Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Nhân vật tuổi trẻ trong tiểu thuyết nguyễn khải thời đổi mới (LV01393)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 137 trang )




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2






PHẠM THỊ LOAN






NHÂN VẬT TUỔI TRẺ
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI
THỜI ĐỔI MỚI

Chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 60 22 01 20


LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ CÔNG TÀI







HÀ NỘI, 2014


LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và chân thành nhất tới
PGS. TS Hà Công Tài, ngƣời thầy đã tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ, động viên
tôi trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu trƣờng ĐHSP Hà Nội 2,
Khoa Ngữ văn, Tổ Lý luận văn học, Phòng Sau đại học và các thầy cô đã
giảng dạy nhiệt tình, trách nhiệm và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi
hoàn thành chƣơng trình cao học và luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Ban giám hiệu
trƣờng THPT Tiến Thịnh, các thầy cô trong Tổ Văn trƣờng THPT Tiến
Thịnh, gia đình, ngƣời thân, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn động viên giúp đỡ,
tạo mọi điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.

Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả Luận văn


Phạm Thị Loan



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
không trùng hợp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan mọi sự giúp đỡ
cho việc thực hiện luận văn này đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn
trong luận văn đƣợc chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, tháng 6 năm 2014
Tác giả Luận văn


Phạm Thị Loan


MC LC

M U 1
1. Lý do chn ti 1
2. Mc ớch nghiờn cu 6
3. Nhim v nghiờn cu 6
4. i tng v phm vi nghiờn cu 7
5. Phng phỏp nghiờn cu 7
6. D kin úng gúp ca lun vn 7
7. Cu trỳc ni dung ca lun vn 8
NI DUNG 9
CHNG 1. QUAN NIM NGH THUT V CON NGI V TH
GII NHN VT TUI TR TRONG TIU THUYT CA NGUYN
KHI THI I MI 9

1.1. Quan nim ngh thut v con ngi 9
1.2. Quan nim ngh thut v con ngi ca Nguyn Khi thi i mi 15
1.3. Thế giới nhân vật trong sáng tác Nguyễn Khải. 20
1.3.1. Nhân vật nông dân 22
1.3.2. Nhân vật ng-ời chiến sĩ 22
1.3.3. Nhân vật của cuộc sống đời th-ờng 23
1.3.4. Nhân vật trí thức 25
1.4.Th gii nhõn vt tui tr trong tiu thuyt Nguyn Khi thi i mi 27
1.4.1. Quan nim v nhõn vt tui tr 27
1.4.2. Th gii nhõn vt tui tr trong tiu thuyt Nguyn Khi thi i
mi qua cm hng nghiờn cu, phõn tớch ca nh vn 27
CHNG 2. KIU NHN VT TUI TR TRONG TIU THUYT
NGUYN KHI THI I MI 30


2.1. Nhân vật say mê lí tƣởng 32
2.2. Nhân vật tuổi trẻ với những bi kịch cuộc đời và định kiến xã hội 50
2.3. Nhân vật của nền kinh tế thị trƣờng 63
CHƢƠNG 3. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TUỔI TRẺ
TRONG TIỂU THUYẾT NGUYỄN KHẢI THỜI ĐỔI MỚI 79
3.1. Nghệ thuật trần thuật, miêu tả 82
3.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, tính cách nhân vật 82
3.1.2 Nghệ thuật miêu tả, phân tích tâm lý 89
3.2. Ngôn ngữ, giọng điệu 98
3.2.1. Ngôn ngữ nhân vật 98
3.2.2. Giọng điệu trần thuật 114
KẾT LUẬN 122
TÀI LIỆU THAM KHẢO 127

1


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Nguyễn Khải là một tác gia tiêu biểu của nền văn xuôi Việt Nam
hiện đại sau 1945. Bám sát từng bƣớc đi của đời sống với ý thức là "người thư
ký trung thành của thời đại”, ngòi bút hiện thực đặc sắc Nguyễn Khải đã
mang đến cho ngƣời đọc những trang văn vừa nồng đậm hơi thở cuộc sống
vừa nặng trĩu suy tƣ, trách nhiệm trƣớc bao vấn đề cơ bản của đất nƣớc và
con ngƣời. Mỗi tác phẩm của ông là một cách lý giải bằng nghệ thuật một vấn
đề xã hội nhất định, một phát hiện những khía cạnh của con ngƣời thời đại.
Khám phá về con ngƣời là nét hết sức độc đáo trong sự tìm tòi của Nguyễn
Khải thời kỳ đổi mới. So với những nhà văn cùng thời nhƣ Nguyễn Minh
Châu, Nguyên Ngọc, Ma Văn Kháng v.v… Nguyễn Khải nổi lên với một
phong cách sáng tác độc đáo, góp phần mở ra khuynh hƣớng văn xuôi chính
luận, triết luận trong văn học Việt Nam đƣơng đại.
Nguyễn Khải thuộc thế hệ những nhà văn cách mạng trƣởng thành từ
cuộc kháng chiến chống Pháp. Là ngƣời chiến sĩ cầm bút, Nguyễn Khải suốt
đời gắn bó với sự nghiệp của Đảng, của dân tộc không bao giờ đi chệch
hƣớng mà ông đã chọn đó là đi theo con đƣờng cách mạng. Cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa đã tạo nên sự nghiệp, nuôi
dƣỡng tài năng và phong cách của nhà văn.
Có thể nói Nguyễn Khải là một nhà văn tài năng, ông thƣờng có mặt ở
vị trí hàng đầu của đời sống văn học. Sáng tác của ông gồm nhiều thể loại:
tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, bút ký, kịch, tản văn…, và dƣờng nhƣ ở
thể loại nào ông cũng đƣợc đông đảo bạn đọc hào hứng đón nhận.
Ông là nhà văn đã bƣớc vào trái tim độc giả và ở lại bằng những tác
phẩm đề cập đến nhiều vấn đề đƣợc xã hội quan tâm trong cuộc sống hôm
2


