LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong
luận văn này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác.
Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện
luận văn này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả luận văn
LỜI CẢM ƠN
Để có được bản luận văn hồn chỉnh này, em xin bày tỏ lòng
biết ơn chân thành sâu sắc đối với sự hướng dẫn tận tâm, chỉ bảo
chu đáo của thầy hướng dẫn – PGS. TS Trương Đăng Dung.
Xin gửi lời cảm ơn đến các thầy giáo, cô giáo trong tổ lý luận
văn học, thầy giáo, cô giáo của Viện nghiên cứu văn học, thầy giáo,
cô giáo cán bộ của phòng sau đại học – Đại học sư phạm Hà Nội 2
đã nhiệt tình giảng dạy, cơng tâm tạo điều kiện giúp đỡ về thủ tục
hành chính cũng như các giấy tờ cần thiết để em có thể hồn thành
đúng hạn luận văn.
Và cuối cùng tơi xin cảm ơn BGH, các thầy cô giáo Trường
CĐ nghề GTVT TW1, những người thân trong gia đình, bạn bè,
những người đã ln bên tơi chia sẻ với tơi những khó khăn và
giúp đỡ tơi rất nhiều để tơi có được thành quả như ngày hôm nay.
Hà Nội, tháng 7 năm 2013
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Hợp
MỤC LỤC
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Sau năm 1986 nền văn học Việt Nam từng bước chuyển biến mạnh mẽ,
sâu sắc. Văn học giai đoạn này đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới
cách nhìn nhận, cách tiếp cận con người và hiện thực đời sống, đặc biệt là
hiện thực chiến tranh, khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng
và phức tạp, thể hiện con người ở nhiều phương diện của đời sống kể cả đời
sống tâm linh. Điều đáng nói nhất là văn học đã quan tâm nhiều hơn tới số
phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường. Song song với sự
đổi mới ở phương diện nội dung, các nhà văn cũng khơng ngừng tìm tịi
những phương pháp sáng tác và cách thức thể hiện mới mẻ. Sự chuyển biến
này là một xu thế tất yếu. Bởi khi hoàn cảnh xã hội thay đổi thì văn học cũng
phải thay đổi để phản ánh kịp thời hơn những vấn đề của hiện thực. Bên cạnh
đó sự địi hỏi của bạn đọc, của người tiếp nhận chính là động lực để các nhà
văn không ngừng sáng tạo. Đặc biệt khi độc giả đang ngày một khó tính và có
nhiều sự lựa chọn hơn các hình thức giải trí thì văn chương cũng như người
cầm bút khơng thể khơng chuyển mình để tìm kiếm và khẳng định chỗ đứng
của mình.
Trong xu thế vận động đó của nền văn học Việt Nam, tiểu thuyết
đương đại cũng đã có những đóng góp khơng nhỏ trong việc tạo dựng một
diện mạo mới cho nền văn học nước nhà với những tên tuổi được đông đảo
bạn đọc chú ý như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Khắc
Trường, Dương Hướng... Đặc biệt, nền tiểu thuyết đương đại Việt Nam đã
xuất hiện một loạt các tác phẩm có biểu hiện rõ rệt của yếu tố lạ hóa như các
sáng tác của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà,
Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái..., và của nhiều nhà văn trẻ
2
mới xuất hiện gần đây. Có thể khẳng định tiểu thuyết là thể loại chủ lực của
nền văn học hiện đại. Sự thay đổi của tiểu thuyết là sự thay đổi về tư duy và
quan niệm của người viết về các vấn đề của cuộc sống và về chính tiểu thuyết.
Do đó sự biến đổi của tiểu thuyết phần nào phản ánh sâu sắc sự thay đổi của
nền văn học nước nhà thời gian qua.
Qua việc khảo sát một số tài liệu nghiên cứu về các tác phẩm của các tác
giả Phạm Thị Hồi, Nguyễn Bình Phương, chúng tơi nhận thấy, vấn đề về lạ hóa
chưa được đi sâu tìm hiểu. Vì thế chúng tơi triển khai đề tài “Yếu tố lạ hóa trong
tiểu thuyết của Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương”, với mong muốn
đóng góp thêm một tiếng nói về yếu tố lạ hóa trong tiểu thuyết Việt Nam đương
đại. Sở dĩ chúng tôi lựa chọn hai tác giả này là bởi tầm ảnh hưởng, sự đóng góp
của hai nhà văn này trong quá trình đổi mới văn xi Việt Nam hiện đại. Nếu
Phạm Thị Hồi với một Thiên sứ được đánh giá cao cả trong nước và trên thế
giới, tiểu thuyết của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và được coi như sự khơi mở
cho một lối viết mới thì Nguyễn Bình Phương với 7 tiểu thuyết (tính tới thời điểm
này) đã thể hiện sự bền bỉ trên con đường sáng tạo của mình. Hai nhà văn với
nhiều nét tương đồng cũng như khác biệt sẽ gợi mở cho chúng ta một cái nhìn sâu
sắc và toàn diện hơn về sáng tác của họ cũng như của nền tiểu thuyết Việt Nam
đương đại hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì lạ hóa là tồn bộ những thủ
pháp trong nghệ thuật (nghịch dị, nghịch lí...) được dùng để đạt đến một kết
quả nghệ thuật, theo đó, hiện tượng được miêu tả hiện ra không phải như ta
đã quen biết, hiển nhiên mà như một cái gì mới mẻ, chưa quen, “khác lạ”
[56,tr172]. Khái niệm “lạ hóa”, “hiệu quả lạ hóa” được B. Brech đưa vào mĩ
học từ chính thực tiễn hoạt động sân khấu của ơng. Theo ơng lạ hóa gây nên ở
3
chủ thể tiếp nhận sự ngạc nhiên và hiếu kì trước một góc nhìn mới làm nảy
sinh một thái độ tiếp nhận tích cực đối với cái thực tại được lạ hóa kia.
Lạ hóa là một khái niệm được các nhà hình thức chủ nghĩa Nga đề cao.
Theo Shklovski, nhận thức của con người có xu hướng tự động hóa để giảm
bớt năng lượng tư duy. Bởi vậy người ta thích dùng những từ ngữ quen thuộc
đến sờn mịn. Văn chương phải chống lại sự tự động hóa đó thì mới gây được
sự chú ý của người đọc. Phải lạ hóa thứ ngơn ngữ quen thuộc bằng từ mới,
cách dùng từ độc đáo, hình ảnh lạ... Coi trọng lạ hóa, tức là mang trả lại sự
hồn nhiên, sự tinh khôi cho ngơn ngữ, tức là coi trọng tính độc đáo, sự sáng
tạo, cá tính, phong cách..., những phẩm chất đích thực của văn chương [5].
