt không khí cao, không có lợi cho
quang họp và sinh trưởng của chè. Trong thực tế sản xuất, ở một số nước như
Ấn Độ, Xrilanca thường áp dụng biện pháp trồng cây bóng mát cho chè để hạn
chế độ nhiệt cao và ánh sáng quá mạnh.
Yêu càu của cây chè đối với ánh sáng cũng thay đổi tùy theo tuổi cây và
giống. Chè ở thời kỳ cây non yêu cầu ánh sáng ít hơn, cho nên ở vườn ươm,
người ta thường che râm để đạt tỷ lệ sống cao và cây sinh trưởng nhanh. Giống
chè lá to yêu cầu ánh sáng ít hơn giống chè nhỏ.
Các điều kiện chiếu sáng khác nhau có ảnh hưởng đến cấu tạo của lá và

thảnh phần hóa học của chúng.
Bảng 1.2. Sự biến đỗi thành phần hóa học của búp chè trong điều kiện có
che râm (% chất khô) [27]
Thòi gian Ngày 30 - 4 Ngày 26 - 5
Công thức thỉ nghiệm Công thức thí nghiệm
Thành phần sinh hóa Che râm Không che râm Che râm Không che râm
Tanin 10,03 12,75 8,11 8,28
Cafein 4,62 3,76 3,43 2,78
Nitơ tổng số 7,05 6,03 5,84 4,22
Cây chè được che bóng râm, hàm lượng các vật chất có đạm (cafein, N
tổng số, protein ) trong búp và lá tăng lên và tích lũy nhiều hơn; các chất không
có N (tanin, gluxit ) lại có chiều hướng giảm xuống. Sự giảm thấp tanin,
gluxit và tăng hàm lượng các vật chất có đạm ừong lá chè ở một mức độ nhất
định thường có lợi cho phẩm chất chè xanh và không có lợi cho phẩm chất chè
đen. Vì vậy, trồng cây bóng mát cho chè thường áp dụng cho những vùng ừồng
chè sản xuất nguyên liệu để chế biến chè xanh.
1
5
Do cường độ ánh sáng có ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng, phẩm chất chè
cho nên điều tiết cường độ ánh sáng có thể làm cho năng suất chè tăng lên rõ rệt.
Những kết quả nghiên cứu tại Trại thí nghiệm chè Tocklai (Ấn Độ) cho thấy:
giảm độ chiếu sáng xuống 30% thì sản lượng búp tươi trong năm đàu tăng 34%
so với xử lý cường độ chiếu sáng hoàn toàn và giảm độ chiếu sáng xuống 50%
thì năng suất đạt cao nhất. Song nếu tiếp tục giảm cường độ chiếu sáng xuống
dưới 50% thì năng suất bắt đàu giảm thấp.
Ánh sáng còn có quan hệ đến giai đoạn phát dục của cây chè: theo các tài
liệu nghiên cứu của Liên Xô thì giống chè Ấn Độ và giống lai Trung - Ấn nguyên
sản ở vùng ngày ngắn, sinh trưởng trong điều kiện Gruzia (Liên Xô) ngày dài,
không thể hoàn thành giai đoạn ánh sáng cho nên không ra hoa kết quả. Song
giống Trung Quốc lá nhỏ đã thích ứng với điều kiện ngày dài, cho nên ừồng ở