nay, có thể dự báo điều gì đó cho mai sau và từ tác phẩm luôn bật lên những ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Nhận xét về đặc điểm phong cách sáng tác của Nguyễn Khải, Vƣơng
Trí Nhàn khẳng định: “Suốt từ năm 1957 đến nay, luôn luôn ông thuộc loại
những cây bút dẫn đầu trong đời sống văn học. ( ) Và muốn hiểu con người
thời đại, với tất cả những cái hay cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ
của họ, đời sống tinh thần của họ, phải đọc Nguyễn Khải ” [58].
1.2. Sự nghiệp văn học của ông đã đƣợc Nhà nƣớc ta ghi nhận và trao
tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Ngoài giải thƣởng cao quý này ông còn nhận
đƣợc nhiều giải thƣởng có ý nghĩa khác nhƣ: Giải tác phẩm xuất sắc của Hội
văn nghệ Việt Nam (năm 1953), hai Giải thưởng văn xuôi của Hội nhà văn
Việt Nam (vào các năm 1982 và 1998), Giải thưởng ASEAN (năm 2000).
Tài năng nhiều mặt của Nguyễn Khải đã đƣợc khẳng định qua thời gian
và đƣợc kết tinh qua số lƣợng khá lớn những sáng tác ông để lại cho đời.
Trong đó không ít những tác phẩm có giá trị tƣ tƣởng và nghệ thuật đặc sắc.
Ở đây, trong phạm vi hƣớng nghiên cứu của đề tài chỉ xin tập trung điểm lại
các ý kiến bàn luận về "Con ngƣời" trong các sáng tác của ông.
Trong bài viết Nguyễn Khải, nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ cho rằng:
"Sợi chỉ đỏ quán xuyến tác phẩm Nguyễn Khải trước năm 1965 là vấn
đề: làm thế nào để con người được giải phóng, làm thế nào để con người
được tự do và sống hạnh phúc?".
Trong bài Vài đặc điểm phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải [29, tr.88-
88], tác giả Đoàn Trọng Huy đã khẳng định đặc điểm của nhân vật Nguyễn
Khải là loại nhân vật hiện thực. Theo Đoàn Trọng Huy, con ngƣời trong tác
phẩm của Nguyễn Khải thƣờng hiện ra với bộ mặt chân thật. Nguyễn Khải
thƣờng khảo sát và lấy tƣ liệu từ những con ngƣời thật ngoài đời. Những điển
hình nhân vật đƣợc nhào nặn nên từ chất liệu của một vài nguyên mẫu nào đó
3

trong cuộc sống. Nhà văn không có nhân vật hoàn toàn là sản phẩm của trí

tƣởng tƣợng. Nhân vật của Nguyễn Khải không bị lý tƣởng hoá đồng thời
cũng không bị bôi nhọ quá đáng. Nhận xét này của Đoàn Trọng Huy đã khái
quát đƣợc đặc điểm cơ bản nhất làm nên thế giới nhân vật Nguyễn Khải.
Quan điểm của tác giả Bích Thu trong một bài viết nghiên cứu về
truyện ngắn Nguyễn Khải ở góc độ thi pháp [72, tr.123] cũng đồng nhất với
một số nhà nghiên cứu khác ở chỗ cho rằng Nguyễn Khải không chủ trƣơng
xây dựng tính cách, hình tƣợng khách quan của nhân vật. Trong khi đi khắc
hoạ tính cách nhân vật ông thƣờng thiên về xây dựng ý kiến của nhân vật về
bản thân và về thế giới.
Tác giả Nguyễn Thị Bình, trong nhiều công trình nghiên cứu về
Nguyễn Khải cũng đã đƣa ra những nhận xét rất lý thú và sâu sắc về đặc điểm
nhân vật trong sáng tác Nguyễn Khải. Chẳng hạn nhƣ Nguyễn Khải thƣờng
gửi gắm trong các nhân vật yêu quý của ông những phát ngôn về niềm khát
vọng khôn cùng và những lý tƣởng cao cả. Các nhân vật trong tác phẩm
Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác trƣớc 1975 nhìn chung không phải loại đơn
giản hay phiến diện nhƣng phải đến giai đoạn sau này, ông mới dành toàn bộ
sự chú ý vào con ngƣời, lấy việc khám phá con ngƣời làm mục đích trung
tâm. Nguyễn Thị Bình cũng khẳng định trí tuệ là phẩm chất hàng đầu của các
nhân vật tâm đắc của Nguyễn Khải.
Đọc bài viết Cảm nhận về con người trong sáng tác của Nguyễn Khải
những năm gần đây của Nguyễn Thị Huệ đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam, tháng 10/1999, ta thấy tác giả bài viết đã có những tìm tòi phát hiện
đáng giá về sự thể hiện con ngƣời trong sáng tác Nguyễn Khải. Theo nhà
nghiên cứu Nguyễn Thị Huệ, Nguyễn Khải đã miêu tả, khám phá con ngƣời
trong mối quan hệ với thời gian, nhìn con ngƣời trong tƣơng quan với sự
nghiệp, nghiên cứu con ngƣời trong mối quan hệ giữa các thế hệ lịch sử. Đây
4

là một hƣớng đào sâu, một cách tiếp cận mới của Nguyễn Khải. Đặc biệt, do
sự chuyển hƣớng của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời nên trong các sáng

tác của ông từ đầu những năm 80, bên cạnh con ngƣời với tƣ cách lịch sử, đã
xuất hiện con ngƣời với tƣ cách cá nhân. Tác giả Nguyễn Thị Huệ viết: “Khẳng
định vị trí cá nhân, không hoà tan cái “tôi” trong cái “ta”, nhiệt tình cổ vũ cho
giá trị cá nhân … là hứng thú nổi bật trong sự nghiên cứu, khám phá và thể
hiện con người của ngòi bút Nguyễn Khải” [28, tr.145]. Qua những nghiên cứu
của mình, Nguyễn Thị Huệ cũng rút ra nhận xét cho rằng con ngƣời trong quan
niệm của Nguyễn Khải luôn luôn đặt trƣớc tình thế lựa chọn.
Trong số những bài viết, công trình nghiên cứu chuyên sâu về nhân vật
của Nguyễn Khải, đáng kể có Thế giới nhân vật Nguyễn Khải trong cảm hứng
nghiên cứu phân tích - Đào Thuỷ Nguyên, Tạp chí văn học số 11/2001 và Thế
giới nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải - Nguyễn Thị Kỳ, Chuyên luận,
Nhà xuất bản Văn hoá Sài Gòn, 2009.
Trong bài viết của mình, tác giả Đào Thuỷ Nguyên đã đề cập tới thế
giới nhân vật Nguyễn Khải trong mối tƣơng quan với cảm hứng sáng tác. Trên
cơ sở đó, tác giả đã khái quát các loại nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Khải
một cách hệ thống, thể hiện khả năng nghiên cứu sâu rộng và năng lực tƣ duy
sâu sắc. Theo Đào Thuỷ Nguyên, thế giới nhân vật Nguyễn Khải gồm có:
“Nhân vật tư tưởng - Con người trong thời gian và lịch sử - Con người trong
các khả năng chọn lựa và thích ứng - Con người trong quan hệ gia đình - Con
người trong mâu thuẫn và tiếp nối giữa các thế hệ” [56, tr.157].
Trong khuôn khổ của một chuyên luận, Nguyễn Thị Kỳ trình bày
những nghiên cứu công phu của mình về thế giới nhân vật trong tiểu thuyết
Nguyễn Khải. Tác giả cũng đƣa ra những kiến giải về con ngƣời - nhân vật,
con ngƣời - tác giả và bƣớc đầu tìm hiểu về nghệ thuật xây dựng nhân vật
Nguyễn Khải. Ở phƣơng diện này, Nguyễn Thị Kỳ tập trung làm rõ hai vấn
5