Các nhà văn thuộc trường phái hình thức Nga cho rằng lạ hóa là một ngun
tắc nghệ thuật phổ quát thể hiện trong mọi cấp độ của cấu trúc nghệ thuật, có
tác dụng phá vỡ sự tự động, máy móc của cảm thụ bằng cách tạo ra một cái
nhìn mới đối với sự vật hiện tượng quen thuộc chứ không phải là nhận ra cái
đã biết, tức là phá vỡ những khuân hình để người ta có thể nhận ra các ý nghĩa
mới của sự vật và nhân sinh.
Theo đó lạ hóa là một thủ pháp trong sáng tác văn học có nhiệm vụ làm
cho sự vật được miêu tả trở nên khác lạ, là một thủ pháp đương nhiên của các
nhà văn, thậm chí là bản chất của nghệ thuật. Nhà văn sử dụng thủ pháp “lạ
hóa” để khơi dậy cảm xúc mới lạ của người đọc, không để cho họ bị chi phối
bởi các thói quen và định kiến vơ thức có sẵn về đối tượng nhận thức. “Mục
đích của nghệ thuật là đem lại cảm giác về các sự vật như chúng được cảm
nhận chứ không phải như chúng được biết đến. Thủ pháp của nghệ thuật là
làm cho sự vật trở nên “khác lạ”..., bởi vì quá trình cảm nhận là một mục đích
thẩm mỹ tự thân và nó cần phải được kéo dài. Nghệ thuật là một cách trải
nghiệm sự sáng tạo nghệ thuật đối với một đối tượng: đối tượng không phải
là cái quan trọng...” [20].
4
Ở phương Tây, chủ nghĩa hiện đại phủ nhận chủ nghĩa hiện thực truyền
thống trong văn học nghệ thuật. Nó hướng tới khám phá những vùng vơ thức
tâm linh, bí ẩn, những dòng ý thức bị che khuất, những biểu hiện phi lý của
đời sống. Do đó chủ nghĩa hiện đại giống như một cuộc “cách mạng nghệ
thuật” đã làm phong phú thêm hệ thống các phương tiện tạo hình như “dịng ý
thức”, “độc thoại nội tâm”… Từ đây có thể thấy văn học hiện đại đã lạ hóa
cách thể hiện, hướng tới khám phá chiều sâu của con người, coi trọng cái
được phản ánh. Những phương tiện tạo hình dùng trong văn học hiện đại có
thể đã được dùng trong văn học truyền thống nhưng đến văn học hiện đại nó
được khai thác một cách triệt để nhằm tái hiện hình ảnh con người một cách
sâu sắc và đa dạng nhất. Chủ nghĩa hậu hiện đại ra đời cuối chiến tranh thế
giới thứ hai, là một thuật ngữ đa nghĩa được sử dụng linh hoạt trong nhiều
lĩnh vực. Đưa ra một khái niệm về văn chương hậu hiện đại không phải là một
việc đơn giản bởi hiện nay các nhà nghiên cứu và phê bình vẫn cịn nhiều
tranh cãi về thuật ngữ này. Song có thể hiểu văn chương hậu hiện đại là sự
“chống lại” chủ nghĩa hiện đại, là sự “phản biện”. Sự phản biện ở đây phần
nào chính là q trình lạ hóa trong tư duy sáng tác, trong cách thể hiện. Phản
biện không phải là chối bỏ tất cả mà là sự mở rộng biên độ, vượt qua giới hạn,
kiếm tìm một cái nhìn cuộc sống mới mẻ hơn. Văn học hậu hiện đại ngược lại
với văn học hiện đại rất coi trọng cái biểu đạt. Yếu tố lạ hóa, phá vỡ những
quy chuẩn cũ, phản biện lại cái cũ, mong muốn mở rộng những giới hạn để
con người cảm nhận cuộc sống đúng như nó nhất chính là đặc điểm nổi bật
của chủ nghĩa hậu hiện đại.
Ở Việt Nam, ý thức lạ hóa trong sáng tác văn học nghệ thuật xuất hiện
ở nhiều nhà văn. Tuy nhiên lạ hóa và lạ hóa thành cơng thì không phải nhà
văn nào cũng làm được. Nền văn học của chúng ta suốt một thời gian dài chịu
ảnh hưởng của văn học Trung Quốc với tính quy phạm, ước lệ khi tiếp xúc
5
với nền văn học Phương Tây đã có một cuộc chuyển mình lớn. Sau năm 1975
và đặc biệt là sau 1986, khi điều kiện giao lưu văn hóa được mở rộng hơn các
nhà văn được tiếp nhận nhiều hơn các trường phái văn học trên thế giới thì
quá trình chuyển biến trong tư duy sáng tác càng rõ rệt hơn. Chịu ảnh hưởng
từ các nhà văn thuộc trường phái hiện đại và hậu hiện đại, các nhà tiểu thuyết
Việt Nam đang cố gắng tìm tịi một lối đi, mở ra một con đường cho sáng tác
của mình. Chúng ta có thể nhận thấy những dấu hiệu của sự đổi mới, của sự lạ
hóa trong sáng tác của nhiều nhà văn như Phạm Thị Hồi, Nguyễn Bình
Phương, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Huy Thiệp… và cũng nhận thấy
dấu hiệu của sự ảnh hưởng từ các nhà văn hiện đại, hậu hiện đại của thế giới
tới thế hệ các nhà văn này.
Phạm Thị Hồi là người có ý thức lạ hóa tư duy tiểu thuyết ngay từ
những tác phẩm đầu tiên của bà. Ở Việt Nam, cách viết của Phạm Thị Hồi
khiến độc giả và những nhà phê bình hết lời ca ngợi và cũng lắm kẻ chê bai.
Ngay cả những nhà phê bình mạnh mẽ nhất cũng thừa nhận rằng bà là một
nhà văn có con mắt u ám trong việc mổ xẻ chi tiết, chua cay và hài hước,
song lại có thính giác tốt về nhịp điệu của tiếng Việt [22]. Cùng với Bảo
Ninh, Phạm Thị Hoài đã góp phần mở ra một trào lưu sáng tác mới cho dòng
tiểu thuyết đương đại Việt Nam, đem đến cho tiểu thuyết một lối tư duy và
phong cách thể hiện mới mẻ, lạ lẫm.
Nguyễn Bình Phương là nhà văn ln có ý thức tìm hướng đi mới cho
tiểu thuyết. Tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương có những khác lạ về kết cấu,
xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật… Chính sự khác lạ ấy đã thu hút sự
chú ý của giới nghiên cứu phê bình văn học.