Gruzia vẫn ra hoa kết quả.
*Điều kiên đô ẩm và lương mưa:
• • t o
Thực vật nói chung và cây chè nói riêng muốn hình thành nên một phần
vật chất hữu cơ để cấu tạo thành cơ thể của chúng thì chúng phải cần tới 400 phần
nước. Chè là loại cây ưa ẩm, là cây thu hoạch búp, lá non, nên càng càn nhiều
nước và vấn đề cung cấp nước cho quá trình sinh trưởng của cây chè là yếu tố
quan trọng trong thâm canh cây chè.
Yêu cầu tổng lượng nước mưa bình quân trong một năm đối với cây chè
khoảng 1.500 mm và mưa phân bố đều trong các tháng. Bình quân lượng mưa
của các tháng ừong thời kỳ chè sinh trưởng phải lớn hơn hoặc bằng 100 mm, nếu
nhỏ hơn 100 mm chè sinh trưởng không tốt. Cây chè yêu cầu độ ẩm không khí
cao, trong suốt thời kỳ sinh trưởng độ ẩm không khí thích hợp là vào khoảng 85%
[27].
*Nhiệt độ không khỉ:
1
6
Để sinh trưởng phát triển tốt, cây chè yêu cầu một phạm vi nhiệt độ nhất
định. Theo nghiên cứu của Kvaraxkhêlia (1950) và Trang Vãn Phương (1956) thì
cây chè bắt đàu sinh trưởng khi nhiệt độ trên 10°c. Nhiệt độ bình quân hàng năm
để cây chè sinh trưởng phát triển bình thường là 12,5°c và sinh trưởng tốt trong
phạm vi 15 - 28°c. Giới hạn nhiệt độ thấp đối với sinh trưởng của chè biểu hiện
rõ rệt qua thời kỳ ngừng sinh trưởng trong mùa đông và sinh trưởng trở lại khi có
nhiệt độ ấm áp của mùa xuân trong những vùng khí hậu á nhiệt đới. Đối với sinh
trưởng của cây trong thời kỳ này thì nhiệt độ không khí trở thành nhân tố sinh
thái chủ yếu. Cây chè yêu cầu lượng tích nhiệt hàng năm 3.500 - 4.000°c. Nhiệt
độ tối thấp tuyệt đối mà cây có thể chịu đựng được thay đổi tùy theo giống, có
thể từ -5°c đến -25°c hoặc thấp hơn.
1.2. Nghiên cứu về phân bón cho cây chè
1.2.1. Nghiên cứu về phân bón cho cây chè trên thế giới Quan hệ giữa đặc

điểm môi trường đất, hàm lượng các chất dinh dưỡng đến năng suất, phẩm
chất chè rất phức tạp. Phẩm chất chè do nhiều yếu tố quyết định. Điều kiện
dinh dưỡng ảnh hưởng rất nhiều đến năng suất, phẩm chất chè, do vậy
ngoài việc sử dụng nguồn dinh dưỡng sẵn có ở trong đất, thì việc bón phân
cho chè là một biện pháp có hiệu quả.
Sản phẩm thu hoạch của chè chỉ chiếm 8-13% tổng lượng chất khô mà
cây tổng họp được nếu tính cả các phàn trên và dưới mặt đất. Theo nguồn tò
nhiều tác giả Ấn Độ thì trong 100 kg chè thương phẩm có chứa lượng dinh dưỡng
là 4 kg N
2
; 1,15 kg p
2
0
5
; 2,4 kg K
2
0; 0,42 kg MgO; 0,8 kg CaO; 100 g Al; 6g Cl;
8g Na [38]. Ngoài lượng dinh dưỡng này cây còn lấy một số lớn dinh dưỡng cho
việc hình thành bộ lá trên bụi chè, cho số lá rụng, cho việc hình thành thân cành
và rễ. Chính YÌ vậy, để hình thành nên 100 kg chè thương phẩm cây lấy đi tổng
1
7
số dinh dưỡng cho tất cả các bộ phận trên là: 16,9 kg N
2
; 5,68 kg p
2
0
5
; 8,8 kg K
2

0;
2,92 kg MgO; 6,7 kg CaO; 871 g AI và 74 g Na. Ngoài ra cây còn lấy đi một
lượng các nguyên tố vi lượng như 38 g Zn; 26 g Bo; 38 g Cu; 241 g Fe và 479 g
Mn [29]. Theo Eden (1958) trong búp chè non có 4,5% N
2
; 1,5% p
2
0
5
và 1,2-
2,5% K
2
0 [27].
Những kết quả nghiên cứu của Jolemuanu cho thấy nhu càu dinh dưỡng
khoáng của cây chè rất lớn thể hiện qua bảng 1.3 [39].
Bảng 1.3. Hàm lượng một sổ nguyên tố khoáng trong chè một sổ noi
(% chất tro)
Loai