đề: nghệ thuật miêu tả nhân vật và giọng điệu lời văn nghệ thuật trong tiểu
thuyết Nguyễn Khải. Qua hơn hai trăm trang sách, tác giả chuyên luận đã gửi
tới ngƣời đọc một thông điệp: “Trong hành trình khám phá bí mật của sự

sống, Nguyễn Khải đã xây dựng nên một thế giới nhân vật đa sắc, đa thanh,
lấp lánh cát bụi phận người. Thời gian của đời Nguyễn Mạnh Khải đã khép
lại nhưng thế giới nhân vật của nhà văn Nguyễn Khải còn đấy, đồng hành với
chúng ta trong cái hôm nay” [45, tr.211].
Dù ở vào những thời điểm khác nhau và xuất phát ở những góc độ
không giống nhau nhƣng nhìn chung các học giả đều gặp nhau trong cách
đánh giá chung khái quát. Đó là, Nguyễn khải là nhà văn có nhiều đóng góp
cho văn học đƣơng đại. Tác phẩm của ông phản ánh một cách kịp thời, sâu
sắc hiện thực lịch sử cũng nhƣ đời sống tinh thần của con ngƣời thời đại. Văn
của ông luôn hấp dẫn, mới mẻ, độc đáo. Các tác phẩm của ông không chỉ
đánh dấu những bƣớc đi của đời sống hiện thực mà còn của cả những tìm tòi
trăn trở của nhà văn trên con đƣờng sáng tạo.
Nguyễn Khải là nhà văn của thời sự, của tâm lý nhân vật, ông đã tạo
dựng nhiều loại nhân vật của nhiều thời khắc. Thế giới nhân vật Nguyễn Khải
rất phong phú, đa dạng phản ánh quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà
văn qua từng giai đoạn sáng tác. Thời kì đất nƣớc tiến hành đổi mới từ năm
1986, đặc biệt là sự xất hiện của nền kinh tế thị trƣờng kéo theo nhiều sự thay
đổi về các quan hệ xã hội và ngay cả trong quan niệm về cuộc sống của con
ngƣời Nguyễn Khải có dịp đến với nhiều miền đất lạ ở Miền Nam sau giải
phóng. Thời thế đem đến cho ông những cách nhìn mới lạ, nhƣ là sự tự phát
hiện lại mình. Ông viết: “Vẫn đất nước mình mà thêm một bước đi là một
bước lạ. Vẫn là con người Việt Nam mình mà gặp thêm một người lại tưởng
như buộc mình phải hiểu lại chút ít về con người”.[41, tr.206]
6

Ông đã cho ra đời các tác phẩm: Gặp gỡ cuối năm(1982);Thời gian của
người(1985); Điều tra về một cái chết (1986); Vòng sóng đến vô cùng (1987);
Một cõi nhân gian bé tí (1989), Thượng đế thì cười (2003) chứa đựng nhiều
suy nghĩ về con ngƣời, kiếp nhân sinh và thời cuộc.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu ý kiến của những nhà nghiên cứu đi trƣớc,

đặc biệt qua những tiểu thuyết nói trên của Nguyễn Khải chúng tôi mong
muốn trình bày cảm nhận của mình về nhân vật tuổi trẻ trong thế giới nhân
vật vô cùng đa dạng và phong phú của ông. Qua đề tài nghiên cứu này, chúng
tôi hy vọng đóng góp một phần nhỏ tìm hiểu những khám phá về con ngƣời
tuổi trẻ của một cây bút trí tuệ, đóng góp vào sự đổi mới văn học Việt Nam
đƣơng đại.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hƣớng tới mục đích nghiên cứu tìm hiểu về nhân vật tuổi trẻ
trong tác phẩm: Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Điều tra về một cái
chết, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười
nhằm xác định nét độc đáo trong sự khám phá về nhân vật tuổi trẻ và nghệ
thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật tuổi trẻ trong sáng tác của Nguyễn Khải.
Đồng thời chỉ ra đƣợc quá trình chuyển biến về tƣ tƣởng và nghệ thuật trong
phong cách sáng tác của nhà văn trên bình diện khắc họa nhân vật – con
ngƣời trong tác phẩm. Qua đó, góp phần khẳng định vị trí, vai trò và sự đổi
mới của ngòi bút Nguyễn Khải trong nền văn học dân tộc.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận văn là:
Làm rõ quan niệm nghệ thuật về con ngƣời tuổi trẻ của Nguyễn Khải
thể hiện trong tác phẩm, bởi điều này chi phối việc lựa chọn nhân vật, cách
thể hiện nhân vật của tác giả.
Phân tích thế giới nhân vật, đặc biệt tập trung làm rõ các khía cạnh
hình tƣợng nhân vật tuổi trẻ trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải thời đổi mới.
7

Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật, điểm mạnh và chƣa mạnh
trong nghệ thuật xây dựng nhân vật tuổi trẻ trong tác phẩm của Nguyễn Khải.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu về nhân vật tuổi trẻ trong các tác phẩm của