Cả Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương đều cho người đọc cảm
nhận về sự ảnh hưởng của F. Kafka, Gunther Grass, G. Macquet,… những
nhà văn hiện đại, huyền ảo nổi tiếng của thế giới. Chính lối tư duy mới trong
6
cách sáng tác và sự tiếp nhận các yếu tố tích cực của văn học nước ngồi trên
cơ sở nền tảng của văn hóa bản địa đã tạo nên cái “lạ” trong sáng tác của hai
nhà văn này.
2.2. Phạm Thị Hồi và Nguyễn Bình Phương có thể coi là những hiện
tượng văn chương thu hút được sự chú ý của các độc giả và các nhà phê bình,
nghiên cứu. Do đó số các bài báo, bài phê bình, các luận án, luận văn, khóa
luận tốt nghiệp về hai tác giả này là tương đối nhiều.
Trong giai đoạn đổi mới của nền văn xi Việt Nam sau 1975, Phạm
Thị Hồi nổi lên như một cây bút có cá tính, có trách nhiệm với ngịi bút của
mình. Tuy số lượng tiểu thuyết không lớn nhưng những hoạt động trong lĩnh
vực văn chương của bà cũng như giá trị các tác phẩm của bà lại được bạn đọc
đánh giá cao. Xung quanh các tác phẩm của Phạm Thị Hồi ln có nhiều
tranh cãi, trái chiều và gay gắt, đặc biệt đôi lúc vấn đề còn vượt khỏi phạm vi
của văn chương nghệ thuật. Thiên sứ của Phạm Thị Hoài ra đời năm 1988, so
với các tác phẩm như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh hay các tác phẩm
của Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh... thì sáng tác này ra đời khá sớm,
ngay sau những ngày đầu đất nước đổi mới. Tuy nhiên những đánh giá nhận
định về tiểu thuyết này vẫn chưa thực sự thống nhất và xác đáng.
Nghiên cứu về Thiên sứ có thể kể đến một số bài viết như: Những đặc
điểm của tiểu thuyết Thiên sứ (Lại Nguyên Ân), Đứa trẻ và thành phố trong
Thiên sứ của Phạm Thị Hoài (Đặng Thị Hạnh), Phạm Thị Hoài, thiên sứ
(Thụy Khuê), Thiên sứ của Phạm Thị Hoài, Đọc và đọc lại Thiên sứ của
Phạm Thị Hoài (Nguyễn Thanh Sơn)... Trong bài viết của mình Lại Nguyên
Ân đã dùng sự tự nghiệm của bản thân để chỉ ra những nét mới dù chỉ mang
tính phác thảo như những nhận xét ban đầu nhưng đây thực sự là những gợi ý
quý báu cho những người nghiên cứu đi sau. Nguyễn Thanh Sơn với hai bài
viết về Phạm Thị Hoài đã chỉ ra cách đọc, cách tiếp cận tiểu thuyết Thiên sứ
7
sao cho đạt hiệu quả cao nhất....
Vào tháng 12/1988, tại hội thảo Chung quanh một số vấn đề thời sự
văn học được tổ chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Thiên sứ và Phạm
Thị Hoài được đánh giá cao, qua hai bài tham luận của Văn Giá và Hoàng
Ngọc Hiến. Nếu Văn Giá khai thác các giá trị nội dung thì Hồng Ngọc Hiến
thuyết phục người nghe bằng cách chỉ ra nét độc đáo trong giọng kể chuyện
của Phạm Thị Hồi.
Bên cạnh đó cịn có nhiều bài viết, nhiều đề tài nghiên cứu mà ở đó
Thiên sứ là một đối tượng chính để khảo sát. Các nhà nghiên cứu nước ngồi
cũng có những nhận xét sắc sảo đánh giá cao sự cách tân của Phạm Thị Hoài
như Anatoli A.Sokolov: Trên thực tế, tiểu thuyết Thiên sứ mà ở mức nào đó
là những truyện ngắn là rất khác thường và không đặt vừa được vào truyền
thống tự sự của văn xuôi Việt Nam nửa sau thế kỷ XX...
Thiên sứ còn là đối tượng nghiên cứu thu hút được sự quan tâm của các
sinh viên, học viên khoa văn học như luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu
Nguyên Thiên sứ của Phạm Thị Hoài những cách tân trong bút pháp và
một triển vọng biểu đạt tiểu thuyết trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm
2004, hay Phương thức huyền thoại hóa trong Thiên sứ của Phạm Thị
Hồi khóa luận tốt nghiệp khoa Văn học trường Đại học khoa học xã hội và
Nhân văn Hà Nội...
Qua đó chúng tơi nhận thấy, phần lớn các nhà phê bình, các bài viết đều
thống nhất ở chỗ đánh giá cao sự cách tân của Phạm Thị Hồi. Tuy đơi chỗ quan
điểm cịn chưa thống nhất, góc độ tiếp cận cịn khác nhau song những đóng góp
của bà đã được bạn đọc và giới nghiên cứu phê bình nghi nhận.
Các bài báo viết về Nguyễn Bình Phương khá nhiều từ báo mạng đến
báo viết, từ những bài báo mang tính chất giới thiệu đến những bài nghiên
cứu trên các tạp chí chuyên ngành, từ những bài báo về một tác phẩm cụ thể
8
đến những bài báo có tính khái qt cao. Một trong những nhà nghiên cứu
sớm viết bài về Nguyễn Bình Phương là Đồn Cầm Thi. Nhà nghiên cứu này
đã nhìn các sáng tác của Nguyễn Bình Phương dưới cái nhìn của vô thức và
hữu thức trong mối quan hệ so sánh, liên hệ với thơ Hàn Mặc Tử và thơ Hồ
Xuân Hương (Sáng tác văn học: giấc mơ và điên, Người đàn bà nằm: “Từ
thiếu nữ ngủ ngày” đọc Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương). Từ đó, tác
giả bài viết chỉ ra những đặc sắc trong cách nhìn nhận hiện thực và con người
của Nguyễn Bình Phương. Với lối viết dựa trên cơ sở của phân tâm học Đoàn
Cầm Thi đã cho chúng tôi một gợi mở về hướng tiếp cận các tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương.
Trên websitee http//chimviet.fr.free và trên trang web cá nhân của Thụy
Khuê (e) đã đăng tải khá nhiều các bài viết nghiên cứu về
các yếu tố huyền ảo, tâm linh trong từng tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương
như Khuynh hướng hiện thực huyền ảo trong tiểu thuyết Những đứa trẻ chết
già, Tính chất hiện thực linh ảo âm dương trong tiểu thuyết Người đi vắng,
Những yếu tố tiểu thuyết mới trong tác phẩm Trí nhớ suy tàn, Những đặc trưng
của bút pháp huyền ảo trong tiểu thuyết Ngồi… Những bài viết này đã chỉ ra
những nét nổi bật nhất của từng tác phẩm trong sáng tác của nhà văn. Mỗi bài
viết là những nhận xét đánh giá xác đáng, tinh tế là những phát hiện có tính
chất gợi mở cho những người nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương. Tuy nhiên
các bài viết này thiếu tính hệ thống và nhất quán trong phương pháp tiếp cận.Vì
vậy tuy là sự ghi nhận đối với tác giả nhưng lại chưa có những đánh giá khái
quát bao trùm được hệ thống tác phẩm của Nguyễn Bình Phương.