CaO MgO
K
2
o
p
2
o
5
Chè chê biên ở Xrilanca 7,8
8,2
31,7 13,5

Chè chê biên ở Trung Quôc 8,9
6,0
30,3 13,7
Chè chê biên ở Trakvi (Liên Xô)
8,1
7,7 30,6 14,5
Lá chè tươi Gruzia (Liên Xô) 9,7 8,7 38,9 19,0
Cũng theo tài liệu của Trung Quốc nếu thu hoạch 7,5 tấn búp/ha, cần
phải cung cấp N
2
: 37,5 kg, p
2
0
5
: 75 kg và K
2
0: 112 - 150 kg [40].
Ngoài ra, hàng năm trọng lượng cành lá đốn cũng xấp xỉ bằng trọng
lượng búp và lá non đã thu hoạch và theo Daraxêli thì lượng đạm bị rửa trôi
thường 1/3 tổng lượng đạm bón vào đất [27].
Achivicy và Tlanfanchi đã nghiên cứu thành công một số loại cây họ Đậu
(Fabaceae) làm cây phân xanh, đồng thời làm cây che bóng cho cây chè [41].
Theo dõi tại vùng chè Assam (Ấn Độ) thấy rằng hiệu lực của đạm tăng
lên đều đặn theo thòi gian, hiệu suất 2 kg đạm của lần 1,2,3,4 lần lượt là
2,4,6,8 kg chè khô. Ở Đông Phi cho thấy: hiệu suất của 1 kg đạm là 4-8 kg
chè khô, nếu hiệu suất < 4 kg chè khô/1 kg N thì đã xuất hiện một yếu tố
nào khác là lân hay kali [27], [42].
1
8
Theo M.L.Bziava (1973) liều lượng đạm tăng lên, sản lượng búp sẽ tăng,

song để đạt được năng suất 10 tấn/ha bón 200 kg N/ha cho hiệu quả kinh tế cao
nhất [31].
về phẩm chất, nhiều tài liệu ở nước ngoài như Nhật Bản, Ấn Độ,
Srilancan đều cho rằng bón đạm không hợp lí, bón quá nhiều hoặc bón đơn
độc đều làm giảm chất lượng chè (đặc biệt là đối với nguyên liệu để chế biến
chè đen). Những công trình nghiên cứu của Liên Xô (cũ) cho thấy liều lượng
đạm 300 kg/ha thì hàm lượng tanin, cafein và chất hòa tan trong búp chè đều cao,
có lợi cho phẩm chất, song nếu vượt qua giới hạn trên thì phẩm chất chè giảm
thấp. Khi bón nhiều đạm hàm lượng Protein ở trong lá tăng lên. Protein kết hợp
với tanin thành các hợp chất không tan vì thế lượng tanin trong chè giảm đi. Mặt
khác khi bón nhiều đạm, hàm lượng ankaloit trong chè tăng lên làm chè có vị
đắng [24].
Các nghiên cứu về phân bón cho chè của Viện Cây trồng Á nhiệt đới
(Gradia) cho thấy, để nâng cao sản lượng và chất lượng nguyên liệu chè, nâng
hàm lượng tanin, chất hòa tan và điểm nếm thử cảm quan, khi nương chè bón
lượng đạm thích họp 300 kg/ha trên nền p và K. Nếu tiếp tục nâng cao lượng đạm
sẽ không có hiệu quả kinh tế. Sử dụng lượng đạm cao thích hợp cho cây chè khi
bón phối hợp vói phospho, kali, magie và các nguyên tố vi lượng [43].
AJ. Nijarata đã giải thích ảnh hưởng xấu của lượng đạm dư đến phẩm chất
của chè như sau: lượng đạm dư của cây chè làm tăng sự phát triển của mô gỗ
trong cây kết quả là những phần non của cây chè chưa tích lũy được những chất
quý giá nhất cho cây chè [42].
Những kết quả chẩn đoán dinh dưỡng trong lá chè của Liên Xô (cũ) cho
thấy: ở cây chè thiếu đạm, hàm lượng đạm trong lá là 2,2 - 2,4%, trong búp là 3-
3,5%. Cây chè đủ dinh dưỡng hàm lượng đạm tương ứng là: 2,9 - 3,4% và 4,7-
5,0% [42].
1
9
Kết quả phân tích lá chè và đất trồng chè ở Liên Xô (cũ) cho thấy: ở cây
chè thiếu lân, hàm lượng lân (P2O5) trong lá là 0,27 - 0,28%, trong búp là 0,5 -

