BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN CHÍ ĐIỆP
YẾU TỐ BI KỊCH TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Tôn Thảo Miên
HÀ NỘI, 2014
1
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS Tôn Thảo Miên, người
đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ, động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu
và hoàn thành đề tài luận văn của mình.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, nhà trường đã tạo điều
kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình học tập, rèn luyện.
Tôi cũng xin chân thành gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, đồng
nghiệp đã dành sự ủng hộ, chia sẻ, giúp đỡ quí báu để tôi hoàn thành luận
văn này.
Hà Nôi, tháng 12 năm 2014
Tác giả
Nguyễn Chí Điệp
2
Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn
này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc.
MỤC LỤC
3
Trang
Lời cảm ơn 1
Lời cam đoan 2
Mục lục 3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Mục đích nghiên cứu 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 10
6. Cấu trúc luận văn 10
NỘI DUNG
Chƣơng 1. Yếu tố bi kịch trong Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới và
trong sáng tác của Lê Lựu 11
1.1: Khái niệm bi kịch 11
1.2. Cảm hứng bi kịch trong Văn học Việt nam thời kỳ đổi mới và sự gia
tăng cảm hứng bi kịch 12
1.2.1. Cảm hứng chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và những đóng góp
của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết cho nền Văn học Việt Nam đương đại 12
1.2.1.1. Cảm hứng chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986. 13
1.2.1.2. Những đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết cho nền Văn
học Việt Nam đương đại 18
1.2.2. Sự gia tăng của cảm hứng bi kịch 21
1.3. Yếu tố bi kịch trong sáng tác của Lê Lựu 23
1.3.1. Qúa trình sáng tác của Lê Lựu 23
1.3.2. Vị trí của tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới 26
1.3.3. Nhìn chung về cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu 27
4
CHƢƠNG 2
Yếu tố bi kịch thể hiện qua thế giới nhân vật 30
2.1. Các kiểu nhân vật bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu 30
2.1.1. Nhân vật do hoàn cảnh 30
2.1.2. Nhân vật do tự đánh mất mình 41
2.1.3. Nhân vật tha hóa 46
2.1.4. Nhân vật lưỡng diện 56
2.2. Yếu tố bi kịch thể hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vât 62
2.2.1. Đặt nhân vật trong tình huống xung đột gay cấn, giàu kịch tính. 62
2.2.2. Đặt nhân vật trong tương quan giữa tính cách và số phận 68
2.2.3. Yếu tố bi kịch thể hiện qua nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật 74
CHƢƠNG 3
Yếu tố bi kịch thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu 86
3.1. Yếu tố bi kịch thể hiện qua ngôn ngữ 86
3.1.1. Ngôn ngữ đời thường, cá tính hóa 86
3.1.2. Ngôn ngữ đậm tính khái quát, triết lý 90
3.2. Yếu tố bi kịch thể hiện qua giọng điệu 94
3.2.1. Giọng điệu trữ tình sâu lắng 94
3.2.2. Giọng điệu suy tư, chiêm nghiệm, triết lý 97
3.2.1. Giọng điệu phê phán, lên án, tố cáo 104
KẾT LUẬN 106
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Sau chiến thắng 30.4.1975 đất nước ta bước vào giai đoạn độc lập
dân tộc, khép lại trang sử đấu tranh đau thương, mất mát nhưng cũng đầy hào
hùng của dân tộc Việt Nam. Từ đây, một kỷ nguyên mới đã được mở ra, kỷ
nguyên xây dựng đất nước trong bối cảnh hòa bình. Hòa chung với sự vận
động đó nền văn học cũng có nhiều cách tân, đổi mới, những thay đổi tư duy
nghệ thuật dẫn đến đổi mới quan niệm về hiện thực, về con người, về sáng tạo
nghệ thuật. Từ nền văn học mang cảm hứng sử thi, văn học đã chuyển sự
quan tâm chủ yếu sang vấn đề thế sự và đời tư, sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã
mở ra cho văn học nhiều đề tài và chủ đề mới mẻ. Thời kỳ này văn học đã đi
tới một quan niệm toàn vẹn sâu sắc về con người, về những suy nghĩ trăn trở
trước cuộc sống. Con người vừa là điểm xuất phát, là đối tượng khám phá chủ
yếu, vừa là cái đích cuối cùng của tác phẩm văn học. Con người trong văn học
hôm nay khác với con người trong văn học trước đây, vì nó được nhìn ở nhiều
vị thế, ở mối quan hệ đa chiều: con người với xã hội, con người với gia đình,
và với chính mình, bên cạnh đó mặt trái của cơ chế thị trường với bao ngổn
ngang, hỗn độn đã đẩy cuộc sống, số phận của mỗi con người đến trước
những bi kịch không ai giống ai. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu
một cách toàn diện và sâu sắc.
1.2 Từ đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng, đất nước bước vào thời kỳ
hội nhập, đổi mới và phát triển trên nhiều phương diện đời sống và xã hội.
Điều này đòi hỏi người viết phải có cái nhìn mới, thỏa đáng hơn cho những
vấn đề đang tồn tại và nảy sinh trong cuộc sống. Nhiều vấn đề của đời sống
đã được các nhà văn lật lại, nhận thức lại. Với khả năng miêu tả hiện thực đời
sống cả ở bề rộng lẫn chiều sâu, “là mảnh đất lưu giữ bóng hình cuộc đời và
con người” một cách hữu hiệu, không phải vô tình mà tiểu thuyết trở thành
6
thể loại nổi bật được các nhà văn lựa chọn để thể hiện quan niệm và khả năng
sáng tạo nghệ thuật của mình.
1.3 Đọc tiểu thuyết hôm nay, độc giả có cảm giác nó đã áp sát, đi sâu
hơn vào đời sống, vào cuộc đời và nói được những vấn đề trong cuộc sống
đời thường thông qua những số phận có tính bi kịch.
Lê Lựu là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học thời kỳ đổi
mới. Nghiên cứu đề tài Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu chúng tôi
muốn góp phần hiểu sâu hơn số phận bi kịch của con người trước thực tại
trong sáng tác của Lê Lựu nói riêng và trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới nói
chung. Đồng thời nghiên cứu vấn đề này cũng sẽ giúp người giáo viên có
được cái nhìn sâu sắc hơn đối với tiểu thuyết Việt Nam đương đại, phục vụ
tốt hơn cho công tác giảng dạy văn học Việt Nam trong nhà trường.