Một số bài báo về Nguyễn Bình Phương rất đáng chú ý, trong số các
bài báo viết về nhà văn này ta có thể kể đến như: Một số đặc điểm nổi bật
trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương (Trương Thị Ngọc Hân - đăng tải
trên website .) Bài viết chỉ ra ba đặc điểm nổi bật nhất
9
trong sáng tác của Nguyễn Bình Phương là: cách lựa chọn hiện thực là những
mảng tự sự phân mảnh, sử dụng kết cấu xoăn kép nhiều mạch truyện song
song, sử dụng yếu tố kỳ ảo. Tiếp đó có thể kể đến bài báo của nhà nghiên cứu
Phạm Xuân Thạch đăng trên báo Văn nghệ số ra ngày 25/11/2006, đánh giá
về Ngồi nhưng cũng là những ghi nhận chung cho sự sáng tạo của Nguyễn
Bình Phương. Bài báo này đi sâu vào nội dung ý nghĩa của tiểu thuyết
Nguyễn Bình Phương đó chính là vấn đề: “Nó là một cuộc mời gọi đặt vấn đề
phản tư về đời sống và ý nghĩa của đời sống. Nó là một tiểu thuyết bắt người
ta suy nghĩ và làm điều ấy nó xứng đáng là một tiểu thuyết và là một tiểu
thuyết xuất sắc” [58]. Những lời khen nhiệt thành mà Phạm Xuân Thạch dành
cho Nguyễn Bình Phương được đưa ra từ những căn cứ mà nhà nghiên cứu
phát hiện rất tinh tế, độc đáo. Tuy nhiên bài viết giống như bài phê bình hơn
nghiên cứu, và mới chỉ dừng lại ở chỗ đánh giá một tác phẩm. Trên tạp chí
chuyên ngành Nghiên cứu văn học tác giả Đồn Ánh Dương đã có một bài
viết rất đáng lưu ý đó là Nguyễn Bình Phương, Lục đầu giang tiểu thuyết. Bài
viết có sự nghiên cứu cơng phu, có cái nhìn hệ thống và cách tiếp cận độc
đáo. Tác giả đã ví mỗi tiểu thuyết như là một dịng sơng chi lưu hợp lưu lại để
cùng đổ ra biển rộng. Hướng tiếp cận của tác giả bài viết là ở cấu trúc và
phương thức huyền thoại, chỉ ra nét đặc trưng nhất của mỗi chi lưu trong dịng
hợp lưu chung. Bài viết có khen có chê và có những đánh giá khá khách quan
chính xác về tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Gây được sự chú ý như vậy với dự luận, tác phẩm của Nguyễn Bình
Phương cũng đã tạo ra một sức hút đối với các bạn đọc chuyên nghiệp, những
sinh viên chuyên ngành và những nhà nghiên cứu. Các báo cáo khoa học của
sinh viên về một thủ pháp nghệ thuật, một tác phẩm cụ thể khá nhiều. Các đề
tài tốt nghiệp đại học như: Đến Ngồi - một hành trình cách tân tiểu thuyết của
Nguyễn Bình Phương do sinh viên Nguyễn Ngọc Quân khoa Văn học, trường
10
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội thực hiện. Khoá luận này đã
chứng tỏ người nghiên cứu có ý thức tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Bình
Phương một cách hệ thống trong tiến trình vận động và đã có những đánh giá
ghi nhận xác đáng về quá trình lao động sáng tạo của Nguyễn Bình Phương.
Tuy nhiên khoá luận tập trung sâu nhất vào Ngồi, đồng thời bộc lộ một nhược
điểm đáng yêu là sự say mê với đối tượng nghiên cứu, nên đôi lúc những
nhận xét còn mang màu sắc chủ quan và khá cảm xúc. Ngồi ra có thể kể đến
luận văn thạc sĩ văn học của Hồ Thị Bích Ngọc, Nguyễn Bình Phương với
việc khai thác tiềm năng thể loại để hiện đại hoá tiểu thuyết, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội năm 2008. Các luận văn Khuynh hướng hiện thực huyền
ảo trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương của Nguyễn Thị Thu Huyền khoa
Văn học - Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Vũ Thị Phương với luận
văn thạc sỹ Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương, Nguyễn Thị Phương Diệp với khóa luận tốt nghiệp Yếu tố kì ảo
trong tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương và luận văn thạc sỹ Nghệ thuật tiểu
thuyết Nguyễn Bình Phương...đều đi sâu khai thác khả năng hiện đại hóa,
cách tân sáng tạo của tiểu thuyết Nguyễn Bình Phương.
Nhiều cơng trình khoa học khác khơng lấy tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phương làm một đối tượng nghiên cứu duy nhất. Nhưng nhìn chung đa số các
cơng trình nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn từ cuối những năm 90
của thế kỷ trước đến những năm đầu thế kỷ XXI ít nhiều đều khảo sát các tiểu
thuyết của nhà văn này (đặc biệt là ở góc độ cấu trúc và nhân vật) và coi đây như
một trong những tác phẩm tiêu biểu của giai đoạn văn học trên, như Luận án tiến
sĩ của tác giả Bùi Thanh Truyền, Yếu tố kì ảo trong văn xuôi đương đại Việt
Nam, hay luận văn thạc sỹ của Hoàng Cẩm Giang tại trường Đại học khoa học
Xã hội và Nhân văn về Cấu trúc tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI đều khảo
sát tương đối nhiều trên tác phẩm của Nguyễn Bình Phương. Điều đó cho thấy
11
tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương khá tiêu biểu và có tính đại diện cho văn
học giai đoạn này cả về hai mặt ưu và khuyết.