0,75%. Cây chè đủ dinh dưỡng hàm lượng lân tương ứng là 0,33 - 0,39% và 0,82-
0,86% [39].
Theo nghiên cứu của F.Hurisa (Liên Xô) thì hiệu quả trực tiếp của 3 năm
bón lân và liều lượng 126- 196 kg/ha trên nền N, K tăng sản lượng búp 5 - 30%
so với đối chứng chỉ bón N, K song hiệu quả tăng bình quân 21 năm về sau là 60
- 78%. Ở Liên Xô (cũ) trên đất đỏ hiệu quả phân lân ở những năm sau thường cao
hơn năm trực tiếp bón [9].
Kết quả nghiên cứu của Curxanop (1954) và J.C.Nigaloblis Vili (1966) ở
Liên Xô (cũ) đã khẳng định bón phân lân trên nền N, K làm tăng Catein trong
búp chè có lợi cho chất lượng chè [24].
Trong đất nếu hàm lượng p
2
0
5
là 30 - 32 mg/100 g đất thì cây chè sinh
trưởng bình thường, nếu là 10 - 12 mg/100 g đất thì thiếu nhiều lân [39].
Trên những nương chè mói trồng, phân kali không có hiệu quả vì trên
những loại đất mới khai phá hàm lượng K
2
0 trong đất đủ cho yêu cầu sinh trưởng
phát triển của cây (20 - 25 mg KO/lOOg đất), ở những nơi thường xuyên bón N,
p với liều lượng cao trong nhiều năm, đất trở nên thiếu kali thì hiệu quả việc bón
K
2
0 rất rõ rệt [9]. Theo số liệu của Goziaxivili (1949) bón K
2
0 trên đất đỏ với liều
lượng 80 - 320 kg/ha có thể tăng sản lượng 28-55% so với đối chứng bón N, p.
Những nghiên cứu của A.D.Makharobitze (1948) cho thấy phẩm chất nguyên liệu
trong các công thức bón phân khác nhau được xếp theo thứ tự sau: p, K, N và

không bón. Những kết quả nghiên cứu của Liên Xô (cũ) cho thấy hàm lượng kali
ừong lá dưới 0,5% dấu hiệu thiếu kali biểu hiện rõ, ừên 1% thì cây sinh trưởng
bình thường. Hàm lượng K
2
0 15 mg/100 g đất là thiếu kali, ừên 15 mg/100 g đất,
cây sinh trưởng bình thường [10], [27], [28].
2
0
về chất lượng chè, kali lại ảnh hưởng rõ rệt. Theo Djemukhatze chất lượng
chè nguyên liệu trong các công thức bón khác nhau được xếp theo thứ tự p, K, N
và sau cùng là không bón. Kết quả nghiên cứu của Liên Xô (cũ) hàm lượng kali
trong lá nhỏ hơn 0,5 thì cây thiếu kali [9].
Những công trình nghiên cứu của Acnôn (1954), Evan (1956), Grin
(1954), Nalia (1951), Nason (1953), Nicôla (1957), Staccây (1955), MacEuroi và
Nason (1954) và những người khác, đều xác nhận là những nguyên tố tham gia
vào thành phàn nhiều loại men và là chất hoạt hóa của nhiều loại men ấy. Nhiều
nguyên tố vi lượng có ảnh hưởng tốt tói quang hợp: Mn, Cu, Bo, Co và Mo đẩy
mạnh sự tổng hợp diệp lục trong lá và phân giải diệp lục trong tối. Bo và các
nguyên tố khác tăng cường sự tổng hợp gluxit, làm cho sự tổng hợp và vận
chuyển sacaro và các gluxit thuận lợi hơn (Scônich 1955). Mn, Zn, Cu, Mo và
trong nhiều trường hợp cả Bo làm tăng độ hô hấp của quá trình oxi hóa khử [27].
Phân vi lượng hiện nay đang bắt đầu được sử dụng rộng rãi trong thực tế
nông nghiệp và được coi là một khả năng tiềm tàng góp phần đẩy mạnh sự phát
triển của ngành ttồng trọt và chăn nuôi. Song việc nghiên cứu và sử dụng phân vi
lượng cho chè còn rất ít. Ở Srilanca đã nghiên cứu và sử dụng kẽm sunfat hoặc
axit kẽm để phun lên lá, hoặc bón borat phối họp với N, p, K cho chè ở những nơi
xác định có hiện tượng thiếu kẽm và Bo. Kết quả nghiên cứu của Tranturia
(1973) cho thấy bón N, p, K phối hợp với 5 kg Zn và 5 kg Bo, cho 1 ha, làm tăng
phẩm chất của chè nguyên liệu [44], [45].
Godishvili G.c và Beridze A.F (1962) đã nghiên cứu việc sử dụng phân