2. Lịch sử vấn đề
Về con người và tác phẩm của Lê Lựu đến nay đã có rất nhiều ý kiến
khác nhau của các nhà văn, nhà phê bình. Đặc biệt qua những tác phẩm của
Lê Lựu, người đọc không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam thời
bấy giờ mà còn cảm nhận sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời sống
tư tưởng con người thời đại.
2.1. Những đánh giá chung về Lê Lựu
Ngay từ những sáng tác đầu tay của Lê Lựu, có nhà phê bình đã nhận
xét Lê Lựu là một người đang tìm tòi. Truyện nào của anh cũng tìm được
những tính chất mới, những hướng khai thác vấn đề mới. Anh có năng lực
quan sát khá nhạy bén, sắc sảo và một bút lực đủ sức cắt rời được những
mảnh đời bề bộn tươi nguyên vào trang sách, cái khả năng rất đáng quý ở một
cây bút trẻ.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng có nhiều nhận xét độc đáo tinh tường về
Lê Lựu. Đánh giá chung về sáng tác của nhà văn ông cho rằng: “Lê Lựu biết
7
cuốn hút người đọc bằng một thứ văn đọc không nhạt. Ngay ở những chuyện
xoàng xoàng, người đọc vẫn thu lượn được một cái gì đó (…) nghĩa là đọc
anh không bị lỗ trắng. Cũng bởi Lê Lựu là nhà văn không chấp nhận sự nhạt
nhẽo, tầm thường. Ở bất kỳ tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ Lê Lựu cũng có vấn
đề gì đấy gửi gắm.”
Trần Bảo Hưng cho rằng “Thô mộc hồn nhiên và đầy ắp chất sống –
ngay cả khi nghĩ ngợi triết lý cũng rất hồn nhiên, cũng là triết lý bật lên trực
tiếp từ đời sống. Tất cả dường như đã trở thành phong cách, thành cá tính
của Lê Lựu.”
Tác giả Đinh Quang Tốn trong công trình Lê Lựu tạp văn nhận xét
“Văn Lê Lựu có giọng điệu riêng có duyên riêng, không rành rẽ, không mạch
lạc, nó có một chất nhựa gì đấy ở bên trong”. Ông khẳng định: “Nếu trong
tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một
người tiêu biểu, thì Lê Lựu là một trong số sáu mươi nhà văn ấy”.
2.2. Những công trình, những bài viết về từng tiểu thuyết của Lê
Lựu thời kì đổi mới
Ngay khi Thời xa vắng ra đời, các nhà nghiên cứu văn học đã nhận
thấy trong tác phẩm này có “cách nhìn hiện thực mới”. Giáo sư Phong Lê cho
rằng: “Thời xa vắng là sự đón nhận trước cái yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật
và nhận thức lại lịch sử đề ra với Đại hội VI, cuối năm 1986”. Tác giả
Nguyễn Hòa nhận thấy Thời xa vắng là sự “đi tìm lại những chân giá trị bị
đánh mất, bị lãng quên, viên đại bác khoan thủng các tấm màn vô hình che
giấu nhiều điều lâu nay chúng ta không rõ tới. quá khứ đâu chỉ là chiếc bánh
ngọt ngào mà có cả vị đắng cay.” Tác giả Kim Hồng trong bài viết in trên Tạp
chí Văn Học số 5 (1988) cũng có nhận xét: “Thời xa vắng của Lê Lựu là một
tác phẩm giàu năng lượng thật sự”. Nhà thơ Trần Đăng Khoa cảm nhận được
8
Thời xa vắng là sự khái quát lịch sử “Bằng số phận bi thảm của anh nông dân
Giang Minh Sài”.
Tiếp tục khơi sâu vào đề tài gia đình, số phận con người, Lê Lựu viết,
Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000). Những
tác phẩm này khi ra đời đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm của Lê
Lựu như : “ Tinh thần đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn” của Phong
Vũ, “Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình” hay “Hỏi
chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm” (báo Văn nghệ tháng 12.1986). “Chuyện
phiếm với anh Sài” của Hồng Vân, “Nghĩ về Thời xa vắng” của Thiếu Mai,
“Khuynh hướng triết lý trong tư tưởng- những tìm tòi và thể nghiệm” của
Nguyễn Hữu Sơn, “ Lê Lựu – Chân dung văn học” của Trần Đăng
Khoa,…Tất cả những bài viết này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn
Tạp văn của mình.
Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy có
sự cuốn hút đặc biệt. Những nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng
giận. Những con người ấy hiện lên trang viết đầy bi kịch, có những bi kịch do
xã hội mang lại và có những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta vừa thương
vừa giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở đáy sông, và
ngay cả sự tha hóa của con người Lưu Minh Hiếu trong Chuyện Làng Cuội.
Mỗi người đọc tùy thuộc vào những tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng mà có cách
tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau. Tác phẩm Lê Lựu ra đời
lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi
động. Điều này Lê Hồng Lâm nhận định :“ Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc
chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng bởi
nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư tình cảm nhà văn như
Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi …tai tiếng ( Chuyện làng Cuội ), lại có
9
cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo theo đó là tai
bay vạ gió như Sóng ở đáy sông (1994)”.
Tuy nhiên nhìn một cách tổng thể, các công trình nghiên cứu, các bài
viết, bài báo nêu trên mới chỉ tìm hiểu một phương diện, một góc độ nào đó
về tư tưởng của Lê Lựu, vẫn còn thiếu một cái nhìn tổng quát một quy mô
mang tính tổng thể, thật sự tập trung đi sâu từng tác phẩm để thấy được sự
muôn mầu muôn vẻ trong việc thể hiện Bi kịch con người trong tiểu thuyết Lê
Lựu. Đây chính là sự góp ý, định hướng khoa học để chúng tôi tiếp thu và tự
tin hơn khi thực hiện đề tài Yếu tố bi kịch trong tiểu thuyết Lê Lựu. Hy vọng
công trình này sẽ là một mảnh ghép làm cho bức tranh chung về tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới thêm hoàn thiện. Đồng thời một lần nữa khẳng định
giá trị đích thực trong sáng tác cũng như vị thế của Lê Lựu trong văn học Việt
Nam hiện đại.