Tuy còn nhiều ý kiến trái chiều song chính những bài báo những cơng
trình nghiên cứu về Nguyễn Bình Phương đã khẳng định được chỗ đứng của
nhà văn này trong đời sống văn học hiện đại. Dù tiếp cận tác phẩm của
Nguyễn Bình Phương dưới góc độ nào chúng ta cũng khơng thể phủ nhận ý
thức tìm tịi, q trình lao động nghệ thuật nghiêm túc, với những ý tưởng
được thực hiện thành công của Nguyễn Bình Phương trong quá trình cách tân
tiểu thuyết Việt Nam. Dù đã có sự ghi nhận nhưng chưa thực sự có một cơng
trình hệ thống lại những đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết Nguyễn Bình
Phương. Phần nhiều các nhà nghiên cứu mới đi vào một khía cạnh hoặc một
tác phẩm cụ thể. Vì vậy luận văn này hi vọng sẽ hệ thống lại những nét tiêu
biểu đặc trưng trong nghệ thuật tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương, nhằm
hướng tới một cái nhìn tồn diện và khách quan hơn cũng như kế thừa hướng
nghiên cứu từ những đề tài trước. Thông qua những nghiên cứu này sẽ đánh
giá được vai trị của Nguyễn Bình Phương trong q trình cách tân hiện đại
hoá tiểu thuyết. Đồng thời chỉ ra một số nét tiêu biểu của văn học đương đại
nước nhà.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua việc nghiên cứu yếu tố lạ hóa trong sáng tác của Phạm Thị Hồi và
Nguyễn Bình Phương, chúng tơi muốn chỉ ra sự vận động của tư duy nghệ
thuật trong văn học Việt Nam nói chung và tư duy tiểu thuyết nói riêng, từ đó
khẳng định những đóng góp của các nhà văn Việt Nam đương đại trên hành
trình hội nhập với văn học thế giới và cũng qua đó để cho thấy trong tinh thần
hậu hiện đại, mỗi nhà văn Việt Nam mang đến cho văn xi những cá tính
sáng tạo mới.
12
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Chỉ ra khái niệm lạ hóa trong tư duy tiểu thuyết hiện đại, hậu hiện đại
nói chung và yếu tố lạ hóa trong tư duy tiểu thuyết Việt Nam nói riêng. Qua
đó luận văn muốn làm rõ những khả năng mới của phản ánh nghệ thuật trên
con đường hiện đại hóa văn học.
Trọng tâm của luận văn là chỉ ra sự phong phú trong tư duy tiểu thuyết
qua những sáng tác cụ thể của một số nhà văn tiêu biểu là Phạm Thị Hồi và
Nguyễn Bình Phương - những tác giả ln có ý thức lạ hóa tác phẩm của mình.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu yếu tố lạ hóa trong một số tiểu thuyết
tiêu biểu của Phạm Thị Hoài và Nguyễn Bình Phương.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Yếu tố lạ hóa khơng chỉ có trong tiểu thuyết mà cịn có ở các thể loại
văn học khác. Trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, để thực hiện được mục
đích khoa học đề ra chúng tôi chỉ tập trung vào các tác phẩm Thiên sứ của
Phạm Thị Hồi, Thoạt kì thủy, Ngồi của Nguyễn Bình Phương. Sở dĩ chúng
tơi chỉ chọn hai trong số bảy tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương là bởi
chúng tôi cho rằng đây là hai tiểu thuyết tiêu biểu nhất cho sự lạ hóa của nhà
văn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, chúng tôi sử dụng các phương
pháp cơ bản sau:
- Tiếp cận hệ thống
- Phân tích, thống kê, tổng hợp.
- So sánh
Ngồi ra, trong q trình triển khai luận văn, chúng tơi còn sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu bổ trợ khác.
13
5. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài “Yếu tố lạ hóa trong tiểu thuyết của Phạm Thị Hồi,
Nguyễn Bình Phương” chúng tơi muốn có một cái nhìn mới về sự vận động của
tư duy tiểu thuyết trong văn học đương đại.
Qua các kết quả khảo sát và nghiên cứu, luận văn góp phần khẳng định
những nỗ lực cách tân trong tư duy tiểu thuyết trong tinh thần hậu hiện đại
của các nhà văn Việt Nam đương đại.
Đóng góp một tài liệu học tập nghiên cứu về Phạm Thị Hịa, Nguyễn
Bình Phương và văn học Việt Nam đương đại.
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được triển khai
thành 4 chương:
- Chương 1: Khái quát đặc điểm tư duy tiểu thuyết sau 1986
- Chương 2: Lạ hóa về nhân vật
- Chương 3: Lạ hóa về khơng gian và thời gian nghệ thuật
- Chương 4: Lạ hóa về ngơn từ nghệ thuật
14
NỘI DUNG
Chương 1:
KHÁI QUÁT ĐẶC ĐIỂM TƯ DUY TIỂU THUYẾT SAU 1986
1.1. Những cách nhìn mới của các nhà văn về hiện thực
1.1.1. Hiện thực đa chiều
Do điều kiện hoàn cảnh lịch sử chiến tranh của đất nước những năm
trước 1975, nền văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng luôn gắn với vận
mệnh dân tộc và thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là nhiệm vụ chính trị phục vụ
cuộc kháng chiến. Vì vậy đời sống kháng chiến chính là nội dung phản ánh
của văn học giai đoạn này. Văn học thiên về ngợi ca mà ít tính phê phán hay
nhìn nhận đánh giá hiện thực ở các góc độ khác nhau. Văn học giai đoạn này
chỉ phù hợp với điều kiện chiến tranh song sẽ trở nên nặng tư tưởng và thiếu
hấp dẫn khi đời sống đất nước chuyển sang giai đoạn mới sau chiến tranh.
Dấu hiệu đổi mới trong văn học xuất hiện ngay từ giai đoạn 19751985, giai đoạn được coi là thời kỳ giao thời khi những dư âm của chiến tranh
vẫn ít nhiều chi phối đời sống văn học. Đề tài chiến tranh vẫn là một đề tài
chủ đạo, được nhiều nhà văn khai thác. Trong các tiểu thuyết ra đời vào giai
đoạn này như Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Trong cơn gió lốc (Khuất
Quang Thụy), Năm 1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân) và đặc biệt
đến Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng)... hiện thực đã được di chuyển
dần từ chiến tranh đến thế sự đời tư, từ cảm hứng ngợi ca anh hùng một chiều
đến nhìn nhận lại.
Năm 1986, khi đất nước bắt đầu công cuộc đổi mới, không khí dân chủ
đã tạo nên một luồng khí mới giúp văn học thực sự chuyển mình, trong đó có
tiểu thuyết. Lúc này nhà văn khơng được phép nhìn hiện thực một chiều nữa
mà cần phải đi sâu khám phá bản chất của hiện thực từ đó mở rộng biên độ
phản ánh. Mục đích cuối cùng của sự chuyển mình này là để đưa văn học đến
15
gần đời sống thực sự phản ánh đời sống gọi tên đúng với bản chất của sự vật
sự việc như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói.