khoáng thường xuyên bón vào đất chè dẫn đến sự biến đổi hóa học của đất. Các
chất dinh dưỡng được hòa tan mạnh hơn khi đất ẩm có mưa, nhất là những vùng á
nhiệt đới và đới ẩm các chất khoáng của đất thường bị rửa trôi. Sử dụng phân
chua sinh lí ở điều kiện thâm canh cao làm thúc đẩy mạnh cường độ rửa ừôi các
ion bazơ trong đất, trong đó có Mg. Khi bón NPK với mức cao, độ chua của đất
2
1
tăng cao, ngược lại hàm lượng bazơ lại giảm thấp: CaO 14,4 mg/100g đất, đặc
biệt MgO chỉ còn 1,8 mg/100g đất. Trong khi đó đối chứng tương tự là CaO:
28,8. MgO: 5,8 mg/100g đất [39], [41]. Geus J.G.De, 1983: Việc sử dụng lâu dài
amon sunfat và các loại phân chua sinh lí đã làm thay đổi đáng kể tính chất lý hóa
học của đất. Trong môi trường chua sự rửa trôi MgO lớn hơn CaO, mặt khác CaO
được bổ sung cùng việc bón lân còn MgO bị lấy đi cùng búp chè thu hoạch, sự
thiếu hụt MgO ngày càng trầm trọng. Sự thể hiện thiếu MgO của cây chè có
nhiều nguyên nhân: do nhiều năm sử dụng amon sunfat liên tục, do nhiều năm sử
dụng kali trên đất feralit nghèo hoặc thiếu magie, do thừa mangan trên đất tto núi
lửa. Khắc phục sự thiếu magie người ta bón vào đất 125 kg dolomiưlha, khi thiếu
magie nặng hơn bón 100 - 125 kg kiseserit (24% MgO), hoặc phun MgS0
4
1 làn
trên năm với nồng độ 2% lá được thực hiện ở Srilanka, Nam Ấn Độ đã làm tăng
sản lượng 11-16% trên các nương chè già [38], [42].
1.2.2. Nghiên cứu về phân bón cho cây chè ở Việt Nam
Hiện nay ở nước ta cây chè được trồng nhiều trên nhiều loại đất, nhưng
chủ yếu là trên nhóm đất đỏ vàng. Cây chè thích hợp trồng trên đất chua vừa đến
ít chua, độ dày tàng đất càng sâu thì cây chè sinh trưởng, phát triển càng tốt và
tuổi thọ của cây càng kéo dài. So vói các loại cây trồng khác thì cây chè có khả
năng sống ở những nơi đất cằn cỗi, nghèo dinh dưỡng mà vẫn cho thu nhập.
Cây chè yêu càu về đất không chặt chẽ lắm. Song để cây chè sinh trưởng
tốt, năng suất cao và ổn định thì đất trồng chè phải đạt những yêu cầu sau: tốt,