3. Mục đích nghiên cứu
3.1. Góp phần tái hiện bức tranh chung của tiểu thuyết Việt Nam thời
kỳ đổi mới.
3.2. Tìm hiểu những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của tiểu
thuyết Lê Lựu trong việc thể hiện bi kịch con người. Từ đó khẳng định sự
đóng góp của ông cho sự phát triển nền tiểu thuyết Việt Nam trong những
năm đổi mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tiến hành khảo sát và nghiên cứu sự thể hiện yếu tố bi kịch
trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới. Qua đó khẳng định sự gia tăng của
cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới nói chung, trong
đó có tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng. Đồng thời chỉ ra những đổi mới, cách
tân của Lê Lựu trên phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật.
10
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Để làm rõ yêu cầu mà luận văn đặt ra, luận văn sẽ tiến hành khảo sát
các tiểu thuyết sau của Lê Lựu :
- Thời xa vắng (1986)
- Đại tá không biết đùa (1989)
- Chuyện làng Cuội (1991)
- Sóng ở đáy sông (1994)
- Hai nhà (2000)
- Thời loạn (2011)
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp cấu trúc - hệ thống
- Phương pháp phân tích – tổng hợp
- Phương pháp so sánh – đối chiếu
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn được
triển khai với ba chương:
Chƣơng 1. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam thời kỳ đổi
mới và trong sáng tác của Lê Lựu
Chƣơng 2. Yếu tố bi kịch thể hiện qua thế giới nhân vật
Chƣơng 3. Yếu tố bi kịch thể hiện qua ngôn ngữ và giọng điệu
11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
YẾU TỐ BI KỊCH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM
THỜI KỲ ĐỔI MỚI VÀ TRONG SÁNG TÁC CỦA LÊ LỰU
1.1. Khái niệm bi kịch
Bi kịch là một thể loại đã khá quen thuộc đối với nền văn học trên thế
giới, nó xuất hiện khá sớm ở Hy Lạp cổ đại, và ngay ở đầu thế kỷ thứ V trước
Công nguyên, bi kịch đã là một thể loại sân khấu rất thịnh hành với trong
những vở kịch, những tác phẩm nổi tiếng như Prômêtê bị xiềng,
Ăngtigôn,…Vào các thế kỷ XVI – XVII ở một số nước châu Âu bi kịch là
một thể loại văn học – sân khấu rất thịnh hành, gắn liền với tên tuổi của
Sêcxpia với những tác phẩm nổi tiếng như : Hăm lét, Otelo, Lơ Xit…Và từ
thế kỷ XVIII trở đi, bi kịch đã phát triển theo nhiều chiều hướng khác nhau và
đạt được rất nhiều những thành tựu nổi bật. Vậy nên chúng ta cùng đi tìm
hiểu yếu tố bi kịch trên những khía cạnh, những nhận xét, đánh giá để có cái
nhìn rõ về nhất về khái niệm bi kịch.
Aritstote cho rằng: “ Bi kịch là hình thái cao nhất của Thi ca, là tinh
túy của kịch”. Còn Heghen xem “ Bi kịch là thể loại siêu đẳng”.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học: “Cái bi (Tragique) là phạm trù mĩ học
phản ánh một hiện tượng có tính quy luật của thực tế đời sống xã hội thường
diễn ra trong cuộc đấu tranh không cân sức giữa cái thiện và cái ác, cái mới
và cái cũ, cái tiến bộ và cái phản động…trong điều kiện những cái sau còn
mạnh hơn những cái trước. Đó là sự trả giá tự nguyện cho những chiến thắng
và bất tử về tinh thần bằng nỗi đau và cái chết của nhân vật chính diện. Cái
bi tạo ra một cảm xúc thẩm mĩ phức hợp bao hàm cả nỗi xót đau, niềm hân
hoan lẫn nỗi sợ hãi khủng khiếp. Cái bi thường đi liền với nỗi đau và cái chết,
12
song bản thân nỗi đau và cái chết chưa phải là cái bi. Chúng chỉ trở thành
cái bi khi hướng tới và khẳng định cái bất tử về mặt tinh thần của con
người ”[16, tr19].
Như vậy bi kịch sẽ không còn là bi kịch nữa nếu người xem không bị
rung động bởi nhân vật và nếu toàn bộ nỗi xúc động khiếp sợ không dẫn đến
một cách giải quyết nào đó về tình cảm theo hướng tích cực. Nhân loại đã tìm
thấy ở các tác phẩm bi kịch những gì khủng khiếp nhất mà cái ác có thể gieo
rắc, áp đặt cho mình, do đó không thể bàng quan và chịu khuất phục trước sức
mạnh tàn bạo của nó được. Kết thúc bi thảm của số phận nhân vật bi kịch
thường có ý nghĩa thức tỉnh, dự báo về một cái gì đó tốt đẹp hơn sẽ nảy sinh
trong cuộc sống và trong mỗi con người. Trong bi kịch, qua cái chết của nhân
vật chính, người ta tìm thấy cái thiêng liêng vô giá của sự sống chân chính và
cái bất tử của cộng đồng. Vì thế nhân vật chính của bi kịch thường là những
nhân vật anh hùng với ý nghĩa tích cực cao cả…Ở Việt Nam, không có bi
kịch như một thể loại văn học – sân khấu theo quan niệm cổ điển, mà chỉ có
một số vở tuồng hoặc kịch hiện đại mà nội dung tư tưởng nghệ thuật có yếu tố
bi kịch.
1.2. Cảm hứng bi kịch trong Văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới và
sự gia tăng cảm hứng bi kịch
1.2.1. Cảm hứng chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 và
những đóng góp của Lê Lựu về thể loại tiểu thuyết cho nền văn học Việt
Nam đƣơng đại
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một trang sử vẻ vang cho
dân tộc, hai miền Nam Bắc được thống nhất, đã đánh dấu bước chuyển mình
vĩ đại của cả dân tộc Việt Nam. Đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VI của Đảng
(1986) đã xác định đường lối đổi mới toàn diện trên nhiều lĩnh vực.