Lúc này các nhà văn tiếp cận hiện thực ở các mảng đề tài khác nhau,
phong phú đa dạng. Ở mảng đề tài cũ như đề tài chiến tranh, người lính, nơng
thơn, thì người viết phải đi sâu tìm kiếm khai thác bằng một góc nhìn mới qua
đó phản ánh chính xác khách quan hơn hiện thực như Nỗi buồn chiến tranh
(Bảo Ninh), Bến không chồng (Dương Hướng), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai),
Thời xa vắng (Lê Lựu)... Cùng viết về chiến tranh, trong giai đoạn trước nhà
văn quan tâm tới những chiến công, tới khơng khí cuộc chiến, tới những trận
đánh thì giờ người viết đi sâu thể hiện những mất mát của hậu phương những
nỗi đau mà cả người ra đi và người ở lại phải chịu đựng, những diễn biến tâm
lý phức tạp của người lính... Tất cả những mặt khác nhau đó của hiện thực
được phản ánh thể hiện cách tiếp cận hiện thực chân thực và khơng khí dân
chủ cởi mở hơn trong văn đàn. Các nhà văn viết về đề tài này phần lớn đều đã
từng là người lính trực tiếp cầm súng nơi chiến trường. Những năm tháng tuổi
trẻ cầm súng đó đã cho họ sự trải nghiệm và cái nhìn chân thực nhất về chiến
tranh. Trong Nỗi buồn chiến tranh Bảo Ninh không mô tả sự vĩ đại của cuộc
chiến tranh vệ quốc, mà là sự mất mát đổ vỡ của đời sống hậu chiến. Một thế
hệ những thanh niên như Bảo Ninh trở thành “thế hệ vứt đi” sau cuộc chiến.
Bởi họ chẳng có cách nào bước ra khỏi chiến tranh để hịa mình vào cuộc
sống hịa bình đời thường nữa. Cũng chính cuộc chiến ấy đã hủy hoại không
chỉ những thứ con người ta nhìn thấy mà cả những giá trị tinh thần cao đẹp
mà người ta tơn thờ vươn tới. Phương và tình yêu với Phương tan vỡ chính là
những mất mát lớn nhất mà Kiên phải gánh chịu bên cạnh cái may mắn được
lành lặn trở về sau cuộc chiến. Bảo Ninh đã cho người đọc nếm trải từng ngõ
ngách của cuộc chiến với tất cả sự tàn bạo, thảm khốc của nó. Với cách tiếp
cận hiện thực như vậy Nỗi buồn chiến tranh cũng có số phận khá trắc trở khi
16
xuất bản nhưng những giá trị mà cuốn sách mang lại thì khơng ai có thể phủ
nhận. Nó nhắc nhở mỗi con người chúng ta về giá trị của hòa bình. Nó cho
chúng ta một cái nhìn nhân văn và toàn diện về cuộc chiến để mỗi chúng ta
biết rằng cả khi tiếng súng đã ngưng thì nỗi đau vẫn cịn ám ảnh. Hay trong
mảng đề tài về nơng thơn, người đọc khơng chỉ thấy những làng q n bình,
nơi các giá trị truyền thống được bảo lưu và phát huy mà chúng ta còn bắt gặp
những vùng quê dậy sóng trong cơng cuộc đổi mới, với những tư tưởng lạc
hậu, những hủ tục lâu đời, những mối quan hệ tranh chấp mới - cũ, riêng chung, những thù oán, mâu thuẫn cá nhân, dòng tộc. Tất cả tạo nên diện mạo
một nông thôn phức tạp, giằng xé trong một thời đại mới.
Với các đề tài mới mỗi nhà văn thể hiện góc nhìn và quan điểm của
riêng mình. Đặc biệt các vấn đề của đời sống thường ngày, đời sống cá nhân
được quan tâm thể hiện sâu sắc hơn. Đặc biệt sau 1986, các cây bút ngày càng
tỏ ra sắc sảo trong cách tiếp cận hiện thực. Con người đời thường với các mối
quan hệ gia đình xã hội, với các vấn đề của thời kinh tế thị trường khi giá trị
vật chất có vẻ nên ngơi, đồng tiền trở thành một công cụ vạn năng, và con
người đứng trước những thử thách lớn để bảo toàn nhân cách. Những cám dỗ
của cuộc sống đời thường đã làm biến dạng tâm hồn khơng ít người, cuộc
chiến để bảo vệ những giá trị tốt đẹp cũng căng thẳng cam go vô cùng. Nhiều
giá trị tốt đẹp bị lung lay. Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng hay
Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp... đã phản ánh sự méo mó của con
người trong thời kỳ mở cửa. Cuộc sống thời bình khơng đơn giản như người
ta tưởng, khi vấn đề lớn của dân tộc được giải quyết con người ta có quyền
quan tâm tới đời sống, cá nhân mình. Nhưng khi con người chỉ biết tới lợi ích
cá nhân, sự nhỏ nhen ích kỉ, tính tốn thậm chí ác độc nảy sinh làm cho mối
quan hệ giữa người với người trở nên tàn nhẫn, lọc lừa, giả dối. Những tác
phẩm văn học thời kỳ này chính là hồi chng cảnh báo chúng ta về việc nhìn
17
nhận và giữ gìn những giá trị nhân văn trong bối cảnh xã hội mới.
Bên cạnh việc khai thác hiện thực ở chiều sâu, nhìn nhận lại những vấn
đề tưởng như đã cũ các nhà văn còn mở rộng biên độ hiện thực khai thác
những mảng đề tài vốn được coi là nhạy cảm như các vấn đề lịch sử, tình
dục... Ở thời kỳ này hàng loạt các tiểu thuyết lịch sử ra đời như Hồ Quý Ly
của Nguyễn Xuân Khánh, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Hội thề của Nguyễn
Quang Thân... Những tác phẩm này không chỉ đem đến cho bạn đọc một cái
nhìn mới về những vấn đề lịch sử đã qua mà còn soi rọi trở lại những vấn đề
của thực tại. Ngoài ra các nhà văn cịn có khuynh hướng sáng tạo hiện thực
khi đi sâu khai thác đời sống tâm lý nhân vật thông qua các giấc mơ, vô thức,
cõi tâm linh... Những sáng tác theo khuynh hướng này xuất hiện ở giai đoạn
sau với các tên tuổi như Phạm thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương,
Nguyễn Xuân Khánh....
Một hiện thực đa chiều nhiều góc độ được tái hiện lại qua các tác phẩm
văn học cho thấy văn chương đã được trở về với con người trong muôn mặt
đời thường, mỗi tác phẩm ra đời là một nhu cầu bày tỏ của nhà văn về con
người nhằm thỏa mãn những đòi hỏi mới của bạn đọc.