nhiều mùn, sâu, chua và thoát nước. Độ pH thích hợp cho chè phát triển là 4,5 -
6,0. Đất trồng phải có độ sâu ít nhất là 80 cm, mực nước ngầm phải dưới 1 mét thì
hệ rễ mói phát triển bình thường [14].
Đất trồng chè của ta ở các vùng trung du phần lớn là feralit vàng đỏ được
phát triển trên đá granit, gnai, phiến thạch sét và mica. Ở vùng núi phần lớn là đất
feralit vàng đỏ được phát triển trên đá mẹ phiến thạch sét. về cơ bản những loại
2
2
đất này phù họp với yêu cầu sinh trưởng của cây chè như có độ pH từ 4 đến 5 có
lớp đất sâu hơn một mét và thoát nước. Những đất này thường nghèo chất hữu cơ
nhất là các vùng trồng chè cũ. Vì thế vấn đề bón phân hữu cơ để bổ sung dinh
dưỡng cho chè và cải tạo kết cấu vật lí của đất là rất cần thiết. Bên cạnh đó, phải
coi trọng việc bón đủ và hợp lí phân hóa học hàng năm cho cây chè. Chè là loại
cây kị vôi, nhiều tài liệu cho biết trong đất trồng chè chỉ có một lượng vôi rất ít,
khoảng 0,2% СаСОз đã làm cây chè bị hại. Bỏi thế không bao giờ ngưòi ta dùng
vôi để bón vào đất trồng chè, trừ trường hợp đất có độ pH quá thấp, dưới 4 [32].
Theo kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu và phát triển chè, Viện
Khoa học Kỹ Thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc, cho thấy việc bón phân
hữu cơ kết họp với vô cơ năng suất chè tăng 30-32% so với việc sử dụng riêng rẽ
phân vô cơ. Người ta rất coi trọng hiệu quả về sau của việc bón phân hữu cơ cho
chè. Yêu càu về đạm thay đổi tùy theo loại đất tuổi của cây và năng suất vườn
chè. Tài liệu của trại thí nghiệm chè Phú Hộ, cho thấy bón đạm đầy đủ, sản lượng
búp chè tăng 2-2,5 làn so với đối chứng không bón [25].
Theo nghiên cứu 10 năm liên tiếp của trại chè Phú Hộ về việc bón phân N,
p, К thấy trên cơ sở bón 100 N/ha, 50 p
2
0
5
/ha trong từng năm không có chênh
lệch đáng kể về năng suất nhưng từ năm thứ 7 trở đi thì bội thu do phân bón là rất

rõ rệt qua 10 năm 1 kg P2O5 làm tăng được 3,5 kg chè búp tươi [25].
Quy trình bón P2O5 của Liên hiệp xí nghiệp chè Việt Nam 1988 quy định 5
năm bón P2O5 một lần với liều lượng 100 kg/ha, bón kết hợp với phân chuồng
sau khi đốn, bón sâu khoảng 20-30cm [14].
Nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đến chỉ tiêu hóa sinh chất lượng
búp chè tác giả Trịnh Văn Loan đã nêu: Những dạng phân bón khác nhau có ảnh
hưởng ở các mức độ khác nhau đến hoạt tính của men peroxydaza ở dạng liên kết
hay hòa tan trong lá chè. Hoạt tính của men peroxydaza cao trong những trường
họp bón phân photphat và kèm theo đó là hàm lượng tannin trong lá chè tăng lên
2
3
đáng kể. Bón phân photpho có ảnh hưởng tốt đến đặc tính hóa sinh, dẫn đến sự
tạo thành hợp chất poliphenol trong lá chè cao [24].
Kết quả 10 năm (1969-1979) nghiên cứu về phân bón NPK cho chè ở Trại
thí nghiệm chè Phú Hộ cho thấy, khi bón đạm và kali cho giống chè Trung Du có
tác dụng rõ về năng suất và chất lượng búp chè, hàm lượng tannin và chất hòa tan
đều cao. Tỉ lệ phối hợp bón NPK cho chè hợp H là 3:1:1 [1].
Kết quả nghiên cứu của Đinh Thị Ngọ (1998) về bón phân cho các giống
chè cho thấy, các giống chè và tuổi chè khác nhau có yêu cầu lượng phân bón
khác nhau [1].
Bón phân khoáng cân đối và bổ sung phân hữu cơ đều làm tăng sản lượng
chè. Nhưng liều lượng NPK thích hợp cho nương chè còn phụ thuộc vào tính chất
lí hóa của đất, tuổi chè và yếu tố tác động các yếu tố sinh thái [12].
Sử dụng các nguyên tố vi lượng (Bo, đồng, mangan, molipđen, kẽm, coban
và iot) vào việc trồng trọt (xử lí các hạt trước khi gieo) và bón vào đất, phun lên
lá, có thể tác động mạnh vào các quá trình sinh lý của cây trồng khác nhau, do đó
có thể làm tăng năng suất và phẩm chất chè [10].
Ở Việt Nam bước đầu đang nghiên cứu ảnh hưởng của một số nguyên tố vi
lượng như Zn, B, Mo, Mn, Cu, đối với sự sinh trưởng và phát dục của chè, hoặc
dung dịch H3BO4 (0,02%) phun phối hợp với ure (2%) để trừ sâu và thúc sinh