13
Về mặt đời sống vật chất có sự thay đổi mạnh mẽ, nếu như trước đây là
một nền kinh tế lạc hậu, luôn lâm vào tình trạng trì trệ, yếu kém do những hệ
lụy của tư tưởng cũ, lạc hậu, do sự tàn phá nặng nề của chiến tranh thì giờ đây
nền kinh tế bước vào thời kỳ mở cửa, phát triển theo cơ chế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự thay đổi này đã làm thay đổi đời sống của
nhân dân, chất lượng cuộc sống ngày một nâng cao.
Lĩnh vực văn hóa tinh thần của dân tộc cũng có nhiều thay đổi do sự tác
động không nhỏ của nền kinh tế đem lại. Trước đây nền văn học chưa có sự
giao lưu nhiều với nền văn học trên thế giới thì đến nay văn học đã có sự giao
lưu, tiếp xúc với nhiều nền văn hóa, văn học tiên tiến . Sự giao lưu, tiếp biến
văn hóa như là một luồng sinh khí mới thổi vào nền văn học của chúng ta, có
rất nhiều văn nghệ sĩ có dịp được sáng tạo và cho ra đời những tác phẩm có
giá trị, trong đó con người và cuộc đời đã được đánh giá, nhìn nhận một cách
khách quan, mới mẻ, thẳng thắn trên nhiều góc độ. Người đọc đã tìm đến văn
học với khát khao tìm hiểu sự thật, muốn khám phá cuộc sống phong phú,
phức tạp như diện mạo đích thực của nó. Họ muốn có được sâu sắc về cuộc
đời để tìm cho mình bài học về nhân sinh thế sự. Trước những yêu cầu đó
ngòi bút của các nhà văn đã phản ánh hiện thực xã hội như nó vốn có, không
tô hồng, tô điểm một cách sai sự thật. Số phận con người đã đi vào các sáng
tác với bao nỗi đau đớn, sự mất mát, bi kịch và sự tha hóa về nhân cách.
Trong đó, tiêu biểu nhất là chiến tranh - một vấn đề lớn mà văn học thời kỳ
này đã dành nhiều công sức và sự quan tâm đặc biệt.
1.2.1.1. Cảm hứng chung của tiểu thuyết Việt Nam sau 1986
Văn xuôi trước năm 1975 nhìn nhận con người và các giá trị của nó
song hành với từng biến cố lịch sử, từng bước phát triển của cách mạng. Đây
được coi là thời kỳ cả dân tộc ta cùng có chung một quyết tâm, một ý chí giải
phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Do vậy mọi thể loại văn học được sáng
14
tác trong giai đoạn này nếu xét cả về mặt nội dung cũng như hình thức đều
mang đậm chất cách mạng. Với quy mô rộng lớn của mình, tiểu thuyết thực
sự đã phản ánh chân thực bức tranh rộng lớn của hiện thực cuộc sống thông
qua những hình tượng điển hình, con người tập thể, con người lý tưởng được
đề cao hơn bao giờ hết. Nền văn học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết
nói riêng dù sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh nhưng lại vô cùng
hào hùng và rực rỡ. Những Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng, Đất
nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi, Hòn
đất của Anh Đức, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu…thực sự đã
tái hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam trong cuộc
đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, thống nhất nước nhà.
Nền văn học nước nhà sau năm 1975, đặc biệt là từ năm 1986 mới có
những bước thay đổi và chuyển mình sâu sắc. Mỗi nhà văn khi đặt bút khám
phá thể hiện, phải đứng trước những thách thức, bởi sự phức tạp của cuộc
sống, do vậy các nhà văn phải nghiền ngẫm, suy nghĩ để lý giải những vấn đề
đó theo một tinh thần mới. Thời kỳ này khuynh hướng dân chủ hóa đã giúp
nhà văn nhìn nhận cuộc sống đa chiều và con người bình đẳng trong sự quan
sát và phản ánh của nhà văn. Con người với tính cách và số phận cá nhân trở
thành đối tượng khám phá đến tận cùng của nhà văn. Con người chính là sự
tổng hòa, là sự đan xen của nhiều mối quan hệ và phẩm chất, luôn có sự cao
thượng bên cạnh cái thấp hèn, lí tưởng đan xen với dục vong, cái xấu xen lẫn
vào cái đẹp. Đặc biệt hơn là bản chất đích thực của con người nhiều khi
không trùng khít với giá trị và sự thể hiện bên ngoài của nhân vật. “ Cuộc
chiến đã lùi vào dĩ vãng sau một quãng lùi lịch sử, sau một khoảng cách thời
gian, chất sử thi nhạt dần. Cảm hứng sáng tạo chuyển từ ngợi ca, tự hào,
khâm phục đến chiêm nghiệm, lắng đọng, suy tư. Thay vì cách nhìn nhận giản
đơn, rạch ròi thiện – ác, bạn – thù, cao cả - thấp hèn là cách nhìn đa chiều,
15
phức hợp về hiện thực và số phận con người” [45, tr.25]. Xóa bỏ những
nguyên tắc cứng nhắc trong nhận thức về con người, văn xuôi sau đổi mới có
được sự phong phú trong miêu tả, thể hiện và đi đến khám phá toàn vẹn về
đối tượng này. Với các sáng tác mang hơi thở của thời đại, Nguyễn Huy
Tưởng, Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn
Khải, Lê Lưụ… là những nhà văn tiêu biểu cho quá trình đổi mới nền văn học
thời kỳ này.