Nguyễn Khải: Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Điều tra về một cái
chết, Vòng sóng đến vô cùng, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười.
Trong trƣờng hợp cần thiết luận văn cũng sử dụng các sáng tác khác của nhà
văn và các nhà văn cùng thời để so sánh làm rõ các luận điểm.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lí luận
về đối tƣợng của văn học; về nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật tuổi
trẻ trong tiểu thuyết. Đặc biệt luận văn khảo sát các tiểu thuyết: Gặp gỡ cuối
năm(1982), Thời gian của người( 1985), Điều tra về một cái chết (1986);
Vòng sóng đến vô cùng (1987); Một cõi nhân gian bé tí (1989),Thượng đế thì
cười( 2003) cùng một số sáng tác khác của nhà văn khi cần thiết.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để có thể tìm hiểu nhân vật tuổi trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải và
nghệ thuật xây dựng nhân vật của ông, chúng tôi vận dụng kết hợp các
phƣơng pháp và thủ pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp nghiên cứu tác phẩm văn học.
Phƣơng pháp phân tích, đối chiếu – so sánh
Phƣơng pháp phân tích theo hƣớng thi pháp học, tự sự học.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn
Khảo sát hình tƣợng nhân vật tuổi trẻ trong tiểu thuyết của Nguyễn
Khải và các yếu tố nghệ thuật có liên quan, luận văn hƣớng tới làm rõ nét
những khám phá của nhà văn về tâm hồn con ngƣời, nét đặc sắc trong bút
8

pháp xây dựng hình tƣợng nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Khải. Từ đó
góp phần khẳng định tài năng và đóng góp to lớn của ông cho nền văn học
nƣớc nhà.
7. Cấu trúc nội dung của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm ba chƣơng:

Chương 1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời và thế giới nhân vật
tuổi trẻ trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải thời đổi mới.
Chương 2. Kiểu nhân vật tuổi trẻ trong tiểu thuyết của Nguyễn Khải
thời đổi mới.
Chương 3. Nghệ thuật xây dựng hình tƣợng nhân vật tuổi trẻ trong
tiểu thuyết của Nguyễn Khải thời đổi mới.








9

NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI
VÀ THẾ GIỚI NHÂN VẬT TUỔI TRẺ TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA NGUYỄN KHẢI THỜI ĐỔI MỚI

1.1. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời
Con ngƣời và cuộc sống của con ngƣời là đối tƣợng nghiên cứu của
nhiều môn khoa học, nghệ thuật. Nhƣng riêng lĩnh vực văn học con ngƣời
đƣợc khám phá bằng con đƣờng riêng, cách riêng của văn học. Bằng
ngôn ngữ, văn học đã mô tả một cách linh diệu nhất những biến thái tinh vi
trong đời sống tâm hồn, tình cảm của con ngƣời, văn học lấy con ngƣời là đối
tƣợng phản ánh, nghiên cứu. Hiểu đƣợc con ngƣời với thế giới bên trong của

nó là cái đích đi tới của văn học. Viết về con ngƣời những tiểu vũ trụ tiềm ẩn
biết bao điều bí mật, để hiểu tận đáy sâu tâm hồn con ngƣời là một thách thức
đối với ngƣời cầm bút.
Thi pháp học hiện đại cho rằng quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là
sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm thấy con ngƣời đã đƣợc hóa thân thành các
nguyên tắc, phƣơng tiện, biện pháp hình thức thể hiện con ngƣời trong văn
học, tạo nên giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cho các hình tƣợng nhân vật. “Văn
học là nhân học” (M.Gorki). Văn học lấy con ngƣời làm đối tƣợng phản ánh,
nghiên cứu chủ yếu. Mục tiêu của văn học là khám phá thể hiện con ngƣời với
thế giới bên trong của nó. Lịch sử văn học là lịch sử khám phá tâm hồn con
ngƣời và sự khám phá ấy là không có giới hạn.
Trong Từ điển thuật ngữ Văn học, nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
Sử, Nguyễn Khắc Phi cho rằng để tái hiện cuộc sống con ngƣời, nhà văn
10

phải hiểu cách họ giao tiếp với nhau, với thế giới và với bản thân, hiểu cách
họ sống, hành động, suy nghĩ, điều họ quan tâm và không quan tâm trong
cuộc đời. Tổng hợp tất cả mọi điều đó tạo nên mô hình nghệ thuật về thế giới
và con ngƣời mà từ đó tác giả khắc họa hình tƣợng của những con ngƣời và
số phận cụ thể, tổ chức quan hệ của các nhân vật, giải quyết xung đột, xây
dựng kết cấu tác phẩm. “Quan niệm nghệ thuật thể hiện cái giới hạn tối đa
trong cách hiểu thế giới và con người của một hệ thống nghệ thuật, thể hiện
khả năng, phạm vi, mức độ chiếm lĩnh đời sống của nó” [17,tr.274].
Tầm vóc của một nền văn học thể hiện ở cách đặt vấn đề về con ngƣời.
Nghệ thuật cổ đại Hy Lạp, nghệ thuật Phục Hƣng, nghệ thuật của chủ nghĩa
lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực cho ta thấy rõ điều đó. Con ngƣời trong văn
học thực chất là sự cắt nghĩa và quan niệm về con ngƣời đƣợc thể hiện bằng
hình tƣợng nghệ thuật, trong các bình diện con ngƣời đƣợc miêu tả, trong
tƣơng quan với không gian, thời gian và trong các nguyên tắc miêu tả tính
cách, tâm lí Ngƣời ta gọi đó là quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Các

quan niệm này ở các nhà văn có tầm cỡ thƣờng khác nhau rõ rệt, nhƣng trong
từng thập kỉ văn học giữa chúng lại có cái chung, đánh dấu trình độ chiếm
lĩnh con ngƣời của từng thời kì.
Nhân vật là sản phẩm tinh thần của nhà văn. Do đó, để hiểu nhân vật
phải tìm hiểu cha đẻ tinh thần của nó. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái
quát quy luật về đời sống con ngƣời và bộc lộ quan niệm của mình về những
con ngƣời xã hội. Cho nên việc quan trọng khi tìm hiểu nhà văn để phân tích
nhân vật chính là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhà văn đó về con ngƣời.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn là nhân tố quy định trực tiếp
tới nhân vật. Hiểu đƣợc quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của một tác giả,
ngƣời nghiên cứu phê bình văn học sẽ có cơ sở để tìm hiểu một thành phần cơ
bản trong nội dung hình tƣợng, lý giải đƣợc bản chất của nhân vật.
11