1.1.2. Những mảnh vỡ tự sự
Một dấu hiệu thay đổi khác trong cách tiếp cận hiện thực là các nhà văn
không chỉ quan tâm tới các vấn đề lớn mang tính đại tự sự mà đã quan tâm chú
ý tới các mảnh tự sự nhỏ, các vấn đề cá nhân. Những mảnh tự sự nhỏ này nhiều
khi tạo cảm giác rời rạc song nó lại ẩn chứa trong đó sức nặng của đời sống.
Các sáng tác của Nguyễn Bình Phương là một ví dụ tiêu biểu. Tác giả
khơng đi sâu phản ánh bề mặt chung chung của cuộc sống với các vấn đề
nóng bỏng lớn lao mà thường chia tiểu thuyết của mình thành câu chuyện của
nhiều số phận, mỗi số phận mỗi con người được phản ánh thông qua những
chuyện rất nhỏ nhặt hàng ngày. Từ chuyện Minh với giấc mơ về chiếc áo,
18
người đàn bà bán khoai với nỗi ám ảnh về nhà tù, Khẩn với những giấc mơ về
Kim (Ngồi)..., Tính điên loạn với những hành động vô thức (Thoạt kỳ thủy),...
Thống nhìn bạn đọc dễ có cảm giác những câu chuyện này thật lẻ tẻ không
phản ánh những vấn đề chung của tồn xã hội. Song chính những mảnh vỡ tự
sự ấy lại ghép thành một bức tranh đời sống hết sức chân thực và phức tạp.
Hay các sáng tác của Tạ Duy Anh (Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám
hối...) dẫn người đọc đi vào một mê lộ mà ở đó những câu chuyện nhà văn kể
chỉ là những mảnh của đời sống. Đặt trong mối quan hệ với các tác phẩm viết
trong thời kỳ chiến tranh người đọc sẽ thấy rõ sự biến chuyển này. Nếu cùng
viết về chiến tranh Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu) phản ánh
khơng khí hào hùng của cả thời đại, của những người lính chiến đấu hi sinh
anh dũng kiên cường. Dẫu có nhân vật trung tâm thì nhân vật trung tâm ấy là
điển hình cho một lớp người, một thế hệ. Những chuyện được kể là những
chuyện mang bộ mặt chung, số phận chung của một cộng đồng lớn. Nhưng
đến Nỗi buồn chiến tranh độc giả lại nhìn nhận cuộc chiến qua tâm tư của một
con người cụ thể với những mảnh nhỏ chắp ghép khơng theo ngun tắc nào
của trí nhớ. Những phân nhánh về Phương, về người bố dượng... khiến câu
chuyện như được lắp ghép từ nhiều ô màu lập phương quanh một trục quay
chính. Người ta khơng thấy được bề mặt rộng lớn, vĩ đại của hiện thực nhưng
lại dễ dàng cảm nhận được hơi thở của chính mình trong các chi tiết đậm chất
đời sống ấy.
Thực chất việc hiện thực được chia nhỏ, vỡ vụn thành nhiều mảnh rồi
lại được liên kết với nhau ở bề sâu của văn bản là một hệ quả tất yếu khi nhà
văn hướng ngịi bút của mình từ số phận dân tộc đến số phận cá nhân, quan
tâm tới đời sống cá nhân của mỗi con người. Bởi khi muốn đi sâu khám phá
con người mới thì chính những câu chuyện nhỏ nhặt thường ngày nhất lại là
những chi tiết phản ánh chân thực sinh động hơn cả bản chất nhân vật.
19
Tuy chỉ là những mảnh vỡ song khơng phải vì thế mà các tác phẩm sẽ
mất đi giá trị khái quát hiện thực. Bởi thực tế chính những mảnh vỡ này cho
ta chạm tới đáy sâu của tâm hồn nhân vật, từ đó có thể khái quát nên những
vấn đề đang làm cho mỗi cá nhân chúng ta trăn trở, phản ánh chân xác đời
sống nội tâm của con người ngày nay.
Cách tiếp cận hiện thực là một vấn đề vơ cùng quan trọng và có tính
sống cịn với mỗi nhà văn. Cách tiếp cận hiện thực còn thể hiện quan niệm
sống, thế giới quan, nhân sinh quan của người nghệ sĩ đồng thời cho thấy sức
sáng tạo của nhà văn đó
1.2. Những khám phá mới về con người
Một tác phẩm văn học có thể viết về con người hay thế giới loài vật.
Song xét về bản chất kể cả khi nhà văn miêu tả thế giới của loài vật thì cũng là
một cách ẩn dụ về đời sống con người. Do đó cách nhà văn nhìn nhận về con
người, khám phá, tiếp cận con người của hiện thực để đưa vào tác phẩm của
mình quyết định khơng nhỏ tới phong cách nghệ thuật và giá trị của tác phẩm.
1.2.1. Con người trong tư cách cá nhân
Nhân vật văn học là con người cụ thể được miêu tả trong tác phẩm văn
học [56, tr235]. Có thể nói nhân vật đóng vai trị vơ cùng quan trọng trong tác
phẩm. Bởi nó phản ánh con người, tính cách con người và là đơn vị nghệ
thuật cơ bản để từ đó tổ chức tác phẩm. Những khám phá mới về con người sẽ
giúp nhà văn xây dựng hình tượng nhân vật của mình mới mẻ hơn, phản ánh
chân thực cuộc sống hơn, đồng thời ghi dấu ấn sáng tạo của chính mình vào
tác phẩm.
Trước 1975, số phận của mỗi con người được đặt trong số phận chung
của dân tộc, vì vậy con người trong văn học cũng mang một bộ mặt chung của
dân tộc, của thời đại. Sau 1975, đặc biệt là sau 1986 các vấn đề của mỗi cá
nhân được quan tâm chú ý hơn và con người với tư cách cá nhân, số phận cá
20
nhân cũng được chú ý phản ánh và nhìn nhận. Văn học giai đoạn này chuyển
từ tư duy sử thi sang tư duy tiểu thuyết, từ cảm hứng sử thi lãng mạn sang
cảm hứng thế sự đời tư. Tiểu thuyết đã phát huy thế mạnh của mình là khả
năng tiếp cận và phản ánh hiện thực để thể hiện rõ nét hơn con người giữa đời
thường với những bi kịch của cuộc đời. Đó chính là bi kịch giữa khát vọng và
thực trạng, giữa nỗ lực vươn lên và sự tha hóa, giữa nhân bản và phi nhân
bản... Con người với nhiều góc khuất với chiều sâu tâm lý được khai thác, lột
tả trong sự phức tạp chung của hiện thực nhiều chiều.