Trong văn học thời kỳ đổi mới, hiện thực được nới rộng phạm vi thể
hiện. Không chỉ có hiện thực cách mạng, các biến cố trong đời sống cộng
đồng mà còn có hiện thực của cuộc sống hàng ngày với các quan hệ thế sự
phức tạp, đời sống cá nhân riêng tư với hạnh phúc, khát vọng, bi kịch của
riêng nó. Nhiều mảng hiện thực mới được bổ sung khiến cho văn học có khả
năng đi sâu, thâm nhập vào tất cả các ngóc ngách của đời sống xã hội và trong
tâm hồn con người. Dường như thời kỳ này không còn những vùng đất cấm kị
đối với văn xuôi. Những hiện thực trước đây một thời bị cấm kị, bị né tránh
thì nay lại có một sức hút mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những tiêu cực, bất cập
trong đời sống được phanh phui, được đem ra mổ xẻ với một thái độ nghiêm
khắc, thẳng thắn nhằm mục đích mang lại những nhận thức sâu sắc hơn về
hiện thực và con người.
Trong bối cảnh lịch sử xã hội có nhiều biến động, con người đang phải
trải qua những thăng trầm của số phận, thể loại tiểu thuyết đã phát huy được
những ưu thế vốn có. Với khả năng “ tiếp xúc với cái hiện tại chưa hoàn
thành”, người viết tiểu thuyết “ có thể xuất hiện trong trường miêu tả ở bất
cứ tư thế tác giả nào, có thể miêu tả những sự việc có thật trong đời mình
hoặc ám chỉ đến chúng, có thể can thiệp vào cuộc trò chuyện giữa các nhân
vật, có thể bút chiến công khai với các địch thủ văn học của mình” [4, tr.57].
Thời kì này tiểu thuyết đã được đông đảo giới sáng tác lựa chọn, tìm đến, đặc
16
biệt là tiểu thuyết viết về chiến tranh cách mạng và người lính do chính những
nhà văn đã từng cầm súng trên chiến trường chắp bút. Tiểu thuyết Việt Nam
sau năm 1986 đã thực sự đổi mới trên nhiều phương diện : tư duy nghệ thuật,
cảm hứng sáng tạo, ngôn ngữ, kết cấu…
Văn học trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là tiểu thuyết đã có rất nhiều sự
thay đổi trong việc khám phá và tái hiện hiện thực. Chiến tranh đã qua đi, các
nhà văn không phải cầm thêm cây súng như trước nên giờ đây họ có điều kiện
và thời gian để khám phá, để suy ngẫm kỹ lưỡng về mọi mặt, mọi khía cạnh
của cuộc sống, đặc biệt là về số phận con người. Họ băn khoăn, trăn trở và
tìm tòi những đổi mới, và chính những điều đó đã tạo nên sự thúc đẩy lớn cho
sự phát triển của văn xuôi nói chung, cho tiểu thuyết nói riêng. Có thể khẳng
định đây chính là giai đoạn đánh dấu bước chuyển mình rõ rệt trong tư duy
nghệ thuật của người cầm bút. Văn học chuyển từ tư duy sử thi sang tư duy
tiểu thuyết. Các nhà văn đã đổi mới trong cách tiếp cận cuộc sống và con
người, họ không chỉ soi ngắm, suy ngẫm tỉ mỉ về hiện thực và số phận cá
nhân con người, mà còn thẳng thắn nhìn nhận và đánh giá đúng bản chất các
hiện tượng xã hội, đứng trong tư thế đối thoại với mọi người và với xã hội.
Tư duy nghệ thuật đổi mới đã kéo theo sự ra đời của quan niệm mới về
con người. Đi vào những trang viết của các nhà văn lúc này không phải là
những con người anh hùng – đại diện cho vẻ đẹp lý tưởng cộng đồng như giai
đoạn 1945 – 1975 nữa, mà là con người “ với những vấn đề riêng tư,số phận,
nhân cách, với khát vọng mọi mặt, cả hạnh phúc và bi kịch” [26, tr.132-133].
Đó chính là Giang Minh Sài (Thời xa vắng), là Kiên (Thân phận tình yêu), là
Hai Hùng (Ăn mày dĩ vãng), là Vạn (Bến không chồng), là Tâm (Hai nhà), Bà
cụ Đất trong (Chuyện làng Cuội),… Văn xuôi giai đoạn này, cảm hứng bi kịch
đã được thể hiện rất rõ và đa dạng trong nhiều tác phẩm, đó chính là minh
chứng cho những thay đổi mới mẻ của tiểu thuyết. Chiến tranh đã qua đi
17
nhưng dư âm của những nỗi đau đớn, nhức nhối của nó thì vẫn còn dai dẳng,
âm ỉ trong cuộc sống hằng ngày, đặc biệt là đối với những người lính thời hậu
chiến. Qúa khứ đau thương đã để lại cho những người lính những nỗi đau đớn
như một bóng ma ám ảnh, đeo bám lấy cuộc sống của họ khiến cho họ mất đi
khả năng hòa nhập với cộng đồng. Chiến tranh qua đi họ trở về với cuộc sống
bình thường nhưng niềm vui thì ngắn ngủi mà những nỗi buồn, nỗi đau thì
triền miên. Kiên trong Thân phận tình yêu của Bảo Ninh “ đã phải chịu đựng
hết hồi ức này sang hồi ức khác, ngày này qua ngày khác, đêm thâu này đến
đêm thâu kia. Thử hỏi đã bao đêm ròng? Nhiều hôm đi giữa phố xá đông
người tôi lại đi lạc vào giữa một giấc mơ khi tỉnh…có đêm tôi giật mình thức
dậy nghe tiếng quạt trần kêu hóa thành tiếng rú rít rợn gáy của trực thăng vũ
trang” [42, tr.99]. Hay Giang Minh Sài trong Thời xa vắng của Lê Lựu cũng
đã rất cay đắng khái quát về cuộc đời mình: “ Nửa đời người phải đi yêu cái
người khác yêu, nửa còn lại đi yêu cái mình không có, đến bây giờ mới biết
thì lại…” [30, tr.332]. Rồi số phận Vạn trong Bến không chồng của Dương
Hướng cũng không hơn không kém. Ra trận trở thành một người hùng, khi trở
về làng thì “ những tấm huân chương lấp lánh trên ngực” [19, tr.5] nhưng
cuộc sống khi không còn cây súng lại khiến cho ông thêm đau khổ, xấu hổ
cho đến tận lúc chết – một cái chết đầy bi kịch, kết thúc cho chuỗi tháng ngày
cũng đầy bi kịch của cuộc đời ông. Bi kịch của Tâm trong Hai nhà đó là bi
kịch của cuộc đời khi Tâm bị phản bội, Tâm càng chăm sóc, nín nhịn vợ thì
cô ta càng lăng loàn. Trong Chuyện làng Cuội là một chuỗi những tháng ngày
bi kịch của bà cụ Đất vì bà quá giầu yêu thương, hiền lành như đất, câm lặng
hy sinh, chịu đủ mọi điều tiếng nhục nhã cho đến lúc chết.