Những nhân vật của Nam Cao thƣờng có ngoại hình xấu, thô kệch, có
lẽ bởi quan niệm của nhà văn muốn thể hiện những gì là tự nhiên, bản thể, bộ
mặt thật trần trụi của hiện thực cuộc sống. Sáng tác của Nguyễn Tuân thƣờng
hƣớng tới xây dựng những nhân vật tài hoa nhƣ Huấn Cao (Chữ người tử tù),
con ngƣời có gốc rễ văn hóa nhƣ cụ Sáu (Những chiếc ấm đất), cụ Ấm (Chén
trà trong sương sớm) là do quan niệm tôn thờ “cái đẹp” của nhà văn tài hoa
họ Nguyễn. Vẻ đẹp của nhân vật trong các sáng tác của Nguyễn Tuân là vẻ
đẹp kết tinh truyền thống văn hóa đƣợc dồn tụ vào những nhân vật nho sĩ ƣu
thời mẫn thế, tinh tế trong ứng xử và lịch lãm trong cách sống.
Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời “chính là hạt nhân của tư duy nghệ
thuật, thước đo trình độ chiếm lĩnh hiện thực đời sống của một tác phẩm, một
tác giả, một trào lưu hay một thời đại văn học” [7, tr.65]. Quan niệm nghệ
thuật về thế giới và con ngƣời không chỉ là cơ sở để tìm hiểu nội dung tác
phẩm hay bản chất của một kiểu nhân vật mà còn là căn cứ để nghiên cứu sự
phát triển, tiến hóa của văn học.
Lịch sử văn học, nhìn theo một góc độ nào đó là lịch sử của những

quan niệm nghệ thuật khác nhau về con ngƣời. Trong quá khứ, sáng tác của
những nhà văn lớn nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Đoàn Thị Điểm đã
góp phần đổi mới quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong giai đoạn trƣớc
đó. Các nhân vật Thúy Kiều, ngƣời chinh phụ, ngƣời phụ nữ “cố đấm ăn xôi,
xôi lại hẩm” thơ (Hồ Xuân Hƣơng) thể hiện quan niệm về con ngƣời tự nhiên,
luôn luôn khao khát hạnh phúc đời thƣờng.
Đối với mỗi nhà văn, sự biến đổi trong quan niệm nghệ thuật về con
ngƣời sẽ ảnh hƣởng tới tƣ tƣởng sáng tác và phong cách sáng tác của họ, đặc
biệt là thể hiện rất rõ trong các kiểu nhân vật mà họ miêu tả. Điều này đƣợc
bộc lộ ở một số tác giả của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới nhƣ Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, Tô Hoài
12

Nguyên nhân dẫn tới sự vận động trong quan niệm nghệ thuật về con
ngƣời của văn học nói chung, của nhà văn nói riêng là do tác động của các yếu
tố nhƣ thời đại, đặc tính của nền văn học đƣơng thời và cá tính sáng tạo của
nhà văn. Cũng cần thấy rằng quan niệm về con ngƣời là cốt lõi tƣ tƣởng của
một nhà văn, “là thước đo sự tiến bộ nghệ thuật từ xưa tới nay” [60]. Văn học
cần đi sâu vào khám phá con ngƣời thì càng thể hiện tầm nhân văn cao cả.
Quan niệm về con ngƣời trong các tác phẩm đều đƣợc các nhà văn gửi
gắm vào nhân vật. Thế giới nhân vật là nơi để các tác giả làm nổi bật chủ để
tác phẩm. Suy cho cùng, qua nhân vật văn học nhà văn muốn truyền tải tƣ
tƣởng của chính mình. Vì vậy nói tới con ngƣời là nói tới nhân vật và ngƣợc
lại, dù các nhà văn có biến tấu nhân vật của mình ra thành cỏ cây, hoa lá, đồ
vật hay con vật thì mục đích cuối cùng đều hƣớng tới cuộc sống của con
ngƣời mà thôi.
Nhân vật văn học rất đa dạng, cụ thể là con ngƣời nhƣng cũng cú thể là
những sự vật, loài vật mang búng dỏng, tớnh cỏch con ngƣời. Nhõn vật văn
học là đối tƣợng cụ thể đƣợc tác giả miêu tả trong tác phẩm văn học nhằm
phản ánh hiện thực cuộc sống bằng nghệ thuật ngôn từ. Theo quan niệm của

Trần thuật học, nhân vật là “một hiện tượng phức tạp, nhiều thành phần, nằm
ở chỗ giao nhau của những bình diện khác nhau của các chỉnh thể giao tiếp
là tác phẩm nghệ thuật. [32, tr.249]. Trong tác phẩm văn học, đặc biệt là
những tác phẩm văn xuôi nhƣ truyện ngắn, tiểu thuyết, nhân vật giữ vị trí và
vai trò quan trọng, bên cạnh cốt truyện và chủ đề, trong việc thể hiện tƣ tƣởng
nghệ thuật của tác giả. Trong văn học dân gian và văn học cổ điển, cốt truyện
thƣờng giữ vai trò chủ đạo nhƣng trong văn học hiện đại, với xu hƣớng sáng
tác truyện không có chuyện thì vai trò đó là của nhân vật.
“Con người là điều thú vị nhất đối với con người, và con người cũng
chỉ hứng thú với con người [67, tr.73]. Đọc tác phẩm văn học, ta sẽ gặp những
13

con ngƣời đƣợc trần thuật, miêu tả cụ thể. Đó chính là những nhân vật văn
học: “Hình tượng nghệ thuật về con người, một trong những dấu hiệu về sự
tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ. Bên cạnh con người,
nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây, các sinh thể hoang
đường được gán cho những đặc điểm giống với con người” [22, tr.1254].
Nhân vật văn học có thể có tên riêng hoặc không có tên riêng nhƣ nhân vật
ngƣời đàn bà hàng chài hay gã đàn ông trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài
xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu.
Nhân vật trong văn học là một hiện tƣợng nghệ thuật đầy tính ƣớc lệ,
không thể đồng nhất nó hoàn toàn với con ngƣời thật trong cuộc sống. Nó
thực chất là những hình tƣợng khái quát nhất về bản thân con ngƣời đƣợc tái
hiện trong tác phẩm văn học bằng các phƣơng tiện nghệ thuật ngôn từ. Và
thông qua nhân vật, nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tƣợng. Vì vậy
cho nên sáng tác văn học không thể thiếu nhân vật. “Nhân vật chính là người
dẫn dắt người đọc vào một thế giới riêng của đời sống trong một thời kỳ lịch
sử nhất định [13, tr.126]. Theo Phêđin, nhân vật là một công cụ [13, tr.126],
nhà văn sáng tạo ra nhân vật để trình bày quan điểm của mình về một cá nhân,
một loại ngƣời hay một hiện trạng nào đó trong xã hội. Còn B.Brecht lại cho

rằng: Các nhân vật của tác phẩm nghệ thuật không phải giản đơn là những
bản dập của những con người sống, mà là những hình tượng được khắc họa
phù hợp với ý đồ tư tưởng của tác giả [64, tr.18].
Trong tác phẩm văn học, nhân vật là phƣơng tiện tất yếu quan trọng để
thể hiện tƣ tƣởng (đặc biệt là các tác phẩm tự sự và kịch). Nhân vật là phƣơng
diện có tính thứ nhất trong hình thức của các tác phẩm văn học, có vai trò
quyết định phần lớn đối với cốt truyện, chi tiết, sự lựa chọn phƣơng tiện ngôn
ngữ biểu đạt và thậm chí có thể cả kết cấu của tác phẩm.
14

Trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm văn chƣơng, nhân vật văn học
là hiện tƣợng hết sức đa dạng, là yếu tố phong phú, biến hóa vô cùng vô tận.
Khả năng sáng tạo nhân vật rất dồi dào, đòi hỏi nhiều công phu của ngƣời
viết. Tên tuổi của nhà văn gắn với tác phẩm chủ yếu là thông qua nhân vật.
Sức sống của nhân vật, giá trị điển hình của nhân vật thể hiện rõ tài năng sáng
tạo nghệ thuật và bản lĩnh ngƣời nghệ sĩ. “Những nhân vật thành công thường
là kết quả một sự hiểu biết sâu sắc về con người, một sự phát hiện độc đáo
những vấn đề quan trọng, mới mẻ của cuộc sống, của thời đại” [19, tr.122].
Những nhân vật thành công của các nhà văn lớn thƣờng là những sáng
tạo độc đáo không lặp lại. Tuy nhiên xét về mặt nội dung, cấu trúc, chức
năng, nhân vật có thể chia thành nhiều loại. Để chiếm lĩnh thế giới nhân vật
văn học đa dạng, cần tìm hiểu phƣơng diện loại hình của chúng.
Lý luận văn học căn cứ vào một số tiêu chí nhất định để phân loại các
kiểu nhân vật văn học nhƣ sau:
Căn cứ vào phƣơng pháp sáng tác có nhân vật cổ điển, nhân vật lãng
mạn và nhân vật hiện thực.
Căn cứ vào chức năng nghệ thuật có loại nhân vật chính, nhân vật phụ,
nhân vật trung tâm, nhân vật chính diện và nhân vật phản diện.
Căn cứ vào thể loại văn học có nhân vật tự sự, nhân vật trữ tình, nhân
vật kịch.

Căn cứ vào cấu trúc hình tƣợng, nhân vật chia thành kiểu nhân vật chức
năng, nhân vật loại hình, nhân vật tƣ tƣởng, nhân vật tính cách.
Căn cứ vào thành phần xã hội có các loại nhân vật nhƣ: ngƣời nông
dân, ngƣời công nhân, chiến sĩ, trí thức, phụ nữ, trẻ em, ngƣời làm thuê, lƣu
manh, giang hồ hảo hán, thƣơng nhân, thầy tu…
Theo các nhà nghiên cứu, mỗi tác giả thƣờng có một hoặc một số kiểu
loại nhân vật nổi bật trong sáng tác của mình.
15

1.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Nguyễn Khải thời đổi mới
Sau 1986, trong không khí dân chủ đổi mới, những qui luật thời bình
thay thế qui luật thời chiến chi phối văn học. Sự thức tỉnh ý thức cá nhân diễn
ra mạnh mẽ tác động đến mọi phƣơng diện của hoạt động sáng tác, trong đó
có quan niệm nghệ thuật về con ngƣời. Đƣợc soi sáng bởi tƣ tƣởng của Đảng
trong thời kỳ đổi mới từ 1986, các nhà văn đã thật sự quan tâm đến con ngƣời
với tƣ cách cá nhân, bản thể, khám phá số phận con ngƣời trên bình diện ý
thức về thân phận đầy nhân bản. Nguyễn Minh Châu - “người mở đường đầy
tinh anh” - khẳng định sứ mạng của nhà văn là “làm công việc giống như kẻ
nâng giấc cho những người cùng đường tuyệt lộ bị cái ác hoặc số phận đen
đủi dồn con người ta đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác
bị hắt hủi và đọa đầy đến ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và
cuộc đời, nhà văn tồn tại trên đời để bênh vực cho những con người không
còn có ai để bênh vực” [7, tr.70].
Sau năm 1986, thực ra là từ đầu thập kỷ tám mƣơi, Nguyễn Khải đã bắt
đầu có đƣợc cái nhìn phong phú, linh hoạt, thâm trầm hơn về con ngƣời. Con
ngƣời đƣợc nhà văn khám phá miêu tả trong tƣơng quan với những bình diện
khác nhau của đời sống: thời gian, lịch sử, đạo đức xã hội, nhân cách cá
nhân Nguyễn Khải nhìn cuộc sống trong tính nhiều mặt, toàn vẹn hơn. Nhân
vật trong các sáng tác của ông đƣợc đặt trong nhiều chiều. Đó là con ngƣời
của đời sống riêng tƣ, của xã hội, thời thế, con ngƣời phải trải qua thử thách

của đời thƣờng, đứng trƣớc sự lựa chọn để thích ứng, con ngƣời của niềm tin.
Nếu nhƣ ở giai đoạn trƣớc, các nhân vật của Nguyễn Khải về một mặt
nào đó có phần đơn giản, thiếu một chiều sâu tâm lý, tính cách thì đến giai
đoạn này nhà văn đã chú ý hơn tới việc xây dựng những chân dung nhân vật là
những con ngƣời phức tạp, nhiều chiều, “con người không nhất quán với mình”
[7, tr.73]. Ông viết: “Các thế giới tinh thần của con người là vô cùng phức tạp
vì sự vận động của nó luôn luôn nhắm tới cái thật cao và thật xa” [7, tr.72].
16