Tiểu thuyết sau 1986 đặt vấn đề về con người cá nhân một cách mạnh
mẽ, thể hiện thân phận con người, khát vọng tình yêu, hạnh phúc, khắc họa
nỗi đau nhân sinh... Khám phá con người ở góc độ cá nhân với nhiều mặt vừa
phong phú vừa phức tạp của cuộc sống hàng ngày tiểu thuyết đã tìm thấy một
mảnh đất phì nhiêu để khai phá, tìm tịi và sáng tạo. Dù vẫn là ở những đề tài
cũ như đề tài chiến tranh nhưng những tác phẩm như Bến không chồng
(Dương Hướng), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),... khơng cịn xây dựng
những nhân vật trung tâm bàng bạc một màu nữa. Thay vào đó là một Hạnh
với những khát vọng hạnh phúc, với những thèm muốn bản năng rất đời
thường nhưng chính đáng. Những thèm khát dục vọng bị kìm nén bởi chiến
tranh bỗng chốc được Hạnh bung tỏa, quẫy đạp ở bến sông cho thấy cô cũng
là một phụ nữ bình thường biết yêu thương thèm khát. Chiến tranh không thể
hủy diệt sự chờ đợi son sắt thủy chung của cô cũng chẳng thể hủy diệt được
những bản năng sống rất con người của tất cả chúng ta. Hay ông Vạn với lối
sống mực thước như một biểu tượng của xóm làng rồi cũng đến lúc khơng thể
thoát khỏi sự cuốn đi mạnh mẽ của bản năng người đàn ông. Phần người đã
chiến thắng cái phần thánh nhân “giả dối” của Vạn. Thực chất đó khơng phải
là sự buông thả của dục vọng mà là thời điểm ông Vạn sống đúng với con
người của mình, từ bỏ cuộc sống khắc kỷ, trút đi bộ quần áo thùng thình của
21
những ánh hào quang khơng có thật. Đó là giây phút ông sống đúng với tư
cách một con người, thời khắc được làm người đầy ý nghĩa của Vạn (Bến
không chồng). Đó là Kiên với nỗi đau tận mắt nhìn thấy người yêu bị hãm
hiếp trên chuyến tàu đưa mình vào nam, bước vào cuộc chiến. Trên chuyến
tàu của chiến tranh có cái đẹp, tình u của Kiên đã bị chà đạp dữ dội. Đó cịn
là nỗi đau khi tận mắt chứng kiến những cảnh tượng tàn khốc, mất mát, hi
sinh, đổ máu của chiến tranh, là nỗi đau khi Kiên phải nhìn thấy tất cả sự yếu
đuối, đê hèn cũng như cao thượng, anh hùng của con người trong chiến tranh,
là nỗi đau của một nhà văn phường thời hậu chiến không thể bước ra khỏi
chiến tranh,... (Nỗi buồn chiến tranh). Tất cả những tâm tư tình cảm của cá
nhân con người được phơi bày cùng với những bản năng sống mãnh liệt chân
thực nhất.
Hay ở các tác phẩm các đề tài khác như Mùa lá rụng trong vườn (Ma
Văn Kháng), Thời xa vắng (Lê Lựu)... con người cá nhân cũng được quan tâm
khai thác sâu sắc. Đó là Giang Minh Sài với một số phận mà con người cá
nhân bị đè nén, bị giết chết. Những dấu ấn của một giai đoạn lịch sử in sâu
vào tác phẩm. Một giai đoạn mà con người không được phép sống cho những
u thương của riêng mình, khơng được phép sống cho đúng với cá tính của
mình. Cuộc đời của Giang Minh Sài là một bi kịch khi tình u, hơn nhân
hạnh phúc của anh đều sống hộ ý định của người khác. Tác phẩm nhắc nhở
chúng ta về việc tôn trọng quyền cá nhân của mỗi một con người, hướng tới
cuộc sống văn mình và nhân văn hơn, để mỗi chúng ta được sống và yêu theo
cách mà mình thực sự mong muốn. Ở đó mối quan hệ giữa cá nhân với gia
đình, tập thể, xã hội phải hài hịa cân bằng, con người được sống và dám chịu
trách nhiệm về nhân cách lối sống của mình. Đó cịn là những số phận cá
nhân với nhiều va chạm trong gia đình trong một xã hội có nhiều biến đổi
trong Mùa lá rụng trong vườn. Những nét đẹp của một gia đình truyền thống
22
trong cơn bão quay cuồng của nền kinh tế thị trường địi hỏi một cách sống,
cách thích ứng mới. Ở đây ta thấy cả những mặt trái của lối sống cá nhân với
sự ích kỷ, bng thả theo những dục vọng tầm thường, sự chi phối của đồng
tiền trong cách con người hành xử với nhau... và cả những mặt trái của lối
sống truyền thống thoát ly với hiện thực xã hội đang thay đổi từng ngày. Con
người khi cực đoan đi về phía cá nhân hay ép lịng sống giả dối để giữ gìn
những giá trị khơng cịn phù hợp đều khơng thể có được hạnh phúc đích thực,
đều thấy mình mất cân bằng, chênh chao bất ổn.
Rõ ràng khi con người được nhìn nhận trong tư cách một cá nhân mỗi
hình tượng nhân vật cũng trở nên chân thực và sinh động hơn rất nhiều. Đây
cũng là cách văn học cân bằng lại với một thời kỳ mà cái văn học hướng tới là
cái vĩ đại, lớn lao. Chính con người cá nhân trong cuộc sống đời thường nhắc
nhở chúng ta về những vẻ đẹp bình dị, giản đơn xung quanh, nhắc nhở chúng
ta về những giá trị nhân văn tốt đẹp.
1.2.2. Con người được nhìn từ nhiều chiều
Khi con người cá nhân được đề cao thì nhà văn cũng được phép khai
thác lột tả nhiều mặt khác nhau trong chính mỗi con người cụ thể. Nếu trước
đây các vấn đề là về bản năng, tình dục được coi như vùng cấm kị của văn
học thì bây giờ nó lại những góc nhìn để nhà văn soi chiếu, khám phá sâu hơn
bản thể con người. Trong văn hóa phương Đông những vấn đề về bản năng,
về các nhu cầu tự nhiên đặc biệt là tình dục là những vấn đề ít được cơng
khai, thể hiện. Nó giống như một vùng cấm, một totem vậy. Khi cuộc sống
hiện đại hơn, khơng khí văn học dân chủ hơn thì những vấn đề này cũng dần
dần được chuyển tải vào các tác phẩm văn học một cách mạnh mẽ hơn.
Không chỉ riêng tiểu thuyết mà ở các thể loại khác của nghệ thuật chúng ta
cũng dễ dàng nhận ra xu hướng này. Việc thể hiện những yếu tố bản năng
trong tác phẩm không chỉ giúp nhà văn khám phá con người từ một góc độ