Ngoài cảm hứng bi kịch, tiểu thuyết thời kỳ này cũng đã thể hiện rất
thành công cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết khi viết về đề tài chiến tranh
sau 1986. Xuất phát từ cách viết, cách nhìn nhận về hiện thực mới, các nhà
18
viết tiểu thuyết đã không né tránh, không làm ngơ trước hiện thực cuộc sống
của con người, trước những biến động của xã hội. Họ đã đi vào mọi khía cạnh
hiện thực của cuộc sống để khám phá, tìm tòi những cái đời thường của cuộc
sống cá nhân, dám nhìn thẳng vào hiện thực, vào những mảnh vỡ, những bi
kịch của con người, và tái hiện, phơi bày nó một cách trung thực. Đây chính
là khuynh hướng đúng đắn của văn học thời kỳ đổi mới trong việc nhìn nhận
cuộc chiến và số phận con người bằng cái nhìn nhân bản sâu sắc.
1.2.1.2.Những đóng góp của Lê Lựu về thể loại cho nền tiểu thuyết
Việt Nam đƣơng đại
So với các nhà văn khác trong thời kỳ đổi mới, Lê Lựu được đánh giá
là một trong những cây bút có nhiều đóng góp cho nền văn học Việt Nam thời
kỳ đổi mới. Với việc phản ánh những cuộc đời đầy bi kịch trong cuộc sống
hôn nhân và gia đình, cùng với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo, Lê Lựu đã
góp phần làm đổi mới tư duy tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Qua các sáng tác của mình, Lê Lựu đã nhìn nhận hiện thực xã hội một
cách sâu sắc, khách quan, nhà văn đã phơi bày những cái tiêu cực, xấu xa, ông
đã mô tả và tố cáo nó. Đó là những quan niệm duy ý chí, lối tư duy bảo thủ
hay những thói vị kỷ, chủ nghĩa cơ hội, lối sống thực dụng…Không chỉ dừng
lại ở đó, Lê Lựu còn nhận thấy sự lầm lẫn, hạn chế của một thời. Ông chỉ ra
chính những quan niệm, lối tư duy ý chí đã trở thành sợi dây trói buộc đời
sống tinh thần, triệt tiêu bao nhiêu khát vọng chính đáng của con người, gây
ra bao bi kịch xót xa cho nhiều số phận con người. Bằng cái nhìn sắc sảo, Lê
Lựu đã lý giải những biến động của đời sống xã hội và sự tác động của nó
đến số phận con người. Phản ánh hiện thực cuộc sống và những số phận con
người, tiểu thuyết Lê Lựu còn có khả năng dự báo xu thế phát triển tất yếu và
những đổi thay trong xã hội. Có thể nói, đây là sự khởi đầu của dòng văn học
“tự vấn”, một hướng đi mới của tiểu thuyết nước ta mà trước đó chưa có. Lê
19
Lựu đã dùng ngòi bút của mình đi tìm cái muôn màu của sự sống thông qua
việc phản ánh hiện thực cuộc sống và những bi kịch con người trong gia đình
và trong cuộc sống hôn nhân đầy đau khổ, thấm đẫm nước mắt. Qua cái nhìn
trực diện vào những mặt trái trong xã hội, với thái độ phê phán sự xấu xa, tha
hóa của con người, nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhức nhối của thời đại với
những thông điệp có ý nghĩa sâu sắc. Tiểu thuyết của Lê Lựu đã mở rộng thế
giới hiện thực sống động nhưng cũng vô vàn những phức tạp của cuộc sống.
Đóng góp của Lê Lựu cho nền văn học đương đại đó chính là sự trở lại
của cảm hứng bi kịch. Nếu như trong văn học thời kỳ kháng chiến, cảm hứng
bi kịch cá nhân rất mờ nhạt, hạn chế, thì giờ đây Lê Lựu đã khai thác nó trong
số phận mỗi cá nhân bằng những phân tích kỹ càng, không đơn giản, phiến
diện. Tiểu thuyết Lê Lựu, mà khởi đầu là Thời xa vắng ông đã lấy cảm hứng
bi kịch cá nhân làm đối tượng, đã đưa đến cho người đọc bao hứng thú say
mê, và say sưa chiêm nghiệm về cuộc sống. Vấn đề bi kịch cá nhân đã từng là
nguồn cảm hứng lớn của nhân loại, nhưng suốt một thời gian dài nó chỉ thấp
thoáng xuất hiện trong văn học Việt Nam, bởi vậy không thể phủ nhận vai trò
đi đầu của Thời xa vắng đối với sự trở lại của cảm hứng bi kịch nhân văn
trong giai đoạn văn học mới. Với sự đồng cảm sâu sắc, Lê Lựu đã nhìn thẳng
vào những đau khổ, mất mát, những bất hạnh, ngang trái của con người,
những bi kịch đời thường ấy đầy rẫy trong cuộc sống vốn đầy phức tạp, nó
làm cho con người loay hoay trong vòng luẩn quẩn đầy khổ đau, biến con
người trở thành nô lệ cho cuộc đời, dần đánh mất mình mà không hay. Viết về
bi kịch có thể tác giả chưa đưa ra được những giải pháp để giải quyết bi kịch,
nhưng qua đó ông đã giúp người đọc ý thức hơn về ý nghĩa của cuộc sống và
mong muốn con người hãy sống có trách nhiệm hơn với chính mình và mọi
người xung quanh.