trưởng cho chè càng cho kết quả tốt.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón đối với đời sống cây trồng hầu hết
các tác giả chủ yếu chú trọng đến các loại phân đa lượng như N, p, к còn các
phân trung vi lượng như s, Zn, Mn, Mg, Bo, AI rất ít tác giả đề cập đến hoặc nếu
cũng chỉ nghiên cứu trên một số loại cây như cà phê, đậu, đỗ, bông
Tác giả Lê Xuân Đính cho biết cây cà phê Robusta ở Indonesia lấy đi từ
đất là 52,3 kg N; 10,5 kg p
2
0
5
; 80,7 kg K
2
0; 16,5 kg MgO; 28 kg CaO thì năng
suất đạt 1,75 tấn/ha. Để đảm bảo cho đất không bị nghèo đi thì mức bón tối thiểu
2
4
phải bù đắp được sự hao hụt các nguyên tố này ừong đất. Tùy theo đặc điểm tồn
tại của từng nguyên tố trong đất mà ngoài phần cây hấp thụ, ta còn phải bù đắp cả
phần mất đi do rửa ừôi, bay hơi hoặc do các quá trình hóa học hoặc xói mòn
khiến các nguyên tố này không còn nằm trong vùng rễ cây. Đối với các nguyên tố
trung lượng, Ca và Mg là hai nguyên tố ít bị rửa trôi hơn s và mức bón (tùy theo
năng suất cà phê) ta có thể tính toán từ mức cây hút ở trên và cộng thêm 30% nữa
là đủ [44].
Tác giả Lê Văn Đức đã nghiên cứu về ảnh hưởng của Mg đến chất lượng
giống chè PHi. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và Mg đến năng
suất, chất lượng giống chè PHi trồng tại Phú Hộ - Phú Thọ. Bón Mg ở các liều
lượng 50 kg và 70 kg MgSƠ4/ha làm tăng mật độ búp chè 10,5% và 18,9%. Tỉ lệ
mù xòe giảm, trọng lượng và chiều dài búp không tăng có tác dụng tích cực đến
năng suất và chất lượng giống chè PHi [11]. Bón Mg với các công thức 50 kg
MgSCVha và 75 MgSƠ4/ha làm tăng dung lượng đốn của chè 25% và 32,8% so

với đối chứng. Bón Mg làm tăng hàm lượng đường khử, đặc biệt axit amin, do đó
ảnh hưởng tốt đến chất lượng chè [11].
Chè là cây công nghiệp dài ngày cho sản phẩm thu hái nhiều lần trong
năm, ừong đó sản phẩm thu hoạch (búp chè) chỉ chiếm 8-13% tổng sinh khối của
toàn bộ cây chè và năng suất chè thường chưa cao nên nhu càu dinh dưỡng của
cây chè không lớn. Trung bình năng suất 2 tấn búp khô lấy đi 80kg N, 23kg p
2
0
5
48kg K
2
0, 8 kg MgO và 16 kg CaO [31]. Như vậy, lượng hút dinh dưỡng của chè
lại cần tính đến cả lượng dinh dưỡng bị mất theo cành, thân do đốn định kì. Do
vậy tổng số hàng năm cây chè hút khoảng 144 kg N, 71 kg P2O5, 62 kg K
2
0, 24
kg MgO và 40 kg CaO. Tuy đạm là yếu tố dinh dưỡng bị chè hút nhiều nhất,
song cân đối đạm-kali-magie là rất quan trọng. Tỉ lệ này là thay đổi tùy theo tuổi
cây và ổn định khi thu hoạch. Thông thường, những năm trồng đầu tiên, lượng
đạm bón thường cao hơn, biến động trong khoảng 120-240 kg N/ha vói tỉ lệ
2
5

×