Lép Tônxtôi - bậc thầy của “phép biện chứng tâm hồn” đã viết: “con
người như những dòng sông: nước trong mọi con sông như nhau và ở đâu cũng
thế cả, nhưng mỗi con sông khi thì hẹp, khi thì chảy xiết, khi thì rộng, khi thì êm
đềm, khi thì trong veo, khi thì lạnh, khi thì đục, khi thì ấm. Con người cũng như
vậy. Mỗi người mang trong mình những mầm mống của mọi tính chất của con
người và khi thì thể hiện những tính chất khác và thường là hoàn toàn không
giống bản thân mình tuy vẫn cứ chỉ là chính mình” [15, tr.129]. Triết lí của
Nguyễn Khải về con ngƣời cũng với tinh thần nhƣ vậy: “Vẫn là con người
Việt Nam mình mà gặp thêm một người lại tuồng như buộc mình phải hiểu lại
chút ít về con người” [41, tr.206].
Bên cạnh việc miêu tả con ngƣời phức tạp nhiều chiều, sáng tác của
Nguyễn Khải sau 1986 cũng chú ý khám phá chiều sâu bí ẩn của tâm hồn con
ngƣời. Nếu nhƣ trƣớc đây những nhân vật nhƣ Nam, Biền tạo ấn tƣợng cho
ngƣời đọc về “con người có thể biết trước”, nhất quán về tƣ tƣởng và tính
cách đại diện cho một kiểu ý thức chính trị xã hội phù hợp qui luật lịch sử thì
tới giai đoạn này các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Khải là những “tiểu
vũ trụ” đầy bí ẩn, không thể biết trƣớc, biết hết tƣờng tận một cách chủ quan
duy ý chí. Nguyễn Khải quan niệm: “nếu mọi sự đều có lí, đều có thể hiểu
được thì làm gì còn văn chương ?” (Nhóm bạn thời kháng chiến). Có lẽ chính
vì nhận định nhƣ vậy mà Nguyễn Khải khẳng định văn chƣơng là “khoa học
về lòng người”.

Có thể thấy trong sáng tác của Nguyễn Khải sau 1986, quan niệm nghệ
thuật về con ngƣời của tác giả có nhiều biến đổi. Con ngƣời đƣợc định vị với
những giá trị có tính chất căn bản, đƣợc đánh giá trên hệ giá trị nhân bản, con
ngƣời đời thƣờng, con ngƣời trần tục với tất cả mọi mặt tốt - xấu, cao thƣợng
- thấp hèn. Nhân vật trong sáng tác của ông là những con ngƣời đƣợc xem xét
nghiên cứu trên nhiều bình diện, khám phá miêu tả những qui luật tình cảm
17

tâm lý phong phú của những cá nhân đầy bí ẩn và mới mẻ, con ngƣời không
chỉ đƣợc đề cao hay phê phán dựa trên cơ sở tiêu chí cách mạng mà còn đƣợc
định giá trên những giá trị văn hóa, tinh thần. Có lẽ vì vậy mà những sáng tác
của Nguyễn Khải trong giai đoạn sau 1986 mang đậm tính triết lý nhân sinh
hơn là tính chính luận vốn là một đặc điểm nổi bật trong các tác phẩm của ông
trƣớc thời kì đổi mới.
Khảo sát các tác phẩm của Nguyễn Khải sau 1986, chúng tôi nhận thấy
sự chuyển hƣớng của quan niệm nghệ thuật về con ngƣời đã khiến nhà văn
hƣớng vào sự khám phá và cảm nhận con ngƣời trong cái thế giới đa tầng, đa
chiều, đa dạng đầy phức tạp và quyến rũ.
Đó là con ngƣời với sự lựa chọn để thích ứng, xác định niềm tin của
bản thân vào con đƣờng mình đã chọn. Thực chất, chủ đề lựa chọn là chủ đề
xuyên suốt trong sáng tác của Nguyễn Khải ngay từ những ngày đầu trên
bƣớc đƣờng sáng tác văn chƣơng song những lựa chọn của Môn, Thụy, Nhàn
(Xung đột), Biền, Tuy Kiền (Tầm nhìn xa), An, Hiệp (Chủ tịch huyện) là sự
lựa chọn cách sống theo quan điểm đấu tranh giai cấp, mang tính tập thể, xã
hội. Còn những nhân vật nhƣ Cha Thƣ (Cha và con và ), cha Vĩnh, Quân,
Hai Riềng (Thời gian của người), lựa chọn lẽ sống và cách sống ở “ngày hôm
nay” với quan điểm, trải nghiệm và cá tính riêng của bản thân mỗi ngƣời.
Tƣ Tốn (Điều tra về một cái chết), là một con ngƣời có đủ trí tuệ và
những phẩm chất tốt đẹp nhƣng lại chọn nhầm lí tƣởng, đức tin, anh ta đã mù
quáng chịu làm nô lệ cho những tƣ tƣởng lạc hậu, phản tiến bộ. Mọ Vũ, ông

Định, ông Mọn (Một cõi nhân gian bé tí) hƣớng vào mối quan hệ giữa con
ngƣời với con ngƣời và thời thế. Bằng cách xâu chuỗi nhiều số phận cá nhân
với những cách lựa chọn khác nhau nhằm đem đến cho ngƣời đọc một kết
luận bổ ích có thể lựa chọn cho mình một cách sống với thời đại.
18

Đó là con ngƣời trong mối quan hệ với thời gian lịch sử và thời gian
của đời ngƣời. Trong Vòng sóng đến vô cùng với lối tƣ duy nghệ thuật mang
tính triết luận, Nguyễn Khải đã khám phá, phát hiện sự vận động của những
con ngƣời ấy với vai trò chủ động tích cực, cống hiến cho Tổ quốc. Cũng
trong cuốn tiểu thuyết này, bằng cách nhìn của con ngƣời trong tƣơng quan
với thời gian nằm bên trong mỗi con ngƣời, Nguyễn Khải đã đặt ra một vấn
đề hết sức sâu sắc về sự tồn tại của con ngƣời không chỉ ở thời của họ mà khi
biết sống hết lòng cho thời của mình, họ đã vƣợt qua giới hạn hữu hạn của
thời gian vật chất vƣơn tới tƣơng lai.
Đó là con ngƣời trong mối quan hệ giữa các thế hệ. Soi chiếu con
ngƣời trong mối quan hệ gia đình, Nguyễn Khải chú ý làm nổi bật vấn đề mâu
thuẫn và tiếp nối giữa các thế hệ. Thế hệ trẻ hôm nay “đã là của một thế giới
khác với những đơn vị đo lường khác”. Họ “có những quan tâm khác, những
mục tiêu chiến đấu khác, những mối quan hệ khác” [69, tr.163]. Qua cái nhìn
của Nguyễn Khải, lớp trẻ có nhiều thế mạnh, sớm thích ứng với thời cuộc, lựa
chọn dứt khoát, tự tin vào bản lĩnh của mình, có vai trò thúc đẩy sự phát triển
của xã hội. Trong những góc nhìn biến động nhiều chiều về cuộc sống hôm
nay, sự ngăn cách, mâu thuẫn giữa các thế hệ lớn hơn trƣớc đây rất nhiều.
Chẳng hạn, trong Vòng sóng đến vô cùng hãy nghe cuộc đối thoại giữa
một nhà báo - con ngƣời của ngày hôm qua và một chàng trai trẻ - con ngƣời
của ngày hôm nay. Nhà báo tranh luận với Giang về cách sống còn Giang
tranh luận với nhà báo về quan niệm:
“Giang bỗng ngồi bật dậy, hai cánh tay lực lưỡng của anh ôm vòng lấy
gối, nhìn thẳng vào tôi mà tra vấn:

- Như chú, chú sẽ khuyên bảo cháu ra sao khi nghe bọn cháu tranh cãi
lúc vừa rồi. Chắc chú sẽ khuyên cả hai phải biết hi sinh, phải biết sống một
cách cao quý như cha anh đã từng sống. Là một lời khuyên rất đúng nhưng sẽ
19

không ai theo cả. Vì không thể theo được. Vì cái hôm qua rất giản dị, còn
cái hôm nay lại hết sức phức tạp. Tình bạn, tình yêu, tình đồng chí, tính nhu
nhược, tính cơ hội, tính hèn nhát mang những màu sắc rất lạ lùng. Bọn cháu
là kẻ trong cuộc cũng phải rối lên trong lựa chọn nói gì những người đứng
ngoài.
Tôi mỉm cười:
- Bọn mình đã đứng ngoài bao giờ ?
Giang cũng cười mỉm, lại vẫn cái cười mỉm giễu cợt anh thường có.
- Đúng là vậy các chú nhảy vô hữu dụng quá, trong mọi lĩnh vực, bây
giờ bọn cháu bắt đầu nghĩ và nói gần giống với các chú rồi. Sức mạnh ảnh
hưởng của các chú ghê gớm thật.
- Nói rõ hơn nào.
- Sức mạnh của quyền lực, của tuổi tác, của những từng trải và kinh
nghiệm lại thêm một tài sản khổng lồ làm quà tặng cho đám trẻ” [35, tr.54].
“Vòng sóng đến vô cùng”, “ Một cõi nhân gian bé tí” là cuộc đối thoại
giữa cơ chế mới và cơ chế cũ, giữa thế hệ vinh quang thuộc thời đã qua và thế
hệ đang có nhu cầu khẳng định niềm tin mới, giữa những giá trị văn hóa lâu
đời với tiếng gọi cơm áo lấy hiện tại làm định hƣớng, các cuộc đối thoại
trong tác phẩm Nguyễn Khải nói chung đều có xu hƣớng không khép lại với
một chân lý tuyệt đối. Cái hiện tại đƣợc đặt trong sự tiếp nối với cái quá khứ,
cuộc sống hiện lên ở nhiều mặt, có quá trình vận động biến đổi, chuyển hóa
và do vậy nó có xu hƣớng “mở”.
Nói cho cùng nhà văn nào cũng bắt đầu trang viết từ một đòi hỏi của
hiện tại, khác nhau là ở cảm hứng và cách xử lí chất liệu hiên tại. Có ngƣời
chỉ lấy hiện tại làm điểm xuất phát để trở về với quá khứ. Còn Nguyễn Khải

thì lấy sự thật cuộc sống với cái hiện tại, cấp cho nó ý nghĩa quan trọng nhất
trong thế giới nghệ thuật của mình.
20

Lý gii v s cỏch bit v mõu thun gia cỏc th h lch s m Nguyn
Khi t ra trong cỏc sỏng tỏc ca mỡnh, chỳng tụi cho rng ú l do s thay
i quan nim ngh thut v con ngi ca tỏc gi. Trong cỏi nhỡn ca
Nguyn Khi, h l hai th h m mt thỡ yờn tõm tin tng vo tng lai
bit trc, n mỡnh trong cỏi chung ca cng ng, cũn mt li khỏt khao
kho vn, hng ti giỏ tr ớch thc ca cỏ nhõn [69, tr.145].
Túm li, quan nim ngh thut v con ngi trong sỏng tỏc ca Nguyn
Khi mt mt theo xu th chung ca thi i v ca bn thõn nn vn hc,
mt khỏc trờn c s bn lnh ngh thut v cỏ tớnh sỏng to ca nh vn ó cú
nhng bin i vn ng theo hng khỏm phỏ, nghiờn cu con ngi cỏ
nhõn ci b b ỏo xó hi, tr v vi chớnh mỡnh nh nú vn cú [20, tr.33],
con ngi c soi chiu nhiu chiu, phc tp, bớ n, mang m trit lớ
nhõn sinh.
1.3. Thế giới nhân vật trong sáng tác Nguyễn Khải.
Mi nh vn to ra mt th gii nhõn vt riờng, khụng ging nhau,
khụng lp li.Thế giới nhân vật của nhà văn s thể hiện quan niệm nghệ thuật
về con ng-ời, phong cách sáng tác hoặc cũng có thể qua đó ng-ời ta có thể
liên hệ tới những khía cạnh đời t- của nhà văn. Kiểu nh- nhân vật trong truyn
ngn Hai a tr ca Thch Lam. Nhng nhõn vt nh m con ch Tý, bỏc
ph Siờu, bỏc Xm Hoc An, Liờn õy l nhng nhõn vt tiờu biu trong
sỏng tỏc ca Thch Lam. Nhng nhõn vt ny u cú im chung nhiu khi
khụng tờn, khụng tui, khụng ngh nghip, khụng a v xó hi nhng h
u khỏt khao mt s i thay trong cuc sng khn khú ca h. Trong sỏng
tỏc ca Nam Cao có kiểu nhân vật nhà giáo (Thứ - Sống mòn), trí thức (Điền -
Trăng sáng, Hộ - Đời thừa, Độ - Đôi mắt), (ụng giỏo trong Lóo Hc), phần
nào có bóng dáng của cuộc đời nhà văn trong đó. Nguyễn Khải có nhân vật

tôi l nh văn, nh báo cũng có thể đợc gọi l nhân vật liên truyện mang
đậm nét tâm lý, hành động của chính tác giả.

×