20
Về phương diện nghệ thuật, mặc dù không có nhiều cách tân trong lối
viết nhưng Lê Lựu vẫn luôn có ý thức đi tìm tòi, thay đổi về mặt nghệ thuật
trong từng tác phẩm, chính điều đó đã làm cho tiểu thuyết của ông tránh khỏi
sự đơn điệu, trùng lặp. Sáng tác của Lê Lựu đã có những đóng góp nhất định
về phương diện nghệ thuật như cách xây dựng tình huống truyện đầy bất ngờ,
kịch tính, không gian thời gian nghệ thuật, thủ pháp đồng hiện, ngôn ngữ
phong phú, gần gũi cùng giọng điệu trần thuật, khuynh hướng triết
luận…Thời xa vắng là “lịch sử một số phận” với những đoạn đường đời cụ
thể dưới cái nhìn chiêm nghiệm, từng trải. Sóng ở đáy sông lại có vẻ như hồ
sơ của một phạm nhân được lần giở từng sự kiện qua sự phân tích chặt chẽ
những nguyên nhân sâu xa và trực tiếp dẫn tới hành vi phạm tội. Trong
Chuyện làng Cuội, có sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại làm cho mạch
truyện thêm linh hoạt, người đọc tuy khó nắm bắt truyện hơn nhưng cũng chủ
động hơn trong tiếp nhận tác phẩm. Nếu như ở Hai nhà, Lê Lựu đã thay đổi
điểm nhìn trần thuật bằng việc đưa những trang nhật ký vào tác phẩm để
người đọc có thể hiểu rõ hơn tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ và động cơ của
nhân vật thì trong Đại tá không biết đùa, nhà văn đã chuyển hẳn đối thoại vào
đoạn trần thuật, kể chuyện bằng nhiều điểm nhìn. Không thoát ly khỏi tiểu
thuyết truyền thống nhưng có thể thấy rằng Lê Lựu đã có nhiều sáng tạo trong
cách viết của chính mình và điều đó cũng ít nhiều đem lại thành công cho nhà
văn và góp phần làm phong phú hơn cho tiểu thuyết Việt Nam đương đại.
Bằng những thay đổi trong quan niệm về hiện thực và con người cũng như nỗ
lực trong sáng tạo nghệ thuật, tiểu thuyết Lê Lựu đã góp phần làm đổi mới
tiểu thuyết Việt Nam đương đại, làm cho nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam
thêm phong phú và đa dạng.
Như vậy, có thể nói ngoài những thành công về phương diện nội dung
thì hình thức nghệ thuật của tiểu thuyết sau 1986 cũng có nhiều đổi mới,
21
chẳng hạn như đổi mới về nghệ thuật tự sự, nghệ thuật xây dựng nhân vật, kỹ
thuật dòng ý thức, lắp ghép, hiện thực huyền ảo. Có thể nói, tiểu thuyết sau
1986 đã đạt được nhiều thành công rực rỡ, xứng đáng là thể loại tiêu biểu của
văn học Việt Nam trong thời đại mới.
1.2.2. Sự gia tăng của cảm hứng bi kịch
Đánh giá và nhìn nhận văn học nước nhà trước và sau chiến tranh, có
một thực tế dễ nhận ra là nền văn học ấy đã có sự vận động và chuyển biến
sâu sắc. Hành trình đổi mới của tiểu thuyết gắn liền với tiến trình vận động
của văn học dân tộc, Có rất nhiều phương diện chứng tỏ sự cách tân của thể
loại văn học này so với giai đoạn trước 1975 nhưng trong đó sự thay đổi về
cảm hứng sáng tác là một trong những phương diện đổi mới cơ bản. Trong
hoàn cảnh chiến tranh, văn chương được coi là vũ khí đắc lực để tiêu diệt kẻ
thù, cổ vũ tinh thần chiến đấu của toàn quân, toàn dân. Và những người cầm
bút trực tiếp viết về cuộc chiến đang diễn ra đồng thời cũng chính là những
người tham dự, người trong cuộc. Họ “nói rất ít cái dữ dội, cái ác liệt của
bom đạn. Chiến tranh, bom đạn chỉ được miêu tả như một cái nền để nhà văn
dẫn dắt độc giả vào một thế giới khác: thế giới của tình người, của đức vị tha,
của lòng dũng cảm và nghĩa tình chung thủy” [4, tr.52]. Chiến tranh vì thế
được miêu tả bằng cái nhìn sử thi và cảm hứng lãng mạn ngợi ca. Điều đó cắt
nghĩa tại sao tiểu thuyết thời kỳ này mang hơi thở của những bản hùng ca đầy
khí thế.
Trước đây các nhà tiểu thuyết thường hướng tới bức tranh hiện thực
hoành tráng thì giờ đây họ “xem xét con người Việt Nam một cách sáng tỏ và
để đào xới vào nó sâu hơn” [8, tr.2], họ nhận thấy rằng cần phải viết về cái gì
đó của con người, cho con người bởi con người trong tổng hòa các mối quan
hệ xã hội trở nên phức tạp hơn. Không phải ngẫu nhiên mà đề tài thế sự, đời
tư nổi lên như một vấn đề trung tâm của mọi “nỗ lực sáng tạo” trong tiểu
22
thuyết đương đại. Phan Cự Đệ đã từng nhận đinh: “Các nhà văn đã đi sâu vào
tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình
như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã qua…Nhân vật nhìn bản thân
mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng
tới một nhân cách hoàn thiện” [5, tr.153]. Sự đổi mới trong nhận thức của nhà
văn thực sự đã mang đến cho nhà văn một cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc
khi viết về con người. Con người với đầy đủ phẩm chất, bản năng, ý thức,
cùng với những mâu thuẫn phức tạp, con người bi kịch, con người sám hối,
con người thức tỉnh…Giờ đây con người không phải sống vì cộng đồng, xả
thân vì nghĩa lớn, con người quen sống với đám đông, ít đối diện với bản thân
mà là con người với tư cách cá nhân, sống với nội tâm và suy nghĩ của chính
mình, con người với thế giới bên trong đầy bí ẩn và phức tạp. Số phận con
người bình thường với những bi kịch của cuộc đời hiện lên chân thực, đa
dạng. Đó là bi kịch giữa khát vọng và thực trạng, giữa cái muốn vươn lên và
cái kìm hãm, giữa thanh lọc và tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân bản Nhìn
lại quá khứ đã qua, khoảng cách thời gian đã đưa lại cho các nhà văn, các nhà
cầm bút những suy nghĩ, những chiêm nghiệm sâu sắc về số phận con người ở
khía cạnh mà trước đây luôn bị làm mờ đi, nhạt đi trước số phận dân tộc :
khía cạnh bi kịch cá nhân . Cảm hứng bi kịch là cội nguồn cho sự xuất hiện
của một loại nhân vật mang diện mạo tinh thần hoàn toàn mới trong tiểu
thuyết chiến tranh sau 1975, nhất là sau 1986 nhờ nỗ lực đổi mới và dân chủ
hóa đời sống văn hóa, văn nghệ.
Tiểu thuyết khai thác về đề tài chiến tranh giờ đây đã ít hứng thú hơn
với những chiến thắng, niềm vui và sự ngợi ca. Thay vào đó là những mất
mát, đau thương, những mảng khuất u tối vốn rất thường tình của chiến
tranh…đã được thể hiện trên những trang viết của nhà văn. Rất nhiều sáng tác
của họ ở thời điểm này xuất hiện một cảm hứng chung và ngày càng gia tăng,
23
đó là Cảm hứng bi kịch . Sự gặp gỡ về nỗi buồn, nỗi đau, sự bất hạnh trong
việc phản ánh hiện thực và số phận con người sau giải phóng đã đem lại cho
tiểu thuyết nói riêng và văn học nói chung một diện mạo mới. Bi kịch của
những con người trong tiểu thuyết đặc biệt là những người lính thời hậu chiến
còn là đánh mất mình ngay cả trong những suy nghĩ, những ước muốn, khát
khao chính đáng và đời thường nhất. Điều gì đã khiến Giang Minh Sài ( Thời
xa vắng) nhanh chóng phục tùng, chấp nhận trước những áp đặt của gia đình,
họ hàng, đơn vị? Để rồi phải thốt lên “ Giá ngày ấy em cứ sống với tình cảm
của chính mình, mình có thế nào cứ sống như thế. Không sợ ai, không chiều
theo ý ai, sống hộ ý định người khác, cốt để đẹp mắt mọi người chứ không
phải cho hạnh phúc của mình”. Cái “giá như” mà Giang Minh Sài chua chát
nhận ra ấy là kết quả của cả một đời bi kịch: “ nửa đời phải yêu cái người
không yêu”.
Có thể nói : Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết hậu chiến được đánh
dấu từ tiểu thuyết Thời xa vắng (1986) của Lê Lựu, một hiện tượng nổi bật
của của văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Tiếp sau đó, cảm hứng bi kịch vẫn
được thể hiện sâu đậm hơn trong cả bộ phận tiểu thuyết hậu chiến. Cắt nghĩa,
lý giải, nhận thức lại hiện thực bằng cảm hứng bi kịch, tiểu thuyết hậu chiến
đã thực sự đem lại cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc. Với những tác
phẩm tiêu biểu như : Thời xa vắng (Lê Lựu ), Mảnh đất tình yêu (Nguyễn
Minh Châu), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Bến không chồng (Dương
Hướng), Thân phận tình yêu (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai).…sự xuất
hiện của kiểu nhân vật mới trong tiểu thuyết chiến tranh – con người suy tư,
con người bi kịch là dấu hiệu quan trọng bước đầu khẳng định sự đổi mới tư
duy nghệ thuật tiểu thuyết và những dấu hiệu xác lập lộ trình mới của văn học
Việt Nam hiện đại.
1.3 Yếu tố bi kịch trong sáng tác của Lê Lựu
24
1.3.1. Qúa trình sáng tác của Lê Lựu
Lê Lựu sinh ngày 12 – 12 – 1942 tại thôn Mẫn Hòa, xã Tân Châu,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Hiện ông đang sống tại Hà Nội. Cuộc đời
của nhà văn là một quá trình làm việc hăng say không ngừng, bắt đầu từ
những trang viết đầu tiên, ông luôn thể hiện sự cần mẫn. Để có vị trí trên văn
đàn, Lê Lựu đã trải qua một quá trình làm việc khổ luyện, nhà văn không
chấp nhận những sự nhạt nhẽo tầm thường. Ở bất kỳ tác phẩm nào dù lớn hay
nhỏ, ông cũng muốn gửi gắm vào đó một cái gì đấy. Ông viết sách một cách
vất vả, chật vật không phải vì thiếu cảm xúc, thiếu tài năng mà quan trọng
hơn với ông là phải viết như thế nào. Chính vì vậy, ông viết chậm, nhưng khi
một tác phẩm ra đời thì đó là tác phẩm hay và có giá trị. Ông là nhà văn Quân
đội trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ.
Khi bước vào làng văn Việt Nam, người đọc biết đến Lê Lựu qua
những sáng tác truyện ngắn như Tết làng Mụa (Văn nghệ quân đội 2/1964),
Những người ở lại hậu phương (Văn nghệ quân đội 5/1964), Gan góc Bạch
Long Vĩ (Văn nghệ quân đội 7/1965), Những người đi nối mạch cầu (Văn
nghệ 10/1966), Các chiến sĩ tí hon (Văn nghệ 1967)…đặc biệt Người cầm
súng đã đạt giải nhì cuộc thi truyện ngắn do do báo văn nghệ tổ chức năm
1967 – 1968. Tiếp tục mạch cảm xúc sáng tác dồi dào này, Lê Lựu đã cho ra
đời: Phía trước mặt trời, Truyện kể từ đêm hôm trước, Người về đồng cói….
Trần Đăng Khoa đã nhận xét : đến truyện ngắn Người về đồng cói Lê Lựu đã
có “ mùi tiểu thuyết”. Năm 1972, Lê Lựu đi Trường Sơn và cho ra đời cuốn
tiểu thuyết Mở rừng, tác phẩm này tiêu biểu cho đề tài chiến tranh và người
lính cách mạng, Lê Lựu đề cao số phận của lớp người trong chiến tranh giầu
nghị lực, ý chí, mỗi người có một số phận riêng, bằng những con đường riêng
họ đã đến với cuộc chiến tranh bi tráng, gắn bó với nhau keo sơn. Ngay sau
khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, Lê Lựu vào Sài Gòn và cho ra đời tiểu